Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ triết học: Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ, cho các bạn tham khảo
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ PHÚ DƯỠNG
TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG NHO, PHẬT, ĐẠO
CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN
VÀ NGUYỄN DỮ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2018
2. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ PHÚ DƯỠNG
TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG NHO, PHẬT, ĐẠO
CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN
VÀ NGUYỄN DỮ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9.22.90.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
Hà Nội - 2018
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học được trình bày trong luận án chưa từng được công
bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Phú Dưỡng
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ................ 5
1.1. Các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và mối quan hệ giữa
Nho, Phật, Đạo................................................................................................... 5
1.2. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ dung thông giữa Nho, Phật,
Đạo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ14
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông giữa Nho, Phật,
Đạo trong di sản tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm ............................................ 14
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo
trong di sản tư tưởng của Phùng Khắc Khoan .............................................. 27
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo
trong di sản tư tưởng của Nguyễn Dữ ............................................................ 31
1.3. Khái quát những thành tựu và hạn chế của các công trình đã được
khảo cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án ............................................. 36
Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM
GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ
NGUYỄN DỮ .................................................................................................. 39
2.1. Khái niệm về tam giáo và dung thông tam giáo.................................... 39
2.1.1. Khái niệm “tam giáo” ............................................................................ 39
2.1.2. Khái niệm về dung thông tam giáo........................................................ 40
2.2. Những điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung
thông tam giáo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn
Dữ...................................................................................................................... 46
5. 2.2.1. Bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa
Đại Việt thế kỷ XVI .......................................................................................... 46
2.2.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam
giáo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ ................. 50
2.2.2.1. Sự du nhập của tam giáo vào Việt Nam ............................................ 50
2.2.2.2. Mối quan hệ tam giáo ở Việt Nam trước thế kỷ XVI ........................ 58
Chương 3. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG
TAM GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN
VÀ NGUYỄN DỮ............................................................................................ 80
3.1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan và Nguyễn Dữ............................................................................ 80
3.1.1. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm ................................. 80
3.1.2. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Phùng Khắc Khoan .................. 84
3.1.3.Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Dữ ................................. 86
3.2. Thế giới quan trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.................................................. 88
3.2.1. Quan niệm về “đạo trời”........................................................................ 88
3.2.2. Quan niệm về “đạo người”.................................................................... 95
3.3. Nhân sinh quan trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ....................................... 100
3.3.1. Nguyên tắc ứng xử của đạo làm người trong tư tưởng của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ......................................... 100
3.3.2. Triết lý nhàn dật trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan và Nguyễn Dữ........................................................................... 108
6. 3.4. Một số đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ ........................ 118
3.4.1. Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan và Nguyễn Dữ là sự phản ánh nhu cầu thời đại về các
phương diện cơ bản của đời sống tinh thần xã hội...................................... 118
3.4.2. Tư tưởng dung thông tam giáo của Phùng Khắc Khoan và Nguyễn
Dữ là sự kế thừa và phát triển một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng
dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm ............................................ 123
Chương 4. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CHỦ YẾU TRONG TƯ
TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM,
PHÙNG KHẮC KHOAN, NGUYỄN DỮ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
NÓ................................................................................................................... 132
4.1. Những giá trị chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ ........................ 132
4.2. Những hạn chế chủ yếu của tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ ........................ 137
4.3. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dung thông tam giáo Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ................................................ 145
KẾT LUẬN.................................................................................................... 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 153
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) là ba học thuyết có nguồn gốc từ Trung Quốc và
Ấn Độ, được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm. Trong suốt chiều dài lịch sử của
dân tộc Việt Nam, các tôn giáo này không chỉ có sự tiếp biến với nhau mà còn với
các yếu tố bản địa để hình thành nên các tư tưởng triết học, chính trị - xã hội và đạo
đức của Việt Nam. Tuy các học thuyết trên có vị thế khác nhau trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể, song chính quá trình tiếp biến nói trên đã tạo nên mối quan hệ tam
giáo với tính chất không đồng nhất với mối quan hệ tam giáo ở Trung Quốc và các
nước đồng văn khác của khu vực.
Từ trước tới nay, giới nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam đã bàn nhiều đến
các vấn đề về mối quan hệ tam giáo. Có người khẳng định cho rằng, tam giáo luôn bổ
sung cho nhau, tạo nên xu hướng tam giáo thống nhất; số khác cho rằng, tam giáo xét
cho cùng về phương diện đạo đức, là cùng chung nguồn gốc và tâm thế, họ dùng cụm
từ Tam giáo đồng nguyên (cùng nguồn gốc); số thứ ba cho rằng, trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam có hiện tượng Tam giáo hòa đồng, Tam giáo hội nhập, bởi lẽ ở ba
học thuyết ấy có một mục đích và nhiệm vụ chung trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến đời sống tôn giáo phức tạp, nếu thiếu sự hòa đồng và hội nhập sẽ dẫn
đến những hậu quả khôn lường như xung đột tư tưởng, tín nhiệm, v.v..
Thế kỷ XVI mở ra một giai đoạn lịch sử hết sức phức tạp với sự suy yếu của
nhà Lê Sơ, dẫn đến tình trạng chiến tranh và cát cứ. Tư tưởng đức trị, thống nhất của
Nho giáo Khổng Mạnh trở nên có vấn đề khi trải qua một thế kỷ trị vì của nhà Lê Sơ
lấy Nho giáo làm bệ đỡ hệ tư tưởng bị nhà Mạc lật đổ và kế theo đó là diễn biến trong
ba thế kỷ khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Để có đủ cơ sở lý giải thời
cuộc mà không phải lấy học thuyết duy nhất theo quan điểm chính thống là Nho giáo,
các nhà tư tưởng, mà chủ yếu là nho sĩ đã tìm đến Phật và Đạo, làm xuất hiện xu
hướng mới trong quan hệ tam giáo. Tiêu biểu cho xu hướng này là Nguyễn Bình
Khiêm, Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan.
8. 2
Vào cuối thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức Trạng Trình
đã viết Bài minh về tượng tam giáo ở chùa Cao Dương, huyện Thụy Anh (Thái
Bình) rằng: “... đạo Phật gốc ở chỗ làm sáng cái sắc tướng và cái tâm, biện biệt
nhân và quả; đạo Lão thì gốc ở chỗ chuyên vào một khí để đạt đến cùng của cái
nhu, nắm cái duy nhất giữ bản chân; đạo của thánh Khổng thì gốc ở đạo đức, nhân
nghĩa, văn chương, đức hạnh, trung tín, thảy đều là đạo noi theo tính để mà tu đạo
vậy”[95, tr.1468].
Đoạn văn trên cho chúng ta thấy Trạng Trình nói về tâm thế hướng thiện của
mình là nhất quán. Song thời thế lúc bấy giờ làm cho ông không thể giới hạn tâm
thế đó ở Nho giáo và Nho học, mà cần phải mở rộng ra bằng việc tìm hiểu, bổ sung
ở Phật giáo và Đạo giáo, tuy nội dung có nhiều điểm khác căn bản so với học thuyết
Nho giáo. Điều này được ông bộc bạch trong di sản tư tưởng của mình qua tập thơ
chữ Hán Bạch Vân am thi tập và chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
Là nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị, ông còn là nhà giáo từng đào tạo ra
những người hoạt động nhà nước như Giác Hải, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu
Khánh, v.v.. Tư tưởng của ông về dung thông tam giáo đã ảnh hưởng đến các học
trò của mình, tuy ở mỗi người có sự thể hiện ở mức độ khác nhau, song việc nghiên
cứu để tìm ra nét đặc trưng riêng trong tư tưởng của thầy trò sông Hàn thế kỷ XVI.
Xuất phát từ nhận thức chung về giá trị truyền thống trong điều kiện phát
triển đất nước ta hiện nay, chúng tôi thấy rằng, việc tìm hiểu và trình bày một cách
có hệ thống các quan điểm trong Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ việc làm mang tính cấp
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đó cũng chính là đề tài chúng tôi lựa chọn cho
luận án tiến sĩ triết học của mình với nguyện vọng góp phần mình vào việc nghiên
cứu di sản tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án:
Luận án phân tích một cách có hệ thống các quan điểm về dung thông Nho,
Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn
9. 3
Dữ; làm rõ những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dung thông Nho,
Phật, Đạo Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và các
công trình nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
Thứ hai, trình bày khái quát về quá trình du nhập và phát triển của Nho,
Phật, Đạo và sự dung thông Nho, Phật, Đạo trong các giai đoạn trước thế kỷ XVI.
Thứ ba, luận án làm rõ những những quan điểm về dung thông tam giáo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. Làm rõ một số đặc điểm
chủ yếu của dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
Thứ tư, luận án bước đầu nêu những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử về
quan điểm dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu là các quan điểm dung thông Nho, Phật, Đạo
trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời luận án cũng dựa trên
những nghiên cứu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về lịch sử Triết học
nói chung và lịch sử Triết học phương Đông nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Người viết quán triệt những nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa
Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp logic kết hợp với phương pháp
lịch sử, phân tích và tổng hợp, v.v., trong quá trình thực hiện luận án.
10. 4
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án phân tích các mối quan hệ tam giáo (Nho, Phật, Đạo) trước thế kỷ
XVI, trên cơ sở đó đưa ra nhận định về những đặc điểm của các mối quan hệ tam
giáo mang tính dung thông trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
Khoan và Nguyễn Dữ. Quan điểm về dung thông của tam giáo được thể hiện trong
tư tưởng của họ bị qui định bởi các yếu tố thời đại và ảnh hưởng của sự phát triển tư
tưởng triết học, chính trị - xã hội phương Đông đương thời.
- Luận án bước đầu làm rõ được những giá trị cũng như hạn chế và ý nghĩa
lịch sử của tư tưởng dung thông tam giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan
và Nguyễn Dữ; xây dựng sơ bộ bức tranh tư tưởng và giúp người đọc có cách nhìn
toàn diện hơn về tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn
Dữ nói riêng và lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho giới khoa học xã hội và nhân
văn nói chung, Tôn giáo học nói riêng; trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam nói
chung và lịch sử tư tưởng triết học thế kỷ XVI nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án và kết quả nghiên cứu của nó có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy môn lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói chung, tư
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 12 tiết.
11. 5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba học thuyết có sức lan tỏa và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của nhiều nước trong khu vực Đông Á và Đông
Nam Á, trong đó có nước ta. Các học thuyết này đã trải qua một quá trình tiếp biến
lâu dài trong lịch sử nước ta, hình thành nên các mối quan hệ khác nhau tùy thuộc
vào điều kiện văn hóa bản địa và lịch sử cụ thể. Đó là mối quan hệ đồng nguyên,
thống nhất, hòa đồng, hội nhập, v.v.. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
chúng tôi chú trọng đến những công trình liên quan đến tư tưởng chính trị - xã hội
của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước thế kỷ XVI;
mối quan hệ theo hướng dung thông tam giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII. Trên cơ sở
đó, luận án tiếp tục làm rõ những vấn đề còn bỏ ngỏ về mối quan hệ dung thông tam
giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.
1.1. Các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và mối quan hệ giữa
Nho, Phật, Đạo
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo
Nghiên cứu về tam giáo (Nho, Phật, Đạo) đã có nhiều tác giả với nhiều công
trình nghiên cứu về ba tôn giáo này. Tiêu biểu như cuốn sách Học thuyết chính trị -
xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, và bài Quan niệm của Nho
giáo về xã hội lý tưởng trên Tạp chí Triết học số 3, 3/2001, bài Tư tưởng về đạo trị
nước ở các nhà nho Việt Nam, trên Tạp chí Triết học số 1(188), 1/2007 của Nguyễn
Thanh Bình đã đề cập tới một số tư tưởng của Nho giáo về chính trị - xã hội, trong
đó tác giả cũng đã trình bày những đặc trưng của xã hội lý tưởng một cách khái quát
với ý nghĩa là một nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo.
Trong công trình Nho giáo xưa và nay của tác giả Quang Đạm đã có nhiều
bài viết bàn đến những nội dung liên quan đến cách tiếp cận các giá trị của Nho
giáo và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam. Các tác giả đã thể hiện được cách nhìn
nhận đánh giá đa chiều về những mặt tích cực và tiêu cực của Nho giáo với xã hội
12. 6
hiện tại nói chung và sự phát triển của Việt Nam nói riêng. Các công trình tiêu biểu
như cuốn Nho giáo và kinh tế của Trần Đình Hượu, Nho giáo của Trần Trọng Kim,
Từ phê phán đến khẳng định ở Trung Quốc gần đây của Trần Lê Sáng, Nho giáo và
văn hóa Việt Nam của Trần Quốc Vượng.
Trong cuốn sách Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, bài Về giá trị đương đại
của Nho giáo Việt Nam, bài Những vấn đề Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam của Vũ Khiêu đã đưa ra nhận định khá thuyết phục về những bài học kinh
nghiệm của các nước được coi là con rồng của châu Á từng vận dụng Nho giáo
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo.
Trong các công trình này tác giả đã nhấn mạnh vào những giá trị của Nho giáo
trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hóa. Những bài học từ tư tưởng trị
nước của Nho giáo và giá trị đạo đức Nho giáo có ý nghĩa lớn đối với công cuộc
xây dựng xã hội mới hiện nay. Ngoài các công trình kể trên còn có các công trình
về Nho giáo của các tác giả khác như Bàn về đạo Nho của Nguyễn Khắc Viện, Nho
giáo và văn học Việt Nam trung cận đại với Các bài giảng về tư tưởng phương
Đông của Trần Đình Huợu, Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy,
Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam của Phan Đại Doãn, Nho học và Nho học ở
Việt Nam của Nguyễn Tài Thư; Tìm hiểu tư tưởng của Nho giáo trên trên Tạp chí
Triết học số 12, năm 2002 của Minh Anh; Tư tưởng lễ và chính danh của Nho giáo
trên Tạp chí Triết học số 5, 2003 của Ngọc Anh; Mấy vấn đề Nho giáo Việt Nam thế
kỷ XVI và XVII, Tạp chí Triết học số 9 (184)/2006 của Nguyễn Đức Sự; Thế giới
quan triết học của các nhà nho trong xã hội phong kiến Việt Nam, Tạp chí Triết
học, số 2 (237), 2/2011 của Phạm Thị Loan; Góp phần tìm hiểu Khổng giáo ở Việt
Nam, Nghiên cứu tôn giáo số 11(137), 2014 của Lê Quốc Tuấn; Sự phát triển của
tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ đầu công nguyên đến cuối thế kỷ XIV, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) năm 2015 của Nguyễn Hoài Văn. Điểm
chung của các công trình này là tập trung bàn về vai trò của Nho giáo trong đời
sống chính trị - xã hội Việt Nam trong lịch sử với tư cách là bệ đỡ hệ tư tưởng cho
các triều đại phong kiến, đồng thời chỉ ra những giá trị và hạn chế của nó trong
đường lối trị nước an dân trong lịch sử.
13. 7
Các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam như công trình Phật giáo
Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XVIII của Trần Văn Giáp, do Tuệ Sỹ dịch, Nxb
Ban tu thư viện Đại học Vạn Hạnh, 1968. Công trình này tác giả đã dựa trên những
tài liệu của những người đi trước để trình bày một cách toàn bộ về Phật giáo Việt
Nam từ thuở xưa. Trong phần 1, tác giả nói về những điểm thuộc về khởi nguyên
của đạo Phật tại Việt Nam. Phần 2 tường thuật sự tích của một vài nhà chiêm bái,
viết theo hồi ký của Nghĩa Tịnh, những nhà chiêm bái này gốc Trung Hoa hay
Trung Á đã dừng chân trên đất Bắc Kỳ. Họ đã từng lãnh sứ mạng truyền bá Phật
giáo và đi thỉnh kinh tại Ấn Độ.
Công trình Việt Nam Phật giáo sử lược của Hòa Thượng Mật Thể, do Nxb
Tôn Giáo, năm 1970. Trong công trình này tác giả khi viết về Phật giáo đã chia làm
hai phần: phần Tự luận và phần Lịch sử. Phần Tự luận chia làm bốn chương,
phần Lịch sử chia làm mười chương. Trong phần Tự luận, tác giả đã điểm qua đôi
nét về nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Theo tác giả thì Phật
giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và sang Việt Nam nên chúng
ta cần phải nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc.
Cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (thiền sư Thích Nhất
hạnh), tập 1 của bộ sách do Nxb La Bối, Sài Gòn in vào năm 1973, tập 2 vào năm
1978. Tác giả đã trình bày một cách uyển chuyển: kết hợp giữa viết sử và bình luận
lịch sử; giữa xây dựng các mốc biên niên sử truyền giáo (bao gồm thế thứ các tông
phái) và lần tìm ra sợi dây thống nhất bên trong kết nối các mốc biên niên sử ấy lại, qua
đó tạo thành dáng nét riêng, là linh hồn, bản sắc của Phật giáo Việt Nam; giữa nghiên
cứu tiểu sử các nhà tu hành và đi sâu tìm hiểu tính cách con người, tư tưởng, thơ ca của
họ, v.v.. Trong công trình này, tác giả còn trình bày một cách cặn kẽ về Phật giáo Việt
Nam - một thực thể tinh thần đã tồn tại hàng nghìn năm, không phải với tư cách một
tôn giáo ngoại nhập, mà đã được bản địa hóa từ rất lâu, và vẫn được thường xuyên bản
địa hóa, để trở thành một phần tâm linh dân tộc; không phải chỉ là một tôn giáo đơn
thuần mà cao hơn hẳn thế, còn là một thành tố trọng yếu của văn hóa, tư tưởng; và
không phải là một thành tố rời rạc, phiến đoạn, mà luôn luôn hiện diện như một hệ
thống có sức vận động và phát triển tự thân trong suốt tiến trình lịch sử.
14. 8
Tác giả Nguyễn Tài Thư trong các công trình nghiên cứu do ông chủ biên
như Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, năm 1988 và công trình
Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1997. Các khái niệm từ, bi, hỷ, xả và các giá
trị tư tưởng của Phật giáo đã được các tác giả đề cập khi viết về Phật giáo với tư
tưởng của con người Việt Nam. Nguyễn Hùng Hậu, trong cuốn Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam, tập 1, do Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, đã khái quát và
làm rõ những nét cơ bản về quá trình du nhập vào Việt Nam cũng như ảnh hưởng
của nó đối với đời sống tinh thần dân tộc ta.
Nghiên cứu về Phật giáo còn có cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến thời Lý Nam Đế, tập 1 và tập 2 Từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông
(1054) của tác giả Lê Mạnh Thát, do Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003.
Trong đó tác giả đã chia lịch sử Phật giáo Việt Nam ra làm năm thời kỳ lớn: Thời
kỳ thứ nhất, từ khởi nguyên cho đến khi Lý Bôn xưng đế lập nên Nhà nước Vạn
Xuân. Thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ lúc dòng thiền Pháp Vân ra đời cho đến thời vua
Lý Thái Tông. Thời kỳ thứ ba, từ thời vua Lý Thánh Tông đến vua Trần Thánh
Tông. Thời kỳ thứ tư, từ vua Trần Nhân Tông đến chúa Nguyễn Phúc Ánh. Thời kỳ
thứ năm, từ chúa Nguyễn Phúc Ánh đến khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945. Mỗi
một thời kỳ có một nét đặc trưng và một quá trình phát triển tất yếu của nó.
Ngoài các công trình nghiên cứu về Phật giáo nói trên còn có các bài viết
về Phật giáo đăng trên các tạp chí như: bài Tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo
trong hệ thống tôn giáo Việt Nam của Nguyễn Tất Đạt trên Nghiên cứu tôn giáo số
3 năm 2008 đã nêu ba đặc điểm của Phật giáo Việt Nam: một là, Phật giáo du nhập
vào Việt Nam rất sớm bằng con đường giao lưu thương mại hòa bình; hai là, Phật
giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc;
ba là, Phật giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hình thành các tôn giáo nội
sinh ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các công trình của các tác giả như Thế giới quan,
nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh hưởng của nó tới xã hội Việt Nam, của Mai
Xuân Hội; cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam và cuốn Đại cương
triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu; Ảnh hưởng của đạo đức
15. 9
phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam, luận án tiến sĩ triết học của Tạ
Chí Hồng; Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến lối sống con người
Việt Nam của Nguyễn Minh Nhựt; Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam, của Phạm Văn
Sinh; Ảnh hưởng của những tư tưởng Triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh
thần dân tộc Việt Nam, của Lê Hữu Tuấn; cuốn Lịch sử triết học phương Đông của
Nguyễn Đăng Thục. Các công trình này tập trung phân tích ảnh hưởng của Phật giáo
đến đời sống văn hóa tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử, chỉ ra những mặt
tích cực cũng như hạn chế của sự ảnh hưởng đó trong đời sống đương đại.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nho, Phật, Đạo
Trên các tạp chí Triết học, Sử học, Nghiên cứu Hán Nôm, Văn hóa nghệ
thuật, v.v., cũng đã có những bài Phật giáo trong lịch Việt Nam trên Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 162 năm 1975, của Văn Tân; bài viết nói về tam giáo Nho, Phật, Đạo
như bài Hệ tư tưởng Lý trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 năm 1986, Nguyễn
Duy Hinh; bài Về xu hướng Tam giáo đồng nguyên trong Trúc lâm tông chỉ nguyên
thanh trên Tạp chí Triết học số 4 năm 1986 của Trần Ðình Hượu; bài Phật
giáo và thế giới quan người Việt trong lịch sử trên Tạp chí Nghiên cứu triết học, số
2 năm 1986, của Nguyễn Tài Thư; bài Hệ tư tưởng thời Lê và vai trò của nó trong
quản lý xã hội trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 306, tháng 12 năm 2009 của Lê
Thị Tuyết; bài Lý hoặc luận - cuộc đụng độ đầu tiên giữa Nho, Phật, Lão ở Giao
Châu dưới chính quyền Sĩ Nhiếp trên Tạp chí Triết học, số 2, 1992, của Nguyễn
Hùng Hậu; bài Vua Lê Thánh Tông với Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Tạp chí
Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 2/1993 của Trần Thị Tâm Đan; bài Ảnh hưởng
tam giáo trong tư tưởng trị nước của Vua Lê Thánh Tông của Trần Thị Châm trên
tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 năm 2011; bài Phật giáo và Khoa học trên báo
chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 trên Tạp chí khoa học xã hội số 1(173) năm
2013 của Nguyễn Thị Thảo, v.v.. Tiêu biểu là các bài như trong bài Tam giáo đồng
nguyên - hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, của Nguyễn Tài Thư
trên tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 1999. Tác giả có viết: Hiện tượng “Tam giáo đồng
nguyên” có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử. Tùy theo mỗi người, mỗi lúc mà
gọi là “Tam giáo đồng nguyên”, “Tam giáo nhất thể”, “Tam giáo nhất trí”, “Tam
16. 10
giáo đỉnh lập”, “Tam giáo quy nhất”, “Hội tam quy nhất”, “Tam giáo nhất gia”,
“Tam giáo nhất nguyên”, “Tam giáo dung hợp”, v.v.. Mỗi tên gọi trên đều có một ý
nghĩa riêng nhất định, nhưng về cơ bản là giống nhau trong quan niệm. Ngoài ra tác
giả Nguyễn Tài Thư còn có bài Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trên Tạp chí Triết học số 01 năm 1982.
Tác giả Nguyễn Công Lý có bài Tinh thần dung hợp tư tưởng Phật - Lão -
Nho trong văn học Phật giáo thời Lý - Trần, trên tạp chí Hán Nôm số 2(51) năm
2002, tác giả viết: các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân
chủ và sống phóng khoáng nên từ đầu khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết
tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến
chúng thành cái của mình, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, phục
vụ cho mình. Sự kết hợp giữa Phật và Thánh (Nho), hay là sự kết hợp giữa Phật với
Lão – Trang một cách uyển chuyển để đi đến sự thống nhất Tam giáo đồng nguyên.
Bài Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế
kỷ XIX) của Doãn Chính và Nguyễn Sinh Kế trên tạp chí Triết học, số 9 (160), tháng
9 năm 2004. Các tác giả đã đưa ra một số nhận định về quá trình du nhập của Nho
giáo vào Việt Nam: một là, du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên, song phải trải
qua một thời gian khá dài, Nho giáo mới bén rễ được vào đời sống chính trị và tinh
thần của xã hội; hai là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam là Hán Nho và Tống Nho,
khi du nhập vào Việt Nam nó đã được cải biến cho phù hợp với truyền thống của dân
tộc cũng như nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của chính trong nền văn hóa
và hệ tư tưởng chính thống ở Việt Nam; ba là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam trong
sự phát triển đồng hành, tác động qua lại với Phật giáo và Đạo giáo.
Tiếp tục quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” của Nguyễn Tài Thư, trong bài
Lại bàn về tam giáo đồng nguyên, trên tạp chí Hán Nôm số 5(66) năm 2004, của Lê
Văn Quán cho rằng người truyền bá tư tưởng “Tam giáo nhất chí” ở Giao Châu là
Mâu Tử, trước tác của ông có Lý hoặc luận. Ông cho rằng Chân nhân của Đạo giáo
và Tam hoàng Ngũ đế của Nho gia cùng phối với nhau, giáo nghĩa của Phật giáo
cũng có chỗ chung với học thuyết Nho, Đạo.
17. 11
Bài Về mối quan hệ tam giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi của Trần Nguyên
Việt trên tạp chí Triết học, số 7 (170), tháng 7 năm 2005. Tác giả viết Nguyễn Trãi
xuất thân từ truyền thống Nho học, thấm nhuần sâu sắc đạo thánh hiền nhưng đến
một thời điểm nào đó, Nguyễn Trãi đã tìm đến Phật giáo và Đạo giáo để mở rộng và
làm sâu sắc thêm suy nghĩ của mình. Điều này là do trong mỗi học thuyết (Nho
giáo, Phật giáo, Đạo giáo) có những yếu tố bổ sung cho nhau và đều chứa đựng
những giá trị mang tính phổ quát.
Trong Nghiên cứu tôn giáo số 11 năm 2007, Hà Thúc Minh có bài “Tam
giáo thời Lý – Trần”, trong đó tác giả có viết: Thời Lý – Trần không phải chỉ có
Phật giáo, Đạo giáo mà ngay cả Nho giáo không ít thì nhiều đều có tính tôn giáo và
đều trở thành cái gọi là Tam giáo đồng nguyên nhưng nhiều lắm cũng chỉ là cánh
tay phải của vương quyền mà thôi.
Tác giả Lê Thị Tuyết có bài Hệ tư tưởng thời Lê và vai trò của nó trong
quản lý xã hội trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 306, tháng 12-2009 nhận định
trong thời kỳ nhà Lê Sơ (1428-1527), Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính
thống của vương triều và phổ cập trong đại bộ phận dân cư làng xã. Thời kỳ đầu sự
độc tôn của Nho giáo đã làm cho tôn giáo này trở thành công cụ trị nước quan trọng
của chính quyền phong kiến thời Lê Sơ. Tuy nhiên hệ tư tưởng chuyên chế này trở
nên lỏng lẻo, tạo cho các hệ tư tưởng khác có điều kiện phục hồi trong giai đoạn Lê
- Mạc, Lê Trung Hưng. Sau một trăm năm, nhà nước Lê Sơ thực hiện chủ trương
“dương Nho, ức Phật”, thì từ thế kỷ XVI đến XVIII Phật giáo đã được chấn hưng
trở lại, đạo Lão được tầng lớp dân chúng quan tâm phụng thờ. Đặc điểm nổi bật của
hệ tư tưởng thời Lê mạt là Tam giáo đồng nguyên.
Bài Mối quan hệ tam giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quốc gia độc
lập thời Lý – Trần của Bùi Thanh Phương trên tạp chí Triết học, số 1 (212), tháng 1
năm 2009. Theo tác giả, thì Nhà nước phong kiến thời kỳ này đã sử dụng và khuyến
khích phát triển cả Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo; thời kỳ này tam giáo (Nho,
Phật, Đạo) không chỉ ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, mà chúng còn cạnh tranh với
nhau để giành vị trí hàng đầu.
18. 12
Bài Biện chứng của tư tưởng dung hoà trong văn hoá - tôn giáo Việt Nam:
lịch sử và hiện tại trên tạp chí Triết học, số 2 (177), tháng 2 năm 2006 và bài Vua
Lý Nhân Tông với Tam giáo, trên Tạp chí Triết học, số 10 (233), tháng 10/2010 của
Lê Thị Lan. Tác giả đã nhấn mạnh tư tưởng dung hoà (hoà hợp với tự nhiên; dung
hoà với xã hội; dung hoà với con người) và coi đó như là một nguyên tắc tồn tại
của người Việt Nam, nguyên tắc này đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử và
ngày nay theo tiến trình phát triển của dân tộc thì nó càng được bổ sung thêm nhiều
nội dung mới. Trong suốt thời kỳ lịch sử cổ - trung đại Việt Nam, và trong thời kỳ
cận - hiện đại, khi được bổ sung thêm những giá trị nhân văn mới mẻ, tiến bộ của
phương Tây. Tư tưởng dung hoà này đã vận động và tạo ra một diện mạo văn hoá
Việt, làm nên một tổng thể các yếu tố văn hoá - tôn giáo (Nho, Đạo, Phật) và các
yếu tố bản địa.
Trong bài Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học
Việt Nam thời Bắc thuộc, trên tạp chí Hán Nôm, Số 1-2005, tác giả Trần Nghĩa
cũng đề cập tới các vấn đề như Nho học Trung Quốc truyền vào Việt Nam từ lúc
nào? Tính chất của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc; Vai trò của Nho học Việt
Nam thời Bắc thuộc. Ngoài ra tác giả Trần Nghĩa còn có bài: Quá trình hội nhập
Nho - Phật - Lão hay sự hình thành tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam,
trên Tạp chí Triết học, số 1 (244), tháng 1 năm 2010, trong đó có viết: Nho – Phật –
Lão hội nhập là hiện tượng tư tưởng chung ở các nước Đông Á thời Trung đại. Bài
viết này khảo cứu quá trình hội nhập Nho – Phật – Lão hay sự hình thành tư
tưởng “tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam. Đây là một quá trình gồm ba bước:
một là, tam giáo đỉnh lập; hai là, tam giáo dung hợp; và ba là, tam giáo đồng
nguyên. Chính việc tam giáo “cầu đồng tồn dị” để xích lại gần nhau trong tiến trình
lịch sử của chúng đã kết thành một mạng lưới tạo nên sức mạnh vì mục đích nhân
văn, vì cuộc sống con người.
Hoàng Ngọc Hiến có bài Tìm hiểu minh triết tam giáo trong văn hóa Việt
Nam trên Tạp chí sông Hương, số 253 tháng 3 năm 2010, có viết: Tâm thế “xuất
nhập” thoải mái trong tam giáo là điều đáng suy nghĩ có liên quan đến tín ngưỡng,
đức tin của người Việt. Phải chăng ngay trong đức tin người Việt cũng thích sự
19. 13
thoải mái, tránh những gì quá căng thẳng, gò bó. Có ý thức về “tính đồng nguyên”
(chung một nguồn) của “tam giáo” tạo ra tâm thế “xuất nhập” thoải mái trong “tam
giáo”. Tâm thế này tạo ra tinh thần khoan hòa trong đời sống tôn giáo của xã hội, từ
cầu trường này không thể không ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tinh thần của xã
hội. Tinh thần khoan hòa là một đức hạnh căn cốt của minh triết.
Tác giả Trần Nguyên Việt trong bài Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và
sự thể hiện của nó ở Nguyễn Trãi, trên tạp chí Triết học số 2 (237), năm 2011, có
viết: nội dung căn bản của khoan dung trong tư tưởng Khổng Tử là trung thứ, thì ở
Nguyễn Trãi, đạo lý nhân nghĩa đóng vai trò chủ đạo trong việc trừ bạo an dân.
Trong bài Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên trong truyền thống văn
hóa Việt Nam của Nguyễn Tài Đông trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5
(66) năm 2013, trong đó tác giả có đưa ra một số vấn đề: Thứ nhất, tam giáo đồng
nguyên từ góc nhìn lịch đại cho rằng chủ trương tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam
được biết đến từ cuối thế kỷ thứ II qua tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử; Thứ 2,
“Đồng nguyên” cái gì và trên cơ sở nào? Cả Nho, Phật, Đạo đều là tôn giáo, hệ tư
tưởng ngoại lai được du nhập vào Việt Nam. Nhưng Tam giáo này đã được Việt
Nam hóa, biến thành Tam giáo Việt Nam; Thứ 3, Đồng nguyên và đa nguyên văn
hóa cho sự phát triển xã hội.
Phạm Tấn Thiên có bài Sự dung hợp Nho - Phật - Đạo trong tín ngưỡng thờ
cúng âm hồn trên tạp chí Khoa học xã hội số 7(179) năm 2013. Tác giả có viết: từ khi
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào Việt Nam, cha ông ta đã chủ động cởi mở
đón nhận chọn lọc, dung hợp thành của riêng mình, phù hợp với hoàn cảnh sống và
phục vụ cho lợi ích của chính mình. Sự hòa hợp ấy được thể hiện một cách rõ nét
trong tín ngưỡng thờ cúng âm hồn phổ biến ở hầu khắp mọi miền trên đất nước ta.
Trong bài Mối quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo trong tác phẩm Lý hoặc
Luận của Đại đức Thích Đồng Niệm trên tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5 năm
2015, tác giả có viết: trọng tâm quan hệ Phật giáo và Nho giáo là vấn đề hiếu hạnh
được ghi rõ ở điều 9 và 10 của sách Lý hoặc Luận.
Trong Tham luận tại Hội thảo quốc tế về Nho giáo tại Việt Nam do Học
viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp với Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt
20. 14
Nam tổ chức tháng 12 năm 2004, Nguyễn Kim Sơn có bài Xu hướng hội nhập tam
giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII, trong bài viết này tác giả dùng Hội nhập
tam giáo chỉ tính khuynh hướng của vận động, sự điều chỉnh tư tưởng của Nho,
Phật, Đạo diễn ra ở một thời điểm cụ thể, có chủ thể và mục đích xác định. Dưới
góc nhìn hạn định và trong phạm vi các hoạt động tư tưởng của nhà Nho, tác giả coi
một sự biến thiên của Nho học là hội nhập Tam giáo. Đó là sự điều chỉnh của Nho
học nhưng chưa bao quát các trước thuật của Phật giáo và Đạo gia có liên quan
tới vấn đề này. Trong bài Cơ chế kết hợp tư tưởng Tam giáo của Trịnh Tuệ trong
Tam giáo nhất nguyên thuyết của Nguyễn Kim Sơn trên tạp chí Khoa học Xã hội và
Nhân văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tháng 12 năm 2016. Tác
giả bài viết thông qua việc phân tích cơ chế kết hợp tư tưởng Tam giáo của Trịnh
Tuệ trên các phương diện động cơ, mục tiêu, chỗ dựa kinh điển, tâm tính học, v.v.,
để chỉ ra đặc điểm của việc hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII nói riêng và của lịch sử
tư tưởng Việt Nam nói chung.
1.2. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ dung thông giữa Nho,
Phật, Đạo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông giữa Nho, Phật,
Đạo trong di sản tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nguyên Bỉnh Khiêm nói chung
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), “cây đại thụ tỏa bóng gần suốt cả thế kỷ
XVI” (Đinh Gia Khánh) nên không có gì khó hiểu khi ông được rất nhiều thế hệ
độc giả, nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Ngay từ thời trung đại, cuộc đời và thơ
văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Đinh Thì Trung, Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn,
Bùi Huy Bích (thế kỷ XVIII) và Phan Huy Chú (thế kỷ XIX) ghi chép và bàn luận
trong các tác phẩm của mình. Công trình Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt
phả ký của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân, được ông biên soạn vào năm 1744, đã nhận
định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên,
giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị, v.v., như gió mát trăng thanh,
nghìn năm sau còn tưởng thấy”. Phan Huy Chú là danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong
phần Văn tịch chí của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, ông cũng có quan
21. 15
điểm giống với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm: “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”. Những công
trình này một mặt đã cung cấp các thông tin quan trọng để người đời sau có thể tìm
hiểu về tiểu sử, tư tưởng cũng như trước tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng mặt
khác, chúng còn khá sơ lược và không tránh khỏi những sai sót hay các điểm cần
xác minh lại. Từ những chương, mục còn có phần khiêm tốn về số trang trong Việt
Nam văn học sử yếu của tác giả Dương Quảng Hàm được biên soạn vào năm 1943,
khi bàn về chữ “đạo” trong các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng đó là
Đạo giáo: “Trong tác phẩm cũ của ta, bao nhiêu những tư tưởng phóng khoáng,
nhàn tản, yểm thế, đều là do Đạo giáo mà ra. Trong tập thơ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm và trong tập Hát nói của Nguyễn Công Trứ, những bài vịnh cảnh nhàn đều
chịu ảnh hưởng của Đạo giáo cả”.
Đến năm 1945 công trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu và khá tỉ
mỉ mọi mặt về thời đại, cuộc đời, sáng tác và những truyền thuyết dân gian xung
quanh Nguyễn Bỉnh Khiêm: hoàn cảnh xã hội thời Lê - Mạc, thân thế sự nghiệp và
đời sống xã hội của Trạng Trình, giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của
ông, những truyền thuyết trong dân gian về nhà thơ có lẽ là Tuyết Giang phu tử của
Chu Thiên (Nxb Đại La, H., 1945, 154 trang). Tuy nhiên, vào những năm năm
mươi của thế kỷ XX trở đi thì việc nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm đã diễn ra
một cách đầy đủ và toàn diện, các tác giả tiêu biểu như: Hà Như Chi, Nguyễn Đổng
Chi, Lê Trí Viễn, Lê Trọng Khánh, Phạm Văn Diêu, Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia
Khánh, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Huệ Chi, Bùi Duy Tân.
Trong công trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý của Lê Trọng Khánh
và Lê Anh Trà, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1957. Trong công trình này các tác giả đã tập
trung tìm hiểu một số khía cạnh nội dung triết học qua thơ văn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có một vũ trụ duy vật và biện chứng thô
sơ, một quan niệm nhân sinh theo lẽ tự nhiên, thể hiện bằng chữ “Nhân” có nhiều
yếu tố nhân văn tích cực. Đây là một trong những cuốn sách dài hơi, dày hơn 200
trang viết về một nhà thơ cổ mà sau nhiều năm đọc lại, nhiều ý tưởng trong đó vẫn
còn nguyên giá trị. Trong công trình này các tác giả đã đề cập một cách sâu sắc đến
22. 16
nhiều vấn đề cốt yếu trong tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chỉ ra
những điểm gì là không hợp thời và những điểm gì là tiến bộ trong tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Công trình đã khai thác đầy đủ những giá trị về nội dung và
hình thức còn tồn tại trong văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trong các cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn,
do Nxb Xây dựng xuất bản và cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm
Văn Sử Địa do Nxb Văn Sử Địa xuất bản, đều dành những trang trân trọng viết về
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam chỉ nghiên cứu về
văn học chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc nghiên cứu phần thơ Nôm một
cách công phu đã cho thấy sự đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho sự phát triển
của thơ Nôm dân tộc được đánh giá cao, nó trở thành nguồn tư liệu tham khảo quan
trọng. Còn trong công trình Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam đã có một quan điểm
toàn diện hơn và khoa học hơn khi nghiên cứu cả phần thơ chữ Hán của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Những trang viết về cuộc đời và sự nghiệp của Trạng Trình, các tác
giả Nguyễn Đổng Chi và Văn Tân đã mang lại cho người đọc một hình ảnh chân
thực hơn về nhà thơ lớn của dân tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trong công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ
biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1993. Ở đây khi viết về Nguyễn Bỉnh
Khiêm các tác giả đều cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tư tưởng tiêu biểu của
thế kỷ XVI. Trong công trình này các tác giả đã tập trung tìm hiểu về thế giới quan
triết học, tư tưởng chính trị xã hội và quan niệm về đạo đức làm người của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Về thế giới quan triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, các tác giả đều
cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những người bàn nhiều đến những quan
niệm về thế giới, về nhân sinh “Từ những vấn đề nhân sinh, của xã hội, Nguyễn
Bỉnh Khiêm tìm đến những vấn đề của tự nhiên, rồi từ những nhận thức về tự nhiên,
ông quay lại soi dọi những vấn đề của nhân sinh, của xã hội”[141, tr.352].
Trong những chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về Nguyễn Bỉnh Khiêm phải
kể đến Bùi Văn Nguyên. Có thể kể đến các cuốn Nguyễn Bỉnh Khiêm – Truyện
danh nhân của Bùi Văn Nguyên, Nxb Hải Phòng, 1986. Ở đây tác giả viết cuốn
23. 17
truyện ký này là dựa vào những tài liệu qua cuộc sưu tầm điền dã của tác giả viết về
cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tác giả Bùi Văn Nguyên trong cuốn Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb
Hải Phòng, 2011. Công trình được coi như là sự kết tinh của tác giả trong nhiều năm
nghiền ngẫm về nhà thơ lớn của dân tộc. Có nhiều chương, đoạn của cuốn sách là
những trang viết xuất sắc. Trong công trình này khi viết về văn chương của Nguyễn
Bỉnh Khiêm tác giả đã chia thành hai phần: Phần thứ nhất của tập chuyên luận này
nhằm tìm hiểu về thời đại của Nguyên Bỉnh Khiêm, thời đại rối ren dưới triều chính
Lê – Mạc và cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người có bản lĩnh, mưu cầu hạnh
phúc cho dân, cho nước. Cuộc đời của ông có thể chia thành ba chặng như sau:
“Chặng thứ nhất từ thuở ra đời (1491) đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Đại Chính đời
Mạc năm thứ năm (1534) là năm ông thi Hương, kế đó là năm Ất Mùi, niên hiệu Đại
Chính đời Mạc năm thứ 6 (1535) là năm ông thi Hội, đỗ Trạng Nguyên, rồi sơ bổ làm
chức Đông Các Hiệu thư, triều Mạc Đăng Doanh. Chặng thứ hai là chặng 8 năm làm
quan với nhà Mạc từ năm 1535 đến năm Nhâm Dần, niên hiệu Quang Hòa thứ hai
(1542) triều Mạc Phúc Hải. Chặng thứ ba là chặng ông xin về nghỉ ở quê nhà, từ cuối
năm 1542 cho đến lúc mất, năm 1585”. Trong Phần thứ hai của tập chuyên luận này
tác giả chủ yếu tập trung phân tích các giá trị văn học trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, văn chương ưu thời mẫn thế. Trước hết tác giả giới thiệu quan niệm lý học
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một quan niệm tích cực về cuộc sống “Nguyễn Bỉnh
Khiêm chắc hẳn đã đọc rất kỹ các loại kinh, như kinh Phật, kinh Thái Huyền, Kinh
Dịch, nhưng qua thơ văn ông để lại, ít thấy ông bàn đến các vấn đề thế giới quan, bản
thể luận, mà chỉ chuyên chú đến các vấn đề nhân sinh quan”.
Tác giả Lê Nguyễn Lưu với công trình Nguồn suối nho học và thơ ca Bạch
vân cư sĩ, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1999. Với công trình này tác giả cũng cho chúng ta
biết thêm về khía cạnh tư duy của nhà thơ sống trong một thời đại Nho học độc tôn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu và vận dụng những tri thức cổ điển như thế nào để
đứng vững trước sóng gió lịch sử, được các tầng lớp phong kiến và nhân dân kính
trọng. Tác giả của cuốn sách này cũng đã nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm: là một
con người sống bình dị chất phác giữa nông thôn mà vẫn mang phong thái siêu
24. 18
thoát. Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần ba nguồn suối tâm linh Nho học, Đạo học
và Phật học, phối hợp với những truyền thống dân tộc. Những nguồn suối chảy
khác dòng ấy trong các thế kỷ XV – XVII đã hợp lưu một cách khá trọn vẹn, nhuần
nhuyễn, điều động nếp sống đặc thù của giới “kẻ sĩ” Việt Nam đương thời.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn
hóa dân tộc, do Viện Khoa học xã hội và Sở văn hóa thông tin thành phố Hồ Chí
Minh – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm phối hợp tổ chức năm 1991, nhân kỷ niệm
500 năm sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1991). Kỷ yếu đã tập
hợp được 28 bài viết có chiều sâu, với nhiều tư liệu có giá trị về Nguyễn Bỉnh
Khiêm của nhiều tác giả. Các bài viết của các tác giả được phân loại thành ba phần:
Thân thế và hoàn cảnh lịch sử; Tư tưởng và Thơ văn; Một số vấn đề khác có liên
quan đến Trạng Trình.
Trong công trình Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả Đinh Gia Khánh (chủ
biên), Nxb Văn học, Hà Nội, năm 1983 và tái bản năm 1997, khi viết về Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã nhận xét thơ văn ông thể hiện những giá trị truyền thống của dân
tộc, phản ánh những mặt nhất định của đời sống nhân dân. Thơ văn chữ Hán của
ông tính dân tộc không chỉ thể hiện nội dung mà thể hiện trong cả nghệ thuật. Còn
thơ Nôm của ông thì lại tiếp thu nhiều ở lỗi cảm cách nghĩ của dân tộc, ở lời ăn
tiếng nói của nhân dân. Ở đây tác giả còn giải thích thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm là
sự chuyển biến từ việc khẳng định trật tự phong kiến trong việc khẳng định dân tộc
sang mối nghi ngờ đối với trật tự phong kiến trong mối lo âu về tình cảm của nhân
loại. Thơ văn ông là một bước tiến đáng kể trong việc tiếp tục phát huy tính dân tộc
và tính nhân dân của văn học Việt Nam thế kỷ XVI.
Trong cuốn chuyên luận Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa của
Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Bộ văn hóa thông tin và thể thao – Viện Khoa học xã hội
Việt Nam xuất bản năm 1991 được phôi thai từ Hội nghị khoa học toàn quốc nhân
kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm và được ra mắt nhân kỷ niệm
500 năm ngày sinh của ông. Cuốn sách đã tập hợp được nhiều bài viết của các nhà
khoa học chuyên nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm, đây cũng là bước đánh dấu sự
trưởng thành của giới nghiên cứu văn học nước ta trong việc tìm hiểu một tác gia
25. 19
tầm cỡ của văn học dân tộc. Trong công trình này có những bài viết xuất sắc, có
tính chất khái quát và đi sâu vào nhiều mặt trong sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh
Khiêm như bài của Nguyễn Huệ Chi Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhìn từ một nhân cách
lịch sử đến dòng thơ tư duy thế sự; bài của Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng về
Thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm, của Nguyễn Tài Cẩn về văn bản thơ, của Trần Đình
Hượu về triết lý thơ, của Đặng Thanh Lê, Trần Thị Băng Thanh và Bùi Duy Tân về
thơ Nôm và thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các bài viết của các tác giả trong
công trình này đã đánh giá Nguyễn Bỉnh Khiêm trong một cái nhìn tổng thể nhưng
cũng hết sức cụ thể và sinh động, nghiên cứu ông với tư cách một nhà tư tưởng trong
mối dung hòa với một nhà thơ sắc sảo. Cuốn sách là một công trình mở ra nhiều
hướng nghiên cứu mới có triển vọng trong việc tìm hiểu con người và sự nghiệp của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trong công trình Bạch vân quốc ngữ thi tập và Trạng trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm do Nguyễn Quân biên soạn và chú thích, Nxb Sống mới, Sài Gòn, 1974.
Công trình đã đề cập đến cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm, những nội dung tư tưởng
chứa đựng trong tập thơ thể hiện lối xử thế tinh tế của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
bối cảnh xã hội Đại Việt hết sức phức tạp đương thời. Công trình này Nguyễn Quân
đã đề cập đến năm phần: Thân thế và sự nghiệp tác giả; Thêm mấy nghi vấn về tác
giả; Xã hội thời tác giả tác phẩm; Đây bạch – Vân quốc – ngữ thi tập; Giá trị Bạch –
Vân quốc – ngữ thi tập.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có các bài Triết lý và thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Tạp chí Triết học, số 01 năm 1986; Về xu hướng Tam giáo đồng nguyên
trong Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, Tạp chí Triết học số 4 năm 1986; Triết lý
nhàn dật và tự tại trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa đã tập trung
bàn khá thú vị về lối sống nhàn, tự tại của nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Công trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Khuê.
Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị mới mẻ. Trong công trình này tác giả
khi nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tập trung vào bốn phần: tác
giả đã trình bày những nét đại cương về hoàn cảnh lịch sử, về cuộc đời, về những
tác phẩm chữ Hán, tác phẩm chữ Nôm, Sấm ký; tác giả tập trung vào khai thác tình
26. 20
cảm, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm; đó là những nhận xét về hình thức nghệ
thuật và giá trị nội dung của Bạch Vân am thi tập viết bằng chữ Hán, đồng thời đã
khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử văn hóa dân
tộc, trong lòng dân tộc Việt Nam; tác giả đã tập hợp 102 bài thơ trong Bạch Vân am
thi tập đã được tuyển dịch khá công phu của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trong cuốn Giai thoại và sấm ký Trạng Trình của Phạm Đan Quế, Nxb Văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1992, có viết về Sấm Trạng Trình là những lời tiên tri
của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500
năm. Tác giả cho rằng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nắm được huyền cơ của
tạo hóa. Những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan
theo lẽ tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất
vả. Sấm ký, giai thoại và giải đoán cũng chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc
thầy kỳ tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy. Cũng
bàn về sấm ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có cuốn Sấm ký trạng trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm của Lương Cao Rính, trong cuốn sách này tác giả đã đề cập đến trên một trăm
câu sấm ký của Trạng Trình, do chính tác giả sưu tầm, so sánh đối chiếu qua các văn
bản và trong kho tàng Sấm Trạng được truyền lại qua trí nhớ của nhiều thế hệ.
Công trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tác gia tác phẩm do Trần Thị Băng Thanh
và Vũ Thanh chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001. Trong công trình này các tác
giả đã tập hợp được 67 bài viết về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm và sắp xếp phân
loại chúng theo bốn phần: Phần thứ nhất: Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỷ đầy biến
động; Phần thứ hai: Triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và nhân cách; Phần
thứ ba: Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà thơ; Phần thứ tư: Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm
thức thế nhân xưa và nay.
Trong cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, do Nxb Văn học, Hà Nội,
năm 2015 của tập thể nhiều tác giả nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đây là công trình kết tinh trí tuệ của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu về Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ trước đến nay. Trong công trình đã trình bày một cách khá đầy đủ về
thân thế, thời đại và những sáng tác của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
27. 21
Trong bài tham luận Bước đầu suy nghĩ về Văn học Mạc của Nguyễn Huệ
Chi, đã viết: thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một
hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam - đó là tư
duy thế sự. Thơ ông vẫn mang tính trữ tình nhưng là “trữ tình lý trí”. Nó mang hình
thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên
gọi là tư duy thế sự.
Ngoài những loại hình nghiên cứu và dịch thuật nói trên, còn có các công
trình được đăng trên các chuyên luận, kỷ yếu của các chuyên ngành khác nhau như
Triết học, Văn học, ... Trong số đó chúng tôi muốn đề cập đến cuốn Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 400 năm mất). Trong cuốn này
đã đề cập đến hơn 52 bài tham luận của các nhà nghiên cứu từ nhiều nơi trong cả
nước gửi về, đã đề cập hầu như tất cả mọi phương diện của tài năng và bản lĩnh
Tuyết Giang Phu tử; từ việc xác định nhân cách lịch sử con người này, thái độ ứng
xử ung dung tự tại của ông đối với đối với các tập đoàn Mạc, Lê – Trịnh, Nguyễn;
từ cách lý giải những quan điểm triết học mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong
văn thơ, triết lý về chữ “nhàn”, tư tưởng dịch lý; từ việc đánh giá cảm hứng nghệ
thuật của nhà thơ trên các vấn đề chiến tranh, thế sự, đạo lý, thái độ đồng tình đối
với người dân cùng khổ, ... cho đến những tìm tòi, phát hiện khoa học về sự đóng
góp quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với tiến trình phát triển của nghệ thuật
thơ Nôm; cho đến ngay cả việc lý giải những lời tiên tri, những câu ca vè chứa
nhiều ẩn ý vẫn được người đời truyền tụng. Có thể nói, Hội nghị khoa học về
Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 1985 là một dấu mốc quan trọng trên con đường tiếp cận
cái gia tài văn hóa nhiều mặt mà Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho chúng ta.
Cuốn sách Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc (Kỷ
yếu hội thảo khoa học năm 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh). Cuốn sách đã tập hợp
được 30 bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm, sự
nghiên cứu của các nhà khoa học tập trung vào ba nội dung: thân thế và hoàn cảnh
lịch sử; tư tưởng và thơ văn; một số vấn đề khác. Trong công trình này cũng có
những bài viết xuất sắc, có tính chất khái quát và đi sâu vào nhiều mặt trong sự
nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Chu dịch về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Phan
28. 22
Văn Các, Ảnh hưởng của Tống Nho đối với tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của Phạm
Thị Kim, Một số vấn đề về con người, tư tưởng, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của
Mai Quốc Liên, Thơ quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Nguyễn Nghĩa Dân, Ba
hình tượng văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Ngọc Khánh, cuốn Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhà thơ lớn thế kỷ XVI và bài Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ lớn thế kỷ XVI,
Báo Văn Nghệ (số 2), Hà Nội của Nguyễn Tri Phương.
Hội thảo Di sản văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tư tưởng và khuynh hướng thẩm
mĩ, kỷ niệm 430 năm ngày mất của Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 2015
tại Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Hội thảo cũng tập hợp được các bài viết của các nhà khoa
học trong cả nước tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về di sản tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, trong đó đáng chú ý là các bài của các nhà nghiên cứu như: Nguyễn Minh
Tường, Trần Thị Băng Thanh và Phạm Thị Ngọc Lan, Trần Nguyên Việt, Nguyễn
Mạnh Hoàng, Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Thị Thanh Chung, Lê Hương, v.v...
Các bài đăng trên tạp chí chuyên ngành, chủ yếu trên tạp chí Triết học, tạp
chí Hán Nôm, tạp chí Khoa học đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh cũng xuất
hiện những bài viết nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là: Triết lý và
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Đình Hượu; Về ý nghĩa chữ “đạo” trong tư tưởng
của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Lê Sáng; Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tư tưởng tiêu
biểu của thế kỷ XVI của Nguyễn Tài Thư; Vấn đề con người trong tư tưởng triết học
của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Nguyên Việt; Một số vấn đề tư tưởng đạo đức
của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Cao Thu Hằng; Trở lại vấn đề Nguyễn Bỉnh Khiêm của
Vũ Khiêu; Nho giáo và văn hóa ứng xử trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của
Trần Nguyên Việt; Tư tưởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần
Nguyên Việt; Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ thi tập: các hình thức
diễn đạt về sự ẩn dật của Lê Văn Tấn; Bài văn bia tạc tượng tam giáo, chùa Cao
Dương của Trình Quốc Công của Vũ Tuấn Sán và Đinh Khắc Thuân; Tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo, và bài Tư tưởng triết học của
Nguyễn Bỉnh Khiêm về tự nhiên và mối quan hệ với con người của Nguyễn Bá
Cường; Tư tưởng trị nước của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Lê Thị Hương, Nguyễn
Bỉnh Khiêm - con người và văn chương của Nguyễn Lộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà
29. 23
văn hóa lớn, Tạp chí văn học, số 6, 1991 của Phạm Xuân Nam, Thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm thơ ngôn chí của Trần Thị Băng Thanh, v.v... Đáng chú ý là bài Vấn đề tam
giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Nguyên Việt.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông tam giáo
của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà tư tưởng, nhà thơ lớn
trong lịch sử dân tộc, có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng trong thế kỉ XVI - “cây đại
thụ”, nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ. Ở mỗi thời đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm đều
được mọi đánh giá cao. Trong cuốn Vũ trung tùy bút của tác giả Phạm Đình Hổ đã viết:
“Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông
đúc lại”. Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại
chí, có viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
Nghiên cứu về tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có
rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tư tưởng này của ông. Có thể kể đến Trong Lời
dẫn: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Khiêu
khi nói đến tư tưởng tam giáo của ông “Từ đầu chí cuối, ông chưa bao giờ đi ngược
lại đạo Nho. Nhưng khi cáo quan trở về sống giữa cỏ hoa, sông nước, ông muốn
gần gũi với thiên nhiên, thực hiện thuyết vô vi, ca ngợi chữ “nhàn”. Ông có lúc bài
xích những hiện tượng mê tín ở chùa chiền, nhưng tư tưởng Thiền học vẫn thấm
đượm trong rất nhiều bài thơ của ông” [29, tr.17].
Trong cuốn Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm của Bùi Văn Nguyên trong khi
phân tích các giá trị văn học trong thơ văn của Nguyên Bỉnh Khiêm, văn chương ưu
thời mẫn thế. Trước hết tác giả giới thiệu quan niệm lý học của Nguyên Bỉnh
Khiêm, một quan niệm tích cực về cuộc sống “Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc hẳn đã
đọc rất kỹ các loại kinh, như kinh Phật, kinh Thái Huyền, Kinh Dịch, nhưng qua thơ
văn ông để lại, ít thấy ông bàn đến các vấn đề thế giới quan, bản thể luận, mà chỉ
chuyên chú đến các vấn đề nhân sinh quan” [82, tr.56]. Trong công trình này tác giả
cũng đề cập đến tư tưởng dung thông tam giáo trong việc phân tích ý nghĩa của chữ
Trung Tân của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện trong bài Trung Tân quán bi ký (Văn
bia quán Trung Tân) của Nguyễn Bỉnh Khiêm viết vào mùa thu năm 1542 (tức năm
30. 24
Nhâm Dần), được coi là bài tuyên ngôn khuyến thiện của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khi
phân tích văn thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm tác giả cũng chỉ ra những quan điểm của
Nguyễn Bỉnh Khiêm về Phật, về Tiên ông như trong bài 101, bài 110 và bài 148.
Các tác giả trong bộ Lịch sử Việt Nam, có nhận xét về chữ “nhàn” trong tư
tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tư tưởng Lão – Trang. Ông tố cáo cảnh thối nát
của xã hội, phê phán thói đời xấu, tuy nhiên chủ đề nổi bật là ca ngợi chữ “nhàn”.
Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang.
Trong cuốn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Kỷ yếu Hội nghị khoa học
nhân 400 năm mất), cũng có nhiều bài viết đề cập tới tư tưởng dung thông tam giáo
của Nguyễn Bỉnh Khiêm như các bài: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu
Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Khiêu; Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối
cảnh văn hóa Việt Nam thế kỷ XVI của Trần Quốc Vượng; Mỹ thuật thời Mạc – một
vài nét khái quát của Nguyễn Du Chi; Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tư tưởng tiêu biểu
của thế kỷ XVI của Nguyễn Tài Thư; Trong Triết lý và thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm của
Trần Đình Hượu; Trong Triết lý chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm của tác giả
Nguyễn Sĩ Cẩn có nói sự khác biệt giữa nhàn của nho gia với xuất thế của Phật gia
và Đạo gia; Bàn về chữ “đạo” trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Lê
Sáng khi nói về chữ “nhàn” trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Nguyễn Bỉnh
Khiêm và phương pháp tư duy biện chứng của Tô Duy Hợp khi nói về tính hệ thống
trong phương pháp tư duy biện chứng của ông có viết: Nguyễn Bỉnh Khiêm có chịu
ảnh hưởng của các học thuyết Nho, Phật và Đạo giáo tư tưởng của ông là sự kết hợp
giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão Trang; Nguyễn Bỉnh Khiêm – con người
tài trí, nắm vững thế thời của Mai Hồng và Đinh Công Vĩ có nhận xét trong Nguyễn
Bỉnh Khiêm có cái thoát tục của Phật giáo, cái phiêu diêu của Lão – Trang.
Trong cuốn Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc
(Hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1991),
vấn đề tam giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập tới như: Trong bài Đôi điều về cái chí ẩn dật và cái chí vì việc
nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Đặng Đức Thi bàn về tam giáo trong chữ
“trung” của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Nguyễn Bỉnh Khiêm và dân tộc học của Nguyễn
31. 25
Tuấn Triết và bài Nguyễn Bỉnh Khiêm trong truyền thống của chủ nghĩa nhân đạo
Việt Nam của Trần Thanh Đạm nói về tam giáo đồng nguyên trong tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Hội thảo Di sản văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tư tưởng và khuynh hướng
thẩm mĩ, kỉ niệm 430 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 2015 tại Vĩnh
Bảo, Hải Phòng. Cũng có nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong bài viết của mình
cũng đã đề cập tới tư tưởng tam giáo Nho, Đạo, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm như:
Bậc sư biểu bên bờ Tuyết giang của Nguyễn Công Lý; Kinh Dịch và Lý học trong
tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Nguyễn Minh Tường; Dịch lý trong Bạch
Vân quốc ngữ thi tập của Lê Nguyên Cẩn; Vị thế của tư tưởng triết học Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong lịch sử tư tưởng dân tộc nhìn từ góc độ Dịch học của Vũ Phú
Dưỡng; Ông nhàn Am Bạch Vân – quan niệm, hành xử và phương thức sống của
Trần Thị Băng Thanh và Phạm Thị Ngọc Lan; Vấn đề “hành – tàng” hay “xuất –
xử” trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Nguyên Việt;
Hương thiền trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Nguyễn Tá Nhí, v.v..
Ngoài ra các công trình nêu trên, nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có
những công trình nghiên cứu có giá trị khác của các tác giả như: Bùi Duy Tân, Vũ
Tiến Quỳnh, Bùi Văn Nguyên, Mai Quốc Liên, Mai Cao Chương, Vân Trình, Vũ
Tiến Phúc, Trần Lê Sáng, v.v.. Những nhận xét của mỗi tác giả về Nguyễn Bỉnh
Khiêm dù ở góc độ nào thì đó cũng đều là những lời bình khá lí thú và hấp dẫn đã
mở ra rất nhiều vấn đề mới. Dù nó có mang tính chủ quan hay khách quan hoặc
chưa đi sâu vào một khía cạnh nhưng cũng đều tập trung vào vấn đề chính: tư tưởng
và tình cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trong Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, Mai Quốc
Liên khẳng định: “… Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem như Giang, Hán trong các sông,
như ánh mặt trời thu, cây đại thụ của đạo đức, văn chương thế kỷ XVI” [160, tr.106]
Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh trong bài Sức sống của thơ ca và tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có bản lĩnh, một
“trí giả”. Tìm đến với sự nhàn dật chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với “cái
vụng”, “cái chuyết” mà theo quan niệm của Nho gia, đã được điều chỉnh bởi quan
32. 26
niệm của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự vật. Chính quan niệm nhàn dật
đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh Khiêm - Bạch Vân cư sĩ tự do,
tự tại, giản phác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn, rất hiếm thấy trong làng “thơ
nhàn” thời trung đại”[151, tr.34]
Đối với Lê Trọng Khánh và Lê Anh Trà trong cuốn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà
thơ triết lý lại có những ý tưởng trân trọng khi phát hiện quan niệm sống nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm: “... tư tưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cả một triết lý
nhân sinh, dựa trên một vũ trụ quan có hệ thống, trở thành một cái đạo sống, phù hợp
với hoàn cảnh và tâm lý sĩ phu lúc mà chế độ phong kiến đã ở trên con đường suy
biến. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một nội dung phức tạp, nó có cái phần
tiêu cực về hiện tượng nhưng đồng thời chứa đựng một phần tích cực về bản chất; nó
là một sự xa lánh cuộc đời xấu xa, ô trọc, nhưng cũng đồng thời, và do đó, mà nó đi
gần cuộc đời hơn, cuộc đời trong sạch của quần chúng nhân dân” [54, tr.67]. Trong
cuốn Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập của tác giả Nguyễn Khuê lại nhận
định: “Thơ ông là tiếng nói rất chân thực, rất nhân bản của một nhà hiền triết trước
cảnh ngộ, nhân sinh, thiên nhiên vũ trụ; là một nỗ lực hướng tới chân, thiện, mỹ. Vì
thế, tiếng nói ấy mãi mãi vang vọng trong tâm hồn dân tộc” [50, tr.182].
Tác giả Nguyễn Phương Chi trong bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thơ lớn
thế kỷ XVI, trên Báo Văn nghệ, số 2, ngày 11/01/1986 đã có nhận xét khá thuyết
phục về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thơ văn ông là khát vọng hòa bình, là
nỗi lo lắng về tương lai của đất nước, là nỗi hoài nghi trật tự phong kiến, một trật tự
mà đến thế kỷ XVI đã bị xáo trộn”.
Tác giả Nguyễn Quân trong bài Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Giá trị hình
thức và nội dung đã viết: “Lại nữa, cụ có chủ trương là chủ trương vô sự, nghĩa là
không để có sự gì rắc rối, chớ đâu phải là chủ trương vô vi nghĩa là không làm gì
hết, cứ việc phó mặc cho con tạo xoay vần... Có thể nói sự lánh đời, nhưng còn
khuyên đời, còn mong ước đời và vẫn không quên ơn vua chúa, không phụ tình
nước non”[151, tr.504].
Các bài đăng trên tạp chí chuyên ngành, chủ yếu trên tạp chí Triết học, tạp
chí Hán Nôm, tạp chí Khoa học đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh cũng xuất
33. 27
hiện những bài viết nghiên cứu tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Đó là: Triết lý và thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Đình Hượu; Về ý nghĩa
chữ “đạo” trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Lê Sáng; Vấn đề con
người trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Nguyên Việt; Tư
tưởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Nguyên Việt; Một số vấn
đề tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm của Cao Thu Hằng; Nguyễn Bỉnh
Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ thi tập: các hình thức diễn đạt về sự ẩn dật của Lê
Văn Tấn. Đáng chú ý là bài Vấn đề tam giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm của Trần Nguyên Việt, tư tưởng tam giáo của ông đã được tác giả bàn đến
trong học thuyết về chữ “nhẫn” và học thuyết về chữ “tâm”.
Ngoài các bài viết trên còn có bài Bài văn bia ghi việc tạc tượng tam giáo,
chùa Cao Dương của Trình Quốc Công của các tác giả Vũ Tuấn Sán và Đinh Khắc
Thuân đăng trên tạp chí Hán Nôm, số 1 năm 1990, văn bia cho ta thấy quan điểm
của một vị Trạng nguyên, người phát ngôn tiêu biểu của Đạo Nho với Tam giáo.
Trong bài Xu hướng hội nhập tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII của
Nguyễn Kim Sơn cũng có nói mục đích của việc hội nhập tam giáo thời kỳ này là
chỉnh đốn nhân tâm là vấn đề được cả Tam giáo cùng bàn.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo
trong di sản tư tưởng của Phùng Khắc Khoan
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Phùng Khắc Khoan nói chung
Phùng Khắc Khoan (tự là Hoàng Phu, hiệu là Nghị Trai, Mai Nham Tử,
người dân gọi là Trạng Bùng), danh sĩ, nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn có
cống hiến xuất sắc cho lịch sử dân tộc thế kỷ XVI - XVII.
Tác phẩm của Phùng Khắc Khoan bao gồm có cả chữ Hán và chữ Nôm trong
đó có văn, thơ, bi ký, diễn ca kinh truyện và vãn ca. Tác phẩm chữ Nôm có Lâm
tuyền vãn (tác phẩm Nôm duy nhất còn lại), Diễn nghĩa Kinh Dịch (đã mất). Tác
phẩm thơ chữ Hán: Ngôn chí thi tập (tập nói lên chí hướng của nhà thơ); Huấn đồng
thi tập (tập thơ dạy trẻ làm thơ); Đa thức tập (tập thơ biết nhiều); Mai Lĩnh sứ hoa
thi tập (tập thơ đi sứ của Mai Lĩnh hầu); ngoài ra còn 2 bài tựa viết cho 2 tập
thơ Ngôn chí và Huấn Đồng, nhiều bài văn bia,... Nội dung nổi bật trong các tác
34. 28
phẩm Phùng Khắc Khoan là quan niệm sống tích cực, một niềm ưu ái chân thành
với ý thức trách nhiệm một nhà nho chân chính yêu nước thương dân, luôn tin
tưởng ở tương lai, tin ở sức mạnh bản thân có thể đổi loạn thành trị, cứu nguy thành
an, xây dựng nền thái bình thịnh trị cho đất nước.
Phùng Khắc Khoan là một nhân cách lớn, cả đời ông gắn bó trọn vẹn với nỗi
vui buồn của nhân dân. Sử gia Phan Huy Chú xếp ông là một trong 39 người “Phò
tá có công lao, tài đức thời Lê Trung Hưng” và viết: “Ông là người cương quyết,
sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu”.
Trong số các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Phùng Khắc Khoan thì ít
nhưng các học giả nghiên cứu chủ yếu tập trung vào thơ văn của Phùng Khắc
Khoan. Các tác giả tiếp cận thơ ông hầu hết trên các phương diện như: nội dung, ý
nghĩa hay gia phả, thần tích, sự tích cuộc đời làm quan đi sứ của ông. Di khảo thơ
văn của Phùng Khắc Khoan được nhiều học giả như Bùi Duy Tân, Tạ Ngọc Liễn,
Trần Lê Sáng, Trần Quốc Vượng,... tập trung nghiên cứu. Trong Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Nhân vật chí về Phùng Khắc Khoan, tác
giả đánh giá: “… Lúc trẻ đã nổi tiếng văn học, theo học Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh
Khiêm ở Vĩnh Lại, kiêm thông cả thuật số. Nhưng chí khí hào mại, không chịu ra
thi với nhà Mạc. Đầu đời Trung tông theo Lê Bá Ly quy thuận nhà Lê, ... Thái sư
Trịnh Kiểm mới gặp ông, biết là người có học thức, mưu lược, cho tham dự việc
trong màn trướng, trao chức ký lục ở chỗ ngự dinh, coi quân bốn vệ… Ông là người
cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông
thanh nhã, dồi dào, có các thi tập truyền ở đời”[10, tr.260-261].
Vũ Khâm Lân, một nhà nho ở đầu thế kỷ XVIII trong bài Phả ký Bạch Vân
am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm), có đoạn nói: Nguyễn Bỉnh
Khiêm có nhiều học trò, nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh,
Nguyễn Dữ và Bùi Thì Cử là giỏi hơn cả. Khắc Khoan và Hữu Khánh thì tinh thông
số học, là trung hưng danh thần nước ta, v.v.. Lương Hữu Khánh và Bùi Thì Cử thì
bút tích còn lại không bao nhiêu. Chỉ có Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan thì vừa
có tác phẩm vừa có những ghi chép của người khác về thân thế của họ còn truyền lại.
35. 29
Nhà bác học Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục khi nghiên cứu về Phùng
Khắc Khoan có nhận xét về Phùng Khắc Khoan như sau: “Khoan là người cương
nghị tinh minh, văn võ toàn tài”.
Bài viết Thơ Phùng Khắc Khoan hiện thực và lãng mạn của Trần Lê Văn có
nhận xét thơ ông dung hòa được những mặt dường như đối lập nhau: Nhập thế và
xuất thế, hành động và tiêu tao, hiện thực và lãng mạn, bác học và dân gian. Cũng
như nhiều danh nhân - nho sĩ nước ta, Phùng Khắc Khoan không chỉ được bồi
dưỡng trí tuệ và tâm hồn bằng cái nguồn Nho học mà còn được bồi dưỡng bằng
những nguồn kiến thức cao sâu huyền diệu khác trong triết học phương Đông. Càng
ngày, Phùng Khắc Khoan càng như chim bằng vươn cánh vào chín tầng mây thăm
thẳm của Lão - Trang, tư thế tĩnh tâm thiền định để thấu triệt lẽ sắc không của Phật
đều có vang bóng trong tư duy và cảm xúc của các văn nhân thi sĩ lớn như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, v.v..
Trong bài viết Phùng Khắc Khoan với vấn đề chọn đường của người trí thức
Việt Nam ở thế kỷ XVI của Nguyễn Minh Tường đã nhận định về vấn đề “chọn
đường” của kẻ sĩ chỉ nảy sinh trong điều kiện đất nước cùng tồn tại hai vương triều,
hai lực lượng chính trị, quân sự đấu tranh gay gắt với nhau, cùng muốn thu hút nhân
tài về phía mình. Trong lịch sử chế độ quân chủ độc lập ở Việt Nam, chỉ đến đầu
thế kỷ XVI, mới xuất hiện những điều kiện nói trên. Cụ thể, những điều kiện đó
được mở đầu bằng hai sự kiện: Năm 1527 Mạc Đăng Dung giết vua cuối cùng thời
Lê Sơ là Cung Hoàng, giành ngôi báu từ tay nhà Lê, dựng lên Vương triều Mạc. Và
6 năm sau, năm 1533, Nguyễn Kim dựng Lê Ninh lên làm vua, mở đầu thế kỷ Lê
Trung Hưng, tái lập vua Lê để làm vì, thực quyền lãnh đạo triều đình về tay các
chúa Trịnh. Tác giả cũng vạch ra trước mắt trí thức đương thời ba con đường cần
lựa chọn: hết lòng đi theo triều Mạc, bất hợp tác với họ Mạc lui về ẩn dật và chống
lại triều Mạc, hoặc nhận lấy cái chết hoặc chạy vào Thanh Hóa giúp dập Lê – Trịnh.
Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ chủ biên, mục 1503
trang 481 có ghi: “Phùng Khắc Khoan (1528-1613) người xã Phùng Xá, huyện
Thạch Thất, nay là thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, 53
tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Quang
36. 30
hưng 3 (1580) đời Lê Thế tông. Hai lần đi sứ đều được nhà Minh tôn kính, không
xưng tên. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư kiêm Quốc tử giám Tế tửu,
tước Mai quận công. Thọ 86 tuổi, khi mất, được tặng Thái tể, phong phúc thần.
Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng phu, hiệu Nghị Trai, tác phẩm có Mai Lĩnh sứ, Hoa
thi tập, Ngôn chí thi tập”.
Cuốn sách Phùng Khắc Khoan cuộc đời và thời đại (Kỷ yếu Hội thảo khoa học
danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan 1992) của Sở văn hóa thông tin thể thao – Hà
Tây, Ủy ban nhân dân huyện Thạch Thất. Cuốn sách tập hợp được 13 bài viết của các
tác giả viết về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Phùng Khắc Khoan, trong đó
có những bài viết xuất sắc như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và đạo giáo dân gian
Việt Nam trong bối cảnh lịch sử xã hội Đại Việt thế kỷ XVI – thế kỷ XVII của Trần
Quốc Vượng, Phùng Khắc Khoan – một tài năng, một nhân cách Việt Nam cao quý
của Phan Khanh, Thơ Phùng Khắc Khoan, hiện thực và lãng mạn của Trần Lê Văn, Sự
nghiệp ngoại giao của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan của Trần Lê Sáng.
Các công trình nghiên cứu về Phùng Khắc Khoan còn có: Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan: tác gia, tác phẩm của Bùi Duy Tân chủ biên; Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoancủa Bùi Duy Tân và Tạ Ngọc Liễn; Phùng Khắc Khoan cuộc đời thơ
văn và sự nghiệp của Trần Lê Sáng; Phùng Khắc Khoan và thời cuộc của tác giả
Đinh Công Vĩ; Thơ văn Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan của Bùi Duy Tân cũng đề
cập khá toàn diện về thân thế sự nghiệp cũng như các trước tác văn thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Đáng chú ý nhất là cuốn sách Phùng Khắc Khoan – Hợp tuyển thơ văn
của nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2012, đã phản ánh và tập hợp gần như đầy đủ về
con người, sự nghiệp, tư tưởng và thơ văn của Phùng Khắc Khoan.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông tam giáo
của Phùng Khắc Khoan
Nếu như thế kỷ XV nhất là thời kỳ của Lê Thánh Tông thì Nho giáo giữ vị trí
độc tôn trong khi đó Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế thì từ thế kỷ XVI trở đi, Phật, Đạo
lại có xu hướng phát triển trở lại, v.v... Tôn giáo cởi mở đi sâu vào dân gian, ảnh hưởng
sâu đậm đến các tầng lớp bề trên, cũng như các nhà nho như Nguyễn Bỉnh Khiêm,
37. 31
Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ, v.v., cũng góp phần cho nền văn học dân gian phát
triển, ảnh hưởng đến nền văn học thành văn và được văn học thành văn ghi chép lại.
Các trước tác nghiên cứu về Phùng Khắc Khoan thì nhiều nhưng phần lớn
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều tập trung vào thơ văn của ông,
rất ít công trình nghiên cứu về tư tưởng nhất là tư tưởng triết học của Phùng Khắc
Khoan. Có thể nói Phùng Khắc Khoan chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tư tưởng của
người thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tư tưởng của ông có thể tập trung vào các mặt: tư
tưởng triết học, tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức và tư tưởng ngoại giao.
Trong số các công trình nghiên cứu về Phùng Khắc Khoan mà ở đó đề cập
tới tư tưởng dung thông tam giáo của ông gồm có Phùng Khắc Khoan cuộc đời và
thời đại (Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan1992).
Trong đó có các bài viết của các nhà khoa học đề cập tới sự dung thông tam giáo
của Phùng Khắc Khoan như: Trạng Bùng (1528 - 1613) và đạo giáo dân gian Việt
Nam trong bối cảnh lịch sử - xã hội Đại Việt thế kỷ XVI – thế kỷ XVII của Trần
Quốc Vượng; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Danh nhân - thi sĩ - văn chương -
nhân cách để đời của Bùi Duy Tân; Phùng Khắc Khoan – một tài năng, một nhân
cách Việt Nam cao quý của Phan Thanh; Thơ Phùng Khắc Khoan, hiện thực và lãng
mạn của Trần Lê Văn. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về Phùng Khắc
Khoan như bài Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu, Tạp chí Khoa
học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2, năm 2013 của Nguyễn Bá Cường.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo
trong di sản tư tưởng của Nguyễn Dữ
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ nói chung
Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan là những người sống dưới triều Lê và
Mạc, vừa chịu ảnh hưởng từ Nguyễn Bỉnh Khiêm, vừa chịu ảnh hưởng của Phật
giáo và Đạo giáo nên thế giới quan của họ thể hiện rõ nét tính chất duy tâm thần bí.
Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục ở nước ngoài
như Nhật Bản, Trung Quốc, Nga: Xuyên Bản Bang Vệ Truyền kì mạn lục tiểu khảo,
Nghệ văn nghiên cứu; La Hoài Nho học tại Việt Nam; Trịnh Vĩnh Thường Hán văn
văn học tại An Nam đích hưng thệ, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán; Trần Ích
38. 32
Nguyên Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục; M. Tkachov
với Bậc thầy của những chuyện kì diệu sáng tạo từ đất Hải Dương, v.v.. Ngày nay
chúng ta chưa biết gì thêm về Nguyễn Dữ ngoài những thông tin mà các cụ xưa như
Hà Thiện Hán trong Lời tựa sách Truyền kì mạn lục; Vũ Khâm Lân trong bài Phả kí
ở sách Đại Việt sử loại tiệp lục đánh giá là một “thiên cổ kỳ bút”. Trong sách Công
dư tiệp ký của Vũ Phương Đề viết: “Dữ ở ẩn không làm quan, viết Truyền kỳ mạn
lục, phần nhiều được ông (Nguyễn Bỉnh Khiêm) phủ chính nên trở thành một “thiên
cổ kỳ bút”. Đến Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục và Toàn Việt thi lục; Bùi Huy
Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển; Phan Huy Chú trong Lịch
triều hiến chương loại chí cũng có nhắc đến tiểu sử Nguyễn Dữ dù chỉ rất sơ lược,
ông viết: “Truyền kỳ mạn lục, bốn quyển. Dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại khái bắt
chước Tiễn đăng tập của một nhà nho đời Nguyên. Tập này cộng 20 truyện. Dữ
người Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu”; Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn nghệ Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1988 do Trúc Khê và Ngô Văn Triện dịch; Cù Hựu, Nguyễn
Dữ, Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1999 do
Trúc Khê, Ngô Văn Triện và Trần Thị Băng Thanh biên dịch, giới thiệu và chỉnh lí.
Viết về Truyền kỳ mạn lục, trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
Nguyễn Đăng Na có nhận định: Nguyễn Dữ là người đầu tiên dùng thuật ngữ
“Truyền kỳ” đặt tên cho tác phẩm của mình. Có thể nói ông là cha đẻ của loại hình
truyền kỳ Việt Nam.
Trong số các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ thì đáng chú ý nhất là
công trình Truyền kỳ mạn lục của tác giả Trần Thị Băng Thanh giới thiệu và chỉnh
lý, Nxb Văn học, Hà Nội, năm 2001. Theo đó thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm
duy nhất của Nguyễn Dữ còn lại cho đến ngày nay. Cuốn sách gồm 20 truyện, được
chia làm 4 quyển, và viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện Truyền kỳ mạn lục chủ
yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát
từ truyền thuyết các vị thần mà đến thời hiện nay vẫn còn. Tác phẩm muốn gửi tới ý
tưởng phê phán nền chính trị rối loạn, không còn kỷ luật trật tự “Dường như
Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc