Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành văn học Việt Nam với đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000, cho các bạn làm luận án tham khảo
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
PHAN THÚY HẰNG
YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2019
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
PHAN THÚY HẰNG
YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 9220121
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
2. PGS.TS. HOÀNG THỊ HUẾ
HUẾ - NĂM 2019
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên
cứu và các dẫn liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực, chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Phan Thúy Hằng
4. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
VHDG : Văn hóa dân gian
Nxb : Nhà xuất bản
ĐHSP : Đại học Sư phạm
ĐHQG : Đại học Quốc gia
KHXH&NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
LATS : Luận án Tiến sĩ
5. iii
Lời Cảm Ơn
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Hoàng Thị Huế đã tận tình
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
đại học trường Đại học Khoa học Huế đã tạo điều kiện thuận lợi,
Ban chủ nhiệm cùng các thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học
Khoa học Huế đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Khoa học
Xã hội và Nhân văn trường Đại học Khánh Hòa và các đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn gia đình, những người đã luôn sát cánh
và động viên tôi trong thời gian qua.
Huế, ngày 15 tháng 5 năm 2019
Tác giả luận án
Phan Thúy Hằng
MỤC LỤC
6. iv
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN...................................... ii
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................... iii
MỤC LỤC................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................2
3. Đối tượng nghiên và phạm vi nghiên cứu .......................................................................3
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu...................................................................3
5. Đóng góp mới của luận án................................................................................................4
6. Cấu trúc của luận án..........................................................................................................5
NỘI DUNG ................................................................................................................6
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam
trước năm 1986 .......................................................................................................6
1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945 .......................................................6
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1985....................................................................10
1.2. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1986.......................................................................................................................15
1.2.1. Những nghiên cứu chung về vai trò của văn hóa dân gian đối với tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986.................................................................................15
1.2.2. Những nghiên cứu cụ thể về sự hiện diện của yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ................................................................17
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài.............................22
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu................................................................22
1.3.2. Hướng triển khai đề tài............................................................................24
Chương 2: VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 ............................................................................26
2.1. Khái lược về văn hóa dân gian và mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại ......................................................................................26
2.1.1. Khái niệm văn hóa dân gian....................................................................26
2.1.2. Nhận diện các thành tố của văn hóa dân gian.........................................29
7. v
2.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại .32
2.2. Tác động của văn hóa dân gian đến tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 ....39
2.2.1. Văn hóa dân gian với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật..........................39
2.2.2. Văn hóa dân gian với sự cách tân về nghệ thuật thể hiện.......................43
2.3. Các tín ngưỡng dân gian - nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo của nhà văn....46
2.3.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những người đã khuất...........................47
2.3.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên .................................................................52
2.3.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu ...............................................................................55
Chương 3: YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 - NHÌN TỪ THẾ GIỚI NHÂN VẬT, KHÔNG
GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT...............................................................59
3.1. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ thế giới nhân vật ........................................59
3.1.1. Nhân vật trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, dòng tộc ......59
3.1.2. Nhân vật tâm linh....................................................................................66
3.2. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ không gian nghệ thuật................................71
3.2.1. Không gian hiện thực gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng..................71
3.2.2. Không gian huyền ảo, siêu thực..............................................................74
3.3. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ thời gian nghệ thuật ...................................84
3.3.1. Thời gian phiếm định và sự huyền thoại hóa thời gian hiện thực...........84
3.3.2. Thời gian kì ảo ........................................................................................90
Chương 4: YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN 2000 - NHÌN TỪ NGÔN NGỮ, MOTIF VÀ BIỂU TƯỢNG ............97
4.1. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ ngôn ngữ ....................................................97
4.1.1. Sử dụng nhuần nhị thành ngữ, tục ngữ ...................................................97
4.1.2. Ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, đan xen văn xuôi lẫn văn vần.................102
4.2. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ hệ thống motif..........................................108
4.2.1. Motif cái chết - ma hiện hồn .................................................................108
4.2.2. Motif báo ứng........................................................................................115
4.3. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ hệ thống biểu tượng.................................120
4.3.1. Biểu tượng Đất......................................................................................122
4.3.2. Biểu tượng Nước...................................................................................127
4.3.3. Biểu tượng Vật......................................................................................134
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian (VHDG) và văn học viết không phải là
một vấn đề mới. Nó xuất hiện ngay từ những ngày đầu hình thành văn học viết. Là
hai loại hình nghệ thuật khu biệt tương đối trong tất cả các tiêu chí và cách thức
phân loại, văn hóa dân gian và văn học viết có sự tương tác đa chiều. Đây là một tất
yếu và sự thâm nhập văn hóa dân gian vào văn học viết cũng là một quy luật dĩ
nhiên của tiến trình lịch sử. Từ việc đơn thuần chỉ ra các yếu tố dân gian thuộc
phạm vi hình thức (như motif, hình ảnh, cốt truyện, ngôn ngữ, thể loại…), người ta
đã nhìn sâu hơn đến chiều kích tư tưởng, tinh thần (như tín ngưỡng, các nghi lễ, tập
quán dân gian) thể hiện trong các sáng tác văn học. Trước kho tàng văn hóa dân
gian vô cùng phong phú, mỗi nhà văn tiếp nhận đến đâu, tiếp nhận như thế nào và
thể hiện “tri thức dân gian” ra sao lại tùy thuộc vào tài năng và cá tính của tác giả.
Quá trình tiếp biến văn hóa này diễn ra xuyên suốt và liên tục trong lịch sử văn
học. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu sự ảnh hưởng chủ yếu nhằm bảo tồn cốt lõi folklore
truyền thống, yếu tố văn hóa dân gian xuất hiện trong các tác phẩm thường chuyên
chở những bài học đạo đức khuyên răn như mục tiêu, do vậy nó mang hơi hướng văn
học “chức năng” nhiều hơn. Thực sự phải đến sau 1986, tiếp nhận văn hóa dân gian
trong văn học viết mới được đẩy lên cao thành một trào lưu, một xu hướng thực sự
đem lại giá trị nhiều mặt trong văn chương. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 chứng
kiến những thay đổi và cách tân mạnh mẽ chưa từng thấy trong tư duy nghệ thuật của
nhà văn và cấu trúc tự sự của tác phẩm. Một trong những biểu hiện thú vị nhất của
công cuộc đổi mới sôi động này, không hẳn là ở sự sản sinh ra những chất liệu và
nhân tố nghệ thuật mới, mà ở sự tiếp thu và “tái sử dụng” tích cực những yếu tố tự sự
truyền thống - đặc biệt là các yếu tố tự sự dân gian. Quá trình tái sinh, sự quay trở về
với các yếu tố dân gian không đơn thuần là lặp lại cái cũ, cái lạc hậu, khuôn mòn,
cũng không phải là bước đi thụt lùi, mà qua cái cũ để tạo ra những giá trị mới, một
phương thức mới trong sáng tạo văn học. Rất nhiều nhà văn hiện đại đã thành công
và khẳng định tên tuổi với thử nghiệm đó như Đào Thắng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc
Trường, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương…
10. 2
Việc vận dụng lý thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tiểu thuyết giai
đoạn này giúp lí giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá
được bao hàm bên trong nó. Đồng thời cung cấp cho người đọc một cái nhìn hệ
thống những dấu ấn đặc trưng cũng như phương thức tồn tại của các yếu tố văn hóa
dân gian trong tiểu thuyết giai đoạn 1986 đến 2000. Qua đó rút ra quy luật vận động
của văn hóa, văn học, khẳng định những đóng góp của thể loại tiểu thuyết trong tiến
trình phát triển của lịch sử văn học. Đó chính là lí do chúng tôi chọn đề tài này Yếu
tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000
hướng đến các mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, luận án hệ thống lại tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau năm 1986. Chúng tôi cố gắng chỉ ra những
vấn đề đã được giải quyết thấu đáo cũng như những vấn đề còn bỏ ngỏ nhằm nghiên
cứu một cách hệ thống nhất đề tài của luận án.
Thứ hai, mục tiêu chính yếu của luận án là khám phá sự hiện diện cũng như
những tác động của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
2000 trên bình diện ý thức nghệ thuật và cách thức tổ chức trần thuật. Từ đó, luận
án nhận định, đối thoại trên tinh thần nhận thức lại những yếu tố của văn hóa dân
gian trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, góp phần khẳng định những đóng góp
mới nhằm đánh giá đúng bước tiến thể loại trong diễn trình hội nhập.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa tình hình nghiên cứu sự hiện diện của yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau 1986, lý giải nhằm làm rõ hơn những vấn
đề còn bỏ ngỏ và xác định hướng nghiên cứu cụ thể của luận án.
- Xác định rõ tiền đề cơ sở cũng như sự tác động của văn hóa dân gian đến tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000
- Đi sâu làm rõ những tác động của văn hóa dân gian đến những phương diện
cụ thể trong tiểu thuyết giai đoạn này như: tín ngưỡng, nhân vật, không gian và thời
11. 3
gian nghệ thuật, ngôn ngữ, motif và biểu tượng. Từ đó chỉ ra những kế thừa, cách
tân, những thay đổi trong ý thức nghệ thuật của các nhà văn nhằm kiến tạo một hiện
thực nghệ thuật mới, biểu đạt những suy tư của họ về xã hội đương đại. Đặc biệt, do
đặc trưng thể loại và xu hướng tiếp nhận tự sự hậu hiện đại sau 1986 nên văn hóa
dân gian trở thành một trong những đối tượng tiếp nhận của tiểu thuyết để giải
quyết nhu cầu gia tăng sự dung hợp và làm mới thể loại. Vì vậy, văn hóa dân gian
sẽ góp phần tạo dấu ấn liên văn bản và tính đối thoại của tiểu thuyết giai đoạn này.
3. Đối tượng nghiên và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung vào các tiểu thuyết từ 1986 đến
2000 có chứa yếu tố văn hóa dân gian qua những hiện tượng văn học nổi bật như:
Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma), Trịnh Thanh phong (Ma
làng), Tạ Duy Anh (Lão Khổ), Dương Hướng (Bến không chồng), Lê Lựu (Chuyện
làng Cuội)…Danh mục cụ thể các tác phẩm khảo sát trong luận án chúng tôi sẽ đưa
vào phần Phụ lục.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những yếu tố văn hóa dân gian thể hiện trong
thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2000 trên các phương diện cơ bản sau: tín
ngưỡng, thế giới nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, hệ thống motif, biểu
tượng và ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, để có có cái nhìn nhiều
chiều, liên tục và toàn diện, luận án sẽ khảo sát thêm một số tiểu thuyết trước 1986
và sau 2000 có sự ảnh hưởng nét của văn hóa dân gian.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Để nghiên cứu đề tài Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ
1986 đến 2000, chúng tôi dựa trên hệ thống lí thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa
dân gian với văn học đã được các nhà nghiên cứu công bố trên các chuyên luận, các
tạp chí có uy tín. Từ đó, soi chiếu vào những biểu hiện của văn hóa dân gian trong
tiểu thuyết Việt Nam mười lăm năm cuối thế kỉ XX cả về nội dung và hình thức nghệ
thuật để thấy được những đóng góp và sáng tạo của các nhà tiểu thuyết giai đoạn này.
12. 4
Ngoài lí thuyết cơ bản nêu trên, trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi
còn vận dụng các lí thuyết về folklore, dân tộc học, xã hội học của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước để có cái nhìn vấn đề nhiều chiều và toàn diện hơn. Đặc
biệt, chúng tôi chú ý dấu ấn và ảnh hưởng của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2000 được thể hiện đậm nhạt khác nhau ở
từng tác giả và tác phẩm cụ thể.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn hóa học: Đây được coi là phương pháp nghiên cứu trọng
tâm của luận án. Người viết sử dụng phương pháp này nhằm vận dụng các quan điểm
và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải các
yếu tố văn hóa dân gian xuất hiện trong các tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng kiến thức của các ngành khoa học xã hội
khác như: văn hóa, lịch sử, triết học, tôn giáo...để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu một
cách toàn diện nhất có thể.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để thấy sự kế thừa và cách tân về mặt nội
dung cũng như hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam khi tiếp nhận các yếu
tố của văn hóa dân gian.
- Phương pháp thi pháp học: Phương pháp này chủ yếu tập trung làm rõ những
phương diện về không gian và thời gian nghệ thuật.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được vận dụng trên quan
điểm tiếp cận văn bản học, nhằm thống kê, hệ thống hóa, phân loại và chọn lọc các
tác phẩm có sự xuất hiện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ
1986 đến 2000. Từ đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát lên
những yếu tố văn hóa dân gian biểu hiện trong các tiểu thuyết giai đoạn này về mặt
nội dung cũng như phương thức thể hiện. Qua đó chỉ ra những tác động của các yếu
tố văn hóa, văn học dân gian trong việc thể hiện đời sống của tác phẩm.
5. Đóng góp mới của luận án
- Qua việc đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu, luận án đã hệ thống
hóa tư liệu và đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn về những biểu hiện của văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trước và sau năm 1986.
13. 5
- Nêu và lí giải được những biểu hiện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 qua nhiều vấn đề cụ thể như: đời sống văn hóa
tâm linh, phong tục tập quán, tín ngưỡng, việc sử dụng các motif dân gian, biểu
tượng, ngôn ngữ, thế giới nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật.
- Đề tài góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan về vai
trò của văn hóa dân gian đối với tiểu thuyết giai đoạn 15 năm cuối thế kỉ XX, cho
thấy sự tương tác giữa văn học và văn hóa dân gian. Đồng thời góp phần khẳng định
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một hướng nghiên cứu cần thiết
trong nghiên cứu văn học hiện nay.
- Với nghiên cứu có hệ thống những biểu hiện của các yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết sau 1986, luận án sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những
ai quan tâm nghiên cứu sâu hơn về tiểu thuyết giai đoạn này.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài sẽ được triển khai
thành bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Văn hóa dân gian và sự tác động đến tiểu thuyết Việt Nam từ
1986 đến 2000.
Chương 3: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
2000 - nhìn từ thế giới nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật.
Chương 4: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết từ 1986 đến 2000 - nhìn
từ ngôn ngữ, motif và biểu tượng.
14. 6
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam
trước năm 1986
1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945
Đầu thế kỷ XX đến 1945 văn học Việt Nam đã vận động sang phạm trù mới:
Văn học hiện đại. Tiểu thuyết giai đoạn này thực sự khởi sắc với những đóng góp
đáng ghi nhận. Những tên tuổi ở giai đoạn đầu phải kể đến Hồ Biểu Chánh, Trần
Quang Nghiệp, Nguyễn Chánh Sắt, tiếp đến là những tác giả tiêu biểu của hai dòng
văn học hiện thực phê phán (1930-1945) như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng và văn học lãng mạn (1932 - 1945) gắn với tên tuổi
của nhóm Tự lực văn đoàn với ba cây bút chính Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng.
Bên cạnh việc tiếp thu những ảnh hưởng từ lớn từ văn hóa phương Tây, đặc biệt là
Pháp thì tiểu thuyết giai đoạn này vẫn chịu sự chi phối của văn hóa phương Đông
và truyền thống văn hóa dân tộc để xây dựng nên một nền tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại song vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu tiểu thuyết Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn hóa, xã hội và phong
tục là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, không chỉ trước đây mà cả
sau này. Năm 1941, trong công trình nghiên cứu Ba mươi năm văn học, Mộc Khuê
khi bàn về tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam đã chia tiểu thuyết thành chín loại. Sau
đó, ông lần lượt đi vào từng loại và giới thiệu những nhà văn cùng với một vài tác
phẩm tiêu biểu. Đến loại tiểu thuyết phong tục, ông cho rằng: “Phong tục tiểu thuyết
về miền thượng du Bắc Kỳ gồm Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn,
Truyện lạ đường rừng), về miền sơn cước Trung kỳ của Lưu Trọng Lư (Khói lam
chiều, Chiếc cáng xanh) của Trần Tiêu (Con trâu, Chồng con) và nhất là quyển Lều
chõng của Ngô Tất Tố” [70, tr. 51]. Như vậy, ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu
Mộc Khuê đã công nhận có sự tồn tại của thể tài tiểu thuyết phong tục. Và trong số
15. 7
những tiểu thuyết thuộc nhóm Tự lực văn đoàn, ông xếp Con trâu và Chồng con
của Trần Tiêu vào loại tiểu thuyết phong tục viết về một vùng miền của đất nước.
Công trình nghiên cứu Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm ra đời
cũng đã công nhận: “Công việc của Tự lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã
hội và đường văn học” [23, tr.21]. Theo Dương Quảng Hàm, phong tục tập quán
thời xưa vừa có mặt hay, mặt không hay. Tác phẩm của các nhà văn Tự lực văn
đoàn có quan tâm phản ánh phong tục tập quán nhưng chưa thật xác đáng. Như tục
đàn bà góa phải thủ tiết thờ chồng trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh chẳng
hạn. Nhà văn chỉ chủ yếu tập trung làm rõ những ràng buộc khắt khe đối với người
phụ nữ mà chưa đề cập đến ý nghĩa cao đẹp của tục lệ. Dù vậy nhưng nhà nghiên
cứu văn học Dương Quảng Hàm vẫn dành nhiều lời khen tặng cho nhóm văn Tự lực
văn đoàn và đánh giá rất cao chủ trương cải cách xã hội của họ.
Năm 1942, Vũ Ngọc Phan cho ra mắt công trình Nhà văn hiện đại. Riêng
trong nhóm Tự lực văn đoàn, khi đi vào giới thiệu từng nhà văn, Vũ Ngọc Phan đã
chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu và đưa ra nhiều đánh giá rất cụ thể. Đến sáng tác
của Trần Tiêu, Vũ Ngọc Phan khẳng định: “Tuy là tả dân tình, phong tục làng Cầm,
nhưng Con trâu thật là một cuốn tả sự sống và tính tình phong tục của người dân
quê miền Bắc” [59, tr.784]. Nhìn chung, vị trí, vai trò của những tiểu thuyết có nội
dung phong tục của nhóm văn này đều được các nhà nghiên cứu công nhận. Chỉ có
điều do tình hình văn hóa xã hội lúc này nên trong giới nghiên cứu chưa có người đi
sâu khai thác những đóng góp ấy một cách cụ thể.
Đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn của Phạm Thị Minh Tuyền (Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh)
một lần nữa đã tiến hành tìm hiểu một cách toàn diện những vấn đề phong tục trong
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Qua đó, bức tranh
về con người, xã hội những năm 1930 đến 1945 với những truyền thống tốt đẹp của
cha ông cần được giữ gìn và cả những hủ tục cần loại bỏ hiện lên đậm nét. Ngoài ra
vấn đề này còn được đề cập trong một số công trình khác như: Bình giảng về Tự lực
văn đoàn (Nguyễn Văn Xung), Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 - 1945 (Thanh
Lãng), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam
16. 8
1930 - 1945 (Nguyễn Đăng Mạnh)... Ngoài những cây bút lý luận phê bình cũ, từ
thập niên 90 đến nay, nghiên cứu về Tự lực văn đoàn ta còn phải kể đến khá nhiều
gương mặt mới như Nguyễn Hữu Hiếu, Lê Thị Dục Tú, Phạm Thanh Hùng, Trịnh Hồ
Khoa...Tất cả đã tạo được một không khí sôi nổi, khách quan, và khoa học nhằm đưa
đến những nhận định công bằng, thấu đáo khi đánh giá về vai trò, vị trí của nhóm văn
này trong nền văn học dân tộc. Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu văn
chương Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn hóa xã hội và phong tục, chúng tôi nhận
thấy rằng: từ trước cho đến nay, Tự lực văn đoàn là nhóm văn duy nhất có sáng tác
gây được nhiều sự chú ý trong công chúng. Và Tự lực văn đoàn với những đóng góp
cho nền văn hóa, phong tục nước nhà cũng là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu
ghi nhận. Tuy nhiên, sự phân tích và lí giải vấn đề vẫn chưa thật thỏa đáng.
Bàn về vấn đề tâm linh trong văn học giai đoạn này, Trần Đình Sử trong bài viết
“Văn học và văn hóa tâm linh” khẳng định tâm linh vốn tồn tại từ rất lâu trong đời
sống con người và cả trong văn học từ sơ khai đến hiện đại. Đối với khoa học, tâm
linh là lĩnh vực của những điều chưa thể chứng minh bằng khoa học. Nhưng đối với
văn hóa, đó là lĩnh vực của “phong tục” (Phan Kế Bính), là “nếp cũ” (Toan Ánh)
thấm sâu trong tiềm thức con người. Ông cho rằng “Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa
và hiện thực chủ nghĩa thuộc giai đoạn 1932 -1945 vừa có thế giới quan khoa học,
vừa có yếu tố văn hóa tâm linh, vẫn miêu tả con người mang tâm linh ấy” [71, tr.45].
Văn xuôi quốc ngữ ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX đã đặt dấu ấn khá đậm nét về
văn hoá vùng Nam Bộ gắn với tên tuổi của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Q. Thắng trong công trình nghiên cứu Văn học Việt Nam nơi miền đất
mới (2007) cho rằng: “Hồ Biểu Chánh là một nhà văn sung sức nhất ở Nam Bộ hồi
đầu thế kỷ XX với một văn phong đậm màu sắc “Miệt vườn Lục tỉnh Nam Kỳ” [76,
tr.1010]. Tuy nhiên, tác giả này cũng chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu một số tác
phẩm mà chưa đi sâu làm rõ sắc thái “miệt vườn Lục tỉnh” trong sáng tác của nhà
văn Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Phong Nam khi nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
nhận xét: “Hồ Biểu Chánh cũng là nhà văn thể hiện rất thành công cái diện mạo văn
hóa Nam bộ xưa trong tác phẩm của mình. Hồ Biểu Chánh đã rất thành công ở thể
loại tiểu thuyết phong tục - điều không nhiều nhà văn đương thời làm được. Đây
cũng là nét độc đáo của văn chương Hồ Biểu Chánh” [52, tr.92].
17. 9
Năm 2014, Luận văn Thạc sĩ Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh của Phạm Thị Minh Hà đã tiến hành khảo sát những bản sắc địa
phương của Nam Bộ được phản ánh trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Điểm
đáng lưu ý đó là tác giả đã chỉ ra nét đặc sắc nhất mà những nhà văn khác không có
được chính là chất Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đọc tiểu thuyết
của ông, độc giả nhận ra dấu ấn địa phương, chất vùng miền đậm đặc trong từng
trang viết. Nghiên cứu về VHDG trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có rất nhiều
bài nghiên cứu khác như: Đặc điểm khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh của Châu Minh Hiền; Cuộc sống ở nông thôn Nam bộ trong một số tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh và Đời sống văn hoá ở nông thôn Nam bộ trong một số tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh của Huỳnh Thị Lan Phương, Hồ Biểu Chánh - nhà văn
đến hiện đại từ truyền thống của Võ Văn Nhơn...
Khi nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, bên cạnh việc khai thác những nội dung
mang tính thời cuộc, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến yếu VHDG thể hiện trong
mỗi tác phẩm. Trong sách Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 2), khi đề cập đến
tiểu thuyết phóng sự của Nguyễn Công Hoan, Phan Cự Đệ nhận xét: “Trong tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, ta thấy ông băn khoăn nhất về những sự đụng chạm
giữa cái giàu và cái nghèo trong xã hội. Sự xung đột giữa kẻ giàu, người nghèo là
cái cốt của hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan” [19, tr.8].
Có thể thấy, dù vô tình hay hữu ý thì chúng ta không khó nhận ra sự tiếp nhận
những yếu tố từ văn học truyền thống bởi xung đột giàu - nghèo, thiện - ác vốn là
motif xuất hiện từ trong văn học dân gian. Nguyễn Công Hoan và các nhà văn cùng
thời đã lồng ghép khéo léo giữa việc phản ánh hiện thực bằng những xung đột hình
thành từ nền văn học sơ khai của dân tộc. Phần lớn những đánh giá của các nhà
nghiên cứu khi bàn về tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh vấn đề này.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, quyển tư (tập 3) cũng cho rằng: “Tất cả
tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, dù là truyện ngắn hay truyện dài, đều là tiểu
thuyết tả thực, tiểu thuyết tả về phong tục Việt Nam, về hạng trung lưu và hạng
nghèo” [60, tr.49]. Huỳnh Như Phương khi nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học
18. 10
và văn hóa cho rằng “Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục”
[62] với những tác giả am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc
làng và Lều chõng, Trần Tiêu với Con trâu và Chồng con, Mạnh Phú Tư với Làm lẽ
và Sống nhờ, … Tất nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu
tả phong tục đó, nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về
phong tục, các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ
một thái độ trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời
đại mới vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc. Nhìn chung, các nhà
nghiên cứu bên cạnh tìm hiểu nội dung cũng như nghệ thuật, đã ít nhiều đề cập đến
khía cạnh VHDG tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực nửa đầu thế kỉ XX.
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1985
Khi đánh giá về văn học giai đoạn này, Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên
cứu “Văn học và văn hóa tâm linh trong tiến trình lịch sử” cho rằng đây là giai đoạn
văn học gắn liền với mô hình văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ưu tiên cho sự vận
động của quy luật đấu tranh và sự tất thắng của cách mạng. Cho nên, trong bối cảnh
ấy những những biểu hiện của VHDG trong tiểu thuyết giai đoạn này có nhiều hạn
chế, đặc biệt là văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, tiểu thuyết cũng mang một nhiệm vụ
trung tâm như tất cả các thể loại khác, đó là phản ánh hiện thực cách mạng, phục vụ
chính trị, gắn bó với phong trào quần chúng nhân dân, cho nên văn học có xu hướng
“quay về tìm kiếm trong văn học truyền thống những biểu tượng đủ sức lay động và
kết nối cộng đồng” [21, tr.22]. Và “văn học giai đoạn 1945 – 1985 rất hiệu quả
trong việc khơi thức tâm thức văn hóa cộng đồng…Nó cũng là một phương diện tạo
nên nét đặc điểm độc đáo của văn hóa và văn học thời chiến” [21, tr.22].
Tìm hiểu ảnh hưởng VHDG trong tiểu thuyết giai đoạn này dù không có
những công trình tiêu biểu, song tự bản thân người sáng tác đã mang văn hóa dân
tộc thấm đẫm trong từng trang viết khi họ đi thực tế đến những vùng đất mới của tổ
quốc để viết. Nếu hút nhụy dân gian từ vùng đất Nam bộ ta sẽ có Đất rừng phương
Nam của Đoàn Giỏi, dân gian từ Tây Nguyên hùng vĩ đã sinh ra Đất nước đứng lên
của Nguyên Ngọc. Nguồn mạch dân gian cũng là cơ sở để nhiều tiểu thuyết giai
đoạn này thành công và đầy sức ám gợi.
19. 11
Khi nhắc đến Đoàn Giỏi người ta nghĩ ngay đến tác phẩm Đất rừng phương
Nam. Ông chọn con đường quay về cội nguồn văn hoá dân tộc, mà chính xác là văn
hoá Nam Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời sống thực
tế, làm sống lại nhiều vấn đề về đất và con người nơi đây. Huỳnh Mẫn Chi trong bài
viết về “Đoàn Giỏi và áng văn của đất, của rừng phương Nam” đã nhận xét: “Với
rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông, con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn, Đoàn
Giỏi như gửi trọn vào tác phẩm của mình. Tác phẩm này đã mang đến người đọc
nhiều thú vị về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ”
[11]. Tiểu thuyết chính là tác phẩm nổi bật nhất trong quá trình sáng tác của ông bởi
bối cảnh câu chuyện rất đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ. Ma Văn Kháng trong bài
viết Lời tưởng niệm - trên báo Văn nghệ số ra ngày 3/4/1999 đã cho rằng: “Đọc Đất
rừng phương Nam, tình yêu đất nước của chúng ta, một lần nữa giàu có thêm, vì
trong văn ông, tình yêu đất nước bắt nguồn và liên hệ bền chặt với sự độc đáo của
nền văn hóa lâu đời của dân tộc”. Còn trong tập tiểu luận - phê bình Tiếng vọng
những mùa qua của Nguyễn Thị Thanh Xuân lại nhận định một cách đầy trân trọng
về Đoàn Giỏi: “Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về
một vùng đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người. Ông đã
xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa…” [97,
tr.113]. Các bài nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm Đất rừng phương Nam tuy còn
rải rác khác chưa hệ thống, song đã cung cấp một cách tìm hiểu về văn hóa vùng
miền khi nghiên cứu văn hóa dân gian trong các tác phẩm văn học.
Cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa vùng miền khi sáng tác, Nguyên
Ngọc là một nhà văn gắn liền với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng gió. Tiểu thuyết
Đất nước đứng lên của ông đã đi vào lòng thế hệ bao bạn đọc khi tái hiện hình ảnh
anh hùng Núp và cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của nhân dân Tây Nguyên.
Góp phần vào thành công của của tác phẩm còn là dấu ấn đậm nét của miền đất Tây
Nguyên hùng vĩ. Hoàng Sĩ Nguyên và Lê Thanh Toàn đề cập và phân tích khá
nhiều khía cạnh mang đậm nét văn hóa dân gian Tây Nguyên trong sáng tác của
Nguyên Ngọc, trong đó có tiểu thuyết Đất nước đứng lên như: Văn hóa làng, văn
hóa lễ hội, văn hóa nhà Rông, văn hóa cồng chiêng cùng với thiên nhiên hoang sơ
20. 12
hùng vĩ...Đồng thời nhấn mạnh: “Tây Nguyên với bề dày lịch sử hàng nghìn năm đã
hình thành và lưu giữ nhiều giá trị văn hoá độc đáo. Sáng tác của Nguyên Ngọc là
những phác họa chân thật, sinh động về văn hoá Tây Nguyên, đem đến cho người
đọc những hiểu biết về Tây Nguyên khác hẳn với những nhà văn trước đây đã viết
về miền núi và dân tộc thiểu số [54, tr.52]. Như vậy đa số những bài nghiên cứu đều
thừa nhận Nguyên Ngọc đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể trong những sáng
tác về Tây Nguyên. Sở dĩ có được thành công này là nhờ những hiểu biết phong phú
và sâu sắc về văn hóa và con người nơi đây. Ngoài ra, quan tâm đến sáng tác của
Nguyên Ngọc còn phải kể đến các nhà nghiên Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Đỗ
Kim Hồi... Tuy nhiên, các bài nghiên cứu chủ yếu đánh giá một cách tổng quát sáng
tác của Nguyên Ngọc, nếu đi vào phân tích cụ thể từng tác phẩm thì cũng chỉ đi tìm
hiểu nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật chứ chưa đi vào nghiên cứu tác phẩm
của ông như một giá trị văn hóa, dưới góc nhìn văn hóa.
Đề cập đến yếu tố văn hóa dân gian trong văn học giai đoạn này sẽ là khuyết
thiếu nếu không đề cập đến bộ phận văn học tồn tại dưới chính thể Việt Nam cộng
hòa, đó là bộ phận văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Tuy yếu tố văn
hóa dân gian không phải là đối tượng được các nhà văn bộ phận văn học này xem là
trọng yếu nhưng đứng trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, một số nhà văn
mang tư tưởng yêu nước tiến bộ như Sơn Nam, Vũ Bằng, Võ Hồng…đã có ý thức
giữ gìn văn hóa dân tộc qua những trang văn của mình. Trong các bài nghiên cứu,
phê bình văn học đô thị miền Nam của các tác giả như Nguyễn Đức Đàn, Trần Hữu
Tá, Thạch Phương, Trường Lưu…mặc dù ghi nhận những đóng góp của các nhà
văn thuộc bộ phận văn học này trong việc giữ gìn và bảo lưu những giá trị văn hóa
truyền thống, nhưng bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu thường phần nhiều dựa vào
truyền thống, lấy văn hóa dân tộc để phê phán và đối lập với những biểu hiện của
chủ nghĩa hiện sinh hay tư tưởng vọng ngoại, nô dịch trong văn chương của bộ phận
văn học này. Tuy nhiền, dù khen hay chê thì khi đi vào tìm hiểu những tác phẩm
của các nhà văn này chúng ta không thể phủ nhận tình cảm, tình yêu đối với các giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc khi đất nước cắt chia. Và thực sự phải nói rằng,
sống dưới chế độ cũ, chịu rất nhiều kìm kẹp, để thể hiện rõ tinh thần yêu nước quả
21. 13
thực không dễ, vì thế cảm hứng hiện sinh hiện lên rất rõ nét trong văn chương của
họ là điều dễ hiểu. Trên con đường đi tìm bản thể của chính mình với nỗi lòng của
những người vong quốc thì tình yêu với quê hương đất nước, ý thức lưu giữ, bảo
tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thực sự là điều đáng trân quý,
cần ghi nhận. Trong bài “Những diễn biến mới trong văn học miền Nam vùng tạm
bị chiếm những năm gần đây”, Nguyễn Đức Đàn nhận xét: “Đấu tranh giữa văn hóa
dân tộc lành mạnh với văn hóa nô dịch và suy đồi, vong bản” [18, tr.66.] là cuộc
đấu tranh căng thẳng của văn chương, nghệ thuật. Như vậy, giá trị của văn hóa dân
tộc khẳng định sự tồn tại của dân tộc và có tác dụng đối kháng với văn hóa ngoại
lai. Năm 1967, Nguyễn Ngu Í trong công trình Sống và viết với…đã trình bày chân
thực và khách quan chân dung một số tác giả và đời sống sáng tác đương thời. Khi
viết về Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc, ông cho rằng sắc thái văn hóa địa phương
như là một ưu thế nổi trội của họ: “Bây giờ hễ nói đến miền Nam người ta nhớ ngay
đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam” [40, tr.206]. Cao Huy Khanh với công trình Sơ
khảo 15 năm văn xuôi miền Nam 1955 – 1969 đăng trên nhiều kì của tuần báo Khởi
hành cho rằng: “càng về những năm sau, miền Nam (không khí, mẫu người, ngôn
ngữ) bắt đầu kêu gọi bày tỏ: nếp sinh hoạt điển hình ở miền Nam” [41, tr.8]. Khi
điểm qua hoạt động và thành tựu của nhóm Nhân loại (Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình
Nguyên Lộc), ông đánh giá họ là những người đã “theo đúng truyền thống của
những nhà văn miền Nam điển hình như Hồ Biểu Chánh hay Phú Đức” [42, tr.7].
Cũng trong năm 1970, Tạ Tỵ có cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ và Mười khuôn
mặt văn nghệ hôm nay (1971) giới thiệu các tác giả của bộ phận văn học này mà
ông cho là thành công nhất, trong đó có Sơn Nam, Vũ Bằng, Võ Hồng…Ông gọi
Vũ Bằng là “người trở về từ cõi đam mê” [ 93, tr.193], Sơn Nam là “hơi thở của
miền Nam nước Việt” [ 93, tr.69], còn văn chương Võ Hồng gắn liền với “quê
hương bất hạnh” [93, tr.61]. Năm 2000, Trần Hữu Tá cho ra đời một công trình
tuyển chọn công phu, dày hơn 1000 trang Nhìn lại một chặng đường văn học về bộ
phận văn học yêu nước, tiến bộ khu vục thành thị miền Nam, trong đó ghi nhận
những sáng tác này: “là sự tiếp nối của truyền thống [72, tr.124]; “khẳng định tư
tưởng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc luôn là mạch nguồn chính của văn học
22. 14
Việt Nam” [72, tr.126]. Đồng thời khẳng định giá trị của bộ phận văn học này “làm
giàu cho kho tàng văn học dân tộc” [72, tr.124], vì vậy “xứng đáng được xem xét,
đánh giá một cách trân trọng trong các công trình văn học sử” [72, tr.126]. Và gần
đây nhất, tác giả Nguyễn Thị Thu Trang với chuyên khảo Văn xuôi đô thị miền Nam
giai đoạn 1954 – 1975 nhìn từ các giá trị văn hóa truyền thống đã khảo sát một
cách toàn diện và có hệ thống: Bối cảnh văn hóa và sự phát triển của văn xuôi đô thị
miền Nam; Con người và cách ứng xử với những giá trị văn hóa truyền thống; Nghệ
thuật văn chương và vẻ đẹp của văn hóa truyền thống. Chuyên khảo chú trọng
“những tác phẩm có khuynh hướng đề cao, bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc” [91,
tr.xv] như các tác phẩm của Sơn Nam, Võ Hồng, Vũ Bằng, Nguyễn Văn Xuân…
Cuốn sách không lấy văn xuôi để minh họa cho hệ giá trị tinh thần của dân tộc,
không khảo sát toàn bộ các giá trị văn hóa truyền thống, mà “quan tâm chủ yếu đến
nhận thức và hành động của chủ thể văn hóa truyền thống trong bối cảnh xã hội đô
thị miền Nam giai đoạn 1954 -1975 trong tác phẩm văn xuôi” [91, tr.xvi]. Đặt trong
bối cảnh ấy, truyền thống không chỉ có ý nghĩa là sự tiếp nối, duy trì mà còn là cách
chọn lựa của con người. Quan tâm đến vấn đề này còn có nhiều công trình của các
nhà nghiên cứu khác như: Về tính dân tộc của Thành Duy, Văn học Việt Nam chống
Mỹ cứu nước cuả Thạch Phương, trong đó có phần “Văn học yêu nước tiến bộ trong
lòng các thành thị miền Nam”…
Mặc dù các bài báo, các công trình nghiên cứu không chỉ rõ những biểu hiện
cụ thể của VHDG trong bộ phận văn học này, nhưng thông qua các công trình
nghiên cứu, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự hiện diện của văn hóa dân tộc,
trong đó có VHDG trong tâm thức sáng tạo của nhà văn. Đặc biệt, qua các nghiên
cứu về văn xuôi đô thị miền Nam giúp chúng ta nhận thức, khám phá thêm giá trị
văn chương của một bộ phận văn học vốn chưa được các công trình khoa học đi
trước tìm hiểu và giải quyết đầy đủ. Chúng ta thấy rằng, thành tựu của văn học miền
Nam giai đoạn này cần được đánh giá thỏa đáng, nhất là việc xem xét các giá trị văn
học, giá trị văn hóa truyền thống được thể hiện như thế nào trong các tác phẩm và vì
sao văn xuôi lại quan tâm đến những giá trị văn hóa dân tộc ngay trong quá trình
giao lưu, hội nhập với văn hóa nước ngoài.
23. 15
1.2. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986
Như chúng ta đã phân tích ở trên, mối quan hệ giữa VHDG và văn học viết đã
tồn tại từ rất lâu trong lịch sử văn văn học. Tuy nhiên, ở những giai đoạn trước, các
nhà nghiên cứu chưa thực sự chú trọng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa. Có
chăng chỉ là những công trình nhỏ lẻ và chưa thực sự nhìn nhận đúng vai trò của
VHDG đối với nghiên cứu văn học. Nhưng cần phải nhận thấy rằng, dù ở thời kì
hay giai đoạn văn học nào, bên cạnh việc tiếp thu những thành tựu, tư tưởng,
khuynh hướng quốc tế thì các nhà văn Việt Nam luôn có ý thức giữ gìn và phát huy
những yếu tố của văn hóa dân tộc. Quá trình tiếp biến văn hóa này diễn ra xuyên
suốt và liên tục trong lịch sử văn học, nhưng phải đến “Làn sóng Đổi mới” cuối thế
kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, tiếp nhận VHDG trong văn học mới được đẩy lên cao
thành một trào lưu, một xu hướng, một phương pháp thực sự đem lại giá trị nhiều
mặt trong văn chương. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại sau hàng loạt cách tân, tìm
tòi, đổi mới theo kỹ thuật hiện đại phương Tây thì có một xu hướng tìm về với
VHDG. Tất nhiên đây không phải là hướng đi lạc hậu với những sản phẩm là “bình
cũ rượu mới”. Nó không giống với việc phục hưng lại một nền văn hóa đã qua, mà
nó là một phương thức mới trong sáng tạo văn học. Rất nhiều nhà văn đương đại đã
thành công và khẳng định tên tuổi với thử nghiệm đó như Nguyễn Khắc Trường, Võ
Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương…Không phải
ngẫu nhiên mà hầu hết những tác phẩm văn học đang được đánh giá cao như: Mảnh
đất lắm người nhiều ma, Dòng sông mía, Thiên thần sám hối, Mẫu Thượng ngàn,
Người đi vắng, Những đứa trẻ chết già… đều là những tác phẩm chịu ảnh hưởng
VHDG khá sâu sắc.
1.2.1. Những nghiên cứu chung về vai trò của văn hóa dân gian đối với tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986
Năm 2007, trong bài viết “Văn hoá như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá
văn chương", Nguyễn Văn Hạnh nhấn mạnh cách tiếp cận văn hoá đối với văn
chương và văn chương được xem xét dưới góc độ văn hoá học, hay nhân học văn
hoá. Tác giả đưa ra hàng loạt dẫn chứng về một cách tiếp cận văn hoá trong sáng
24. 16
tạo thi ca, văn chương, qua tác phẩm của nhiều tác giả từ văn học trung đại cho đến
hiện đại. Ông nhận định: “Trong văn học Việt Nam đương đại, một số cây bút văn
xuôi, truyện ngắn, tiểu thuyết, theo những cách và mức độ khác nhau, đã bộc lộ
khuynh hướng tiếp cận văn hoá trong sáng tác nghệ thuật…Trong những tiểu thuyết
như Thời xa vắng củaLê Lựu, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Mùa lá rụng
trong vườn và Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến
không chồng của Dương Hướng, ta dễ nhận thấy khuynh hướng soi sáng các sự
việc, tính cách từ góc nhìn văn hoá” [25].
Năm 2013, với bài viết “Văn hóa dân gian trong văn xuôi đương đại Việt
Nam”, Vũ Thị Mỹ Hạnh đã đi vào khai thác những biểu hiện của văn hóa dân gian
trong văn xuôi đương đại Việt Nam qua hàng loạt tác phẩm của các nhà văn như:
tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Mẫu Thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Bến không chồng của Dương Hướng… “Các nhà
văn đã khai thác những giá trị văn hóa dân tộc để các tác phẩm đó trở nên sống
động. Ở đó, mỗi khúc sông, mô đất, cánh đồng, gốc cây…đều có lai lịch, huyền
tích, và sâu hơn nữa là lịch sử và văn hóa dân tộc…Các tác phẩm văn xuôi hiện đại
đã khai thác và sử dụng những giá trị văn hóa dân tộc như một sức mạnh làm nên
chiều sâu và sức sống trường tồn” [26].
Nguyễn Văn Hùng trong bài viết “Phương thức lựa chọn và thể hiện hiện thực
lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” cho rằng việc Nguyễn Xuân Khánh
tìm tòi, thể thể nghiệm tư duy lịch sử trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn và Hồ
Quý Ly đã làm mới những giá trị vốn có từ truyền thống, làm nên một cuộc cách tân
táo bạo trong thể loại tiểu thuyết lịch sử. Năm 2012, tác giả Hoài Nam trong bài
“Lịch sử và văn hóa - phong tục trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” đã nói về
Nguyễn Xuân Khánh như một “hiện tượng” khi ông quay trở lại văn đàn với tiểu
thuyết Hồ Quý Ly bởi một nét đặc biệt trong tác phẩm của ông, đó là sự đan bện
giữa lịch sử và văn hóa - phong tục. Tiểu thuyết này còn có “điều dường như chỉ
riêng có ở Nguyễn Xuân Khánh: văn hóa - phong tục của thời đại lịch sử đang được
tái hiện” [51]. Và đến hai tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn và Đội gạo lên chùa, thì
25. 17
“trọng tâm cảm hứng của Nguyễn Xuân Khánh chính là văn hóa - phong tục, thứ văn
hóa - phong tục được sinh thành và được tỏa ra, lan thấm vào đời sống từ những hệ tư
tưởng tôn giáo lớn: đạo Mẫu (trong Mẫu Thượng ngàn) và đạo Phật (trong Đội gạo
lên chùa)” [51]…Hầu hết các bài nghiên cứu này đều cho thấy sự hiện diện của
VHDG, điều này chứng tỏ trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà văn luôn giành một
sự trân quý cho văn hóa dân tộc trong đó có văn hóa dân gian. Đặc biệt, thời đại bùng
nổ của khoa học công nghệ, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa luôn được
các nhà văn nói riêng và các nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm.
1.2.2. Những nghiên cứu cụ thể về sự hiện diện của yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
- Những nghiên cứu về yếu tố kì ảo
Trong mô hình văn hóa truyền thống, văn học dân gian là một thành tố quan
trọng. Văn học dân gian vừa là nền tảng, vừa là bộ mặt của VHDG. Vì vậy, chúng
tôi tập trung vào khảo sát những yếu tố của văn học dân gian có mặt trong tiểu
thuyết những năm cuối thế kỷ XX. Trong bài viết “Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo
trong văn xuôi đương đại Việt Nam”, Bùi Thanh Truyền khẳng định ngay từ lúc sơ
khai, văn học Việt Nam đã gắn liền với kì ảo. Tác giả cho rằng “Sự hồi sinh của bộ
phận văn xuôi có yếu tố kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam kể từ sau 1986 đến
nay dẫu còn mang bóng dáng truyền thống, nhưng nhìn chung về mặt hình thức, đây
là những sáng tác in đậm dấu ấn hiện đại từ đề tài, nhân vật đến cốt truyện, ngôn
ngữ, kết cấu...” [88].
Năm 2015, cũng tác giả Bùi Thanh Truyền trong chuyên luận Văn học Yếu tố
kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam với việc bao quát khối lượng tác phẩm
phong phú với 107 tác giả và 253 tác phẩm văn xuôi từ 1986 đến 2010 trên hai
mảng tiểu thuyết và truyện ngắn, tìm hiểu các vấn đề chung về bản chất thẩm mĩ
của yếu tố kì ảo trong văn học, nguyên nhân sự hồi sinh của yếu tố này trong văn
học Việt Nam đương đại, và góc độ mà Bùi Thanh Truyền khảo sát là yếu tố kỳ ảo
trong: nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian, ngôn từ, kết cấu. Chuyên luận là
một đóng góp thiết thực trong nỗ lực mở rộng biên độ phản ánh, chuyển tải một
phạm vi khác lạ vào trong tác phẩm.
26. 18
Hiện nay, những nghiên cứu về văn học kì ảo, huyền thoại (yếu tố của văn học
dân gian) xuất hiện khá nhiều với những khám phá đáng ghi nhận. Trong bài viết
“Thành tựu văn xuôi Việt Nam sau đổi mới từ góc nhìn tương tác thể loại”, tác giả
Trần Viết Thiện khi đánh giá sự vận động, phát triển của tiểu thuyết đã phát hiện
“tiểu thuyết đã được mở ra một chiều hướng mới với sự thâm nhập của yếu tố ngoài
hệ thống: huyền thoại. Tiểu thuyết - huyền thoại là kiểu tương tác đổi ngôi. Sự tham
gia ngày càng đậm nét của yếu tố huyền thoại đã thực sự làm mới đáng kể cho tiểu
thuyết giai đoạn này. Đây là khuynh hướng tiểu thuyết xuất hiện nhiều trong cao
trào đổi mới văn xuôi. Có thể nói đến sương mù kì ảo trong thế giới nghệ thuật của
Lê Lựu, Phạm Khắc Trường, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái…” [78].
Cũng quan tâm đến vấn đề này còn có nhiều bài viết đáng ghi nhận như: “Vai
trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam” của Đặng Anh Đào, “Thế
giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ cái nhìn
văn hóa” của Lê Nguyên Cẩn, Thụy Khuê với “Khuynh hướng hiện thực huyền ảo
trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già” của Nguyễn Bình Phương... Qua việc
khảo sát tình hình nghiên cứu về yếu tố kì ảo trên đây, chúng tôi nhận thấy sự gia
tăng ngày càng nhiều của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại như là
một dấu hiệu cách tân nghệ thuật không thể phủ nhận. Nghiên cứu theo hướng trên,
chúng tôi có cơ sở đầu tiên về cái nhìn giữa mối quan hệ giữa văn học dân gian với
tiểu thuyết sau 1986. Từ đó đưa ra cách nhận định, đánh giá và lý giải của riêng
mình trên tinh thần hấp thu, phát triển những tiền đề đã có.
- Những nghiên cứu về biểu tượng
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học là xu hướng phê bình văn học phổ biến
trên thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù hướng nghiên cứu biểu tượng trong tác phẩm văn
xuất hiện từ khá sớm nhưng dường như chưa có nhiều công trình lớn chuyên sâu,
hầu hết là các bài viết xuất hiện đơn lẻ trên tạp chí và báo mạng. Tuy nhiên, trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, nghiên cứu biểu tượng là một vấn đề được giới
nghiên cứu vô cùng quan tâm với nhiều bài viết có giá trị.
Năm 2015, bài nghiên cứu “Hệ biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại” của Nguyễn Đức Toàn đã khái quát một số biểu tượng nghệ thuật
27. 19
mang tính chất cổ xưa như một phương thức chuyển nghĩa trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, như: Thiên thần, bào thai (Thiên thần sám hối), đêm, mưa (Nỗi
buồn chiến tranh), ngọn nến, hang sâu (Vào cõi), nước, lửa (Giàn thiêu), bức tượng
đá (Hồ Quý Ly), Mẫu, đêm, đất, rừng, trăng, cây đa, rắn thần (Mẫu Thượng
Ngàn)… Tác giả nhấn mạnh những biểu tượng này tham gia trực tiếp vào kết cấu
hình tượng, kết cấu tác phẩm và là hệ quả của quan niệm “tính trò chơi” của văn
chương hiện đại. Nhìn chung, tác giả bài viết chỉ khái quát một vài biểu tượng trong
một số tiểu thuyết nhưng đã mở ra hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp dẫn về hệ biểu
tượng trong tiểu thuyết giai đoạn 1986 đến 2000.
Hai bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Hương “Đình làng - biểu tượng văn
hóa đặc sắc của tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới” và “Văn hóa nông thôn
trong tiểu thuyết sau đổi mới nhìn từ biểu tượng và ngôn ngữ” đã tìm hiểu và liệt kê
một số biểu tượng tiêu biểu của làng quê trong tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi
mới như đình làng, nhà thờ họ, cây đa, bến nước...Tác giả cho rằng sử dụng hệ
thống biểu tượng như là một phương thức tổ chức tự sự, như một ngôn ngữ, các tiểu
thuyết viết về nông thôn sau đổi mới đã tạo nên trường văn hóa, thẩm mỹ riêng. “Sự
xuất hiện đậm đặc các biểu tượng trong không gian truyện kể làm cho thế giới nghệ
thuật của tiểu thuyết viết về nông thôn mang được dấu ấn phong cách riêng trong sự
nở rộ của các đề tài tiểu thuyết sau đổi mới…Tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết viết
về nông thôn, có thể nói, được kiến tạo dựa trên các ý nghĩa của hệ thống biểu
tượng làng quê” [38].
Cũng trong cảm quan này, tác giả Hoàng Thị Huế có bài viết “Một số biểu
tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh”. Bằng
việc tiếp cận tác phẩm trong sự soi chiếu, giải mã từ các biểu tượng mang tâm thức
cộng đồng như hang động, giếng, nước, sông, mưa, lửa, núi rừng, nhân vật nữa, tác
giả đã cho thấy “sức sống của cổ mẫu, huyền thoại, biểu tượng mang tâm thức Mẫu
trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh như những minh chứng sâu sắc nhất cho sự
níu kéo, giăng mắc vào tâm thức văn hóa dân tộc của sáng tạo nghệ thuật” [35].
Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu khác cũng quan tâm đến vấn đề này
như: “Biểu tượng cổ mẫu trong văn xuôi Võ Thị Hảo” của Nguyễn Thị Phương Ly
28. 20
và Lê Thị Hường, “Đi tìm cổ mẫu trong văn chương Việt Nam” của Nguyễn Thị
Thanh Xuân. Đặc biệt, trong Luận án Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ
1986 – 2000, trường Đại học KHXH & NV – Đại học Quốc gia Tp HCM của Trần
Thị Mai Nhân, ở chương 3 của luận án “Những cách tân trong nghệ thuật tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986-2000”, tác giả giành riêng một mục nghiên cứu “Kết cấu
bằng hệ thống biểu tượng” và cho rằng đây là một điểm mới trên phương diện kết
cấu bằng sử dụng hệ thống biểu tượng.
- Những nghiên cứu về văn hóa tâm linh
Một vấn đề cũng được thể hiện khá nhiều trong tiểu giai đoạn này là sự biểu
hiện của vấn đề tâm linh của đời sống con người. Rõ ràng, một trong những nét mới
của tiểu thuyết giai đoạn này là sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người
cũng như cách nhìn và phản ánh đời sống. Các nhà tiểu thuyết đã khai thác con
người ở nhiều khía cạnh như tâm linh, bản năng... để có thể có một cái nhìn toàn
diện hơn về con người.
Trong bài nghiên cứu “Văn học và văn hóa tâm linh”, Trần Đình Sử đã có một
cái nhìn khá toàn diện về sự xuất hiện của yếu tố văn hóa tâm linh trong từng giai
đoạn văn học. Ông cho rằng đây là yếu tố vốn tồn tại trong đời sống và tiềm thức
của con người cũng như văn học từ trước đến nay. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử
và hệ tư tưởng của mỗi thời kì mà yếu tố này có lúc đậm nhạt trong văn học nói
chung và tiểu thuyết nói riêng. Ông cho rằng “Từ sau 1975, các yếu tố tâm linh
ngày càng thâm nhập vào văn học. Đặc biệt từ thời Đổi mới, sáng tác mang yếu tố
tâm linh ngày càng nhiều” [71, tr.46] và “Tâm linh là một diễn ngôn quyền lực,
nhân danh sự huyền bí nhiệm màu để nói những lời nguyền, lời sám hối, lời cầu
khẩn, lời lên án các hiện tượng xấu xa, bạc ác trong hiện thực mà con người chưa có
điều kiện trừ khử” [71, tr.50].
Năm 2006, trong bài viết “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới”, Nguyễn Bích Thu khẳng định: “Các cây bút tiểu thuyết từ sau đổi mới đã có ý
thức đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhận diện con
người đích thực. Sự xuất hiện con người tâm linh biểu hiện sự đổi mới trong quan
niệm nghệ thuật về con người của văn học. Tiểu thuyết bắt đầu tiếp cận với thế giới
29. 21
đằng sau thế giới hiện thực, đó là thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ”
[84]. Có thể thấy rằng, hầu hết các tiểu thuyết sau giai đoạn đổi mới đều tìm cho
mình một hiện thực riêng, đẫm màu sắc tâm linh, vô thức.
Nguyễn Thị Bình trong bài nghiên cứu “Đôi nét về một hướng thử nghiệm của
tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thể kỷ 80 đến nay” bên cạnh việc ghi nhận những
thành tựu của tiểu thuyết đương đại về mặt nghệ thuật, tác giả còn dành nhiều sự
quan tâm đến hiện thực phản ánh trong tác phẩm. Theo tác giả, “đó là một hiện thực
không đáng tin cậy. Đó là những bức tranh đầy ước lệ, không theo logic nhân quả,
không trình bày một hiện thực phổ biến, khả tín mà là những giấc mơ, những ám
ảnh vô thức, những trò diễn của sân khấu múa rối hay của lễ hội hóa trang” [6].
Trong bài viết “Những chiều kích tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại” của Nguyễn Văn Hùng cũng cho thấy yếu tố tâm linh đã trở thành chất liệu
mới, một thành tố nghệ thuật quan trọng trong tư duy của nhà văn. Sự xuất hiện đầy
dụng ý của những yếu tố tâm linh trong các tiểu thuyết ngày càng thu hút được sự
quan tâm, đón đợi của người đọc. Nó “làm nên dấu ấn đặc biệt của tiểu thuyết
đương đại. Mặt khác, tâm linh được dùng làm chất liệu sáng tạo mới đã mang lại
những chân trời rộng mở cho chủ thể sáng tạo cũng như cộng đồng diễn giải. Ở
phương diện chủ thể sáng tạo, nó biểu hiện sâu sắc sự thức tỉnh của cái tôi, góp
phần làm biến đổi kĩ thuật tự sự, trong đó lối viết kì ảo hóa, huyền thoại hóa đã trở
thành phương thức nghệ thuật đắc dụng để mỗi nhà văn thể hiện quan niệm về hiện
thực và con người của mình” [36]. Vấn đề văn hóa tâm linh trong tiểu thuyết giai
đoạn này còn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả khác như: “Vấn đề tâm linh
trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới” của Trần Thị Mai Nhân, “Yếu tố tâm
linh trong tiểu thuyết Việt Nam về đề tài nông thôn thời kì đổi mới” của Bùi Như
Hải... Có thể nói, các công trình nghiên cứu với việc khai thác và khám phá sâu vào
lĩnh vực tâm linh đã mở ra những miền phong phú và đầy bí ẩn khôn cùng của con
người. Với hướng đi này, hiện thực tâm linh trong hành trình sáng tạo của tiểu
thuyết sau thời kỳ đổi mới tiến thêm một bước gần hơn trong nỗ lực tiếp cận con
người một cách đa chiều, toàn vẹn.
30. 22
Có thể nói Nguyễn Xuân Khánh là tác giả giành được nhiều sự quan tâm của
giới nghiên cứu, không chỉ bởi sự thành công về nội dung và cách thể hiện mà còn
bởi bức tranh văn hóa dân gian nhiều màu sắc mà ông thể hiện trong những tiểu
thuyết của mình. Năm 2008, bài nghiên cứu “Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống
văn học Việt Nam” của Dương Thị Huyền đã có những khảo cứu rất đáng ghi nhận.
Tác giả nêu ra cơ sở của “Nguyên lý tính Mẫu” trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
là nền văn hóa bản địa của Việt Nam. Đó chính là văn hóa Thánh Mẫu đã tồn tại
trong tiềm thức của người Việt từ bao đời nay - truyền thống tôn trọng người phụ nữ.
Theo người viết, Nguyễn Xuân Khánh đã lựa chọn, kết tinh những giá trị của nền văn
hóa Việt và gửi gắm nó vào trong tác phẩm của mình: “Thành công của Nguyễn
Xuân Khánh phải chăng sẽ là điểm bắt đầu, là sự mở đường cho thể loại tiểu thuyết
về phong tục tập quán, về văn hóa trong văn học Việt Nam” [37, tr.32-33].
Xoay quanh các tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa
còn có rất nhiều công trình, bài báo nghiên cứu yếu tố VHDG trong những sáng tác
này. Có thể kể đến như: “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh” của Nguyễn Thị Thu Hương, “Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong
tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn” của Trần Thị An, “Mẫu Thượng ngàn - sự diễn giải
về phong tục thờ mẫu của người Việt” của Nguyễn Thị Diệu Linh... Nhìn chung,
các bài nghiên cứu đều phản ánh được những nét độc đáo của VHDG trong tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh, đồng thời đều thống nhất khẳng định thành công và tài
năng của ông khi tiếp cận vấn đề bản sắc văn hóa Việt.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Qua lịch sử tình hình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, VHDG hiện nay không đơn thuần là một hệ thống lí thuyết mà đã
trở thành phương pháp nghiên cứu, một cách tiếp cận hiệu quả để giải mã văn hóa
trong tác phẩm văn học. Và không phải ngẫu nhiên đến sau 1986, các nhà văn nói
chung và các nhà viết tiểu thuyết nói riêng lại có một cuộc quay về nguồn “rầm rộ”
như vậy. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng sự phát triển của văn hóa gắn
liền với vận mệnh dân tộc. Đặc biệt trong xu hướng toàn cầu hóa, thời đại của sự
31. 23
bùng nổ công nghệ số hóa người ta lo lắng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc thì vấn
đề giữ gìn, bảo vệ văn hóa truyền thống càng được quan tâm chú ý vì nhu cầu nhận
thức của dân tộc, vì sự cần thiết của việc quảng bá những nét đặc sắc của văn hóa
Việt Nam, đất nước Việt Nam với thế giới. Vấn đề giữ gìn, phát huy hay khước từ
văn hóa truyền thống đặt ra gay gắt, đầy kịch tính và được phản ánh trong văn học
cả về nội dunhg lẫn hình thức nghệ thuật. Với ý nghĩa đó, văn chương không chỉ
biểu hiện của văn hóa, mà thái độ của nhà văn đối với các giá trị văn hóa truyền
thống cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn học và sự tồn tại của
văn hóa dân tộc. Việc các nhà văn quay lại với các giá trị văn hóa truyền thống và
sự chú trọng của các nhà nghiên cứu đối với vấn đề văn hóa dân tộc, trong đó có
VHDG trong văn học nói chung, tiểu thuyết nói chung thực sự rất đáng ghi nhận.
Thứ hai, cần phải khẳng định rằng, vấn đề VHDG đã được các nhà văn soi
chiếu và tiếp biến vào các tác phẩm văn học từ trước đó. Riêng tiểu thuyết Việt
Nam từ 1986 đến 2000, vấn đề được đề cập khá nhiều, tuy nhiên chưa có công trình
chuyên biệt tập trung nghiên cứu một cách toàn diện. Mặc dù vậy, qua các nghiên
cứu ấy đã chứng minh được sự hiện diện của yếu tố VHDG trong tiểu thuyết giai
đoạn này, đồng thời cho thấy giữa VHDG và tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
2000 thực sự có mối quan hệ mật thiết.
Thứ ba, các bài nghiên cứu chủ yếu dừng lại khai khác vấn đề ở phạm vi nội
dung tư tưởng, ít chạm đến những phương diện nghệ thuật từ góc nhìn VHDG.
Chưa phát hiện, nghiên cứu thấu triệt các yếu tố VHDG xuất hiện trong tác phẩm,
đặc biệt là các phương thức biểu hiện để thấy được sự sáng tạo của tác giả trong quá
trình vận dụng, soi chiếu từ lý thuyết VHDG vào trong sáng tác của mình.
Thứ tư, các bài viết chủ yếu nghiêng về các vấn đề như tín ngưỡng, phong tục
tập quán, các yếu tố tự sự dân gian... trong một vài tác phẩm hoặc một vài tác giả.
Các vấn đề chưa được hệ thống cụ thể, chưa xâu chuỗi thành một hiện tượng trong
các tiểu thuyết ở giai đoạn này.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước mà chúng tôi đã
tìm hiểu trên đây cho thấy vai trò của VHDG đối với sự phát triển của văn học Việt
Nam, đặc biệt là đối với tiểu thuyết 15 năm cuối thế kỉ XX. Phần lớn các bài viết
32. 24
chỉ mới dừng lại ở việc khảo sát và đánh giá khái quát ở một tác giả hay một tác
phẩm. Còn việc tìm hiểu toàn diện và có hệ thống yếu tố VHDG trong tiểu thuyết từ
1986 đến 2000 vẫn là một vấn đề cần thiết. Những ý kiến, thành quả nghiên cứu của
những người đi trước về vấn đề này là gợi dẫn quý báu cho chúng tôi lựa chọn đề
tài Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết từ 1986 đến 2000 để nghiên cứu.
1.3.2. Hướng triển khai đề tài
Như đã phân tích ở trên, VHDG nghiên cứu nhiều vấn đề, từ nghệ thuật dân
gian, ngữ văn dân gian cho đến các tri thức dân gian cùng với tín ngưỡng, phong tục
và lễ hội. Như vậy, VHDG học là một bộ môn khoa học quan tâm đến khá nhiều
vấn đề của đời sống, trong đó có văn học. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án, trên cơ
sở hệ thống lí thuyết và kết quả về folklore, dân tộc học, xã hội học… của các nhà
nghiên cứu, chúng tôi sẽ tiến hành soi chiếu vào những biểu hiện cụ thể của văn hóa
dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam mười lăm năm cuối thế kỉ XX như tín ngưỡng,
nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, motif và biểu tượng để thấy
được những kế thừa và sáng tạo của tiểu thuyết giai đoạn này.
Trên cơ sở thực tiễn nghiên cứu nói trên, luận án dự định sẽ triển khai các
hướng nghiên cứu sau:
Thứ nhất, chúng tôi tiến hành khảo sát sự xuất hiện của yếu tố VHDG trong
tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 nhằm có một cái nhìn tổng quát về những
thông điệp mang sắc thái VHDG mà các tác giả gửi gắm vào trong tiểu thuyết.
Thứ hai, chúng tôi đặt yếu tố VHDG trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến nay để thấy được sự vận động và phát triển đa dạng của tiểu thuyết
giai đoạn này. Và cũng để thấy rằng, bên cạnh nhiều yếu tố khác, VHDG là một
cách tiếp cận thú vị và mang lại hiệu quả thẩm mĩ cao khi tiến hành nghiên cứu, giải
mã tác phẩm.
Thứ ba, từ các vấn đề của lí thuyết VHDG, luận án đi sâu tìm hiểu về mối
quan hệ giữa VHDG với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại; các tín ngưỡng, phong tục
tập quán, các yếu tố tự sự dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 để
làm nổi bật những giá trị hiện thực, tư tưởng mà các tác giả tiểu thuyết giai đoạn
này muốn hướng đến.
33. 25
Thứ tư, luận án tập trung khai thác phương thức thể hiện trong tiểu thuyết Việt
Nam từ 1986 đến 2000 từ góc nhìn VHDG như hệ thống biểu tượng, motif, ngôn
ngữ, nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật. Đây là những phương diện góp
phần tạo nên thành công của tiểu thuyết Việt Nam 15 năm cuối thế kỉ XX.
Đặc biệt, chúng tôi xác định nhiệm vụ chính của luận án này là làm rõ hiệu
quả nghệ thuật của các yếu tố VHDG khi thể hiện nội dung thẩm mĩ cũng như
phương thức nghệ thuật và sự tác động của yếu tố VHDG đối với sự đổi mới tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2000.
Tiểu kết: Việc nghiên cứu một cách có hệ thống yếu tố văn hóa dân gian
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại vẫn là mảnh đất còn nhiều khám phá hấp dẫn,
mới mẻ. Qua việc khảo sát những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy
các bài viết còn nhỏ lẻ, chủ yếu đi sâu vào một vấn đề nhất định. Tuy nhiên, qua
những nghiên cứu có tính chất chỉ dẫn và gợi mở ấy, chúng tôi đặt ra những vấn đề
khoa học cần thiết phải giải quyết trong đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000.
34. 26
Chương 2
VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN 2000
2.1. Khái lược về văn hóa dân gian và mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
2.1.1. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam,
VHDG là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi
phương diện. Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm
con người Việt Nam nếu như không hiểu VHDG.
Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là VHDG thì hiện nay trên thế giới và cả
Việt Nam, thuật ngữ folklore được sử dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William
J.Thoms nêu ra trong tạp chí The Athemneum, London năm 1846 để chỉ “những
cách thức, phong tục, sự hành lễ, chuyện mê tín dị đoan, khúc dân ca, tục ngữ” và
các tư liệu khác của “thời hoàng kim” [81, tr.368]. Quan niệm này hướng nội hàm
của thuật ngữ folklore vào các giá trị tinh thần của cộng đồng người.
Trường phái Đức quan niệm folklore bao gồm “làng xóm, kiến trúc nhà cửa,
cung điện; cây cỏ; tín ngưỡng; tiếng nói; truyền thuyết; truyện cổ tích; dân ca; thư
mục” [68, tr.269]. Điều này có nghĩa là folklore được quan niệm là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần của một dân tộc, tương ứng với thuật ngữ “văn hóa dân
gian” được sử dụng ở Việt Nam hiện nay.
Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách
khoa của Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng,
truyền thống, thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ,
những bản tình ca, dân ca và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó
bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật chất mà ban đầu nó không tính đến” [80, tr.20].
Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ
nhất hiểu folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây,
xu hướng còn lại có xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản
35. 27
folklore là “nghệ thuật ngôn từ”, là sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần
chúng. Theo họ, có thể đồng nhất folklore với văn học truyền miệng. Tiêu biểu là
những ý kiến của các nhà folklore: Iu.M Xocolov: “Folklore trước hết là sáng tác
nghệ thuật thi ca truyền miệng của quần chúng”. Còn V.Ia. Propp lại cho rằng:
“folklore chỉ là những sáng tạo tinh thần, hơn nữa chỉ là những sáng tạo nghệ thuật
ngôn từ” [68, tr.271]. Theo quan niệm này thì folklore tương đương với thuật ngữ
“văn học dân gian” được sử dụng ở nước ta.
Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan
niệm bó hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Trong Bách khoa toàn thư Xô Viết
xuất bản năm 1974 quan niệm rằng: “Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ
thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến
trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội họa được nhân dân sáng tạo ra và sống trong
nhân dân.” [80, tr.95].
Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được
hiểu với những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều
thống nhất về nội dung khái niệm VHDG. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu nhận
xét khái quát: “Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong
folklore học thế giới thì định nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào
sách giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước khác, trong khi đó ở một số nước khác
người ta vẫn thừa nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ dân gian. Còn một
số nước khác nữa, thuật ngữ folklore được gắn với một ý nghĩa rất rộng - folklore là
VHDG bao gồm không chỉ riêng nghệ thuật dân gian mà cả truyền thống dân gian”
[96, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy đều tồn tại ở folklore Việt Nam.
Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan
niệm: VHDG “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu
khắc, nghệ thuật trang trí, v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang tính
chất thẩm mĩ nảy sinh từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên tóm gọn trong
công thức: “folklore là folk culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [15, tr.220].
Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận VHDG như
sau: VHDG “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các các
36. 28
hình tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời kì
lịch sử nhất định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận
thẩm mĩ” [80, tr.35]. Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng
khi cho rằng VHDG bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở
cách tiếp cận dưới góc độ thẩm mĩ.
Mở rộng cách hiểu về VHDG, Phạm Huy Thông cho rằng: “không phải chỉ làn
ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè truyền thống cũng
là những biểu hiện của văn hóa dân gian” [80, tr.119]. Đồng tình với quan niệm
trên, Trần Quốc Vượng có xu hướng mở rộng thành tố của VHDG khi cho rằng:
“Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống làm ăn thường ngày
(ăn, mặc, ở, đi lại) đến đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh
cầu, đánh phết), hát hò (hát đò đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống
tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [80, tr.124].
Theo Chu Xuân Diên, để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của VHDG,
chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó. Cụ thể,
“folklore bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các tác
phẩm văn học dân gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,v.v…cả những
thành tố là những sản phẩm vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiếm
trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả những thành tố là những giá trị văn hóa không
bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích thực của nó (văn hóa ẩm thực, những
tri thức về môi trường tự nhiên,…)” [15, tr.231].
Tóm lại, VHDG theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao gồm rất
nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp folklore.
Chúng tôi tán thành cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Như vậy,
VHDG là một bộ phận của văn hoá dân tộc, bao gồm văn học dân gian (ca dao, dân
ca, truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, truyện cười... trước kia được lưu truyền
bằng miệng trong dân gian); nghệ thuật dân gian (ca múa nhạc dân gian, tranh dân
gian…); phong tục, tập quán, đặc điểm lễ nghi thịnh hành trong dân gian.... Do nội
hàm của khái niệm VHDG khá rộng, để phù hợp với phạm vi nghiên cứu của đề tài
37. 29
chúng tôi xin được tìm hiểu những biểu hiện của các yếu tố VHDG trong tiểu thuyết
từ 1986 đến 2000 ở một số phương diện sau: tín ngưỡng dân gian, thế giới nhân vật,
không gian, thời gian nghệ thuật, motif, biểu tượng và ngôn ngữ.
2.1.2. Nhận diện các thành tố của văn hóa dân gian
Theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh, thuật ngữ quốc tế “folklore” - Văn hóa
dân gian, được W J. Thom sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ "phong tục, tập
quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ... của người thời trước". Từ đó đến nay, bộ
môn văn hóa dân gian học đã ra đời và phát triển với ba trường phái lớn: trường
phái folklore Anh - Mỹ chịu ảnh hưởng nhân học, trường phái folklore Tây Âu chịu
ảnh hưởng xã hội học (điển hình là Pháp, Ý) và trường phái folklore Nga chịu ảnh
hưởng ngữ văn học. Tùy theo quan điểm tiếp cận, mỗi nhà nghiên cứu sẽ có cách
nhìn nhận và lí giải khác nhau về các vấn đề của văn hóa dân gian.
Theo Ngô Đức Thịnh, hiện nay ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu triển khai
công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên các lĩnh vực sau:
“Ngữ văn dân gian bao gồm: Tự sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ... Trữ tình dân gian (ca dao, dân
ca); Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian
Nghệ thuật dân gian bao gồm: Nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc dân
gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian...); nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc
dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn...)
Tri thức dân gian bao gồm: Tri thức về môi trường tự nhiên (địa lý, thời tiết,
khí hậu...); tri thức về con người (bản thân): y học dân gian và dưỡng sinh dân gian;
tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng); tri thức sản xuất (kỹ
thuật và công cụ sản xuất)
Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội: Các lĩnh vực nghiên cứu trên của văn hóa
dân gian nảy sinh, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp, thể
hiện tính chưa chia tách giữa các bộ phận (ngữ văn, nghệ thuật, tri thức, tín ngưỡng
phong tục...), giữa hoạt động sáng tạo và hưởng thụ trong sinh hoạt văn hóa, giữa
sáng tạo văn hóa nghệ thuật và đời sống lao động của nhân dân. Để nghiên cứu văn
38. 30
hóa dân gian với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp chúng ta cần phải có một quy
phạm nghiên cứu tổng hợp” [82].
Những thành tố này không tách biệt mà gắn liền với mọi phương diện, lĩnh
vực của cuộc sống con người, đồng thời tác động lẫn nhau. Chúng biểu hiện trong
cách ứng xử, sự hiểu biết, tiềm ẩn trong các hoạt động sống mà đôi khi rất khó nắm
bắt. Nó có khi là cái đơn sơ, chân mộc, nhưng có khi lại cầu kì, tinh tế… Văn hóa là
là minh chứng sống cho một thời đại, một khu vực và cả thế giới. Trong các thành
tố ấy, văn học dân gian là bệ đỡ, bộ phận quan trọng nhất cấu thành văn hóa dân
gian, nơi kết tinh ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói và tạo ra nền tảng cho tồn tại dân tộc.
Vì vậy, văn học dân gian chính là nơi “thăng hoa” những giá trị văn hóa vĩnh hằng;
nơi “nối kết” tinh hoa dân tộc, đồng thời là nguồn dưỡng chất bất tận của văn học
viết. Đây là một bộ phận văn học không đơn thuần mà mang tính chất tổng hợp về
chất liệu. Trong khi văn học viết được tạo ra chỉ bằng ngôn ngữ, thì văn học dân
gian do nhiều chất liệu tạo nên: ngôn ngữ, âm nhạc, động tác, điệu bộ, vũ đạo... Các
yếu tố này phối hợp hài hoà, nhịp nhàng để phô diễn nội dung tác phẩm.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu có dịp đi sâu tìm hiểu, thống nhất rằng, văn học
dân gian là thành phần nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác dân gian, mang tính chất
tổng hợp, bao gồm nhiều thành phần nghệ thuật khác nhau. Ở đây, ngôn từ nghệ
thuật vừa có mối quan hệ với các thành phần khác, vừa có tính độc lập tương đối
của mình. Như vậy: “Văn học dân gian là thành phần nghệ thuật ngôn từ trong
những sáng tác dân gian mang tính tổng hợp bao gồm nhiều thành phần chất liệu
nghệ thuật khác nhau như âm nhạc, vũ đạo” [24, tr.405]. Chính vì thế, tính nguyên
hợp là đặc trưng quan trọng nhất của văn học dân gian. Những sáng tác truyền khẩu
này dung chứa trong mình khá đầy đủ những thành tố của văn hóa dân gian.
Nếu tác phẩm văn học viết là kết quả nhận thức thẩm mỹ của cá nhân thì văn
học dân gian là kết quả nhận thức của cả một cộng đồng. Đó cũng là lý do mà văn
học dân gian được coi là bộ bách khoa toàn thư của mấy nghìn năm, bao gồm giá trị
của các thành tố văn hóa khác: phong tục, tín ngưỡng, lễ giáo, kinh nghiệm
sống...Tính nguyên hợp của văn học dân gian bộc lộ ở sự hòa lẫn giữa chức năng
nghệ thuật với chức năng thực hành - sinh hoạt đa dạng của nó. Điều này không chỉ
39. 31
đáp ứng nhu cầu sáng tác, thưởng thức nghệ thuật của nhân dân mà còn tham gia
trực tiếp vào mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Từ đó, tính nguyên hợp biểu
hiện ở sự chưa tách rời các loại hình nghệ thuật trong tổng thể folklore. Nghĩa là bộ
phận ngôn từ gắn bó chặt chẽ với các loại hình như vũ đạo, âm nhạc, trò chơi, nghi
lễ, tôn giáo, tín ngưỡng… Phương diện này chứng tỏ văn học dân gian đã khéo tận
dụng và kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố ngôn từ với các yếu tố nghệ thuật khác,
tạo thành một chỉnh thể không thể tách rời. Trong cái khối nguyên hợp vững bền ấy,
yếu tố ngôn từ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định và ngày càng trở thành
chủ đạo. Trải qua hàng nghìn năm phát triển, văn học dân gian đã hình thành cho
mình một hệ thống thể loại phong phú và đa dạng: Thần thoại, Truyền thuyết,
Truyện cổ tích, Sử thi, Truyện cười, Tục ngữ, Thành ngữ, Ca dao - dân ca, Vè…
Qua sự sàng lọc của thời gian, các thể loại này bên cạnh những đặc trưng chung của
hệ hình văn học truyền miệng, cũng đồng thời mang dấu hiệu riêng với ý nghĩa, giá
trị tự thân, góp phần tạo ra tinh hoa cho văn hóa, văn học dân gian và có những tác
động khác nhau tới nền văn học viết. Bằng sức sống mạnh mẽ được bồi đắp bởi tinh
thần dân tộc, văn học dân gian không chỉ thẳng tiến trên con đường của mình mà
còn làm đệm và giữ lửa cho nền văn học viết phát triển và hoàn thiện.
Như vậy, sinh hoạt của nhân dân vừa là tấm lăng kính qua đó thực tế khúc xạ vào
văn học, vừa đóng vai trò tác nhân điều tiết đối với sự chọn lựa trong phản ánh thực tế.
Nó cũng là mảnh đất nảy sinh, nguồn nuôi dưỡng, nhân tố kích thích sự sáng tạo vốn
có tính chất tự phát của văn học dân gian. Loại hình nghệ thuật đặc biệt này bên cạnh
chức năng văn học còn in đậm chức năng thực hành sinh hoạt, tập hợp tri thức thực tiễn
và ứng dụng. Đó là những chức năng đặc trưng, loại biệt quy định chất lượng nghệ
thuật độc đáo của văn học dân gian, làm cho mảng sáng tác này không chỉ là nghệ thuật
mà còn rộng hơn nghệ thuật rất nhiều. Văn học dân gian chính là cuộc sống, văn hóa,
nguồn sữa của các loại hình nghệ thuật khác trong đó có văn học viết.
Khi đi sâu nghiên cứu văn học dưới góc nhìn của văn hóa dân gian, các nhà
nghiên cứu đã cho thấy những kết quả thú vị. Và đây được xem là “hướng tiếp cận
thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nét thời đại của tác phẩm” [57,
tr.168-169]. Qua nhiều công trình của các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng có