SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 30
Downloaden Sie, um offline zu lesen
1




I. NỘI DUNG VÀ TIẾN ĐỘ THỰC TẬP
1. Nội dung thực tập
       Trước khi đi thực tập tại cơ quan, phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên
Chiểu đã đưa ra kế hoạch thực tập và một số đề tài để sinh viên tự lựa chọn
làm báo cáo thực tập như:
       - Tham dự, tìm hiểu về cách thức tổ chức và giúp lễ hội truyền thống: Lễ
hội đình làng Hòa Mỹ, Hòa Phú, Trung Nghĩa, Phước Lý, Đà Sơn, Thanh
Vinh, Lễ hội cầu ngư Nam Ô 2 trên địa bàn quận.
       - Tham gia và tổ chức giải đua thuyền truyền thống Mừng Đảng – Mừng
Xuân Nhâm Thìn 2012.
       * Các đề tài mà Phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên Chiểu giao cho
viết báo cáo thực tập như:
       - Tìm hiểu lễ hội cầu ngư; Khu dân cư văn hóa biển Kim Liên (Hòa Hiệp
Bắc)
       - Tìm hiểu lễ hội cầu ngư làng cá Nam Ô
       - Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của 5
phường (gồm: Phong trào xây dựng danh hiệu gia đình văn hóa, tộc họ văn
hóa, phường văn hóa, tổ dân phố văn hóa…)
       - Các thức tổ chức lễ hội truyền thống (tổ chức phần lễ, phần hội…) như:
       + Lễ hội đình làng Hòa Mỹ, lễ hội đình làng Hòa Phú, lễ hội đình làng
Trung Nghĩa, lễ hội đình làng Phước Lý (Thuộc phường Hòa Minh)
       + Lễ hội đình làng Xuân Dương (Phường Hòa Hiệp Nam)
2. Tiến độ thực tập
        Thời gian                           Nội dung công việc
Từ ngày 30/01/2012 - Đến cơ quan gặp mặt và làm quen với mọi người,
đến ngày 2/2/2012        tạo mối quan hệ thân thiện ban đầu.
2




Ngày 3/2/2012 đến    - Tham dự lễ hội đình làng Hòa Mỹ
ngày 4/2/2012        - Tham dự lễ hội đình làng Hòa Phú
Từ ngày 6/2/2012
                     - Dự lễ tế Âm Linh của làng Nam Ô
đến ngày 9/2/2012
Ngày 14/2/2012       - Tham dự lễ vía Miếu Bà Nam Ô1
Đến 15/2/2012        - Tham dự lễ tế Miếu Bà Ngũ Hành ở Hòa Mỹ
                     - Lên cơ quan họp, nghe bác Trần Công Khuê
                     (Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin) phổ biến công
Ngày 17/2/ 2012      tác của phòng trong thời gian sắp tới
                     - Báo cáo tên đề tài thực tập đã chọn với các chuyên
                     viên văn hóa của phòng
Từ ngày 22/2/2012    - Tham dự một số lễ tế ở miếu ở Hòa Phú: miếu xóm
đến ngày 23/2/2012   Phú Ca, Miếu xóm Hòa Nam, Phú Trung
Từ ngày 1/3/2012 - Bước đầu tập hợp tài liệu và viết báo cáo thực tập
đến ngày 6/3/2012    tốt nghiệp
Từ ngày 7/3/2012 - Tham dự lễ hội Cầu Ngư ở Nam Ô
đến ngày 8/3/2012    - Tham dự lễ hội đình làng Xuân Dương
Từ ngày 17/3/2012
                     - Tham dự lễ hội văn hóa biển Kim Liên
đến ngày 18/3/2012

Ngày 12/3/2012       - Tham dự lễ vía Miếu Bà Nam Ô2

                     - Đi xin tài liệu ở phường Hòa Minh và đi điền dã
Từ ngày 12/3/2012    thực tế, gặp một số các cụ trong Ban tổ chức lễ hội
đến ngày 19/3/2012   đình làng phỏng vấn và xin các tư liệu liên quan.
                     - Viết hoàn chỉnh Báo các thực tập tốt nghiệp
                     - Nộp báo các thực tập tốt nghiệp lên Phòng Văn hóa
Ngày 20/3/2012
                     – thông tin để các bộ hướng dẫn chỉnh sửa và góp ý
3




                       kiến

                       - Lên cơ quan nhận lại bản Báo cáo và điều chỉnh lại
Từ ngày 23/3/2012
                       theo sự góp ý của cán bộ hướng dẫn
đến ngày 25/3/2012
                       - Tổ chức liên hoan chia tay cơ quan


II. CÁC KẾT QUẢ CỤ THỂ
                                 MỞ ĐẦU
    Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê
hương của loài người. Nước Việt Nam có một quá trình lịch sử trên bốn ngàn
năm, trong đó thì hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đóng vai trò tích cực
và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển văn hoá của dân tộc,
qua các thời đại từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay dân tộc Việt Nam
chúng ta có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn
năm nay, trải suốt chiều dài lịch sử đó dân tộc ta đã tạo nên nhiều sinh hoạt
văn hóa vật chất và tinh thần khá phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân
tộc, mặc dù mỗi lần đất nước bị xâm lăng là một lần nền văn hoá dân tộc bị
thử thách, bị tàn phá. Kẻ thù muốn đồng hoá nền văn hóa của chúng ta, cho
đến ngày nay nền văn hoá của chúng ta không những không bị đồng hoá mà
bản sắc dân tộc càng được khẳng định hơn. Để có được thành quả như vậy thì
chúng ta cần phải tìm hiểu về cội nguồn văn hoá của dân tộc “đó chính là văn
hóa làng xã”.
    Làng Việt xã là nơi bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản xuất và
tổ chức mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố kết
quan hệ dòng tộc, xóm giềng. Làng là mô hình để người xưa theo đó mà mở
rộng ra xây dựng tổ chức quốc gia, đô thị. Làng còn là pháo đài để chống giặc
ngoại xâm cùng mọi yếu tố ngoại lai, bảo vệ sự bình yên cho dân tộc, cho đất
nước. Văn hóa làng chính là hệ thống những giá trị hình thành qua bao đời
4




trong toàn bộ các hoạt động đó, và đến lượt mình, nó cũng chính là công cụ,
là phương tiện tổ chức và duy trì toàn bộ các hoạt động này. Nó đi vào ký ức
người Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi
và thân thương.
     Thế giới đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy ước thành lệ làng, đúc
kết trong hương ước làng, bộc lộ một cách phong phú qua hội làng. Tất cả
chắt lọc lại, tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng làng và
tính tự trị của làng là những giá trị nổi trội nhất.
     Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái đình
làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với
nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng nghĩa
xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ
cương, trong sáng và thanh cao.
     Trong làng thì ngôi Đình có vị trí tâm linh đặc biệt. Đình làng không chỉ
là nơi thờ Thành hoàng làng, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng.
Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là xã hội Việt Nam thu
nhỏ thời phong kiến, thì Đình là hình ảnh của làng. Nơi đây diễn ra những
cuộc họp của bô lão trong làng, trong họ tộc, từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà
này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc
đại sự như đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân
Đình và theo lệ của làng.
     Hàng năm mỗi độ xuân về từ Bắc chí Nam nơi nơi đều tổ chức các lễ hội
truyền thống để tưởng nhớ đến công đức của các bậc tiền nhân có công với
làng với nước, đồng thời đây cũng là dịp để nhân dân vui chơi giải trí sau cả
một năm làm lụng vất vả. Hòa cùng trong không khí đó lễ hội đình làng
Trung Nghĩa cũng được tổ chức đây là dịp mọi nhà thể hiện đạo lý “Uống
5




nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nhớ ơn các vị tiền nhân đã có
công xây dựng làng, và cũng qua lễ hội này đã góp phần thể hiện rõ nét đẹp
trong sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây đó chính là tinh thần tương
thân tương ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau…. Cũng chính vì vậy nên tôi đã
chọn đề tài: “Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – nét đẹp trong sinh hoạt văn
hóa cộng đồng”.
                                NỘI DUNG
                CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét khái quát về quận Liên Chiểu
    Quận Liên Chiểu là một đơn vị trực thuộc UBND thành phố Đà Nẵng,
được thành lập theo quyết định số: 07/CP ngày 23 /11/1997 của chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam trên cơ sở 3 xã Hòa Minh, Hòa Khánh và Hòa
Hiệp thuộc huyện Hòa Vang cũ.
    Sau 15 năm xây dựng và trưởng thành quận cũng đã đạt được nhiều
thành tích đáng kể về kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội và an ninh quốc
phòng đã làm thay đổi và nâng cao bộ mặt cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
    Hiện nay quận Liên Chiểu có 5 phường là: Hòa Minh, Hòa Khánh Nam,
Hòa Khánh Bắc, Hòa Hiệp Nam và Hòa Hiệp Bắc. Quận có diện tích tự nhiên
là 7.513,5 ha chiếm 61% diện tích so với toàn thành phố Đà Nẵng.
    Quận Liên Chiểu có vị trí rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội, có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam đi qua, gần sân bay quốc tế
Đà Nẵng, phía Đông và Đông Nam giáp quận Thanh Khê và quận Cẩm Lệ,
phía Tây giáp huyện Hòa Vang, phía Bắc giáp Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), có
cảng nước sâu Liên Chiểu và trên địa bàn quận còn có 8 trường đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Quận được xác định là quận
công nghiệp với cơ cấu kinh tế là công nghiệp – thương mại – nông nghiệp và
6




dịch vụ du lịch. Trên địa bàn quận hiện có trên 300 nhà máy, xí nghiệp, doanh
nghiệp và các cơ quan Trung ương, thành phố và địa phương khác đóng trên
địa bàn quận thu hút hàng trục ngàn kỹ sư, công nhân, học sinh sinh viên đến
sinh sống, lao động công tác và học tập.
     Ngày nay toàn quận hiện có 283 tổ dân phố, gần 100.000 dân, 11 cơ sở
tôn giáo như: Công giáo, Cao đài, Phật giáo, Tin lành… với hàng ngàn tăng ni,
phật tử.
     Về thiết chế văn hóa: trên địa bàn quận hiện có 03 khu văn hóa, 04 khu
văn hóa ngoài trời, 03 khu vui chơi giải trí văn hóa cơ sở ở các phường, 35
câu lạc bộ văn hóa – thể thao, 26 sân bóng đá, bóng truyền lớn nhỏ, 06 sân
tennis, 25 sân cầu lông và hàng trục điểm billard, bóng bàn. Phong trào văn
hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển khá mạnh hiện có trên 50 tổ, đội
nghệ thuật quần chúng, trên 100 đội bóng đá, bóng truyền, cầu lông… với
hàng ngàn hội viên, diễn viên, vận động viên. Quận có 12 di tích lịch sử văn
hóa, cách mạng, di tích kiến trúc nghệ thuật, 03 chiến tích lịch sử, 01 danh
thắng thiên nhiên cấp quốc gia.
     Có thể thấy rằng trong những năm qua công tác xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật và đời sống văn hóa – văn nghệ trên địa bàn đã, đang được đẩy mạnh
và cũng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể góp phần làm thay đổi bộ mặt
cơ sở vật chất và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên địa
bàn quận.
1.2. Đôi nét giới thiệu về phòng văn hóa và thông tin quận Liên Chiểu
1.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy
     Phòng văn hóa và thông tin quận Liên Chiểu được thành lập theo Quyết
định số: 03/QĐ – UB ngày 14 tháng 02 năm 1997 của UBND quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
7




     Hiện nay phòng văn hóa và thông tin quận có 13 cán bộ viên chức – công
chức, trong đó có 01 trưởng phòng, 03 phó trưởng phòng và 09 cán bộ viên
chức chuyên môn.
* Sơ đồ tổ chức bộ máy Phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên Chiểu:
                                      TRƯỞNG PHÒNG
                                       ( Trần Công Khuê)



  PHÓ TRƯỞNG PHÒNG                 PHÓ TRƯỞNG PHÒNG              PHÓ TRƯỞNG PHÒNG
    MẢNG VĂN HÓA                       MẢNG TDTT                     MẢNG CNTT
         ( Thi Lý Phước)            ( Hoàng Hải Quang)            ( Hoàng Hải Quang)




Nguyễn        Nguyễn       Hoàng    Phan        Đặng     Hoàng     Mai       Mai        Lê
 Thị           Minh         Thị     Thanh       Anh       Văn      Ngọc     Phước       Thị
Huỳnh          Toàn         Thu      Bảy        Tuấn      Sỹ       Quý      Tuấn        Hoa
                            Hà                                                          Lan
                                                                                       (KếToán)




1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ
1.2.2.1. Chức năng
     Phòng Văn hóa thông tin quận Liên Chiểu là cơ quan chuyên môn trực
thuộc Ủy Ban nhân dân quận, giúp UBND thực hiện chức năng tham mưu,
quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin, gia đình, thể dục, thể thao, di tích và
du lịch trên địa bàn.
     Phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch; tổ chức các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội
của địa phương
     Hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác văn hóa,
thể thao và du lịch ở các phường trên địa bàn quận, đồng thời phòng còn có
8




chức năng quản lý tổ chức biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, khen
thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ
công chức thuộc phạm vi quản lý của Phòng về lĩnh vực được giao theo quy
định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân quận.
    Tổ chức, cung ứng dịch vụ công; đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch; nhu cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao dân
trí, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên địa bàn.
1.2.2.2. Nhiệm vụ
    Căn cứ những định hướng và quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ phát triển
văn hóa – Thông tin, thể dục – thể thao, du lịch, gia đình… của thành phố,
căn cứ nhiệm vụ chính trị, các định hướng về phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa của quận, phòng văn hóa và thông tin xây dựng quy hoạch, kế hoạch (dài
hạn và ngắn hạn) trình UBND quận và Sở Văn hóa thể thao và du lịch thành
phố phê duyệt, đồng thời xây dựng phương án tổ chức thực hiện các quy
hoạch đã được phê duyệt.
    Phòng văn hóa và thông tin quận còn có nhiệm vụ hướng dẫn các tổ chức,
đơn vị và nhân dân trên địa bàn tham gia phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, khu phố văn hóa,
phường văn hóa…
    Phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, bảo vệ, khai thác,
sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, điểm du lịch trên địa
bàn quận.
    Bên cạnh đó thì phòng văn hóa và thông tin quận còn chủ trì, phối hợp
với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về hoạt
động văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch trên địa bàn quận, giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về lĩnh vực của ngành theo quy
định của pháp luật.
9




1.3. Một số đặc điểm và tình hình của phường Hòa Minh
    Hòa Minh là một trong năm phường thuộc quận Liên Chiểu, đây là một
trong 3 phường được thành lập sớm nhất của quận Liên Chiểu, phường được
thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1997 theo quyết định của chính phủ nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hòa Minh là vùng đất cửa ngõ phía Tây
Bắc của Đà Nẵng, phía Bắc của phường tiếp giáp với Vịnh Đà Nẵng, phía
Nam giáp núi Cẩm Khê của xã Hòa Nhơn (Hòa Vang), phía Đông giáp
phường Thanh Lộc Đán (quận Thanh Khê), phía Tây giáp với phường Hòa
Khánh và phường còn có quốc lộ 1A và tuyến đường sắt bác Nam chạy qua.
Từ xưa đến nay Hòa Minh được xem là một địa bàn trọng yếu về quân sự,
chính trị và có quan hệ mật thiết với thành phố hải cảng Đà Nẵng.
    Trước kia , khi tốc độ đô thị hóa chưa đáng kể thì cư dân Hòa Minh còn
thưa thớt, là một xã nông nghiệp thuộc huyện Hòa Vang có địa hình bán sơn
địa, nhiều đồi đất, núi, trảng cát, …. Vườn ở, đất thô chiếm hơn 90 % đất tự
nhiên, ruộng lúa chỉ chiếm khoảng hơn 10 %, đất sản xuất ít và cằn cỗi đời
sống nhân dân khó khăn.
    Hòa Minh hiện nay đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân cũng được
cải thiện hiên nay phường Hòa Minh có 4 khu phố chính (trên cơ sở các thôn
cũ trước đây) gồm: Hòa Phú, Hòa Mỹ, Phước Lý và Trung Nghĩa. Hiện nay
trên địa bàn phường có khoảng trên 40 cơ quan doanh nghiệp, 13 trường học
từ mẫu giáo đến cao đẳng, trên địa bàn phường còn có bệnh viện đa khoa và
bệnh viện lao, có 5 chùa, thiền viện và nhà thờ đạo tin lành.
    Có thể nói rằng Hòa Minh là phường có nhiều biến động phức tạp, thêm
vào đó là sự giao thoa văn hóa đã gây ra không ít khó khăn trong quá trình
quản lý, lãnh đạo của các phòng ban và các bộ phận chức năng trong phường.
Hiện nay phường đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ đã góp phần
làm thay đổi bộ mặt và nâng cao đời sống vật chất văn hóa tinh thần của nhân
10




dân, thông qua cuộc vân động thực hiện mô hình đời sống văn hóa mới được
tiến hành và thực hiện phù hợp đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo
nhân dân.
    Về văn hóa: Hòa Minh là một bộ phận gắn liền với nền văn hóa cổ
truyền của dân tộc Việt Nam. Việc thờ tổ tiên, thờ thần cứu nước là một đặc
điểm lớn của văn hóa Đại Việt, nhằm nhắc nhở con cháu nhớ đến công ơn của
những người khai khẩn đất đai, những vị anh hùng đã hy sinh vì nước, vì dân.
Đó là gốc rễ sâu sắc, bền vững từ ngàn xưa của dân tộc ta. Hiện nay Hòa
Minh còn nhiều di tích đình, chùa miếu, lễ hội… phản ánh đời sống tâm linh
phong phú của nhân dân nơi đây. Điển hình phải kể đến đó là lễ hội đình làng
truyền thống ở 4 làng: Hòa Mỹ, Hòa Phú, Trung Nghĩa và Phước Lý. Việc tổ
chức các mô hình hoạt động lễ hội truyền thống đã trở thành đời sống tinh
thần không thể thiếu được đối với người dân, mang tâm linh vun đắp, tô bồi
đạo lý “uống nước nhớ nguồn” một phong tục truyền thống của dân tộc. Lễ
hội đã có tác dụng không nhỏ trong việc giáo dục nhân dân, con cháu trong
làng về đạo đức, lối sống văn minh và những truyền thống tốt đẹp của cha
ông từ ngàn xưa, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng và nhà nước.
   CHƯƠNG 2: LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG TRUNG NGHĨA – NÉT ĐẸP
             TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
2.1. Khái quát về làng Trung Nghĩa
2.1.1. Đôi nét khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
    Đình làng Trung Nghĩa tọa lạc trên một vùng đất cao của làng (tại tổ 10
khu dân cư Trung Nghĩa, Phường Hòa Minh) cách trung tâm thành phố
khoảng 7km về hướng đông bắc.
    Có thể nói rằng Trung Nghĩa là địa bàn tiếp giáp nhiều địa phương trong
và ngoài phường như: Phía Đông giáp với phường Thanh Khê Đông, phía Tây
11




giáp làng Hòa Mỹ, phía Nam giáp quốc lộ 1A và phường Hòa An, Phía Bắc
giáp làng Hòa Phú.
    Nơi đây đất đai phì nhiêu màu mỡ có điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp
2.1.2. Đôi nét về lịch sử văn hóa xã hội
    Làng Trung Nghĩa hình thành và phát triển khá lâu, vào năm 1643 trên
bản đồ Quảng Nam Dinh có thêm một địa danh mà sau này được mang tên
Trung Nghĩa.
    Trung Nghĩa là tên làng mà các đấng tiền nhân đã đặt cách đây gần 400
năm về trước, gồm có hai xóm Bồng Lai – Tiên Cảnh và hai xứ đồng “Bàu
Lác và Bàu Năng”, Trung Nghĩa xưa kia vốn là một nơi thôn dã đầy cỏ dại
nhưng nó cũng mang một vẻ đẹp rất mộc mạc, bình dị bởi vậy mà xưa kia nơi
đây có tên gọi là “Trung Nghĩa, Tiên Cảnh, Bồng Lai”.
    Tiền hiền làng Trung Nghĩa là người dòng họ Văn, khi còn sinh tiền ngài
tên là Văn Đức, khi qua đời là Văn Quý Công. Ngài là người con của quê
hương làng gốm thuộc xã Hải Hưng, huyện Hải Dương, tỉnh Thanh Hóa. Vào
Năm quý mùi (1643) thời vua Lê Trung Hưng, Ngài rời làng gốm nơi chôn
nhau cắt rốn đi theo dòng người di dân vào phương Nam lập nghiệp. Ngài đã
dừng chân tại đây cùng con cháu khai hoang và lập nên bản làng có tên gọi là
“ Bình An Trung Xã, trực thuộc phủ Điện Bàn, Quảng Nam Dinh”.
    Sau 173 năm, tức vào năm Bính tý (1816) năm Gia Long thứ 14, người
cháu đời thứ 4 của vị Tiền hiền là ông Văn Đức Thông đã lập lại địa bộ.
Trong thời điểm này tại đây chỉ có 10 gia tộc với 40 mẫu Tư điền và 80 mẫu
công điền phân ra 2 xứ đồng Bàu Lác và Bàu Năng.
    Đến năm Tân Sửu (1841) dưới thời vua Thiệu Trị nguyên niên tên bản
làng được đổi danh là Trùng Nghĩa xã, trực thuộc Tổng Hòa An, huyện Hòa
Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Với tổng diện tích tự nhiên 85 ha
12




được phân ra 4 xứ đồng là Thượng Bàu Lác, Hạ Bàu Lác, Thượng Bàu Năng,
Hạ Bàu Năng.
    Xưa kia Trung Nghĩa có hai điểm sinh hoạt văn hóa là “ Bồng Lai và
Tiên Cảnh” tưởng chừng như ngăn cách bởi hai cánh đồng Bàu Lác, Bàu
Năng nhưng ngược lại con dân trong làng không vì cách trở, không phân biệt
họ tộc, sống thủy chung thương mến đùm bọc lẫn nhau, cày sâu cuốc bẫm,
giết thù đuổi giặc, bảo vệ quê hương bờ cõi.
    Từ sau năm 1997 thôn Trung Nghĩa được chuyển thành khối phố thuộc
phường, đã thành lập 10 tổ dân phố, có hai xóm Bồng Lai, Tiên Cảnh. Có một
ban cán sự khối phố thuộc chị bộ lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các hoạt
động trên địa bàn.
    Ngày nay con cháu dân làng tiếp nhận di hậu Tổ tiên đoàn kết một lòng,
ra sức xây dựng Trung Nghĩa trở thành Làng văn hóa, văn minh, giàu đẹp.
2.2. Đôi nét về lễ hội Đình làng Trung Nghĩa
    Có thể nói rằng lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần không
thể thiếu trong đời sống của cha ông ta từ xa xưa cho đến nay, lễ hội không
chỉ là dịp để con người vui chơi giải trí mà qua đó còn thể hiện một truyền
thống tốt đẹp đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây,
tưởng nhớ những người có công với làng với nước….. Lễ hội đình làng trung
nghĩa cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó.
    Đình làng Trung Nghĩa được xây dựng trên một vùng đất cao của làng,
mặt trước đình nhìn ra là cánh đồng lúa, ở ngay cạnh cổng đình làng là một
cây đa trăm tuổi tỏa bóng mát tạo cho ngôi đình dáng vẻ cổ kính, tôn nghiêm
và mang đậm nét dấu ấn đặc trưng của đình làng Việt Nam.
    Có thể thấy rằng mặc dù đã trải qua nhiều thế hệ cha ông, qua nhiều lần
tu sửa nhưng ngôi đình Trung Nghĩa vẫn giữ được cốt cách cổ xưa. Cũng
giống như bao ngôi đình khác, đình làng Trung Nghĩa cũng thuộc loại di tích
13




tín ngưỡng thờ tiền hiền làng. Một vài tài liệu cho biết đình là nơi thờ tự một
vị họ Văn, khi còn sống ngài có tên là Văn Đức, khi qua đời người ta gọi ngài
là Văn Quý Công. Theo sử sách ghi lại thì ngài là người quê Thanh Hóa, vào
năm 1643 thời vua Lê Trung Hưng ngài đã rời làng quê của mình theo dòng
người đi vào phương Nam để lập nghiệp, đến vùng đất hoang vu toang đồi
cồn và sông suối Trung Nghĩa này, ngài và gia đình đã dừng lại để khai hoang
và lập nên làng với tên gọi là Bình An Trung Xã, Điện Bàn Phủ, Quảng Nam
Dinh.
     Sau khi Ngài mất, con cháu trong làng với ý thức tôn trọng cội nguồn và
để tưởng nhớ đến công ơn những người đã khai phá, mở đất để hình thành
nên làng cho nên đã lập ngôi đình Trung Nghĩa ngày nay.Theo một số tài liệu
còn đến ngày nay cho biết lúc đầu ngôi đình được xây dựng bằng tre, nứa lá
tại vườn Gò Lăng vào năm kỷ sửu(1889) thời vua Thành Thái hiệu tức “Bửu
Lân”. Trải qua thời gian ngôi đình có nhiều biến đổi và một vài chỗ đã có dấu
hiệu hư hỏng. Đến thời Thành Thái thứ 12 tức năm Canh Tý (1900) dân làng
Trung Nghĩa đã đóng góp xây dựng, trùng tu và sửa chữa. Vào năm 1913 khi
giặc pháp đô hộ nước ta và chúng đã đến nơi đây để đào hố mở đường cho xe
lửa chạy ngang qua nên đình buộc phải rời về tại vườn Gò Dư (thời kỳ
Nguyễn Hoàng có tên hiệu là “Bửu Đảo”, niên hiệu Khải Định, năm Bính
Thìn). Từ đó về sau đình Trung Nghĩa tọa lạc ở đây, trải qua bao biến cố,
thăng trầm của thời gian nhưng ngôi đình vẫn trường tồn cùng năm tháng.
Tuy nhiên ngôi đình có được tu bổ lại vài lần là vào các năm 1954, lợp lại
những chỗ ngói bị bể nát, năm 1969 thay lại mái ngói đình bằng ngói âm
dương. Đến năm 1989 do cơn bão số 2 nên ngôi đình bị hư hỏng mái ngói và
phải lợp lại.
14




    Từ xa xưa cho đến nay đình làng Trung Nghĩa là nơi thờ phụng tiền hiền,
hậu hiền những người có công khai khẩn và lập nên làng Trung Nghĩa như
ngày nay.
    Hẳn trong mỗi chúng ai cũng rất đỗi quen thuộc với câu tục ngữ:
                            “Dù ai đi ngược về xuôi
                      Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba”
    Lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng được tổ chức cùng với ngày giỗ tổ
Hùng Vương. Với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” hàng năm vào
các ngày mồng 8, mồng 9 và mồng 10 tháng 3 âm lịch nhân dân trong làng lại
tề tựu về tại ngôi đình của làng để dâng lên các bậc tiền bối hữu công những
nén nhang thơm nhất, những bó hoa tươi thắm cùng nhau nguyện cầu cho
quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, nhân dân ấm no hạnh phúc và thành đạt
về mọi mặt.
    Trước đây thì lễ cúng do đại diện các chư phái tộc trong làng chăm lo và
thành phần tham dự là những người trung niên và các cụ phụ lão còn phụ nữ
và các cháu thiếu niên, nhi đồng hầu như không biết gì và cũng không được
tham dự lễ cúng trừ 10 học trò lễ ở độ tuổi thanh niên trai tráng chưa lập gia
đình, chỉ có một số người phụ nữ phục vụ công tác hậu cần thì mới có mặt ở
buổi lễ nhưng không được bước chân vào trong đình đi khi đang làm lễ cúng.
    Đình làng Trung Nghĩa hiện nay được chia làm 3 gian ở gian giữa thờ
thành hoàng bổn xứ, phía trước có bàn hội đồng, tả ban là nơi thờ tiền hiền
của làng, hữu ban là nơi thờ hậu hiền của làng. Ngoài gia thì trong khuôn viên
của đình làng còn có mộ tiền hiền, hậu hiền và miếu Bà Thiên Y – A – Na
diễn phi chúa ngọc.
    Trong hơn mười năm năm qua kể từ lễ hội đầu tiên năm 1998 cho đến
nay Hội đồng các chư phái tộc và nhân dân làng Trung Nghĩa tổ chức thành lễ
hội truyền thống tạo nên không khí ấm áp, lành mạnh với hương sắc mới để
15




cho các thế hệ kế tiếp hướng về cội nguồn nhằm phát huy truyền thống giá trị
nhân văn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và hàng năm coi đây là
ngày lễ hội truyền thống của nhân dân làng Trung Nghĩa và việc làng đã trở
thành việc chung của mọi người dân trong làng.
    Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”. Trong 13 năm qua lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã không
ngừng lớn mạnh về mọi mặt cả nội dung lẫn hình thức, đoàn kết xóa bỏ
những hủ tục lạc hậu, xây dựng cái mới, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây
dựng tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, yêu thương đùm bọc lấn nhau
như nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCH Trung ương Đảng về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đạm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
    Về việc tổ chức lễ hội đình làng: Do 5 ban phụ trách đó là Ban tổ chức,
ban nghi lễ, ban trần thiết và ban đời sống. Trong đó Ban tổ chức lễ hội do tổ
dân phố, hội đồng các chư phái tộc và nhân dân bầu ra.
    Lễ hội đình làng Trung Nghĩa gồm 2 phần: phần lễ và phần hội được tổ
chức trong vòng 3 ngày 08,09,10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong phần lễ
bao gồm 3 lễ đó là lễ cầu an sở cô bác và lễ chánh kỵ tiền hiền và các bậc tiền
bối hữu công trong làng Trung Nghĩa và cuối cùng là lễ cầu quốc thái dân an.
Phần hội bao gồm các nội dung: sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao (giải việt
dã, ẩm thực làng quê, thi xe đạp chậm, nhảy bao bố, thi giã gạo, giao hữu
bóng đá và một số tiết mục văn nghệ chào mừng lễ hội như đồng diễn dưỡng
sinh của câu lạc bộ người cao tuổi phường Hòa Minh…, có năm thì đoàn
tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh còn còn đến biểu diễn để phục vụ bà con).
    Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng như bất cứ một lễ hội
truyền thống nào khác đó là lễ hội đình làng nơi đây là một thể thống nhất,
một hệ thống bao gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ là nghi thức
thờ cúng mang màu sắc tâm linh, các lễ vật và quy trình cúng tế gắn liền với
16




đặc thù của đối tượng thờ cúng. Chữ lễ ở đây mang hai ý nghĩa cơ bản là tế lễ
và lễ giáo (lề thói ứng xử theo truyền thống, theo các quy phạm đạo đức đã
được cộng đồng thừa nhận dựa trên lời dạy của thánh nhân). Nội dung của lễ
là nhằm tưởng nhớ, tôn vinh những vị tiền hiền có công khai phá mở mang
ruộng đất cho làng và cầu sự bảo trợ về thần quyền cho sự thịnh vượng, yên
bình cho cộng đồng dân cư của làng.
    Phần lễ trong lễ hội đình làng Trung Nghĩa bao gồm các lễ:
    Lễ cầu an sở cô bác thực chất đây là lễ cúng những người chết đường
chết chợ, những người chết vô gia cư, không nơi lương tựa. Đây là một phong
tục đẹp thể hiện cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương chia sẻ của người sống
với người đã chết những đồ cúng bao gồm gạo, muối hột, cháo , áo giấy, tiền
vàng….
    Lễ chánh kỵ tiền hiền và các bậc tiền bối hữu công làng Trung Nghĩa là
một trong những nghi lễ chính của lễ hội đình làng Trung Nghĩa được diễn ra
từ sáng sớm (05h đến 06h30 ngày 10 tháng 03 âm lịch). Lễ vật được sắm sửa
đầy đủ, thịnh soạn kèm theo văn tế hội kỵ
    Lễ cầu quốc thái dân an đây là một nghi lễ quan trọng trong lễ hội đình
làng Trung Nghĩa diễn ra lúc 10h sáng ngày 10 tháng 03 âm lịch. Trong
không khí nghiêm trang. Nghi lễ này nhằm cầu cho đất nước thái bình, nhân
dân an lạc, no ấm, hạnh phúc; mưa thuận gió hòa.
     Phần hội là phần mang tính sinh hoạt giải trí, làm sống lại các truyền
thống sinh hoạt vui chơi đã từng ăn sâu vào lối sống của người dân. Có thể
nói rằng phần hội thực sự là điểm thu hút khách và dân làng. Thông qua các
trò chơi dân gian, văn nghệ, thể thao do ban tổ chức lễ hội đình làng tổ chức
ra cho khách và người dân thi đấu kèm theo các thể thức của cuộc chơi, thi
khác nhau. Giải thưởng thường mang tính ước lệ, không nặng lề về vật chất
17




mà đề cao danh dự, đề cao lòng nhiệt tình của những người tham dự cũng như
cổ vũ trò chơi, phần hội mang tính cộng đồng và hiếu khách.
2.3. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng
2.3.1. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – một sinh hoạt văn hóa tinh thần
không thể thiếu
    Trong cuộc sống hiện đại ngày nay mặc dù các hình thức sinh hoạt văn
hóa rất đa dạng và phong phú nhưng ngày hội làng vẫn có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần nhân dân. Từ xa xưa,
hội làng đã trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa dân gian, một món ăn tinh
thần không thể thiếu của nhân dân ở mọi vùng quê. Qua lễ hội đình làng
cũng là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh,
mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với
ngày mai tươi sáng hơn. Với một tấm lòng thành kính, tôn nghiêm, mỗi
người dân đều gửi gắm những tâm sự và mong ước của mình. Đó là mong
ước về một cuộc sống ấm no hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, sức khỏe và
trong công việc thì được thuận buồm xuôi gió.
    Có thể nói rằng ngày nay thì lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã trở thành
một sinh hoạt văn hóa đều đặn đối với mỗi người dân làng Trung Nghĩa, vào
ngày lễ hội của đình làng thì con cháu dù có làm ăn ở đâu, dù có bận thế nào
thì mỗi người dân trong làng cũng bố chí thời gian để đến tham dự. Đã thành
thông lệ sau một năm làm lụng vất vả, mùa xuân đến, ngày hội làng là dịp để
cho mọi người được nghỉ ngơi và đoàn tụ gia đình, gặp gỡ vui chơi giao lưu
với bà con làng xóm. Từ những người con được sinh ra ở làng quê thân yêu
đã trưởng thành đi công tác trên khắp mọi miền đất nước, đến những người
đang sống xa xôi nơi đất khách quê người… ngày hội làng cũng khát khao
18




được về cội nguồn, đứng giữa đình làng, thành kính thắp một nén hương
tưởng niệm đến công ơn của các bậc tiền nhân.
    Qua lễ hội đình làng mỗi người dân đều rất thoải mái, vui vẻ, mọi người
sẵn sàng đóng góp công sức, tài năng của mình tham gia vào các cuộc thi thố
với nhau. Nhưng dù thắng hay thua thì mọi người cũng đều rất vui vẻ,
giường như trong lễ hội đình làng thì bao gian lao vất vả trong cuộc sống
thường ngày đều tan biến hết chỉ còn lại niềm vui, sự lạc quan trong mỗi
người dân nơi đây.
2.3.2. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – vẻ đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh
thần và cố kết cộng đồng
    Có thể nói rằng trong xã hội hiện đại ngày nay, sự đô thị hóa đã diễn ra
một cách nhanh chóng cùng với những ảnh hưởng, sự tác động từ bên ngoài
đã làm cho con người có xu hướng định vị ngày càng rõ hơn về cái tôi của
mình, những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngày càng phai mờ dần.
Nhưng trong một vài năm gần đây được sự quan tâm của Đảng, nhà nước đã
coi văn hóa là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thì nhiều
hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng có điều kiện để phục dựng, khôi phục
và phát triển trong đó có lễ hội nói chung và lễ hội ở đình làng nói riêng.
    Lễ hội thực chất là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của con người,
gắn với con người như một điều tất yếu. Lễ hội cũng đáp ứng những nhu cầu
tinh thần, tâm linh không thể thiếu của con người như trở về với tự nhiên, cội
nguồn, là môi trường để người dân thể hiện sức mạnh cố kết cộng động. Nó
mang giá trị bảo tồn văn hóa và truyền thống, là “bảo tàng sống” về văn hóa
truyền thống của dân tộc.
    Xưa kia tổ chức đời sống ở mỗi làng của người Việt đều lấy cái đình
làm trung tâm, làm nơi bàn bạc chia xuất ruộng cho các đinh tráng, nơi ban bố
thuế khóa, nộp cho nhà nước của mỗi gia đình trong làng. Cái đình còn là trụ
19




sở hành chính của làng, nơi diễn ra các cuộc họp bầu bán hội đồng bô lão, kỳ
mục, bầu bán các chức sắc…… Ngày nay mặc dù đình làng Trung Nghĩa
không còn là trụ sở hành chính của làng nữa nhưng vai trò và ý nghĩa của
ngôi đình đã ăn sâu vào trong tâm thức của mỗi người dân, ngôi đình làng
chính là biểu tượng cho quê hương, ngôi nhà sinh hoạt chung của cả làng.
Hàng năm cứ đến dịp lễ hội làng thì nhân dân làng Trung Nghĩa lại cùng nhau
tụ họp lại để cùng nhau chuẩn bị cho lễ hội của làng, đây cũng là dịp để người
dân quây quần bên nhau, cùng nhau hợp tác phối hợp với nhau thi thố tài
năng qua các hoạt động văn nghệ, thể thao…, cùng nhau chia sẻ khó khăn và
những kinh nghiệm trong cuộc sống.
    Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cư”. Trải qua 13 năm lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã không ngừng
lớn mạnh về mọi mặt cả về nội dung lẫn hình thức, đoàn kết để xóa bỏ những
hủ tục lạc hậu, xây dựng cái mới, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng
tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
    Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã góp một phần quan
trọng trong việc xóa bỏ những định kiến hẹp hòi, ích kỷ, khơi dậy tinh thần
đồng tâm hiệp lực cùng nhau chung tay xây dựng xóm làng giàu mạnh, thân
thiện, xây dựng mối đoàn kết gắn bó giữa các tộc họ trong làng, xóm và tổ
dân phố.
    Người Việt từ hàng ngàn đời nay nói chung và dân làng Trung Nghĩa nói
riêng có truyền thống “ uống nước nhớ nguồn” và lễ hội truyền thống của
làng là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh
những hình tượng thiêng liêng được định danh là những vị “ thần” những
người có công đối với làng, nước.
     Có thể nói rằng hình tượng các vị thần linh, các bậc tiền hiền, hậu hiền
đã tụ hội những phẩm chất cao đẹp của con người đó là những anh hùng
20




chống giặc ngoại xâm, những người có công với làng đều có ý nghĩa thiêng
liêng trong tâm trí của mỗi người dân nơi đây.
    Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ
có thể phù hộ cho họ trong những mặt trong làm ăn, sức khỏe mà còn có thể
giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.
Chính tính “Thiêng” ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong
những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt
đẹp sẽ đến.
     Chúng ta có thể khẳng định rằng lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát
triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn
thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng,
một huyện, một vùng hoặc cả nước và các lễ hội truyền thống như lễ hội đình
làng là sự tưởng nhớ, bày tỏ lòng chi ân công đức của các vị thần đối với cộng
đồng dân tộc. Đây cũng là dịp để con người trở về nguồn cội tự nhiên và
hướng con người ta tới cái đẹp – cái chân thiện mỹ.
2.3.3. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa thể hiện truyền thống và đạo lý tốt
đẹp của dân tộc
    Có thể nói rằng mỗi quốc gia, dân tộc đều có những đặc điểm riêng về lối
sống, cách ứng xử và xu hướng hoạt động đặc trưng, chỉ có thể tìm thấy ở dân
tộc này mà không thể tìm thấy ở dân tộc kia. Cái đó thuộc về bản sắc văn hóa
dân tộc.
    Bản sắc văn hóa đó được hình thành trong lịch sử tồn tại và phát triển lâu
đời, nó được đúc kết từ kinh nghiệm sống, bằng những truyền thống nhất định,
được lưu giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ, cái đó được coi như một hằng số
nhất định trong bề dày lịch sử của một dân tộc.
    Mỗi con người dù có đi đâu, dù có làm gì đi chăng nữa thì họ vẫn giữ,
vẫn thể hiện ra trong từng hoạt động, từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói của mình.
21




Mặc dù người ta không nói ra rằng bản sắc văn hóa của dân tộc tôi là thế này,
là thế kia, nhưng qua cử chỉ, hành động, lối sống và cách ứng xử của mỗi
người ta dễ dàng nhận ra được cái bản sắc đấy. Có thể thấy rằng lễ hội đình
làng Trung Nghĩa cũng đã phần nào thể hiện một cách rõ nét truyền thống,
bản sắc của con người Việt Nam nói chung và Trung Nghĩa nói tiêng.
    Trước hết lễ hội đình làng Trung Nghĩa được tổ chức đã thể hiện rõ đạo
lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, tưởng nhớ các bậc tiền
bối hữu công đã có công lao khai hoang cỡ hóa lập nên làng Trung Nghĩa lưu
lại đến ngày hôm nay. Đồng thời bên cạnh đó qua một số sinh hoạt văn hóa
thể thao trong lễ hội cũng đã thể hiện rõ quan điểm của người dân nơi đây
rằng dù xã hội có phát triển thế nào đi nữa, thì nhân dân làng Trung Nghĩa
vẫn không quên được nguồn gốc, truyền thống của mình là xuất phát từ nền
nông nghiệp lúa nước do vậy trong lễ hội đình làng ngày nay vẫn tổ chức
cuộc thi giã gạo thể hiện rõ những công việc mà cha ông ta vẫn phải làm
trong cuộc sống thường ngày để mới có được những hạt gạo, bát cơm dẻo
thơm trắng ngần.
    Qua lễ hội đình làng cũng đã phần nào thể hiện rõ đạo lý, quan niệm về
cái đẹp, cái chân thiện mỹ của người dân nơi đây cụ thể như:
    Các phong trào người tốt việc tốt, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo,
uống nước nhớ nguồn, phong trào tương thân tương ái, phong trào thể dục thể
thao, phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng xóm văn hóa, phường văn
hóa, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, Tộc họ
văn hóa, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, xóa bỏ và loại trừ các tệ nạn xã
hội…
    Bên cạnh đó để tăng cường tinh thần đoàn kết trong làng thì hội đồng các
chư phái tộc đã gắn kết cùng với tộc họ thông qua cấp ủy, chính quyền nhằm
không ngừng xây dựng họ tộc đoàn kết, lành mạnh trong sáng bằng những
22




hành động thiết thực, họ tộc gắn liền với tổ dân phố, phối hợp chặt chẽ trong
việc cưới, việc tang, lễ hội…. nhờ đó mà các hủ tục lạc hậu đã dần được bãi
bỏ mà thay vào đó là thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, tang lễ
và lễ hội.
     Ban tổ chức lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng đã có những biện pháp
động viên khích lệ tinh thần hiếu học của con cháu trong làng. Cụ thể như
trong mỗi dịp lễ hội hàng năm thì hội đồng các chư phái tộc và Ban tổ chức
đều phát thưởng cho các em học sinh giỏi, con nhà nghèo hiếu học, học sinh
giỏi đạt giải cấp thành phố, quốc gia… mặc dù những phần thưởng của các
em không lớn về giá trị vật chất nhưng nó lại là một món quà tinh thần có ý
nghĩa vô cùng to lớn đối với các em, qua đó phần nào thể hiện sự quan tâm,
động viên khích lệ tinh thần hiếu học của người dân trong làng đến thế hệ trẻ,
thế hệ tương lai của đất nước.
     Lễ hội đình làng Trung Nghĩa là một thực tiễn mang tính giáo dục các
thế hệ đi sau về những giá trị văn hóa truyền thống, mang tính nhân văn về
lịch sử dựng nước và giữ nước, về cội nguồn của làng nói riêng, cả dân tộc
nói chung. Thông qua khía cạnh tâm linh, lễ hội có tính giáo dục rất lớn với
mọi thế hệ, không phân biệt già trẻ, đó là những lời răn, những lời khuyên
ngăn cản những hành vi phi đạo đức, đi ngược với lợi ích cộng đồng và lợi
ích của dân tộc. Lễ hội còn là sự chứng thực về cội nguồn dân làng có ý nghĩa
đoàn kết, gắn bó cộng đồng, làm cho mọi thành viên trong làng xích lại gần
nhau hơn.
     Có thể nói rằng qua lễ hội, qua các nghi thức tế lễ, vui chơi, hát hò…. Đã
góp phần gắn kết tình cảm giữa các gia đình, họ tộc bà con làng xóm với nhau.
Lễ hội cũng như một lời dăn dạy, giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tình
cảm xóm làng, tình thương yêu trong gia đình, yêu những truyền thống, đạo
lý tốt đẹp của cha ông nhằm góp phần xây dựng nên một làng Trung Nghĩa
23




giàu đẹp, văn minh nhưng mang đậm nét văn hóa truyền thống. Toàn bộ các
phong trào, các hoạt động trong lễ hội đều hướng vào tinh thần thi đua yêu
nước “Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.
2.4. Một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đình làng Trung
Nghĩa
        Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa là một loại hình sinh hoạt
văn hóa cộng đồng phổ biến và mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của
người dân Trung nghĩa nói riêng và của cả dân tộc ta nói chung, lễ hội đình
làng Trung Nghĩa cũng đã góp phần làm giàu và phát huy giá trị văn hóa dân
tộc, nên chúng ta cần phải có những biện phát để bảo tồn và phát huy những
giá trị tốt đẹp của loại hình sinh hoạt văn hóa này.
        Qua quá trình điền dã và tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số biện
pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội đình làng Trung
Nghĩa như:
        Thứ nhất: Phải đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông
những quy định của pháp luật liên quan đến lễ hội truyền thống. Đổi mới
công tác tuyên truyền phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt
là phương thức giới thiệu, quảng bá trên hệ thống truyền thanh tại các lễ hội,
các phương tiện thông tin đại chúng; cần nâng cao nhận thức của người dân
về giá trị lịch sử, văn hoá của lễ hội truyền thống trong đời sống văn hoá tinh
thần, từ đó có ý thức đề cao việc thực hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp
sống văn minh trong lễ hội, làm cho lễ hội làng Trung Nghĩa ngày càng văn
minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào
sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương.
        Thứ hai: Quản lý chặt chẽ việc quy hoạch, sắp xếp các hoạt động, vui
chơi giải trí hợp lý. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong
24




tổ chức lễ hội, tạo điều kiện để nhân dân địa phương tham gia dịch vụ, có
thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hoá trong giao tiếp ứng xử, không
vì khai thác nguồn lợi kinh tế mà làm sai lệch bản chất và nội dung, đánh mất
bản sắc văn hoá và ý nghĩa tốt đẹp của lễ hội.
       Thứ ba: Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần tăng
cường công tác nghiên cứu, sưu tầm và tiến hành quy hoạch nhằm quản lý và
có kế hoạch bảo tồn, phục hồi và phát triển. Bảo tồn có chọn lọc các giá trị
văn hóa truyền thống đặc sắc của lễ hội đình làng Trung Nghĩa nói tiêng và
các lễ hội trên địa bàn Hòa Minh nói chung, đồng thời, loại bỏ dần các yếu tố
lạc hậu, phục hồi những trò chơi dân gian truyền thống, những lễ hội truyền
thống phải dựa trên các tiêu chí khoa học để đảm bảo không làm sai lệch lễ
hội. Xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa trên nền truyền thống, phù hợp đặc
điểm văn hóa dân tộc, xu hướng phát triển và nhịp sống văn hoá của thời đại,
làm cho lễ hội thêm sức sống mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân
dân.
       Thứ tư: việc tổ chức lễ hội truyền thống phải tiến hành đúng quy định
của Nhà nước, ngành và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng
thời, phát huy vai trò chủ thể, năng lực sáng tạo của nhân dân. Chủ đề của lễ
hội phải mang tính tư tưởng sâu sắc, nội dung nghệ thuật phù hợp, cô đọng và
súc tích, hình thức thể hiện sinh động, tránh phô trương lãng phí. Kịch bản tổ
chức lễ hội phù hợp, định hình các nghi thức lễ và hoạt động hội gắn với chủ
đề riêng của lễ hội truyền thống. Các chương trình phục vụ lễ hội phải có sự
tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể. Tổ chức lễ hội trang
trọng, lành mạnh, tiết kiệm, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, khuyến
khích các trò chơi dân gian truyền thống, tăng cường các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể thao quần chúng lành mạnh.
25




      Thứ năm: Để lễ hội đình làng Trung Nghĩa thực sự trở thành “ngày hội
của toàn dân làng Trung Nghĩa” tôi thiết nghĩ nên đẩy mạnh công tác xã hội
hóa các hoạt động trong lễ hội nhằm tăng cường sự tham gia một cách chủ
động, sáng tạo của đông đảo nhân dân theo sự hướng dẫn, quản lý chung của
cơ quan chức năng; khai thác những kinh nghiệm, các tập tục cổ truyền tốt
đẹp, kiến thức về tổ chức lễ hội còn tiềm ẩn trong dân gian, góp phần giữ gìn
và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống, huy động nguồn lực của
toàn dân và du khách.
    Bên cạnh đó nên kêu gọi, huy động sự chung tay đóng góp của các tổ
chức, cá nhân và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn để có thêm nguồn kinh
phí để phục vụ các hoạt động của lễ hội sẽ được tốt hơn.
26




                                KẾT LUẬN
    Lễ hội là một nét đặc sắc trong đời sống cộng dồng của các dân tộc Việt
Nam từ rất lâu đời và trường tồn cùng năm tháng, là dịp ca ngợi và tôn vinh
các giá trị văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc, thông qua đó bồi đắp thêm
bản lĩnh con người Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam. Lễ hội đình làng
Trung Nghĩa còn là dịp để nhân dân bày tỏ những ước nguyện khát vọng của
người dân nơi đây, đồng thời đây cũng là dịp để nhân dân quây quần bên nhau
cùng tưởng nhớ về công ơn của các bậc tiền nhân đã khai phá, gây dựng nên
nơi đây. Đứng trước những thành quả to lớn mà cha ông ta đã giày công xây
dựng và giữ gìn, thế hệ trẻ chúng ta hôm nay cần nhận rõ trách nhiệm và xứ
mệnh cao cảo của mình, đó là tiếp tục bảo tồn đồng thời cũng phải biết gạn
lọc, dung hợp các yếu tố văn hóa mới góp phần xây dựng Trung Nghĩa thành
làng văn hóa ngày càng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
27




III. ĐỀ XUẤT
    Qua những gì đã được học tại trường lớp và thực tập thực tế tại cơ quan
tôi thấy mình đã trưởng thành nên rất nhiều, có thể nói rằng thực tập là một
điều kiện rất tốt cho mỗi sinh viên tự chuẩn bị cho mình những kỹ năng, kiến
thức cần thiết để khi ra trường bắt tay vào công việc mới khỏi bị bỡ ngỡ và
hụt hẫng. Qua 4 năm học tại trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng tôi nhận thấy
rằng: Đây là một ngôi trường có đội ngũ giảng viên giỏi, có nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy, tuy nhiên với chuyên ngành văn hóa học đây là một
chuyên ngành mới đòi hỏi sinh viên khi ra trường phải có tầm hiểu biết rộng
và phải nắm thật chắc các kiến thức chuyên môn, nhưng thực tế phải nói rằng
nhà trường vẫn chưa chú trọng lắm đến chuyên ngành mới mẻ này, đội ngũ
giáo viên giảng dạy thì lại thiếu dẫn đến tình trạng không ổn định trong công
tác học tập của sinh viên, bên cạnh đó thì các tài liệu phục vụ công tác học tập
cho chuyên ngành thì lại rất ít. Vì vậy kính mong Ban chủ nhiệm khoa phòng
đào tạo và Ban giám hiệu nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến ngành học
mới này và cũng nên trang bị thêm một số đầu sách cho chuyên ngành này
trên thư viện để sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn. Tôi thiết nghĩ rằng có
một số học phần nhà trường, phòng đào tạo cũng như Ban chủ nhiệm khoa
nên tạo điều kiện để sinh viên vừa học tập trên lớp kết hợp với thực tế, thực
địa môn học đó có như vậy thì mới mang lại hiệu quả tốt hơn. Bên cạnh đó
nhà trường , phòng đào tạo và Ban chủ nhiệm khoa cũng cần phải xác định rõ
hơn kế hoạch, khung chương trình đào tạo để sinh viên nắm rõ hơn, hiểu hơn
về lĩnh vực, chuyên ngành mình theo học và công việc mình sẽ phải làm khi
ra trường để từ đó sinh viên sẽ không bị động trong công tác học tập và có
những định hướng cụ thể trong công tác học tập của mình có như vậy thì việc
học tập mới đạt được kết quả tốt hơn. Đặc biệt Ban chủ nhiệm khoa cũng nên
phối hợp với các cơ quan tổ chức trong và ngoài trường mở các câu lạc bộ
28




chẳng hạn như câu lạc bộ văn hóa để sinh viên tham gia như vậy sẽ tạo điều
kiện tốt hơn cho sinh viên tự hoàn thiện và phát triển đam mê, cũng như khả
năng của bản thân mình.
29




                             NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP

...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
                                                      Đà Nẵng, ngày……… Tháng …… năm 2012
30




                ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
                                                      Đà Nẵng, ngày……… Tháng …… năm 2012
                                                                GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

CỐ ĐÔ HUẾ.pptx
CỐ ĐÔ HUẾ.pptxCỐ ĐÔ HUẾ.pptx
CỐ ĐÔ HUẾ.pptxVyNguyn580616
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
Đề Cương cơ sở văn hóa việt nam
Đề Cương cơ sở văn hóa việt namĐề Cương cơ sở văn hóa việt nam
Đề Cương cơ sở văn hóa việt namlimsea33
 
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏi
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏiKịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏi
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏiBui Kim Ngan
 
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
cum tu tu do
cum tu tu docum tu tu do
cum tu tu doatcak11
 
03 bao cao 3 vung 2013
03 bao cao 3 vung 201303 bao cao 3 vung 2013
03 bao cao 3 vung 2013duanesrt
 
Quan ho Bac Ninh
Quan ho Bac NinhQuan ho Bac Ninh
Quan ho Bac Ninhdaisy
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ nataliej4
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Was ist angesagt? (20)

Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAYMúa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
 
CỐ ĐÔ HUẾ.pptx
CỐ ĐÔ HUẾ.pptxCỐ ĐÔ HUẾ.pptx
CỐ ĐÔ HUẾ.pptx
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
 
Đề Cương cơ sở văn hóa việt nam
Đề Cương cơ sở văn hóa việt namĐề Cương cơ sở văn hóa việt nam
Đề Cương cơ sở văn hóa việt nam
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Quảng Bình, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Quảng Bình, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Quảng Bình, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Quảng Bình, HOT
 
Đề tài: Quản lý nhà nước về văn hóa huyện Tam Nông, Phú Thọ
Đề tài: Quản lý nhà nước về văn hóa huyện Tam Nông, Phú ThọĐề tài: Quản lý nhà nước về văn hóa huyện Tam Nông, Phú Thọ
Đề tài: Quản lý nhà nước về văn hóa huyện Tam Nông, Phú Thọ
 
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏi
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏiKịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏi
Kịch bản chương trình tuyên dương học sinh giỏi
 
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
 
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
 
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú ThọLuận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
 
cum tu tu do
cum tu tu docum tu tu do
cum tu tu do
 
Đề tài: Quản lý về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, HAY
Đề tài: Quản lý về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, HAYĐề tài: Quản lý về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, HAY
Đề tài: Quản lý về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, HAY
 
03 bao cao 3 vung 2013
03 bao cao 3 vung 201303 bao cao 3 vung 2013
03 bao cao 3 vung 2013
 
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận văn: Phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Kon Tum, HAY
Luận văn: Phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Kon Tum, HAYLuận văn: Phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Kon Tum, HAY
Luận văn: Phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Kon Tum, HAY
 
Quan ho Bac Ninh
Quan ho Bac NinhQuan ho Bac Ninh
Quan ho Bac Ninh
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...
Luận văn: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Quả...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ
Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo – Nguyễn Văn Hộ
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk LắkLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 

Ähnlich wie Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng

Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngttkhhanam
 
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Văn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpVăn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpMinhHuL2
 
Page 1 100 vh3+4
Page 1 100 vh3+4Page 1 100 vh3+4
Page 1 100 vh3+4Cậu Ấm
 
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênLuận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...https://www.facebook.com/garmentspace
 

Ähnlich wie Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng (20)

Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
 
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Trung tâm văn hóa tỉnh Tuyên Quang, HAY
Luận văn: Trung tâm văn hóa tỉnh Tuyên Quang, HAYLuận văn: Trung tâm văn hóa tỉnh Tuyên Quang, HAY
Luận văn: Trung tâm văn hóa tỉnh Tuyên Quang, HAY
 
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
 
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đĐề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
 
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
 
Đề tài: Hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc, HAY
Đề tài: Hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc, HAYĐề tài: Hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc, HAY
Đề tài: Hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc, HAY
 
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
 
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh LongLuận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
 
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên MôĐề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
 
Văn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpVăn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh Nghiệp
 
Phát huy giá trị làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Túc, 9đ
Phát huy giá trị làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Túc, 9đPhát huy giá trị làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Túc, 9đ
Phát huy giá trị làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Túc, 9đ
 
Page 1 100 vh3+4
Page 1 100 vh3+4Page 1 100 vh3+4
Page 1 100 vh3+4
 
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênLuận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
 
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đLuận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
 
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
 

Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng

  • 1. 1 I. NỘI DUNG VÀ TIẾN ĐỘ THỰC TẬP 1. Nội dung thực tập Trước khi đi thực tập tại cơ quan, phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên Chiểu đã đưa ra kế hoạch thực tập và một số đề tài để sinh viên tự lựa chọn làm báo cáo thực tập như: - Tham dự, tìm hiểu về cách thức tổ chức và giúp lễ hội truyền thống: Lễ hội đình làng Hòa Mỹ, Hòa Phú, Trung Nghĩa, Phước Lý, Đà Sơn, Thanh Vinh, Lễ hội cầu ngư Nam Ô 2 trên địa bàn quận. - Tham gia và tổ chức giải đua thuyền truyền thống Mừng Đảng – Mừng Xuân Nhâm Thìn 2012. * Các đề tài mà Phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên Chiểu giao cho viết báo cáo thực tập như: - Tìm hiểu lễ hội cầu ngư; Khu dân cư văn hóa biển Kim Liên (Hòa Hiệp Bắc) - Tìm hiểu lễ hội cầu ngư làng cá Nam Ô - Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của 5 phường (gồm: Phong trào xây dựng danh hiệu gia đình văn hóa, tộc họ văn hóa, phường văn hóa, tổ dân phố văn hóa…) - Các thức tổ chức lễ hội truyền thống (tổ chức phần lễ, phần hội…) như: + Lễ hội đình làng Hòa Mỹ, lễ hội đình làng Hòa Phú, lễ hội đình làng Trung Nghĩa, lễ hội đình làng Phước Lý (Thuộc phường Hòa Minh) + Lễ hội đình làng Xuân Dương (Phường Hòa Hiệp Nam) 2. Tiến độ thực tập Thời gian Nội dung công việc Từ ngày 30/01/2012 - Đến cơ quan gặp mặt và làm quen với mọi người, đến ngày 2/2/2012 tạo mối quan hệ thân thiện ban đầu.
  • 2. 2 Ngày 3/2/2012 đến - Tham dự lễ hội đình làng Hòa Mỹ ngày 4/2/2012 - Tham dự lễ hội đình làng Hòa Phú Từ ngày 6/2/2012 - Dự lễ tế Âm Linh của làng Nam Ô đến ngày 9/2/2012 Ngày 14/2/2012 - Tham dự lễ vía Miếu Bà Nam Ô1 Đến 15/2/2012 - Tham dự lễ tế Miếu Bà Ngũ Hành ở Hòa Mỹ - Lên cơ quan họp, nghe bác Trần Công Khuê (Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin) phổ biến công Ngày 17/2/ 2012 tác của phòng trong thời gian sắp tới - Báo cáo tên đề tài thực tập đã chọn với các chuyên viên văn hóa của phòng Từ ngày 22/2/2012 - Tham dự một số lễ tế ở miếu ở Hòa Phú: miếu xóm đến ngày 23/2/2012 Phú Ca, Miếu xóm Hòa Nam, Phú Trung Từ ngày 1/3/2012 - Bước đầu tập hợp tài liệu và viết báo cáo thực tập đến ngày 6/3/2012 tốt nghiệp Từ ngày 7/3/2012 - Tham dự lễ hội Cầu Ngư ở Nam Ô đến ngày 8/3/2012 - Tham dự lễ hội đình làng Xuân Dương Từ ngày 17/3/2012 - Tham dự lễ hội văn hóa biển Kim Liên đến ngày 18/3/2012 Ngày 12/3/2012 - Tham dự lễ vía Miếu Bà Nam Ô2 - Đi xin tài liệu ở phường Hòa Minh và đi điền dã Từ ngày 12/3/2012 thực tế, gặp một số các cụ trong Ban tổ chức lễ hội đến ngày 19/3/2012 đình làng phỏng vấn và xin các tư liệu liên quan. - Viết hoàn chỉnh Báo các thực tập tốt nghiệp - Nộp báo các thực tập tốt nghiệp lên Phòng Văn hóa Ngày 20/3/2012 – thông tin để các bộ hướng dẫn chỉnh sửa và góp ý
  • 3. 3 kiến - Lên cơ quan nhận lại bản Báo cáo và điều chỉnh lại Từ ngày 23/3/2012 theo sự góp ý của cán bộ hướng dẫn đến ngày 25/3/2012 - Tổ chức liên hoan chia tay cơ quan II. CÁC KẾT QUẢ CỤ THỂ MỞ ĐẦU Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài người. Nước Việt Nam có một quá trình lịch sử trên bốn ngàn năm, trong đó thì hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển văn hoá của dân tộc, qua các thời đại từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay dân tộc Việt Nam chúng ta có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn năm nay, trải suốt chiều dài lịch sử đó dân tộc ta đã tạo nên nhiều sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần khá phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc, mặc dù mỗi lần đất nước bị xâm lăng là một lần nền văn hoá dân tộc bị thử thách, bị tàn phá. Kẻ thù muốn đồng hoá nền văn hóa của chúng ta, cho đến ngày nay nền văn hoá của chúng ta không những không bị đồng hoá mà bản sắc dân tộc càng được khẳng định hơn. Để có được thành quả như vậy thì chúng ta cần phải tìm hiểu về cội nguồn văn hoá của dân tộc “đó chính là văn hóa làng xã”. Làng Việt xã là nơi bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản xuất và tổ chức mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố kết quan hệ dòng tộc, xóm giềng. Làng là mô hình để người xưa theo đó mà mở rộng ra xây dựng tổ chức quốc gia, đô thị. Làng còn là pháo đài để chống giặc ngoại xâm cùng mọi yếu tố ngoại lai, bảo vệ sự bình yên cho dân tộc, cho đất nước. Văn hóa làng chính là hệ thống những giá trị hình thành qua bao đời
  • 4. 4 trong toàn bộ các hoạt động đó, và đến lượt mình, nó cũng chính là công cụ, là phương tiện tổ chức và duy trì toàn bộ các hoạt động này. Nó đi vào ký ức người Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi và thân thương. Thế giới đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy ước thành lệ làng, đúc kết trong hương ước làng, bộc lộ một cách phong phú qua hội làng. Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng là những giá trị nổi trội nhất. Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái đình làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng nghĩa xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ cương, trong sáng và thanh cao. Trong làng thì ngôi Đình có vị trí tâm linh đặc biệt. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành hoàng làng, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng. Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là xã hội Việt Nam thu nhỏ thời phong kiến, thì Đình là hình ảnh của làng. Nơi đây diễn ra những cuộc họp của bô lão trong làng, trong họ tộc, từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân Đình và theo lệ của làng. Hàng năm mỗi độ xuân về từ Bắc chí Nam nơi nơi đều tổ chức các lễ hội truyền thống để tưởng nhớ đến công đức của các bậc tiền nhân có công với làng với nước, đồng thời đây cũng là dịp để nhân dân vui chơi giải trí sau cả một năm làm lụng vất vả. Hòa cùng trong không khí đó lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng được tổ chức đây là dịp mọi nhà thể hiện đạo lý “Uống
  • 5. 5 nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nhớ ơn các vị tiền nhân đã có công xây dựng làng, và cũng qua lễ hội này đã góp phần thể hiện rõ nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây đó chính là tinh thần tương thân tương ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau…. Cũng chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng”. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Đôi nét khái quát về quận Liên Chiểu Quận Liên Chiểu là một đơn vị trực thuộc UBND thành phố Đà Nẵng, được thành lập theo quyết định số: 07/CP ngày 23 /11/1997 của chính phủ nước CHXHCN Việt Nam trên cơ sở 3 xã Hòa Minh, Hòa Khánh và Hòa Hiệp thuộc huyện Hòa Vang cũ. Sau 15 năm xây dựng và trưởng thành quận cũng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể về kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội và an ninh quốc phòng đã làm thay đổi và nâng cao bộ mặt cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Hiện nay quận Liên Chiểu có 5 phường là: Hòa Minh, Hòa Khánh Nam, Hòa Khánh Bắc, Hòa Hiệp Nam và Hòa Hiệp Bắc. Quận có diện tích tự nhiên là 7.513,5 ha chiếm 61% diện tích so với toàn thành phố Đà Nẵng. Quận Liên Chiểu có vị trí rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam đi qua, gần sân bay quốc tế Đà Nẵng, phía Đông và Đông Nam giáp quận Thanh Khê và quận Cẩm Lệ, phía Tây giáp huyện Hòa Vang, phía Bắc giáp Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), có cảng nước sâu Liên Chiểu và trên địa bàn quận còn có 8 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Quận được xác định là quận công nghiệp với cơ cấu kinh tế là công nghiệp – thương mại – nông nghiệp và
  • 6. 6 dịch vụ du lịch. Trên địa bàn quận hiện có trên 300 nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp và các cơ quan Trung ương, thành phố và địa phương khác đóng trên địa bàn quận thu hút hàng trục ngàn kỹ sư, công nhân, học sinh sinh viên đến sinh sống, lao động công tác và học tập. Ngày nay toàn quận hiện có 283 tổ dân phố, gần 100.000 dân, 11 cơ sở tôn giáo như: Công giáo, Cao đài, Phật giáo, Tin lành… với hàng ngàn tăng ni, phật tử. Về thiết chế văn hóa: trên địa bàn quận hiện có 03 khu văn hóa, 04 khu văn hóa ngoài trời, 03 khu vui chơi giải trí văn hóa cơ sở ở các phường, 35 câu lạc bộ văn hóa – thể thao, 26 sân bóng đá, bóng truyền lớn nhỏ, 06 sân tennis, 25 sân cầu lông và hàng trục điểm billard, bóng bàn. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển khá mạnh hiện có trên 50 tổ, đội nghệ thuật quần chúng, trên 100 đội bóng đá, bóng truyền, cầu lông… với hàng ngàn hội viên, diễn viên, vận động viên. Quận có 12 di tích lịch sử văn hóa, cách mạng, di tích kiến trúc nghệ thuật, 03 chiến tích lịch sử, 01 danh thắng thiên nhiên cấp quốc gia. Có thể thấy rằng trong những năm qua công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đời sống văn hóa – văn nghệ trên địa bàn đã, đang được đẩy mạnh và cũng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể góp phần làm thay đổi bộ mặt cơ sở vật chất và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên địa bàn quận. 1.2. Đôi nét giới thiệu về phòng văn hóa và thông tin quận Liên Chiểu 1.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy Phòng văn hóa và thông tin quận Liên Chiểu được thành lập theo Quyết định số: 03/QĐ – UB ngày 14 tháng 02 năm 1997 của UBND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
  • 7. 7 Hiện nay phòng văn hóa và thông tin quận có 13 cán bộ viên chức – công chức, trong đó có 01 trưởng phòng, 03 phó trưởng phòng và 09 cán bộ viên chức chuyên môn. * Sơ đồ tổ chức bộ máy Phòng Văn hóa và Thông tin quận Liên Chiểu: TRƯỞNG PHÒNG ( Trần Công Khuê) PHÓ TRƯỞNG PHÒNG PHÓ TRƯỞNG PHÒNG PHÓ TRƯỞNG PHÒNG MẢNG VĂN HÓA MẢNG TDTT MẢNG CNTT ( Thi Lý Phước) ( Hoàng Hải Quang) ( Hoàng Hải Quang) Nguyễn Nguyễn Hoàng Phan Đặng Hoàng Mai Mai Lê Thị Minh Thị Thanh Anh Văn Ngọc Phước Thị Huỳnh Toàn Thu Bảy Tuấn Sỹ Quý Tuấn Hoa Hà Lan (KếToán) 1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ 1.2.2.1. Chức năng Phòng Văn hóa thông tin quận Liên Chiểu là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy Ban nhân dân quận, giúp UBND thực hiện chức năng tham mưu, quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin, gia đình, thể dục, thể thao, di tích và du lịch trên địa bàn. Phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch; tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội của địa phương Hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao và du lịch ở các phường trên địa bàn quận, đồng thời phòng còn có
  • 8. 8 chức năng quản lý tổ chức biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ công chức thuộc phạm vi quản lý của Phòng về lĩnh vực được giao theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân quận. Tổ chức, cung ứng dịch vụ công; đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch; nhu cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao dân trí, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên địa bàn. 1.2.2.2. Nhiệm vụ Căn cứ những định hướng và quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ phát triển văn hóa – Thông tin, thể dục – thể thao, du lịch, gia đình… của thành phố, căn cứ nhiệm vụ chính trị, các định hướng về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của quận, phòng văn hóa và thông tin xây dựng quy hoạch, kế hoạch (dài hạn và ngắn hạn) trình UBND quận và Sở Văn hóa thể thao và du lịch thành phố phê duyệt, đồng thời xây dựng phương án tổ chức thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt. Phòng văn hóa và thông tin quận còn có nhiệm vụ hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn tham gia phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, phường văn hóa… Phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, điểm du lịch trên địa bàn quận. Bên cạnh đó thì phòng văn hóa và thông tin quận còn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch trên địa bàn quận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về lĩnh vực của ngành theo quy định của pháp luật.
  • 9. 9 1.3. Một số đặc điểm và tình hình của phường Hòa Minh Hòa Minh là một trong năm phường thuộc quận Liên Chiểu, đây là một trong 3 phường được thành lập sớm nhất của quận Liên Chiểu, phường được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1997 theo quyết định của chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hòa Minh là vùng đất cửa ngõ phía Tây Bắc của Đà Nẵng, phía Bắc của phường tiếp giáp với Vịnh Đà Nẵng, phía Nam giáp núi Cẩm Khê của xã Hòa Nhơn (Hòa Vang), phía Đông giáp phường Thanh Lộc Đán (quận Thanh Khê), phía Tây giáp với phường Hòa Khánh và phường còn có quốc lộ 1A và tuyến đường sắt bác Nam chạy qua. Từ xưa đến nay Hòa Minh được xem là một địa bàn trọng yếu về quân sự, chính trị và có quan hệ mật thiết với thành phố hải cảng Đà Nẵng. Trước kia , khi tốc độ đô thị hóa chưa đáng kể thì cư dân Hòa Minh còn thưa thớt, là một xã nông nghiệp thuộc huyện Hòa Vang có địa hình bán sơn địa, nhiều đồi đất, núi, trảng cát, …. Vườn ở, đất thô chiếm hơn 90 % đất tự nhiên, ruộng lúa chỉ chiếm khoảng hơn 10 %, đất sản xuất ít và cằn cỗi đời sống nhân dân khó khăn. Hòa Minh hiện nay đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân cũng được cải thiện hiên nay phường Hòa Minh có 4 khu phố chính (trên cơ sở các thôn cũ trước đây) gồm: Hòa Phú, Hòa Mỹ, Phước Lý và Trung Nghĩa. Hiện nay trên địa bàn phường có khoảng trên 40 cơ quan doanh nghiệp, 13 trường học từ mẫu giáo đến cao đẳng, trên địa bàn phường còn có bệnh viện đa khoa và bệnh viện lao, có 5 chùa, thiền viện và nhà thờ đạo tin lành. Có thể nói rằng Hòa Minh là phường có nhiều biến động phức tạp, thêm vào đó là sự giao thoa văn hóa đã gây ra không ít khó khăn trong quá trình quản lý, lãnh đạo của các phòng ban và các bộ phận chức năng trong phường. Hiện nay phường đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ đã góp phần làm thay đổi bộ mặt và nâng cao đời sống vật chất văn hóa tinh thần của nhân
  • 10. 10 dân, thông qua cuộc vân động thực hiện mô hình đời sống văn hóa mới được tiến hành và thực hiện phù hợp đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Về văn hóa: Hòa Minh là một bộ phận gắn liền với nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Việc thờ tổ tiên, thờ thần cứu nước là một đặc điểm lớn của văn hóa Đại Việt, nhằm nhắc nhở con cháu nhớ đến công ơn của những người khai khẩn đất đai, những vị anh hùng đã hy sinh vì nước, vì dân. Đó là gốc rễ sâu sắc, bền vững từ ngàn xưa của dân tộc ta. Hiện nay Hòa Minh còn nhiều di tích đình, chùa miếu, lễ hội… phản ánh đời sống tâm linh phong phú của nhân dân nơi đây. Điển hình phải kể đến đó là lễ hội đình làng truyền thống ở 4 làng: Hòa Mỹ, Hòa Phú, Trung Nghĩa và Phước Lý. Việc tổ chức các mô hình hoạt động lễ hội truyền thống đã trở thành đời sống tinh thần không thể thiếu được đối với người dân, mang tâm linh vun đắp, tô bồi đạo lý “uống nước nhớ nguồn” một phong tục truyền thống của dân tộc. Lễ hội đã có tác dụng không nhỏ trong việc giáo dục nhân dân, con cháu trong làng về đạo đức, lối sống văn minh và những truyền thống tốt đẹp của cha ông từ ngàn xưa, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. CHƯƠNG 2: LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG TRUNG NGHĨA – NÉT ĐẸP TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG 2.1. Khái quát về làng Trung Nghĩa 2.1.1. Đôi nét khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Đình làng Trung Nghĩa tọa lạc trên một vùng đất cao của làng (tại tổ 10 khu dân cư Trung Nghĩa, Phường Hòa Minh) cách trung tâm thành phố khoảng 7km về hướng đông bắc. Có thể nói rằng Trung Nghĩa là địa bàn tiếp giáp nhiều địa phương trong và ngoài phường như: Phía Đông giáp với phường Thanh Khê Đông, phía Tây
  • 11. 11 giáp làng Hòa Mỹ, phía Nam giáp quốc lộ 1A và phường Hòa An, Phía Bắc giáp làng Hòa Phú. Nơi đây đất đai phì nhiêu màu mỡ có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp 2.1.2. Đôi nét về lịch sử văn hóa xã hội Làng Trung Nghĩa hình thành và phát triển khá lâu, vào năm 1643 trên bản đồ Quảng Nam Dinh có thêm một địa danh mà sau này được mang tên Trung Nghĩa. Trung Nghĩa là tên làng mà các đấng tiền nhân đã đặt cách đây gần 400 năm về trước, gồm có hai xóm Bồng Lai – Tiên Cảnh và hai xứ đồng “Bàu Lác và Bàu Năng”, Trung Nghĩa xưa kia vốn là một nơi thôn dã đầy cỏ dại nhưng nó cũng mang một vẻ đẹp rất mộc mạc, bình dị bởi vậy mà xưa kia nơi đây có tên gọi là “Trung Nghĩa, Tiên Cảnh, Bồng Lai”. Tiền hiền làng Trung Nghĩa là người dòng họ Văn, khi còn sinh tiền ngài tên là Văn Đức, khi qua đời là Văn Quý Công. Ngài là người con của quê hương làng gốm thuộc xã Hải Hưng, huyện Hải Dương, tỉnh Thanh Hóa. Vào Năm quý mùi (1643) thời vua Lê Trung Hưng, Ngài rời làng gốm nơi chôn nhau cắt rốn đi theo dòng người di dân vào phương Nam lập nghiệp. Ngài đã dừng chân tại đây cùng con cháu khai hoang và lập nên bản làng có tên gọi là “ Bình An Trung Xã, trực thuộc phủ Điện Bàn, Quảng Nam Dinh”. Sau 173 năm, tức vào năm Bính tý (1816) năm Gia Long thứ 14, người cháu đời thứ 4 của vị Tiền hiền là ông Văn Đức Thông đã lập lại địa bộ. Trong thời điểm này tại đây chỉ có 10 gia tộc với 40 mẫu Tư điền và 80 mẫu công điền phân ra 2 xứ đồng Bàu Lác và Bàu Năng. Đến năm Tân Sửu (1841) dưới thời vua Thiệu Trị nguyên niên tên bản làng được đổi danh là Trùng Nghĩa xã, trực thuộc Tổng Hòa An, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Với tổng diện tích tự nhiên 85 ha
  • 12. 12 được phân ra 4 xứ đồng là Thượng Bàu Lác, Hạ Bàu Lác, Thượng Bàu Năng, Hạ Bàu Năng. Xưa kia Trung Nghĩa có hai điểm sinh hoạt văn hóa là “ Bồng Lai và Tiên Cảnh” tưởng chừng như ngăn cách bởi hai cánh đồng Bàu Lác, Bàu Năng nhưng ngược lại con dân trong làng không vì cách trở, không phân biệt họ tộc, sống thủy chung thương mến đùm bọc lẫn nhau, cày sâu cuốc bẫm, giết thù đuổi giặc, bảo vệ quê hương bờ cõi. Từ sau năm 1997 thôn Trung Nghĩa được chuyển thành khối phố thuộc phường, đã thành lập 10 tổ dân phố, có hai xóm Bồng Lai, Tiên Cảnh. Có một ban cán sự khối phố thuộc chị bộ lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các hoạt động trên địa bàn. Ngày nay con cháu dân làng tiếp nhận di hậu Tổ tiên đoàn kết một lòng, ra sức xây dựng Trung Nghĩa trở thành Làng văn hóa, văn minh, giàu đẹp. 2.2. Đôi nét về lễ hội Đình làng Trung Nghĩa Có thể nói rằng lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống của cha ông ta từ xa xưa cho đến nay, lễ hội không chỉ là dịp để con người vui chơi giải trí mà qua đó còn thể hiện một truyền thống tốt đẹp đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, tưởng nhớ những người có công với làng với nước….. Lễ hội đình làng trung nghĩa cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Đình làng Trung Nghĩa được xây dựng trên một vùng đất cao của làng, mặt trước đình nhìn ra là cánh đồng lúa, ở ngay cạnh cổng đình làng là một cây đa trăm tuổi tỏa bóng mát tạo cho ngôi đình dáng vẻ cổ kính, tôn nghiêm và mang đậm nét dấu ấn đặc trưng của đình làng Việt Nam. Có thể thấy rằng mặc dù đã trải qua nhiều thế hệ cha ông, qua nhiều lần tu sửa nhưng ngôi đình Trung Nghĩa vẫn giữ được cốt cách cổ xưa. Cũng giống như bao ngôi đình khác, đình làng Trung Nghĩa cũng thuộc loại di tích
  • 13. 13 tín ngưỡng thờ tiền hiền làng. Một vài tài liệu cho biết đình là nơi thờ tự một vị họ Văn, khi còn sống ngài có tên là Văn Đức, khi qua đời người ta gọi ngài là Văn Quý Công. Theo sử sách ghi lại thì ngài là người quê Thanh Hóa, vào năm 1643 thời vua Lê Trung Hưng ngài đã rời làng quê của mình theo dòng người đi vào phương Nam để lập nghiệp, đến vùng đất hoang vu toang đồi cồn và sông suối Trung Nghĩa này, ngài và gia đình đã dừng lại để khai hoang và lập nên làng với tên gọi là Bình An Trung Xã, Điện Bàn Phủ, Quảng Nam Dinh. Sau khi Ngài mất, con cháu trong làng với ý thức tôn trọng cội nguồn và để tưởng nhớ đến công ơn những người đã khai phá, mở đất để hình thành nên làng cho nên đã lập ngôi đình Trung Nghĩa ngày nay.Theo một số tài liệu còn đến ngày nay cho biết lúc đầu ngôi đình được xây dựng bằng tre, nứa lá tại vườn Gò Lăng vào năm kỷ sửu(1889) thời vua Thành Thái hiệu tức “Bửu Lân”. Trải qua thời gian ngôi đình có nhiều biến đổi và một vài chỗ đã có dấu hiệu hư hỏng. Đến thời Thành Thái thứ 12 tức năm Canh Tý (1900) dân làng Trung Nghĩa đã đóng góp xây dựng, trùng tu và sửa chữa. Vào năm 1913 khi giặc pháp đô hộ nước ta và chúng đã đến nơi đây để đào hố mở đường cho xe lửa chạy ngang qua nên đình buộc phải rời về tại vườn Gò Dư (thời kỳ Nguyễn Hoàng có tên hiệu là “Bửu Đảo”, niên hiệu Khải Định, năm Bính Thìn). Từ đó về sau đình Trung Nghĩa tọa lạc ở đây, trải qua bao biến cố, thăng trầm của thời gian nhưng ngôi đình vẫn trường tồn cùng năm tháng. Tuy nhiên ngôi đình có được tu bổ lại vài lần là vào các năm 1954, lợp lại những chỗ ngói bị bể nát, năm 1969 thay lại mái ngói đình bằng ngói âm dương. Đến năm 1989 do cơn bão số 2 nên ngôi đình bị hư hỏng mái ngói và phải lợp lại.
  • 14. 14 Từ xa xưa cho đến nay đình làng Trung Nghĩa là nơi thờ phụng tiền hiền, hậu hiền những người có công khai khẩn và lập nên làng Trung Nghĩa như ngày nay. Hẳn trong mỗi chúng ai cũng rất đỗi quen thuộc với câu tục ngữ: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba” Lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng được tổ chức cùng với ngày giỗ tổ Hùng Vương. Với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” hàng năm vào các ngày mồng 8, mồng 9 và mồng 10 tháng 3 âm lịch nhân dân trong làng lại tề tựu về tại ngôi đình của làng để dâng lên các bậc tiền bối hữu công những nén nhang thơm nhất, những bó hoa tươi thắm cùng nhau nguyện cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, nhân dân ấm no hạnh phúc và thành đạt về mọi mặt. Trước đây thì lễ cúng do đại diện các chư phái tộc trong làng chăm lo và thành phần tham dự là những người trung niên và các cụ phụ lão còn phụ nữ và các cháu thiếu niên, nhi đồng hầu như không biết gì và cũng không được tham dự lễ cúng trừ 10 học trò lễ ở độ tuổi thanh niên trai tráng chưa lập gia đình, chỉ có một số người phụ nữ phục vụ công tác hậu cần thì mới có mặt ở buổi lễ nhưng không được bước chân vào trong đình đi khi đang làm lễ cúng. Đình làng Trung Nghĩa hiện nay được chia làm 3 gian ở gian giữa thờ thành hoàng bổn xứ, phía trước có bàn hội đồng, tả ban là nơi thờ tiền hiền của làng, hữu ban là nơi thờ hậu hiền của làng. Ngoài gia thì trong khuôn viên của đình làng còn có mộ tiền hiền, hậu hiền và miếu Bà Thiên Y – A – Na diễn phi chúa ngọc. Trong hơn mười năm năm qua kể từ lễ hội đầu tiên năm 1998 cho đến nay Hội đồng các chư phái tộc và nhân dân làng Trung Nghĩa tổ chức thành lễ hội truyền thống tạo nên không khí ấm áp, lành mạnh với hương sắc mới để
  • 15. 15 cho các thế hệ kế tiếp hướng về cội nguồn nhằm phát huy truyền thống giá trị nhân văn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và hàng năm coi đây là ngày lễ hội truyền thống của nhân dân làng Trung Nghĩa và việc làng đã trở thành việc chung của mọi người dân trong làng. Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Trong 13 năm qua lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt cả nội dung lẫn hình thức, đoàn kết xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng cái mới, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, yêu thương đùm bọc lấn nhau như nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCH Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đạm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Về việc tổ chức lễ hội đình làng: Do 5 ban phụ trách đó là Ban tổ chức, ban nghi lễ, ban trần thiết và ban đời sống. Trong đó Ban tổ chức lễ hội do tổ dân phố, hội đồng các chư phái tộc và nhân dân bầu ra. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa gồm 2 phần: phần lễ và phần hội được tổ chức trong vòng 3 ngày 08,09,10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong phần lễ bao gồm 3 lễ đó là lễ cầu an sở cô bác và lễ chánh kỵ tiền hiền và các bậc tiền bối hữu công trong làng Trung Nghĩa và cuối cùng là lễ cầu quốc thái dân an. Phần hội bao gồm các nội dung: sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao (giải việt dã, ẩm thực làng quê, thi xe đạp chậm, nhảy bao bố, thi giã gạo, giao hữu bóng đá và một số tiết mục văn nghệ chào mừng lễ hội như đồng diễn dưỡng sinh của câu lạc bộ người cao tuổi phường Hòa Minh…, có năm thì đoàn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh còn còn đến biểu diễn để phục vụ bà con). Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng như bất cứ một lễ hội truyền thống nào khác đó là lễ hội đình làng nơi đây là một thể thống nhất, một hệ thống bao gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ là nghi thức thờ cúng mang màu sắc tâm linh, các lễ vật và quy trình cúng tế gắn liền với
  • 16. 16 đặc thù của đối tượng thờ cúng. Chữ lễ ở đây mang hai ý nghĩa cơ bản là tế lễ và lễ giáo (lề thói ứng xử theo truyền thống, theo các quy phạm đạo đức đã được cộng đồng thừa nhận dựa trên lời dạy của thánh nhân). Nội dung của lễ là nhằm tưởng nhớ, tôn vinh những vị tiền hiền có công khai phá mở mang ruộng đất cho làng và cầu sự bảo trợ về thần quyền cho sự thịnh vượng, yên bình cho cộng đồng dân cư của làng. Phần lễ trong lễ hội đình làng Trung Nghĩa bao gồm các lễ: Lễ cầu an sở cô bác thực chất đây là lễ cúng những người chết đường chết chợ, những người chết vô gia cư, không nơi lương tựa. Đây là một phong tục đẹp thể hiện cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương chia sẻ của người sống với người đã chết những đồ cúng bao gồm gạo, muối hột, cháo , áo giấy, tiền vàng…. Lễ chánh kỵ tiền hiền và các bậc tiền bối hữu công làng Trung Nghĩa là một trong những nghi lễ chính của lễ hội đình làng Trung Nghĩa được diễn ra từ sáng sớm (05h đến 06h30 ngày 10 tháng 03 âm lịch). Lễ vật được sắm sửa đầy đủ, thịnh soạn kèm theo văn tế hội kỵ Lễ cầu quốc thái dân an đây là một nghi lễ quan trọng trong lễ hội đình làng Trung Nghĩa diễn ra lúc 10h sáng ngày 10 tháng 03 âm lịch. Trong không khí nghiêm trang. Nghi lễ này nhằm cầu cho đất nước thái bình, nhân dân an lạc, no ấm, hạnh phúc; mưa thuận gió hòa. Phần hội là phần mang tính sinh hoạt giải trí, làm sống lại các truyền thống sinh hoạt vui chơi đã từng ăn sâu vào lối sống của người dân. Có thể nói rằng phần hội thực sự là điểm thu hút khách và dân làng. Thông qua các trò chơi dân gian, văn nghệ, thể thao do ban tổ chức lễ hội đình làng tổ chức ra cho khách và người dân thi đấu kèm theo các thể thức của cuộc chơi, thi khác nhau. Giải thưởng thường mang tính ước lệ, không nặng lề về vật chất
  • 17. 17 mà đề cao danh dự, đề cao lòng nhiệt tình của những người tham dự cũng như cổ vũ trò chơi, phần hội mang tính cộng đồng và hiếu khách. 2.3. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng 2.3.1. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – một sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu Trong cuộc sống hiện đại ngày nay mặc dù các hình thức sinh hoạt văn hóa rất đa dạng và phong phú nhưng ngày hội làng vẫn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần nhân dân. Từ xa xưa, hội làng đã trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa dân gian, một món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân ở mọi vùng quê. Qua lễ hội đình làng cũng là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn. Với một tấm lòng thành kính, tôn nghiêm, mỗi người dân đều gửi gắm những tâm sự và mong ước của mình. Đó là mong ước về một cuộc sống ấm no hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, sức khỏe và trong công việc thì được thuận buồm xuôi gió. Có thể nói rằng ngày nay thì lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã trở thành một sinh hoạt văn hóa đều đặn đối với mỗi người dân làng Trung Nghĩa, vào ngày lễ hội của đình làng thì con cháu dù có làm ăn ở đâu, dù có bận thế nào thì mỗi người dân trong làng cũng bố chí thời gian để đến tham dự. Đã thành thông lệ sau một năm làm lụng vất vả, mùa xuân đến, ngày hội làng là dịp để cho mọi người được nghỉ ngơi và đoàn tụ gia đình, gặp gỡ vui chơi giao lưu với bà con làng xóm. Từ những người con được sinh ra ở làng quê thân yêu đã trưởng thành đi công tác trên khắp mọi miền đất nước, đến những người đang sống xa xôi nơi đất khách quê người… ngày hội làng cũng khát khao
  • 18. 18 được về cội nguồn, đứng giữa đình làng, thành kính thắp một nén hương tưởng niệm đến công ơn của các bậc tiền nhân. Qua lễ hội đình làng mỗi người dân đều rất thoải mái, vui vẻ, mọi người sẵn sàng đóng góp công sức, tài năng của mình tham gia vào các cuộc thi thố với nhau. Nhưng dù thắng hay thua thì mọi người cũng đều rất vui vẻ, giường như trong lễ hội đình làng thì bao gian lao vất vả trong cuộc sống thường ngày đều tan biến hết chỉ còn lại niềm vui, sự lạc quan trong mỗi người dân nơi đây. 2.3.2. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa – vẻ đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh thần và cố kết cộng đồng Có thể nói rằng trong xã hội hiện đại ngày nay, sự đô thị hóa đã diễn ra một cách nhanh chóng cùng với những ảnh hưởng, sự tác động từ bên ngoài đã làm cho con người có xu hướng định vị ngày càng rõ hơn về cái tôi của mình, những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngày càng phai mờ dần. Nhưng trong một vài năm gần đây được sự quan tâm của Đảng, nhà nước đã coi văn hóa là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thì nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng có điều kiện để phục dựng, khôi phục và phát triển trong đó có lễ hội nói chung và lễ hội ở đình làng nói riêng. Lễ hội thực chất là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của con người, gắn với con người như một điều tất yếu. Lễ hội cũng đáp ứng những nhu cầu tinh thần, tâm linh không thể thiếu của con người như trở về với tự nhiên, cội nguồn, là môi trường để người dân thể hiện sức mạnh cố kết cộng động. Nó mang giá trị bảo tồn văn hóa và truyền thống, là “bảo tàng sống” về văn hóa truyền thống của dân tộc. Xưa kia tổ chức đời sống ở mỗi làng của người Việt đều lấy cái đình làm trung tâm, làm nơi bàn bạc chia xuất ruộng cho các đinh tráng, nơi ban bố thuế khóa, nộp cho nhà nước của mỗi gia đình trong làng. Cái đình còn là trụ
  • 19. 19 sở hành chính của làng, nơi diễn ra các cuộc họp bầu bán hội đồng bô lão, kỳ mục, bầu bán các chức sắc…… Ngày nay mặc dù đình làng Trung Nghĩa không còn là trụ sở hành chính của làng nữa nhưng vai trò và ý nghĩa của ngôi đình đã ăn sâu vào trong tâm thức của mỗi người dân, ngôi đình làng chính là biểu tượng cho quê hương, ngôi nhà sinh hoạt chung của cả làng. Hàng năm cứ đến dịp lễ hội làng thì nhân dân làng Trung Nghĩa lại cùng nhau tụ họp lại để cùng nhau chuẩn bị cho lễ hội của làng, đây cũng là dịp để người dân quây quần bên nhau, cùng nhau hợp tác phối hợp với nhau thi thố tài năng qua các hoạt động văn nghệ, thể thao…, cùng nhau chia sẻ khó khăn và những kinh nghiệm trong cuộc sống. Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Trải qua 13 năm lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt cả về nội dung lẫn hình thức, đoàn kết để xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng cái mới, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa đã góp một phần quan trọng trong việc xóa bỏ những định kiến hẹp hòi, ích kỷ, khơi dậy tinh thần đồng tâm hiệp lực cùng nhau chung tay xây dựng xóm làng giàu mạnh, thân thiện, xây dựng mối đoàn kết gắn bó giữa các tộc họ trong làng, xóm và tổ dân phố. Người Việt từ hàng ngàn đời nay nói chung và dân làng Trung Nghĩa nói riêng có truyền thống “ uống nước nhớ nguồn” và lễ hội truyền thống của làng là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng liêng được định danh là những vị “ thần” những người có công đối với làng, nước. Có thể nói rằng hình tượng các vị thần linh, các bậc tiền hiền, hậu hiền đã tụ hội những phẩm chất cao đẹp của con người đó là những anh hùng
  • 20. 20 chống giặc ngoại xâm, những người có công với làng đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí của mỗi người dân nơi đây. Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ cho họ trong những mặt trong làm ăn, sức khỏe mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống. Chính tính “Thiêng” ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến. Chúng ta có thể khẳng định rằng lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước và các lễ hội truyền thống như lễ hội đình làng là sự tưởng nhớ, bày tỏ lòng chi ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng dân tộc. Đây cũng là dịp để con người trở về nguồn cội tự nhiên và hướng con người ta tới cái đẹp – cái chân thiện mỹ. 2.3.3. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa thể hiện truyền thống và đạo lý tốt đẹp của dân tộc Có thể nói rằng mỗi quốc gia, dân tộc đều có những đặc điểm riêng về lối sống, cách ứng xử và xu hướng hoạt động đặc trưng, chỉ có thể tìm thấy ở dân tộc này mà không thể tìm thấy ở dân tộc kia. Cái đó thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa đó được hình thành trong lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời, nó được đúc kết từ kinh nghiệm sống, bằng những truyền thống nhất định, được lưu giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ, cái đó được coi như một hằng số nhất định trong bề dày lịch sử của một dân tộc. Mỗi con người dù có đi đâu, dù có làm gì đi chăng nữa thì họ vẫn giữ, vẫn thể hiện ra trong từng hoạt động, từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói của mình.
  • 21. 21 Mặc dù người ta không nói ra rằng bản sắc văn hóa của dân tộc tôi là thế này, là thế kia, nhưng qua cử chỉ, hành động, lối sống và cách ứng xử của mỗi người ta dễ dàng nhận ra được cái bản sắc đấy. Có thể thấy rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng đã phần nào thể hiện một cách rõ nét truyền thống, bản sắc của con người Việt Nam nói chung và Trung Nghĩa nói tiêng. Trước hết lễ hội đình làng Trung Nghĩa được tổ chức đã thể hiện rõ đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, tưởng nhớ các bậc tiền bối hữu công đã có công lao khai hoang cỡ hóa lập nên làng Trung Nghĩa lưu lại đến ngày hôm nay. Đồng thời bên cạnh đó qua một số sinh hoạt văn hóa thể thao trong lễ hội cũng đã thể hiện rõ quan điểm của người dân nơi đây rằng dù xã hội có phát triển thế nào đi nữa, thì nhân dân làng Trung Nghĩa vẫn không quên được nguồn gốc, truyền thống của mình là xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước do vậy trong lễ hội đình làng ngày nay vẫn tổ chức cuộc thi giã gạo thể hiện rõ những công việc mà cha ông ta vẫn phải làm trong cuộc sống thường ngày để mới có được những hạt gạo, bát cơm dẻo thơm trắng ngần. Qua lễ hội đình làng cũng đã phần nào thể hiện rõ đạo lý, quan niệm về cái đẹp, cái chân thiện mỹ của người dân nơi đây cụ thể như: Các phong trào người tốt việc tốt, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, uống nước nhớ nguồn, phong trào tương thân tương ái, phong trào thể dục thể thao, phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng xóm văn hóa, phường văn hóa, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, Tộc họ văn hóa, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, xóa bỏ và loại trừ các tệ nạn xã hội… Bên cạnh đó để tăng cường tinh thần đoàn kết trong làng thì hội đồng các chư phái tộc đã gắn kết cùng với tộc họ thông qua cấp ủy, chính quyền nhằm không ngừng xây dựng họ tộc đoàn kết, lành mạnh trong sáng bằng những
  • 22. 22 hành động thiết thực, họ tộc gắn liền với tổ dân phố, phối hợp chặt chẽ trong việc cưới, việc tang, lễ hội…. nhờ đó mà các hủ tục lạc hậu đã dần được bãi bỏ mà thay vào đó là thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, tang lễ và lễ hội. Ban tổ chức lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng đã có những biện pháp động viên khích lệ tinh thần hiếu học của con cháu trong làng. Cụ thể như trong mỗi dịp lễ hội hàng năm thì hội đồng các chư phái tộc và Ban tổ chức đều phát thưởng cho các em học sinh giỏi, con nhà nghèo hiếu học, học sinh giỏi đạt giải cấp thành phố, quốc gia… mặc dù những phần thưởng của các em không lớn về giá trị vật chất nhưng nó lại là một món quà tinh thần có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các em, qua đó phần nào thể hiện sự quan tâm, động viên khích lệ tinh thần hiếu học của người dân trong làng đến thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa là một thực tiễn mang tính giáo dục các thế hệ đi sau về những giá trị văn hóa truyền thống, mang tính nhân văn về lịch sử dựng nước và giữ nước, về cội nguồn của làng nói riêng, cả dân tộc nói chung. Thông qua khía cạnh tâm linh, lễ hội có tính giáo dục rất lớn với mọi thế hệ, không phân biệt già trẻ, đó là những lời răn, những lời khuyên ngăn cản những hành vi phi đạo đức, đi ngược với lợi ích cộng đồng và lợi ích của dân tộc. Lễ hội còn là sự chứng thực về cội nguồn dân làng có ý nghĩa đoàn kết, gắn bó cộng đồng, làm cho mọi thành viên trong làng xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng qua lễ hội, qua các nghi thức tế lễ, vui chơi, hát hò…. Đã góp phần gắn kết tình cảm giữa các gia đình, họ tộc bà con làng xóm với nhau. Lễ hội cũng như một lời dăn dạy, giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tình cảm xóm làng, tình thương yêu trong gia đình, yêu những truyền thống, đạo lý tốt đẹp của cha ông nhằm góp phần xây dựng nên một làng Trung Nghĩa
  • 23. 23 giàu đẹp, văn minh nhưng mang đậm nét văn hóa truyền thống. Toàn bộ các phong trào, các hoạt động trong lễ hội đều hướng vào tinh thần thi đua yêu nước “Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. 2.4. Một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đình làng Trung Nghĩa Có thể nói rằng lễ hội đình làng Trung Nghĩa là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của người dân Trung nghĩa nói riêng và của cả dân tộc ta nói chung, lễ hội đình làng Trung Nghĩa cũng đã góp phần làm giàu và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nên chúng ta cần phải có những biện phát để bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của loại hình sinh hoạt văn hóa này. Qua quá trình điền dã và tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội đình làng Trung Nghĩa như: Thứ nhất: Phải đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông những quy định của pháp luật liên quan đến lễ hội truyền thống. Đổi mới công tác tuyên truyền phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt là phương thức giới thiệu, quảng bá trên hệ thống truyền thanh tại các lễ hội, các phương tiện thông tin đại chúng; cần nâng cao nhận thức của người dân về giá trị lịch sử, văn hoá của lễ hội truyền thống trong đời sống văn hoá tinh thần, từ đó có ý thức đề cao việc thực hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội, làm cho lễ hội làng Trung Nghĩa ngày càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương. Thứ hai: Quản lý chặt chẽ việc quy hoạch, sắp xếp các hoạt động, vui chơi giải trí hợp lý. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong
  • 24. 24 tổ chức lễ hội, tạo điều kiện để nhân dân địa phương tham gia dịch vụ, có thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hoá trong giao tiếp ứng xử, không vì khai thác nguồn lợi kinh tế mà làm sai lệch bản chất và nội dung, đánh mất bản sắc văn hoá và ý nghĩa tốt đẹp của lễ hội. Thứ ba: Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác nghiên cứu, sưu tầm và tiến hành quy hoạch nhằm quản lý và có kế hoạch bảo tồn, phục hồi và phát triển. Bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của lễ hội đình làng Trung Nghĩa nói tiêng và các lễ hội trên địa bàn Hòa Minh nói chung, đồng thời, loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu, phục hồi những trò chơi dân gian truyền thống, những lễ hội truyền thống phải dựa trên các tiêu chí khoa học để đảm bảo không làm sai lệch lễ hội. Xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa trên nền truyền thống, phù hợp đặc điểm văn hóa dân tộc, xu hướng phát triển và nhịp sống văn hoá của thời đại, làm cho lễ hội thêm sức sống mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Thứ tư: việc tổ chức lễ hội truyền thống phải tiến hành đúng quy định của Nhà nước, ngành và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời, phát huy vai trò chủ thể, năng lực sáng tạo của nhân dân. Chủ đề của lễ hội phải mang tính tư tưởng sâu sắc, nội dung nghệ thuật phù hợp, cô đọng và súc tích, hình thức thể hiện sinh động, tránh phô trương lãng phí. Kịch bản tổ chức lễ hội phù hợp, định hình các nghi thức lễ và hoạt động hội gắn với chủ đề riêng của lễ hội truyền thống. Các chương trình phục vụ lễ hội phải có sự tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể. Tổ chức lễ hội trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, khuyến khích các trò chơi dân gian truyền thống, tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng lành mạnh.
  • 25. 25 Thứ năm: Để lễ hội đình làng Trung Nghĩa thực sự trở thành “ngày hội của toàn dân làng Trung Nghĩa” tôi thiết nghĩ nên đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động trong lễ hội nhằm tăng cường sự tham gia một cách chủ động, sáng tạo của đông đảo nhân dân theo sự hướng dẫn, quản lý chung của cơ quan chức năng; khai thác những kinh nghiệm, các tập tục cổ truyền tốt đẹp, kiến thức về tổ chức lễ hội còn tiềm ẩn trong dân gian, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống, huy động nguồn lực của toàn dân và du khách. Bên cạnh đó nên kêu gọi, huy động sự chung tay đóng góp của các tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn để có thêm nguồn kinh phí để phục vụ các hoạt động của lễ hội sẽ được tốt hơn.
  • 26. 26 KẾT LUẬN Lễ hội là một nét đặc sắc trong đời sống cộng dồng của các dân tộc Việt Nam từ rất lâu đời và trường tồn cùng năm tháng, là dịp ca ngợi và tôn vinh các giá trị văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc, thông qua đó bồi đắp thêm bản lĩnh con người Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa còn là dịp để nhân dân bày tỏ những ước nguyện khát vọng của người dân nơi đây, đồng thời đây cũng là dịp để nhân dân quây quần bên nhau cùng tưởng nhớ về công ơn của các bậc tiền nhân đã khai phá, gây dựng nên nơi đây. Đứng trước những thành quả to lớn mà cha ông ta đã giày công xây dựng và giữ gìn, thế hệ trẻ chúng ta hôm nay cần nhận rõ trách nhiệm và xứ mệnh cao cảo của mình, đó là tiếp tục bảo tồn đồng thời cũng phải biết gạn lọc, dung hợp các yếu tố văn hóa mới góp phần xây dựng Trung Nghĩa thành làng văn hóa ngày càng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
  • 27. 27 III. ĐỀ XUẤT Qua những gì đã được học tại trường lớp và thực tập thực tế tại cơ quan tôi thấy mình đã trưởng thành nên rất nhiều, có thể nói rằng thực tập là một điều kiện rất tốt cho mỗi sinh viên tự chuẩn bị cho mình những kỹ năng, kiến thức cần thiết để khi ra trường bắt tay vào công việc mới khỏi bị bỡ ngỡ và hụt hẫng. Qua 4 năm học tại trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng tôi nhận thấy rằng: Đây là một ngôi trường có đội ngũ giảng viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, tuy nhiên với chuyên ngành văn hóa học đây là một chuyên ngành mới đòi hỏi sinh viên khi ra trường phải có tầm hiểu biết rộng và phải nắm thật chắc các kiến thức chuyên môn, nhưng thực tế phải nói rằng nhà trường vẫn chưa chú trọng lắm đến chuyên ngành mới mẻ này, đội ngũ giáo viên giảng dạy thì lại thiếu dẫn đến tình trạng không ổn định trong công tác học tập của sinh viên, bên cạnh đó thì các tài liệu phục vụ công tác học tập cho chuyên ngành thì lại rất ít. Vì vậy kính mong Ban chủ nhiệm khoa phòng đào tạo và Ban giám hiệu nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến ngành học mới này và cũng nên trang bị thêm một số đầu sách cho chuyên ngành này trên thư viện để sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn. Tôi thiết nghĩ rằng có một số học phần nhà trường, phòng đào tạo cũng như Ban chủ nhiệm khoa nên tạo điều kiện để sinh viên vừa học tập trên lớp kết hợp với thực tế, thực địa môn học đó có như vậy thì mới mang lại hiệu quả tốt hơn. Bên cạnh đó nhà trường , phòng đào tạo và Ban chủ nhiệm khoa cũng cần phải xác định rõ hơn kế hoạch, khung chương trình đào tạo để sinh viên nắm rõ hơn, hiểu hơn về lĩnh vực, chuyên ngành mình theo học và công việc mình sẽ phải làm khi ra trường để từ đó sinh viên sẽ không bị động trong công tác học tập và có những định hướng cụ thể trong công tác học tập của mình có như vậy thì việc học tập mới đạt được kết quả tốt hơn. Đặc biệt Ban chủ nhiệm khoa cũng nên phối hợp với các cơ quan tổ chức trong và ngoài trường mở các câu lạc bộ
  • 28. 28 chẳng hạn như câu lạc bộ văn hóa để sinh viên tham gia như vậy sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho sinh viên tự hoàn thiện và phát triển đam mê, cũng như khả năng của bản thân mình.
  • 29. 29 NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... Đà Nẵng, ngày……… Tháng …… năm 2012
  • 30. 30 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... Đà Nẵng, ngày……… Tháng …… năm 2012 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN