SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 158
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VÕ NHƯ NGỌC
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VÕ NHƯ NGỌC
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS HỒ THẾ HÀ
2. TS NGUYỄN THANH SƠN
HUẾ - NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Hồ Thế Hà, TS Nguyễn
Thanh Sơn đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp
tôi hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Quy
Nhơn, Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường Đại học Quy Nhơn; lãnh
đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Khoa học, Đại
học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận án.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp, những người luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Tác giả luận án
Võ Như Ngọc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
ai công bố trên bất kì công trình nào.
Huế, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận án
Võ Như Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................2
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu .................................................................3
4. Đóng góp mới của luận án.............................................................................................5
5. Cấu trúc luận án .............................................................................................................5
NỘI DUNG...........................................................................................................................6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .............................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945 .........................6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975..............10
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay ................13
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài........................................22
1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu...........................................................................22
1.2.2. Hướng triển khai đề tài ......................................................................................23
CHƯƠNG 2. TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI .25
2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng............................................25
2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại.............................................................25
2.1.2. Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng của Thơ mới ..................................31
2.2. Trường thơ Loạn và những dòng tượng trưng Thơ mới ...........................................38
2.2.1. Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn ........................................................38
2.2.2. Trường thơ Loạn - chi lưu tượng trưng Thơ mới...............................................44
2.3. Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn............................................................50
2.3.1. “Làm thơ là làm sự phi thường” ........................................................................50
2.3.2. “Thơ là hoa trái của đau thương và sắc màu hoan lạc” .....................................57
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG
THƠ LOẠN - NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG...........................64
3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình ........................................................................................64
3.1.1. Cái tôi gắn kết thi nhân và tín đồ.......................................................................64
3.1.2. Cái tôi đối cực trần thế và siêu nhiên.................................................................70
3.2. Hình tượng không gian và thời gian .........................................................................75
3.2.1. Không gian - những khung trời ảo diệu.............................................................75
3.2.2. Thời gian - những chiều kích vô biên................................................................81
3.3. Những biểu tượng đặc sắc ........................................................................................87
3.3.1. Trăng, Hồn, Máu................................................................................................88
3.3.2. Hoa, Nhạc, Hương .............................................................................................96
CHƯƠNG 4. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA ..........103
TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN..........................103
4.1. Ngôn từ nghệ thuật .................................................................................................103
4.1.1. Sự lạ hóa về ngôn từ ........................................................................................103
4.1.2. Các thủ pháp tạo nghĩa.....................................................................................108
4.2. Nhạc tính và họa tính..............................................................................................114
4.2.1. Nhạc tính..........................................................................................................114
4.2.2. Họa tính............................................................................................................121
4.3. Giọng điệu và nghệ thuật tương hợp ......................................................................128
4.3.1. Giọng điệu........................................................................................................128
4.3.2. Nghệ thuật tương hợp ......................................................................................134
KẾT LUẬN.......................................................................................................................142
NHỮNG CÔNG TÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI.....................145
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................147
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Với sự công phá mạnh mẽ vào thành trì thơ cũ, phong trào Thơ mới
(1930 - 1945) khép lại dòng văn học mang đậm chất quy phạm và chuẩn mực, đưa
tiến trình thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Tuy nhiên, từ khi có một
lối thơ trình chánh giữa làng thơ đến nay, Thơ mới phải trải qua một cuộc hành
trình vinh quang và đau khổ. Song, vượt lên tất cả, nó vẫn khẳng định vị trí vững
chắc trong nền văn học dân tộc. Một thời đại trong thi ca ấy khắc ghi vào lịch sử
văn chương Việt mốc son rạng ngời với những tên tuổi tài danh: Thế Lữ, Huy Cận,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Vũ
Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương... Họ sáng tác nhiều bài thơ hay, đem
đến một phạm trù thơ hiện đại, một hệ thi pháp mới thay thế thơ trữ tình cổ điển có
tự ngàn năm.
1.2. Nếu nói Thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem
Trường thơ Loạn là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào Thơ mới. Khởi
nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định (còn gọi là Bàn thành tứ
hữu hay nhóm Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng, ứng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan,
Quách Tấn và Chế Lan Viên). Nhóm thơ Bình Định sau này có sự phân hóa về
khuynh hướng sáng tác. Cuối năm 1936, từ sự phân hóa này, Hàn Mặc Tử cùng Chế
Lan Viên chủ trương thành lập Trường thơ Loạn. Từ sau 1938, Trường thơ Loạn
phát triển và kết nạp thêm những thành viên: Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao,
tôn vinh Hàn Mặc Tử làm chủ soái. Bỏ qua những yếu tố sáo mòn, lỗi thời của văn
học truyền thống, vượt lên khỏi giới hạn Thơ mới để tiếp biến văn hóa, văn học hiện
đại phương Tây, nhất là chủ nghĩa tượng trương Pháp, các thi sĩ thơ Loạn tạo nên
một dấu ấn phong cách riêng, một quan niệm riêng, một miền đề tài riêng độc đáo
và bí ẩn, đưa người đọc đến những tầng bậc cảm nhận sâu thẳm.
Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời
thi ca Việt Nam như vừng sáng huy hoàng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát
triển và phá cách của thơ ca hiện đại.
2
1.3. Trải qua ba phần tư thế kỷ, đến nay Trường thơ Loạn vẫn là hiện tượng
văn học đầy ám gợi với những vần thơ trùng điệp lớp tầng, thách thức bao người
khám phá, giải mã. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn khó cưỡng lại của tổ chức thi ca
này. Các tác giả thơ Loạn đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: phong cách
học, thi pháp học, phân tâm học, văn hóa học... Dù vậy, những băn khoăn, hoài nghi
về trường thơ lạ lẫm này vẫn còn đó. Các thi nhân như vẫn còn ẩn sâu trong thế giới
đầy khói sương, huyền hoặc của mình. Không ít người nhìn vào Trường thơ Loạn
với đôi mắt ngỡ ngàng, ngạc nhiên cùng những xung lực trái chiều trong cách nhìn
nhận, đánh giá. Một giai đoạn rất dài, những vần thơ tài hoa từ những tài năng yểu
mệnh này bị định kiến là suy đồi, bế tắc, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Dưới ánh
sáng của những quan điểm cởi mở hơn, Trường thơ Loạn dần được trả lại công
bằng. Thơ Loạn được xem xét trong sự vận động nội tại, thống nhất, hài hòa giữa
nội dung và hình thức, được thừa nhận như một sự cách tân đầy đột phá, có sức
vang vọng lớn đến thơ ca sau này. Tuy nhiên, đó mới là những bước đi ban đầu
trong việc lý giải và đôi chỗ còn chưa thỏa đáng. Đặc biệt, nghệ thuật tượng trưng
trong sáng tác của Trường thơ Loạn là một trong những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang
chờ tay người đánh thức. Mĩ học và thực tiễn nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng
phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp với những thi sĩ thiên tài như
Baudelaire, Verlaine, Rimbaud, Mallarmée, Valéry đã khai mở những cách tân
trong phong trào Thơ mới Việt Nam, tiêu biểu là thi phẩm của những đỉnh cao thơ
Loạn. Vì lẽ đó, nhu cầu tìm hiểu Trường thơ Loạn một cách sâu sắc, đặt nó trong
tiến trình chung của Thơ mới để lý giải khách quan, chỉ ra giá trị trong tính toàn
vẹn, bao quát và chỉnh thể của thi pháp tượng trưng, thiết nghĩ là “hành trình thám
mã” cần thiết và cấp bách.
Luận án của chúng tôi cố gắng đáp ứng những yêu cầu đó, chỉ ra thế giới
nghệ thuật độc đáo, quan niệm thơ mới lạ và những cách tân về nghệ thuật, từ đó
chứng minh các thi sĩ thơ Loạn là những nhà thơ lớn và có nhiều đóng góp cho nền
văn học nước nhà.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Theo nhiều tư liệu đã được công bố, Trường thơ Loạn có sáu thành viên:
3
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao. Tuy
nhiên, trong phạm vi đề tài, chúng tôi chủ yếu khảo sát các thi phẩm của ba nhà thơ
nổi bật và khá thống nhất, gần gũi nhau về nhiều mặt: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
và Bích Khê. Đây là ba thi sĩ trụ cột trung thành, đi suốt hành trình thơ và đời với
tuyên ngôn tượng trưng, làm nên đặc sắc của Trường thơ Loạn thời tiền chiến.
Dù Trường thơ Loạn được thành lập vào năm 1936 với nòng cốt là ba thành
viên vừa kể trên, nhưng ngoài những bài thơ mang phong cách Đường thi, những thi
phẩm còn lại của ba tác giả thơ Loạn được sáng tác trước 1945 đều là đối tượng
chúng tôi nghiên cứu, vì những thi phẩm ấy hầu hết mang hơi hướng Loạn. Ngoài
ra, tác phẩm văn xuôi, tiểu luận, phê bình, tạp văn của các tác giả thơ Loạn cũng
được xem là tài liệu tham khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn đề trong quá trình
nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ
Loạn một cách có hệ thống, phạm vi của luận án sẽ đi sâu nghiên cứu những điểm
đặc sắc về nội dung và hình thức biểu hiện của chúng ở những giá trị nổi bật về
ngôn từ nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, biểu tượng nghệ
thuật, nhạc tính và họa tính, các biện pháp tu từ… độc đáo của trường thơ này trong
tính tương quan với nghệ thuật tượng trưng.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết: Luận án soi chiếu mỹ học của trường phái thơ tượng trưng
phương Tây vào sáng tác của Trường thơ Loạn. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật,
thi phái tượng trưng đã tìm được tiếng đồng vọng và mở ra một thế giới trong tư
duy của các nhà thơ mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng, góp phần hiện đại
hóa thơ ca dân tộc, đưa thơ Việt lên một tầm cao mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong luận án, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp văn học sử: Nghiên cứu trường phái thơ cụ thể nhưng chúng
tôi không tách rời, biệt lập mà đặt trong mối quan hệ với trào lưu cùng thời. Vì văn
học là một quá trình lịch sử - hiện thực, một quá trình lịch sử - sáng tạo, cho nên
mỗi hiện tượng văn học thường có định hướng của cả phong trào. Tìm hiểu Nghệ
4
thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn, chúng tôi đặt trong mối
quan hệ giữa các tác giả và trào lưu, tác phẩm và thời đại…
- Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học: Luận án sẽ khảo sát tần số
xuất hiện hệ thống hình tượng trở đi trở lại như ám ảnh nghệ thuật trong thi phẩm
thơ Loạn, và hệ thống các phương thức, phương tiện cấu thành chỉnh thể nghệ thuật
đó; mặt khác hình dung về mối quan hệ chủ nghĩa tượng trưng và Trường thơ Loạn.
- Phương pháp thống kê - phân loại: Dùng để khảo sát, thống kê nguồn tư
liệu theo những vấn đề chi tiết: tần số xuất hiện, hệ thống phương thức, phương tiện
biểu hiện... Từ đó phân loại để thấy được những nét riêng và mô hình riêng ổn định
của từng yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật của Trường thơ Loạn trong tương
quan với nghệ thuật tượng trưng.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Dùng đối chiếu các nhà thơ Loạn trong
tương quan với tổ chức thi ca và các nhà thơ cùng thời, soi sáng những nét độc đáo
về phong cách thơ. So sánh, đối chiếu cũng là cách chỉ ra ảnh hưởng của các trường
phái văn học phương Tây, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến thế giới
nghệ thuật của Trường thơ Loạn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi
phân tích để làm sáng tỏ từng luận điểm. Từ những luận điểm đó, tổng hợp, khái
quát thành những đặc điểm cơ bản trong sáng tác của Trường thơ Loạn.
Ngoài ra, trong luận án, chúng tôi còn vận dụng những yếu tố hỗ trợ của các
thao tác nghiên cứu văn học, như: phê bình văn học, ngôn ngữ học... để thấy nét đặc
sắc của nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác Trường thơ Loạn so với các tác giả và
trào lưu văn học khác.
Trên đây là những hướng nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong toàn bộ
luận án. Tuy vậy, chúng tôi quan niệm, mỗi phương pháp nghiên cứu nói trên không
thể rạch ròi, tách biệt mà có thể tiếp cận được chân lý. Vì thế, trong quá trình thực
hiện, chúng tôi cố gắng cùng lúc kết hợp nhiều phương pháp để giải quyết vấn đề
một cách tối ưu và hiệu quả nhất.
5
4. Đóng góp mới của luận án
Thơ Loạn là hiện tượng thơ ca độc đáo của phong trào Thơ mới. Đã có
những công trình quan tâm nghiên cứu Trường thơ Loạn trên nhiều phương diện,
góc độ khác nhau, trong đó có một số bài viết đặt trong so sánh với nghệ thuật
tượng trưng. Tuy nhiên, đây là những bài viết ngắn, đề cập từng yếu tố cụ thể của
từng tác phẩm, tác giả, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện. Luận án của
chúng tôi là công trình chuyên biệt đầu tiên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu nghệ thuật
tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn.
Luận án đóng góp vào việc hệ thống hóa và khái quát hóa phong cách thơ
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, những người thể nghiệm và thiết kế mô
hình thơ hiện đại, làm nên một trường thơ nổi bật của phong trào Thơ mới.
Luận án chứng minh sự gặp gỡ giữa Trường thơ Loạn với thi phái tượng
trưng phương Tây để hình thành một khuynh hướng, một tuyên ngôn nghệ thuật
riêng biệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính sự tiếp thu và tiếp biến nghệ thuật
thơ tượng trưng phương Tây của Trường thơ Loạn đã mở rộng biên độ và nội hàm
cho Thơ mới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cỗ xe văn học Việt Nam lăn nhanh trên
con đường hiện đại hóa, tiến vào quỹ đạo của thơ ca thế giới.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Ngữ văn các
trường phổ thông, sinh viên Khoa Ngữ văn các trường đại học, cao đẳng, cũng như
phổ biến rộng rãi đến độc giả yêu thích văn học.
5. Cấu trúc luận án
Ngoài các phần: Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (6
trang), Nội dung luận án được triển khai theo 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài (19 trang).
- Chương 2. Trường thơ Loạn trong nguồn tượng trưng Thơ mới (39 trang).
- Chương 3. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn -
nhìn từ thế giới hình tượng và biểu tượng (39 trang).
- Chương 4. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn -
nhìn từ phương thức biểu hiện (39 trang).
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay khi mới xuất hiện trên thi đàn, các thi sĩ thơ Loạn lập tức nổi lên trong
nền thơ ca Việt Nam như là một trong những hiện tượng thơ mang tầm thời đại. Với
những cách tân thơ rõ rệt, những thi phẩm của Trường thơ Loạn đã vượt ra ngoài
khuôn khổ, thoát khỏi biên độ của cái thông thường, thổi vào thơ Việt Nam đầu thế
kỷ XX một luồng gió mới, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc. Điều này khiến cho người yêu thơ phải khâm phục, ngạc nhiên và các nhà
nghiên cứu văn học phải ngẫm nghĩ về tài năng nghệ thuật của họ. Càng ngày,
Trường thơ Loạn càng được độc giả quan tâm yêu thích. Sáng tác của Trường thơ
Loạn, vì vậy, trở thành đối tượng hướng tới của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
bằng những phương pháp khoa học mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về thơ Loạn
được tiếp cận ở nhiều khía cạnh. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, góc độ nghiên
cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu mải miết kiếm tìm và khám phá được nhiều giá
trị trong sáng tác của Trường thơ Loạn, khẳng định được tầm vóc, vị trí, vai trò của
các nhà thơ trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945
Từ những ngày phôi thai của phong trào Thơ mới, cuộc tranh luận, bút chiến
giữa nội hàm Thơ mới và thơ cũ, giữa phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và phái “nghệ
thuật vị nhân sinh” diễn ra rầm rộ trên các báo: Phong hóa, Tri tân, Ngày nay, Hà
Nội báo, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy… Nằm trong mạch nguồn Thơ mới,
nhưng phản xạ của dư luận văn nghệ đương thời về Trường thơ Loạn lại khá mờ
nhạt, có chăng là những bài viết nhỏ lẻ về từng thi sĩ của trường thơ. Điều này một
phần vì Trường thơ Loạn không có cơ quan ngôn luận nào cổ vũ nên sáng tác của
họ lúc bấy giờ không gây được tiếng vang. Từ những điểm nhìn khác nhau, văn
giới, bạn đọc giải mã “ẩn số” thơ Loạn với không ít tranh cãi, bất đồng. Bằng hướng
tiếp cận có phần định kiến, nhiều người phủ nhận gay gắt các tác giả thơ Loạn.
Chính Xuân Diệu sau khi tuyên bố: “Hàn Mặc Tử không phải hạng chân thi sĩ” đã
hạ bệ Trường thơ Loạn xuống thành những rên siết của xác thân bệnh hoạn, xem đó
7
như biểu hiện của một thứ suy đồi: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia với những
cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi
điên đây!... Tôi điên đây!... Điên cũng không dễ như người ta tưởng đâu! Nếu
không biết điên tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà lặng yên sống” [14,10].
Đầu năm 1938, trên báo Ích hữu, Trương Tửu có bài “Quan niệm về thơ
Chế Lan Viên”. Ở bài viết này, một mặt Trương Tửu thừa nhận, nhờ vào “nghệ
thuật tài hoa” và “trực giác linh mẫn”, Chế Lan Viên “đã hồi sinh được cả một cái
đã mất”. Mặt khác, Trương Tửu nhận định thơ tập Điêu tàn là một “trạng thái kì dị
của tâm hồn”, từ trạng thái kì dị ấy, Chế Lan Viên hình thành một quan niệm sai
lầm và nguy hiểm. Ông công kích việc tác giả lý thuyết hóa cái điên, cái mê của
mình trong bài tựa của tập Điêu tàn, bài tựa được Trường thơ Loạn coi như tuyên
ngôn thơ của mình: “Chế Lan Viên đã khách quan hóa cái chủ thể của ông. Nên ông
lầm. Vì thi sĩ bao giờ cũng có khuynh hướng chủ quan hóa cái khách thể của sự vật.
Ông đã rời bỏ khuynh hướng ấy. Ông đã phản cái bản tính thiên bẩm của mình. Ông
có tội với Nàng Thơ” [96,15].
Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới những đàm đạo sôi nổi từ các thi hữu
của Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử xem thơ Bích Khê là “một bông hoa lạ nở
hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc. Ta có thể so sánh
văn, thơ Bích Khê như đóa hoa thần dị ấy”. Hàn còn gọi Bích Khê là “thi sĩ thần
linh” bởi thơ Bích Khê vừa “nhuộm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường”, vừa
“nhuộm đầy máu huyết Baudelaire”. Hàn khẳng định thơ Bích Khê gồm ba tính
cách khác nhau: tượng trưng, huyền diệu, trụy lạc, trong đó tượng trưng được coi là
quan trọng nhất. Ở khu vực thơ tượng trưng, Hàn nhận thấy “Thi sĩ Bích Khê là
người có đôi mắt rất thơ, rất mộng, rất ảo” [95,133]. Đây chính là bài viết đầu tiên
giới thiệu thơ Bích Khê với độc giả đương thời. Đánh giá về Chế Lan Viên, Nguyễn
Vỹ cho rằng thơ Chế nhiều bài cảm động, độc đáo: “Tập Điêu tàn của anh còn để
lại một chiếc bóng trong văn học sử Việt Nam, giống như những tháp Chàm trên đất
nước Đồ Bàn, còn văng vẳng tiếng nức nở nghìn thu Chiêm nữ hận” [45,28]. Trên
báo Người mới, Chế Lan Viên nói về người bạn thơ Hàn Mặc Tử: “… Mai sau, tôi
xin hứa hẹn với các người rằng, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi,
và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” [97,9]… Những
nhận định ưu ái này có thể chưa hoàn toàn thuyết phục được công chúng, nhưng ít
ra cũng khai mở một hướng tiếp cận, khiến những người yêu sáng tác của các tác
giả thơ Loạn tiêu tốn bao giấy mực để lần tìm đến địa hạt thơ bí ẩn này.
8
Năm 1941, Trần Thanh Mại hoàn thành tập sách: Hàn Mặc Tử - thân thế và
thi văn, công trình chuyên khảo đầu tiên về thơ Hàn. Công trình này, tác giả đi sâu
vào đời tư và tìm ra được những ảnh hưởng trầm tích văn hóa và vẻ đẹp tự nhiên
của quê hương Bình Định góp phần hun đúc và thai nghén thơ Hàn. Cũng như Xuân
Diệu, ban đầu Trần Thanh Mại mỉa mai, công kích Hàn Mặc Tử khi nói về âm
hưởng thơ tượng trưng trong sáng tác của Hàn: “điên hẳn… còn dễ chịu hơn là
những anh chàng cố tình đi vào lối thơ tượng trưng… để vừa che đậy cái dốt của
mình, vừa lòe đời bằng một cách lường gạt có tổ chức”. Nhưng sau đó, tác giả nhìn
nhận: “Tôi quả đã vô duyên với thơ Hàn Mặc Tử”, và đánh giá: “Hàn Mặc Tử là
người đầu tiên ở thế kỷ XX mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam
thành công một cách vinh quang, rực rỡ”… Thậm chí, khi so sánh với Baudelaire,
Edgar Poe và thơ tượng trưng, ông kết luận: “Thiên tài của Hàn Mặc Tử cao hơn tất
cả các thiên tài trên thế giới” [53,55]. Dù tồn tại nhiều tranh cãi, nhưng phải thừa
nhận, đây là công trình nghiên cứu bài bản “bằng những phương pháp xưa nay chưa
từng có trong lịch sử văn học Việt Nam” [60,25]. Việc công trình của Trần Thanh
Mại giới thiệu trang trọng Hàn Mặc Tử đã gợi mở cho các nhà phê bình sau này một
thông điệp quan trọng trong quá trình khảo cứu, giúp những người yêu văn học dấn
thân vào công cuộc khám phá thế giới thơ Hàn, đưa nhà thơ đến rộng khắp công
chúng, nhất là lúc bấy giờ độc giả chưa biết nhiều về thi sĩ. Một năm sau, Vũ Ngọc
Phan cũng đưa tên tuổi Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên vào Nhà văn hiện đại và tìm
ra con đường tiếp cận riêng khi so sánh: “Chế Lan Viên, trái lại không cứng cáp
chút nào. Thơ ông toàn là những tiếng khóc than; ông tả rặt những cái u sầu, ông có
giống Hàn Mặc Tử thì chỉ giống ở chỗ hay nhắc đến linh hồn chứ cái sầu của ông là
cái sầu não nùng, thê thảm, cái sầu bát ngát, khó khuây. Thật là thứ sầu vong quốc -
thứ sầu của dân tộc Chiêm Thành tuy ông không cùng dòng máu với họ” [68,702].
Công phu nhất là các bài viết của Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân
Việt Nam. Tác phẩm tổng kết thành quả của phong trào Thơ mới với 45 nhà thơ tiêu
biểu mà theo Hoài Thanh “không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị
ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy (tức thơ tượng trưng - VNN)”.
Cùng với các tên tuổi đương thời khác, Hoài Thanh giới thiệu, đánh giá các nhà thơ
chủ chốt của vương quốc thơ Loạn: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến
Lan. Và cũng ở đây, lần đầu tiên cái tên Trường thơ Loạn được một nhà phê bình
9
văn học nhắc đến: “Trái hẳn với lối thơ tả chân, có lối thơ Hàn Mặc Tử - Chế Lan
Viên. Cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh
hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên
đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại, từ
thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp kinh thánh
của đạo Thiên chúa. Cả hai đều cai trị Trường thơ Loạn và chiêu tập một số đồ đệ là
Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai (tức Yến Lan - VNN). Tôi vừa nói Chế Lan
Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi đến thơ tượng trưng của Pháp có lẽ đúng hơn, tuy
hai lối này có chỗ giống nhau. Điều này cũng thấy rất rõ ở các tác phẩm của một
người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê”. Tiếp cận thơ Loạn theo lối
phê bình ấn tượng, tác giả Thi nhân Việt Nam thẩm bình, kết tinh sáng tác của họ
một cách nhạy bén và sắc sảo. Tuy vậy, Hoài Thanh còn dè dặt khi đánh giá các nhà
thơ này. Viết về Bích Khê, có lúc tác giả khẳng định: “Tôi đã bắt gặp ở Tinh huyết
những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”, và cho rằng Bích Khê là một
trong những nhà thơ “đi đến chỗ mà người ta thường cho là cao nhất của thơ tượng
trưng: Mallarmée, Valéry”, rồi lại coi đó là “biệt thự một nhà triệu phú” xa cách và
khó thâm nhập, bởi thế “chưa thể nói nhiều về Bích Khê”. Ông đánh giá Hàn Mặc
Tử là “một vườn thơ rung rinh không bờ bến, càng đi xa càng thấy lạnh”, nhưng kết
thúc bài giới thiệu về thơ Hàn, lại lấp lửng: “Một tác phẩm như thế ta không thể nói
hay hay dở”, vì “Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn”. Cũng như vậy, đánh giá
Điêu tàn, Hoài Thanh xem như “một niềm kinh dị”, “giữa đồng bằng văn học Việt
Nam thế kỷ XX, nó đứng sừng sững như một cái tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí
mật”. Ông còn nhận xét về Chế Lan Viên rằng: “Con người này là con người của
trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được”, đến
cuối cùng ngần ngại: “Chúng ta, người đồng bằng, thỉnh thoảng trèo lên đó - có
người trèo đuối sức mà trầm ngâm và xem gạch rụng, nghe tiếng rên rỉ của ma Hời
cũng hay, nhưng triền miên trên đó không nên” [83,217]. Có thể thấy, Thi nhân
Việt Nam đã có công phát hiện những tài hoa của phong trào Thơ mới, tinh tế nhận
ra trong thơ Loạn sự bức bối, quẫy đạp “vượt ra ngoài vòng nhân gian để bung thoát
đến những giới hạn rộng xa của thi ca” [83,291]. Nhưng công trình này dường như
chỉ tập trung làm nổi rõ thời đại Thơ mới với cái tôi cá nhân, phong cách sáng tác
của từng nhà thơ mà chưa đặt họ vào vị trí thành viên của một trường phái sáng tác.
10
Nhìn chung, đa phần các công trình, bài viết về các tác giả thơ Loạn kể trên
còn tản mạn, nặng về cảm xúc hay những kỷ niệm riêng chứ chưa đi vào cảm thụ
giá trị đích thực tác phẩm của họ với tư cách là những tài năng thơ của thế kỷ.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975
Trong đời sống phê bình văn học 1945 - 1975, việc nhìn nhận, đánh giá Thơ
mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng tương đối phức tạp.
Ở miền Bắc, dưới sự chi phối của hai cuộc kháng chiến, thời đại Thơ mới
dường như chấm dứt, nhường chỗ cho những vấn đề lớn của cuộc sống, của nhân
dân qua những vần thơ cổ động kháng chiến, ngợi ca anh bộ đội Cụ Hồ. Căn
nguyên lịch sử ấy khiến Thơ mới không còn là đối tượng được ưu tiên nghiên cứu,
và sự đánh giá về nó cũng chưa thật chuẩn xác, nhất là về mặt nội dung. Một số
người có cái nhìn xã hội học dung tục cắt nghĩa tâm trạng đau buồn của các thi sĩ
lãng mạn “là vì anh nghèo khó nên anh không thể thực hiện cái lí tưởng tư sản của
mình, cái lí tưởng đầy những vàng son châu báu, lụa là hoa bướm, rượu - như hình
ảnh thơ các anh”, trong khi “tình yêu và sự hưởng lạc cần tiền”. Vì vậy nên “thơ
anh thường thể hiện giấc mơ về cõi tiên, về quá khứ, ở đó có đủ rượu, hoa, gái đẹp,
yến tiệc…” [71,76]. Hồng Chương kịch liệt phê phán các tác giả Thơ mới là “có
thái độ tiêu cực”. Ngay cả tác giả Thi nhân Việt Nam trong Nói chuyện thơ kháng
chiến cũng đánh giá lại Thơ mới bằng thái độ cực đoan, một chiều: “Những vần thơ
buồn tủi, bơ vơ ấy là những vần thơ có tội: nó xui con người ta buông tay cúi đầu,
do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Sự thực khách quan là thế” [63,197]. Theo
Hoài Thanh, “Thơ mới cơ hồ không biết đến tiếng nói đau khổ, tiếng nói căm thù,
tiếng nói quật khởi của các chiến sỹ cách mạng, của quần chúng cần lao” [84,222].
Phan Cự Đệ trong Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp đến Thơ mới: “Nhìn chung từ
1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao
đây?… Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội,
đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc
bị đàn áp dữ dội…”. Về phương diện ảnh hưởng, theo tác giả: “Thơ ca Pháp đã ảnh
hưởng rõ rệt vào Thơ mới trong cách gieo vần, lối ngắt nhịp, lối bắc cầu, cách làm
cho ngôn ngữ giàu nhạc điệu, lối diễn tả bằng những cảm giác tinh tế…”. Trên tinh
thần phản ánh luận Mác xít, tác giả đánh giá những vấn đề của bản chất sáng tạo
như hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, nguyên nhân ra đời phong trào Thơ mới,
11
đồng thời có phần khách quan khi phê phán xu hướng thoát li tiêu cực và ghi nhận
những mặt tích cực của Thơ mới, như: thái độ không chấp nhận thực tại đối với xã
hội thực dân phong kiến, tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống, nhất là về
mặt ngôn từ nghệ thuật… Nhưng khi giới thiệu về Trường thơ Loạn, Phan Cự Đệ
lại viện dẫn như minh chứng về sự suy đồi trong Thơ mới giai đoạn sau: “Đương
thời, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hoàng Diệp đã xướng lên Trường thơ
Loạn. Chịu ảnh hưởng của những quan niệm thẩm mĩ của Edga Poe, kể chuyện ca
ngợi vẻ đẹp của tử thần; và của Baudelaire, kẻ đã mĩ hóa cả cái độc, cái tởm, cái vô
đạo đức, Trường thơ Loạn bắt đầu đi tìm cái đẹp ở bến bờ xa lạ của cảm giác, tìm
những cái đẹp khoái lạc bệnh tật chưa được khám phá” [19,67].
Những ý kiến trên cơ bản nhìn nhận nội dung và cái tôi trữ tình Thơ mới
dưới góc độ phê phán. Sự kết án về tư tưởng này càng khiến Thơ mới cũng như
những vần thơ duy tân, nhuộm đầy máu huyết của Trường thơ Loạn tạm thời bị
quên lãng.
Ở miền Nam, do đặc thù của hoàn cảnh lịch sử xã hội, đến những năm 60 thế
kỷ XX, việc nghiên cứu giảng dạy văn học lãng mạn, trong đó có phong trào Thơ
mới được chú trọng. Và các tác giả thơ Loạn cũng được bàn luận khá sôi nổi trên
các tạp chí, như: Văn hóa Á châu, Nhận thức, Bách khoa, Phổ thông, Văn... cùng
nhiều công trình liên quan khác, như: Văn học sử Việt Nam của Bùi Đức Tịnh, Phê
bình văn học thế hệ 1932 - 1945 của Thanh Lãng, Từ Thơ mới đến thơ tự do của
Bằng Giang, Thi ca Việt Nam thời tiền chiến của Phan Canh, Việt Nam thi nhân
tiền chiến của Nguyễn Tấn Long, Khuynh hướng thi ca tiền chiến của Nguyễn
Tấn Long - Phan Canh, Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Lược khảo
về thơ 1900 - 1950 của Uyên Thao, Những khuynh hướng trong thơ ca Việt Nam
của Minh Huy, Lược sử văn nghệ Việt Nam của Thế Phong, Thi ca Việt Nam hiện
đại của Trần Tuấn Kiệt, Ý Văn của Tam Ích... Đặc biệt, có những chuyên san về
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: Hàn Mặc Tử nhà thơ siêu thoát của Thế
Phong, Đôi nét về Hàn Mặc Tử của Quách Tấn, Hàn Mặc Tử thi sĩ tiền chiến của
Hoàng Diệp, Chế Lan Viên thi sĩ tiền chiến của Hoàng Diệp, Đời Bích Khê của
Quách Tấn…
Trong những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn của các tác giả phía
Nam, chúng tôi quan tâm nhiều những đánh giá của Nguyễn Tấn Long và Phan
Canh. Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long kết luận: “Hàn Mặc
12
Tử cũng như Bích Khê là người ở phái thơ cũ chuyển sang lĩnh vực Thơ mới. Từ
địa hạt thi ca có quy tắc trầm lặng tiến đến Thơ mới rồi vượt qua địa hạt tượng
trưng vươn lên nguồn thơ siêu thực”. Tác giả phát hiện ra cái mới lạ của Trường thơ
Loạn mà ông gọi đó là “Những vấn đề thơ khó hiểu, những lời nói khó tin”, và
chứng minh bằng luận điểm sắc sảo: “Nếu một Hàn Mặc Tử hay nói về thượng giới
thì Chế Lan Viên lại nhắc mãi về hạ giới, về cõi âm… Nếu Hàn thường nghĩ về
cảnh chết trước mắt nên ý thơ thường hướng về tương lai, ngược lại Chế hay tiếc
thương về thời đại cũ lại thích quay vần thơ về dĩ vãng” [50,67]. Trong công trình
Khuynh hướng thơ ca tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Phan Canh dù không trực
tiếp tiếp cận ảnh hưởng thơ tượng trưng trong Trường thơ Loạn, nhưng mặc nhiên
thừa nhận ít nhiều có sự chi phối của khuynh hướng ấy trong sáng tác của các thi
nhân, khi cho rằng “Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử là nguồn thơ tiêu biểu cho khuynh
hướng thơ siêu tưởng” [51,72]. Phan Canh trong Thi ca Việt Nam thời tiền chiến
1932 - 1945 [6], phần viết về chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực cũng giới thiệu và
tuyển thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê.
Cùng với Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, phải kể đến nhận định của Minh
Huy trong Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam. Theo tác giả, Hàn Mặc
Tử và Bích Khê là hai nhà lý thuyết của khuynh hướng thơ tượng trưng: “Hàn Mặc
Tử và Bích Khê, thi ca tượng trưng Việt Nam đã đến một cao độ tuyệt vời, đến một
nơi thật cao siêu và khả kính cho đến ngày nay chưa một nhà thơ tượng trưng tiền
và hậu thế chiến nào có thể vượt đến được” [31,127]. Trong công trình này, bên
cạnh Thơ mới tiền chiến, Minh Huy còn tìm hiểu ảnh hưởng của khuynh hướng
tượng trưng đến thi ca hậu chiến qua các tên tuổi, như: Quách Thoại, Đoàn Thêm,
Xuân Phụng, Cung Trầm Tưởng,…
Ngoài ra, còn có những công trình, bài viết bàn luận trực tiếp đến từng tác giả
thơ Loạn. Về Bích Khê có: “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê” của Đinh Cường,
“Người em Bích Khê” của Lê Thị Ngọc Sương, “Dòng thơ, khoảng thơ và thời
gian” của Phạm Hoài Việt, “Nhân nhớ Bích Khê và thơ Bích Khê bàn về thơ tượng
trưng” của Tam Ích... Đặc biệt, bài viết “Thế giới thơ tượng trưng Bích Khê”, Phạm
Kim Thịnh tôn vinh thơ Bích Khê “thuộc hàng tượng trưng điển hình nhất”. “Bích
Khê đã dẫn người đọc vào một không gian chạm trổ những trăng sao, màu sắc,
hương thơm làm no nê tất cả mọi giác quan của người đọc”. Về Hàn Mặc Tử có:
“Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ” của Nguyễn Mộng Giác, “Nỗi Khắc khoải
13
siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” của Nguyễn Xuân Hoàng, “Đức tin trong hồn thơ
Hàn Mặc Tử” của Đặng Tiến, “Tan loãng trong Hàn Mặc Tử” của Phạm Đán Bình,
“Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử” của Võ Long Tê, “Thấy
được những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện tượng Hàn Mặc Tử” của L.M Dũng
Lạc Trần Cao Tường, “Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử” của Bùi Xuân
Bảo, “Hàn Mặc Tử hay là sự hiện hữu của thơ” của Huỳnh Phan Anh,... Các bài viết
đều hết sức coi trọng những thành tựu nổi bật như: đề cao những cái khác thường,
kì dị, lý giải công phu vấn đề rất nhạy cảm là sự phóng chiếu tính dục, yếu tố tôn
giáo và tâm linh siêu hình trong thơ Hàn. Rất tiếc, dấu ấn tượng trưng thơ Hàn lại
không được nhắc đến. Cùng với đó là những công trình nghiên cứu khẳng định lại
giá trị tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên theo kiểu phê bình ấn tượng.
Có thể thấy, tuy các công trình không đề cập trực tiếp về Trường thơ Loạn,
nhưng về từng thi sĩ riêng biệt của trường thơ được các tác giả, nhất là các tác giả
phía Nam nghiên cứu khá kỹ. Về cơ bản, các nhà phê bình văn học phía Nam giai
đoạn này đều thống nhất đề cao những thi sĩ thơ Loạn, và cho rằng chính họ mang
lại cho thi học và thi ca dân tộc những vấn đề mới lạ. Tuy nhiên, lập luận của các
nhà nghiên cứu còn mang tính chủ quan, thường dựa vào đời tư tác giả để cảm nhận
tác phẩm nên đôi chỗ còn cực đoan, phiến diện.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay
Từ sau 1975, giới phê bình văn học có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về
phong trào Thơ mới, trong đó có sáng tác của Trường thơ Loạn. Dù vậy, những năm
đầu sau giải phóng, các nhà nghiên cứu đây đó vẫn còn nhìn các tác giả thơ Loạn
bằng ánh mắt khắt khe và định kiến. Phạm Văn Sĩ ghi nhận ảnh hưởng của
Baudelaire đến Thơ mới: “Có một số thi sĩ Việt Nam nhìn Baudelaire như một nhà
cách tân trong lĩnh vực thơ và hướng theo cách làm của Baudelaire, số người đó tìm
cách làm cho thơ Việt Nam mới mẻ hơn. Bằng thực tiễn sáng tác, họ góp phần làm
cho thơ Việt Nam đi gần với những cảm xúc cá thể, với cách diễn đạt riêng của mỗi
người làm thơ, làm cho thơ Việt Nam tự do, phóng khoáng hơn trước, vượt qua
những công thức gò bó, những niêm luật nghiêm ngặt của thơ cổ” [82,51]. Nhưng
đề cập đến ảnh hưởng thơ tượng trưng Pháp đến sáng tác của hai thi sĩ thơ Loạn,
ông phê phán: “Trong lúc một số thanh niên, một số trí thức chuyển biến theo cách
mạng thì một số khác lại lấn sâu vào cuộc sống suy đồi, đi sâu hơn vào tâm trạng
buồn chán, bế tắc, họ ra sức đào bới những cảm xúc chủ quan của con người xa rời
14
cuộc sống thực tiễn, quay vào cái tôi cô đơn, bệnh hoạn như Bích Khê, Hàn Mặc
Tử, hoặc đi vào cuộc sống ăn chơi truỵ lạc như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương.
Những người này đã khai thác mặt sa đọa trong thơ Baudelaire, mặt tiêu cực trầm
trọng nhất trong cuộc sống riêng của Baudelaire” [82,49]. Ngay cả Nguyễn Hoành
Khung cũng có lần nhận định: “Trường thơ Loạn là một xu hướng tiêu biểu cho tình
trạng bế tắc khủng hoảng của phong trào Thơ mới”, và cho rằng thơ của họ “có
nhiều bài kinh dị, có những vần thơ giống như tiếng gào rú của một linh hồn đau
thương cùng cực” [39,472].
Phải đến sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), dưới tư duy đổi mới,
Thơ mới cũng như Trường thơ Loạn được nhìn nhận lại một cách bình tĩnh, khách
quan và khoa học hơn. Tiếp cận lý thuyết văn học so sánh, các nhà nghiên cứu
chứng minh ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây đối với nhiều nhà
thơ mới và tiêu biểu là các nhà thơ trong Trường thơ Loạn. Nguyễn Quốc Túy trong
chuyên luận Thơ mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại cho rằng: “Có những
trường phái Thơ mới giống các trường phái thơ phương Tây, thơ Pháp: lãng mạn,
tượng trưng, siêu thực” [94,47]. Theo Phan Ngọc: “Thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng
từ thơ Pháp nhưng chủ yếu là từ Baudelaire về sau chứ không phải từ Baudelaire trở
về trước. Ảnh hưởng của Baudelaire rõ nhất ở Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử và hầu như không có ai không chịu ảnh hưởng của ông” [57,27].
Hoàng Hưng khi bàn về hành trình đến với chủ nghĩa tượng trưng của phong
trào Thơ mới Việt Nam, đánh giá: “Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,
Xuân Thu nhã tập, Thơ mới đã đi vào quỹ đạo thơ tượng trưng của Âu Mỹ”. Nhưng
theo ông, đó là lối thơ tượng trưng không triệt để, còn mang tính chất nửa vời. “Các
nhà thơ Việt Nam không triệt để tượng trưng đến thế. Chế Lan Viên còn quá tỉnh
táo và nhân tạo, Bích Khê còn quá rườm lời và lộ ý. Còn Xuân Thu nhã tập theo tôi
đã đi lạc đường: muốn đạt cái mơ hồ, họ dùng sự léo lắt của lý trí, họ lẫn trộn sự mù
mờ tăm tối mà tiềm thức trực cảm được với sự khó hiểu cầu kỳ phải dùng trí năng
để giải thích” [32,23]. Gần với quan điểm của Hoàng Hưng, Trần Đình Sử trong
Những thế giới nghệ thuật thơ có bài phân tích thơ tượng trưng và khẳng định ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với các nhà Thơ mới Việt Nam: “Họ đọc
Baudelaire, Valéry, Rimbaud, Mallarmé, nhưng chỉ học một vài thủ pháp”. Trần
Đình Sử cho rằng, Thơ mới trước sau vẫn là thơ lãng mạn, kể cả đó là sáng tác của
các thi sĩ thơ Loạn. “Có những bài thơ, hình tượng thơ phảng phất phong cách
15
tượng trưng, nhưng không phải thơ tượng trưng”, vì theo tác giả, môi trường xã hội
Việt Nam lúc này không phù hợp cho phong cách thơ tượng trưng đúng nghĩa.
Ngay cả những bài như: Cô liêu (Hàn Mặc Tử) hay Tranh lõa thể (Bích Khê), dù
“có dáng tượng trưng nhưng thực ra là lãng mạn” [78,45].
Trần Thị Mai Nhi trong Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam: Giao lưu,
gặp gỡ chứng minh chủ nghĩa tượng trưng là một trường phái của chủ nghĩa hiện
đại phương Tây. Thơ tượng trưng Pháp trên đường du nhập vào văn học thế giới đã
dừng chân ở Việt Nam và để lại dấu tích cho các nhà thơ mới. “Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Thế Lữ và nhiều nhà thơ mới Việt Nam không hoàn toàn là những người theo
chủ nghĩa lãng mạn mà đã bước tới ngưỡng cửa của thơ hiện đại, đã tới gần chủ
nghĩa tượng trưng Baudelaire” [61,105]. Tác giả cũng chỉ ra những nét thi pháp
tượng trưng có trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: thơ bắt nguồn từ
cõi vô thức, từ sự phi duy lý của con người, thơ của thế giới tâm linh khải thị, “tổ
chức lại tự nhiên” bằng các sức mạnh tưởng tượng của tinh thần theo ý niệm về sự
tương hợp Baudelaire... Đồng tình với quan niệm này, Phan Cự Đệ cho rằng những
ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê là do tác
động từ thuyết tương giao của Baudelaire, từ tinh thần âm nhạc do thi phái tượng
trưng chủ nghĩa đề xướng. “Thức nhọn giác quan tác động trực tiếp vào thế giới
cảm giác của con người, đó là một đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, của
một số nhà thơ lãng mạn khác chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng”, và “nhạc
điệu của thơ tượng trưng Pháp đã có ảnh hưởng ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến
thơ Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh” [16,18]. Trong
Văn học đổi mới và giao lưu văn hóa, ông còn khẳng định thêm rằng: “Hàn Mặc
Tử và Bích Khê là những thi sĩ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của Baudelaire”
[18,90]. Chúng tôi kế thừa những kết quả khoa học này để khẳng định, làm sáng tỏ
thêm vấn đề cần triển khai.
Nhiều tác giả trực tiếp bàn về giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Trường
thơ Loạn. Trong các công trình này, những gương mặt thơ Loạn hiện lên khá sắc nét
về chân dung và phong cách.
Lê Đình Kỵ trong Thơ mới những bước thăng trầm tái hiện phong trào Thơ
mới dưới dạng chân dung văn học. Ở phần nghiên cứu về các thi sĩ thơ Loạn, tác giả
tinh tế khám phá được từng “tạng” riêng của mỗi người: “Từ Chế Lan Viên đến
Bích Khê, Hàn Mặc Tử nằm ở giữa. Dù nói chuyện đầu lâu ma Hời, Chiêm nương
16
hiện hồn tất cả ở Chế Lan Viên đều sáng tỏ. Thơ Bích Khê hầu hết là khó đọc. Hàn
Mặc Tử chỉ lạ ở mông lung, phiếu diễm ở tứ thơ chứ không ở câu, ở chữ, ở điệu
thơ, không phải cái lạ nằm ngay trong tư duy như ở Bích Khê”. Tuy không đánh giá
mức độ ảnh hưởng thơ tượng trưng ở Trường thơ Loạn, nhưng ông phân tích giá trị
thơ của các thi sĩ ở phương diện có tiếp biến này. Đó là sáng tác của Hàn Mặc Tử
“không ít trường hợp dù rơi vào ảo giác, thơ ấy vẫn thấy đẹp và cuốn hút được ta”.
Hàn chỉ lạ khi “bị ánh sáng của chiêm bao vay xiết”. Ở Bích Khê có “dáng quyến
rũ, vừa mới lạ, vừa thân quen”, chữ bí mật nhưng “gây nên sức nổ dây chuyền của
cái lạ lẫm, cái tiềm thức, cái vô thức qua những ấn tượng, những liên tưởng đột
xuất, bất ngờ, xóa tan mọi khoảng cách, đem nhích lại gần nhau giữa những cái xa
lạ, vô can”. Ông cũng đặc biệt chú ý đến những sáng tạo của Bích Khê, xem nhạc
tính là sức mạnh của nhà thơ: “thành công ở lối thơ ngắt nhịp ở từ thứ tư, chia câu
bát làm hai nửa tứ ngôn, tạo thành giai điệu nửa riêng tây, nửa thuận hòa” [41,236].
Từ góc nhìn thi pháp học, Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy nhận định xác đáng về
thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê. Theo Đỗ Lai Thúy, thơ Hàn Mặc Tử “chín rộ vào
quãng gối đầu giữa tượng trưng và siêu thực”. “Dĩ nhiên, một căn cốt Đông phương
thâm hậu đã làm cho tượng trưng của ông có bóng dáng tượng trưng Đường thi, và
xa hơn nữa là tượng trưng thiền, còn siêu thực thì đậm nhạt một màu sắc Liêu Trai.
Điều này tạo nên sự riêng biệt, vừa phong phú, vừa sâu sắc trong phong cách trữ
tình của thơ Hàn Mặc Tử”. Quan trọng hơn, Đỗ Lai Thúy còn nêu ra đặc trưng mô
hình trong thế giới thơ Hàn: Tính trữ tình + tư duy tôn giáo + mô hình và sáng tạo…
Ông tìm hiểu thơ Bích Khê từ ảnh hưởng của thơ ca phương Đông đến sự tiếp nhận
văn học phương Tây. Đặc biệt, ông đi sâu phân tích biện pháp nghệ thuật ẩn dụ mà
Bích Khê sử dụng hết sức thành công. “Thi nhân không chỉ phục hồi ý nghĩa từ
nguyên cho ẩn dụ, mà quan trọng hơn, còn cải tạo chúng theo cái nhìn thế giới của
riêng mình”. Đỗ Lai Thúy còn phát hiện ở “ngòi bút Bích Khê có biệt tài trong việc
tạo ra những ẩn dụ mới, độc đáo, lạ lẫm, tuy giống ẩn dụ cũ về ý nghĩa nhưng khác
về diễn tả ngôn từ”. Đỗ Lai Thúy còn quan tâm đến hiện tượng trùng phức, nhạc
tính trong thơ Bích Khê. Từ đó kết luận “Bích Khê đã vượt qua địa hạt lãng mạn
sang lãnh địa tượng trưng và trở thành chủ soái của trường thơ này” [88,193]... Tiếc
rằng, ở Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy không đề cập đến Chế Lan Viên. Về sau, bài viết
“Chế Lan Viên tháp Chàm bốn mặt”, lý giải việc Chế không có chân trong nhóm
thất tinh của Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy cho rằng Điêu tàn không tiêu biểu cho một
17
phạm trù thi pháp học, “nếu xét về mặt tư duy nghệ thuật, so với Tinh huyết của
Bích Khê, Đau thương của Hàn Mặc Tử, những người cùng Trường thơ Loạn với
ông, thì không bằng”. Theo Đỗ Lai Thúy, “mặc dù có một số khám phá mới mẻ về
ngôn ngữ, nhưng ở Điêu tàn, Chế Lan Viên vẫn chưa tìm được một ngôn ngữ thích
hợp để phô diễn những tư tưởng tân kỳ” [89,96].
Hà Minh Đức trong Văn chương tài năng và phong cách điểm qua các
gương mặt Thơ mới tiêu biểu trong đó có Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và
khẳng định thành tựu trong sáng tạo nghệ thuật của họ là “một nguồn mạch phong
phú của thơ ca dân tộc trong thời kỳ hiện đại” [24,106]. Trong chuyên luận Một
thời đại trong thi ca, bên cạnh khắc họa sinh động chân dung các nhà thơ mới cùng
những đỉnh cao thơ Loạn, Hà Minh Đức chứng minh các nhà thơ mới Việt Nam học
được thơ tượng trưng lối cảm, lối nghĩ và cả lối sống. “Ở Baudelaire, các nhà thơ
mới tìm thấy nhiều hình thức biểu hiện phức tạp của cái tôi trữ tình, từ sự mong ước
đến chán nản, tuyệt vọng, từ cái đẹp vươn tới của nghệ thuật đến chất suy đồi của
thơ”. Tác giả đề cập đến quá trình hội nhập thầm kín và ngân tỏa sâu rộng từ
“những niềm hoan hỷ của tinh thần và giác quan” trong cảm nhận thế giới của
Baudelaire đến các nhà thơ mới. “Trong cảm nhận thi ca, câu thơ Hương thơm, màu
sắc và âm thanh tương hợp với nhau của Baudelaire cũng gợi nhiều cho các nhà thơ
kinh nghiệm khai thác thế giới nội cảm với những biến thái linh hoạt của cái tôi trữ
tình” [23,46]. Trước đó, trong bài viết “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên”, Hà
Minh Đức cho thấy sự cách tân quan trọng trong quan niệm nghệ thuật của Trường
thơ Loạn: “Với Trường thơ Loạn, quan niệm về thơ và nhà thơ đã có những thay
đổi quan trọng. Mẫu hình thi sĩ ru với mây gió, đẫm tình và mộng đã bị thay thế
bằng những thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thường. Họ muốn xác lập một thế giới
mới trong thi ca khác với quan hệ quen thuộc của đời thường. Cái lôgíc của thi ca
đã trở nên khác biệt nhiều khi đối lập với lôgíc của cuộc đời. Nhà thơ, chủ thể sáng
tạo, một nhân tố mạnh xem mình như trung tâm của vạn vật và bộc lộ cảm xúc một
cách khác thường” [22,29].
Mã Giang Lân trong Tìm hiểu thơ phân tích dấu ấn tượng trưng trong thi
phẩm của các tác giả thơ Loạn và đưa ra luận điểm khá xác đáng: “Về quan điểm
nghệ thuật, và từ đó là những sáng tác của bộ ba Trường thơ Loạn (Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Bích Khê - VNN) là những con người trung thành với thơ tượng
trưng, siêu thực. Nhưng có điều, họ thực sự là những chân tài nên đã tạo nên nhiều
18
bài thơ đặc sắc, có giá trị lâu dài” [46,244]. Trong bộ ba thơ Loạn này, Mã Giang
Lân quan tâm nhiều đến Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên. Theo Mã Giang Lân, “cả
hai ông đều đề cao con người nghệ sĩ là con người khác thường, siêu phàm và coi
quá trình sáng tạo thơ như là một cái gì siêu phàm, thần bí”. Bên cạnh đó, Mã Giang
Lân còn đặc biệt chú ý đến tuyên ngôn nghệ thuật của hai nhà thơ, mà với nhà
nghiên cứu, nó bắt nguồn từ đức tin tôn giáo và sự dồn nén cảm xúc của nỗi niềm
nhân thế. Nói cách khác, đó là sự cộng hưởng của quan niệm triết mĩ và nỗi đau đời:
“Cả hai đã tuyên ngôn, bằng hình thức này hay hình thức khác, hình thành một
trường phái tạo nên những vần thơ kinh dị, bột phát từ những ẩn ức, tiềm thức và cả
những ý tưởng tôn giáo tối thượng linh thiêng”. Mã Giang Lân đánh giá Hàn Mặc
Tử “là người tiên phong đưa thơ đi vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng
thơ hiện đại thế giới”. Với Bích Khê, tác giả cho rằng: “Bích Khê nổi bật với sự
trung thành với những nguyên lý tối cao của chủ nghĩa tượng trưng, của Baudelaire,
ông tổ thơ hiện đại Pháp” [46,23-24]. Trong chuyên luận Tiến trình thơ hiện đại
Việt Nam, Mã Giang Lân đánh giá “những yếu tố tượng trưng siêu thực đã hiện rõ,
đậm đặc trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê”. Theo tác giả, chính thi
pháp tượng trưng đã “tạo nên nét khác biệt giữa nhóm các nhà thơ này và các nhà
thơ lãng mạn cùng thời” [47,131].
Phát hiện sự tương đồng trong việc thai nghén nguồn thi liệu giữa Baudelaire
với các thi sĩ thơ Loạn, Chu Văn Sơn cho rằng: “Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở
những vật ghê rợn kinh hãi như xác chết, máu me, xương tủy, sự dâm đãng… Đến
lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của Trường thơ Loạn cũng đi tìm thi
hứng và nói rất thoải mái đến những cái chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng
loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng… Tuy nhiên, trong khi các thi hữu
của mình nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, nghĩa là tuân theo
những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống
thực tế rất gần với cái thời gian kinh dị đó” [76,32]. Trong một công trình khác,
Chu Văn Sơn phát hiện mức độ ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến mỗi nhà thơ
Loạn ở những khía cạnh khác nhau. Mỗi nhà thơ có một hướng đi trên cơ sở tiếp
thu và sáng tạo, hình thành một phong cách riêng cho mình: “Mỗi thi sĩ ảnh hưởng
lại tâm đắc một sắc thái nào đó. Do tạng của mình, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên
nghiêng về đau thương và kỳ dị, rồi đẩy lên đến kinh dị. Bích Khê lại mê cái kỳ dị
và xấu” [81,63].
19
Trần Thị Huyền Trang trong công trình Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật
đắng nhìn thấy nét gần gũi trong thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn. “Qua
các tác phẩm thuộc Trường thơ Loạn, người đọc dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng lẫn
nhau trong ngôn ngữ và hình tượng thơ. Họ bắt gặp nhau trong ý tưởng và ngôn từ,
nhưng giọng điệu thì khác. Về mức độ, có lẽ Hàn Mặc Tử là người gây ảnh hưởng
nhiều nhất đối với các nhà thơ trong vương quốc của mình, tiếp đến là Chế Lan
Viên. Thơ của Hàn có trăng, hồn, máu thì thơ Chế Lan Viên, Bích Khê và Yến Lan
cũng có trăng, hồn, máu. Thơ Chế có bóng ma thì thơ Hàn, Bích Khê bóng ma
thỉnh thoảng cũng hiện về. Sọ người, tinh tủy, xương người đầy rẫy trong thơ Chế
Lan Viên và Bích Khê. Còn điều này nữa, cái chất chung, tan chảy điều hòa toàn bộ
sáng tác của họ là cái chất sầu… Với mỗi nhà thơ, cái sầu được thể hiện ở những
mức độ khác nhau. Ở Hàn Mặc Tử, nó phơi bày ở khía cạnh đau thương. Ở Bích
Khê, nó là sự dằn vặt triền miên. Ở Chế Lan Viên, nó cô lại thành khối chán nản. Ở
Yến Lan, nó khoanh tròn trong nỗi cô đơn tuyệt vọng não nề” [90,93-94]. Dù đây
không phải là phát hiện mới mẻ, nhưng qua việc nghiên cứu hiện tượng thơ Hàn
Mặc Tử, phần nào cho thấy tác giả có phần dày công trong việc đặt vị trí của một
nhà thơ trong tương quan trường phái sáng tác.
Phạm Phú Phong với bài viết “Bích Khê trong Trường thơ Loạn” quan tâm
nhiều đến khía cạnh huyền hoặc, đầy biến hóa trong sáng tạo nghệ thuật của các thi
sĩ. Theo tác giả, Trường thơ Loạn “đã tạo ra một dòng thơ lạ lẫm, kì dị khiến cho
nhiều người phải giật mình sửng sốt. Thơ của họ vút cao chót vót nối tầng cao nhất
của thiên đường tới tận cùng địa phủ, từ đó tạo ra thứ ánh sáng huyền hoặc”. Phạm
Phú Phong nhìn nhận: “Điều đáng lưu ý là tuy nói Loạn mà không loạn, Điên mà
không điên. Không bừa bãi, cẩu thả, mà được trau chuốt cẩn thận từng câu, từng
chữ, nhằm thể hiện cảm xúc luôn khao khát được sống hết mình, đòi hỏi người nghệ
sĩ phải sống bằng trái tim, bằng tâm hồn cháy bỏng từng ngọn lửa yêu thương, phải
mở lòng rộng rung rinh, lắng nghe tiếng nói thì thầm ở nơi tĩnh lặng nhất của cõi
lòng mình, phải thét phải gào cho thỏa những khát khao, ước mong về thế giới đau
thương, về cái đẹp, về tình yêu và cuộc sống. Điều ấy thể hiện rõ rệt thông qua sáng
tác của những tác giả chủ chốt của nhóm như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích
Khê” [69,188]. Trong một bài viết khác, tác giả nhận định: “Đọc tác phẩm của các
tác giả trong Trường thơ Loạn, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thống nhất về quan
điểm trong một nguồn chung, có ảnh hưởng lẫn nhau trong ngôn ngữ và hình tượng,
20
nhưng đều có những thi pháp biểu hiện riêng và đã đạt được những thành tựu khác
nhau, còn sống mãi trên thi đàn dân tộc” [70,18].
Tuy không đặt vấn đề nghệ thuật tượng trưng trong thi phẩm của Trường thơ
Loạn như một phương diện nghiên cứu độc lập, nhưng ở nhiều bài viết, Hồ Thế Hà
thấp thoáng đề cập đến lĩnh vực này. Trong “Tư duy thơ Bích Khê - nhìn từ các
dạng thái của cái tôi trữ tình”, Hồ Thế Hà đưa người đọc đi từ thi giới Bích Khê đến
thế giới kinh dị của thơ Loạn. “Với Trường thơ Loạn, người đọc bất giác nhận ra
thế giới kì lạ, hình như không có khoảng cách giữa địa ngục và thiên đường, giữa
thực và ảo, giữa nhớ và quên, giữa mê và tỉnh, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bình
thường và phi thường. Những đối lập này đã va chạm và phản âm, phản cảnh và
phản sắc tạo ra những kinh dị huyền diệu choáng ngợp… Chính các lớp hình tượng
trên được biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ cũng quái đản, biến hóa đã làm cho thơ
Loạn càng lung linh, huyền bí, có sức cuốn hút kỳ lạ đối với bao thế hệ người đọc
hiếu kỳ và thích tận hưởng cái mới, cái ngoại vi thơ độc đáo, bất khả giải của thi ca.
Tưởng cũng nên nhắc lại các quan niệm thi ca của Trường thơ Loạn. Các thi sĩ của
Trường thơ Loạn đề cao tinh thần nghệ thuật vị nghệ thuật mà các yếu tố của thi ca
(éléments de póesie) bao gồm trăng, hương, hoa, nhạc được đề cao. Đó là thế giới
riêng của cái đẹp mà thi sĩ là thiên sứ mang cái đẹp đó cho trần gian, nối liền với
mọi người” [28,89]. Bài viết “Nhóm thơ Bình Định thời kỳ Thơ mới 1930 - 1945”,
sau khi điểm lại những gương mặt Thơ mới tại Bình Định, Hồ Thế Hà cho rằng
quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn là kết quả của sự kiếm tìm, đổi mới, sự
phá rào để “tiền trạm cho tương lai” (Breton). Dù rằng nhận thấy có những quá đà,
quá ngưỡng trong một số bài thơ, câu thơ dẫn đến huyền bí, siêu hình, nhưng theo
tác giả, “ngày nay, bình tĩnh nhìn lại, quả là các ông đã làm nên sự tân kỳ, hấp dẫn
mà lịch sử văn học phải ghi nhận công đầu” [28,348].
Luận án tiến sĩ ngữ văn Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại,
Hoàng Sĩ Nguyên điểm qua những nét đặc trưng nổi bật về cái tôi cá nhân của các
tác giả thơ Loạn, và khẳng định: “Cái tôi trong thế giới Điêu tàn của Chế Lan Viên
luôn khoác cho mình một dĩ vãng vàng son và bi tráng đã lùi xa để gửi thông điệp
về sự hủy hoại của con người”, còn “Cái tôi trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê là cái tôi khát khao tìm hiểu, khám phá và phát hiện trong chiều sâu” [59,29].
Đặc biệt, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Hữu Hiếu Những biểu hiện của
khuynh hướng tượng tưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 [34] đã luận giải
21
khá sâu sắc nhiều vấn đề: từ cơ sở hình thành khuynh hướng tượng trưng đến những
quan niệm và khuynh hướng biểu hiện trong sáng tác của các nhà thơ mới... Công
trình này, Nguyễn Hữu Hiếu bao quát trên diện rộng và nhận thấy nhiều nhà thơ của
phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng. Vì bao quát trên
diện rộng, nên tác giả dù có đề cập, nhưng không thể đi sâu làm rõ ảnh hưởng của
chủ nghĩa tượng trưng đến sáng tác của Trường thơ Loạn.
Nguyễn Toàn Thắng trong chuyên luận Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình
Định là người tìm hiểu nhiều về trường phái thơ Loạn. Bàn về quan niệm nghệ
thuật của Hàn Mặc Tử, nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn gắn với chủ nghĩa
tượng trưng, tác giả cho rằng: “Trường thơ Loạn đã có quan niệm nghệ thuật gần
gũi với thơ tượng trưng. Trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,
thế giới hình tượng nghệ thuật đã có những thay đổi đáng kể. Cả cái biểu đạt (hình
tượng tượng trưng) và cái được biểu đạt bị che giấu đều trở nên bí ẩn. Hình tượng
tượng trưng giống như một câu đố đòi hỏi chúng ta phải đi tìm kiếm cái gì ý nghĩa
đằng sau hình tượng” [87,97]. Công trình này, tác giả có điểm qua sự tích hợp chất
Đạo và chất Đời của ba thi sĩ thơ Loạn: “Rõ ràng như thể có sự đồng điệu, vang
vọng về chất đạo, chất đời trong nhóm thơ Bình Định, Trường thơ Loạn giữa Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê. Đó là một nội dung quan trọng để cắt nghĩa
Trường thơ Loạn nói riêng và nhóm thơ Bình Định nói chung. Phải chăng có như
vậy mới phục nguyên được dáng vẻ toàn bích của tổ chức thi ca này?” [87,236].
Tuy vậy, chuyên luận này chủ yếu viết về Hàn Mặc Tử. Trên cơ sở nghiên cứu thơ
Hàn, Nguyễn Toàn Thắng so sánh những điểm tương đồng trong sáng tạo nghệ
thuật với nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn. Cũng vì vậy, tác giả chưa thể
tách Trường thơ Loạn thành phạm trù nghiên cứu riêng biệt. Mặt khác, dù xác định
thành viên của Nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn là khác nhau, nhưng đây
đó dường như tác giả đồng nhất nhóm thơ và trường thơ này về thi pháp sáng tác,
khi cho rằng: “Trường thơ Loạn hoài thai trong lòng nhóm thơ Bình Định, cho nên
nghiên cứu nhóm thơ Bình Định cũng là bao hàm cả Trường thơ Loạn” [87,37].
Điều này theo chúng tôi cũng cần phải bàn thêm.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến các luận án Tiến sĩ Ngữ văn nghiên cứu về các
tác giả của Trường thơ Loạn, như: Đoàn Trọng Huy với Những nét đặc sắc cơ bản
của hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau 1945 [33]; Hồ Thế Hà với Thế
giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên [27]; Nguyễn Quốc Khánh với Thi pháp thơ
22
Chế Lan Viên [35]; Chu Văn Sơn với Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử [77]...
Ở những công trình này, các thi sĩ của Trường thơ Loạn hiện lên rõ nét về chân
dung và phong cách.
Ngoài các công trình đã được in thành sách, còn có các khóa luận Tốt nghiệp
Đại học, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về Trường thơ Loạn hoặc từng tác giả thơ
Loạn riêng biệt, nhưng chúng tôi chưa có dịp dẫn chứng, tham khảo, vì nhìn chung
các công trình này vẫn không bàn ngoài những vấn đề mà các công trình đi trước đã
đề cập.
Xem sáng tác của Trường thơ Loạn là đặc trưng thẩm mĩ quan trọng, tạo ra
những khác biệt và lạ hóa so với phần còn lại của Thơ mới, chúng tôi đã công bố
một số bài viết trực tiếp liên quan đến trường phái thơ này. Những bài viết đó, dù có
đặt Trường thơ Loạn trong tương quan so sánh với nghệ thuật thơ tượng trưng,
nhưng trong giới hạn của những bài báo, chúng tôi chưa thể trình bày một cách cụ
thể, chi tiết và thấu đáo vấn đề này.
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu
Điểm qua phần lịch sử nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy:
Thứ nhất: Có thể thấy, việc đón nhận Trường thơ Loạn của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học có nhiều bước thăng trầm. Do những tác động của thời đại,
các quan điểm đánh giá về Thơ mới nói chung và Trường thơ Loạn nói riêng cũng
có những khác nhau dựa trên những phương pháp luận khác nhau. Trước 1975,
những vần thơ ấy được coi như “chiếc nấm lạ”, và bị đặt dưới góc nhìn phê phán,
minh họa cho sự tiêu cực của phong trào Thơ mới. Họ bị cho là bế tắc, bi quan,
thậm chí suy đồi. Phải hơn 10 năm sau khi đất nước thống nhất, việc đánh giá
Trường thơ Loạn mới có những bước tiến khách quan hơn.
Thứ hai: Dù là hiện tượng độc đáo trong bước chuyển mình ngoạn mục của
một chặng đường thi ca dân tộc, nhưng số lượng công trình nghiên cứu riêng biệt về
Trường thơ Loạn lại rất ít. Hầu hết các công trình chỉ điểm qua khuynh hướng sáng
tác của Trường thơ Loạn ở mức độ tổng quát và sơ lược.
Thứ ba: Theo thống kê của chúng tôi, trong ba đỉnh cao thơ Loạn, Hàn Mặc
Tử là nhà thơ được nghiên cứu nhiều nhất, tiếp đến là Chế Lan Viên và Bích Khê.
Tuy đi sâu tìm hiểu và phát hiện những giá trị đặc sắc của từng nhà thơ, nhưng các
23
nhà nghiên cứu ít khi đặt tác giả trong hệ thống của trường phái thơ để có một cái
nhìn tổng thể về phong cách nghệ thuật của Trường thơ Loạn.
Thứ tư: Trong các công trình kể trên, nhiều nhà nghiên cứu chung quan điểm
cho rằng Thơ mới Việt Nam chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng phương Tây. Họ
khẳng định các tác giả thơ tượng trưng Pháp như Charles Baudelaire, Arthur
Rimbaud, Paul Verlaine, hay nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ Edgar Allan Poe
đã để lại dấu ấn đậm nhạt khác nhau, góp phần mở rộng biên độ thơ, làm đa dạng
phong cách nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Từ đó, các tác giả thống nhất nhận
định Trường thơ Loạn chịu ảnh hưởng khá đậm của chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt
là việc tiếp nhận nguyên lý mỹ học tượng trưng của Baudelaire. Tuy vậy, xét về một
tổng thể hệ thống sáng tác của Trường thơ Loạn, có thể khẳng định, chưa có công
trình nào thật sự đặt vấn đề nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ này.
1.2.2. Hướng triển khai đề tài
Những thành viên chủ chốt của Trường thơ Loạn là những nhà thơ tài danh
của thi ca dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của họ có thể xem là “thi ca chi bảo”, đòi hỏi
nhiều người tiếp tục nghiên cứu. Luận án của chúng tôi góp một cái nhìn mới trên
cơ sở tiếp thu thành tựu những công trình đi trước và cố gắng vận dụng lý thuyết
tiếp nhận văn học hiện đại để tìm hiểu, khám phá, chỉ ra giá trị ưu việt trong tính
toàn vẹn, bao quát và chỉnh thể Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường
thơ Loạn. Thực hiện điều này, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau:
Một là: Luận án hệ thống lý thuyết thơ tượng trưng: sự hình thành và phát
triển, đặc trưng thẩm mỹ, ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với Thơ mới Việt
Nam tiền chiến. Quá trình ảnh hưởng này đã hình thành những chi lưu tượng trưng
Thơ mới, như: Dạ Đài, Xuân Thu nhã tập, Trường thơ Loạn… Trong đó, Trường
thơ Loạn là một hiện tượng văn học đầy hấp dẫn và ám gợi. Chúng tôi nhận thấy
rằng, mỗi người trong Trường thơ Loạn có sự thống nhất với nhau ở một số mặt,
nhưng đều có thi pháp biểu hiện riêng và đạt được những thành tựu khác nhau.
Những gương mặt thơ độc sáng đã kiến trúc nên cả một trường thơ còn sống mãi
trên thi đàn dân tộc cho đến tận hôm nay.
Hai là: Là hình thái ý thức xã hội đặc thù, văn học có quan hệ gắn bó với cơ
sở lịch sử xã hội làm nảy sinh ra nó. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng
trong sáng tác Trường thơ Loạn, không thể không nói đến những trầm tích và sắc
thái riêng biệt của vùng đất Bình Định - không gian văn hóa của các tác giả thơ
24
Loạn, cũng như những giao lưu văn học Đông - Tây… góp phần hình thành và phát
triển tư duy thẩm mỹ của các thi sĩ.
Ba là: Luận án chứng minh tuyên ngôn nghệ thuật của Trường thơ Loạn có
sự tương đồng với nguyên tắc mỹ học của thơ tượng trưng phương Tây, nhất là của
Baudelaire. Và từ tuyên ngôn nghệ thuật này đã chi phối như thế nào đến hệ thống
hình tượng và biểu tượng cơ bản của Trường thơ Loạn: hình tượng cái tôi, hình
tượng không gian và thời gian, các biểu tượng trăng - hồn - máu, hoa - nhạc -
hương... Đây là cơ sở then chốt để cắt nghĩa sáng tác của họ.
Bốn là: Khẳng định ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến Trường thơ Loạn
qua các phương diện: ngôn từ nghệ thuật, nhạc tính và họa tính, giọng điệu và nghệ
thuật tương hợp… Đây là những phương diện tạo nên giá trị bền vững cho sáng tác
của Trường thơ Loạn. Những thủ pháp nghệ thuật này có khả năng chứa đựng, diễn
tả được cảm xúc, tâm trạng cũng như những suy nghiệm của các nhà thơ trước cuộc
đời. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận chính xác hơn những nỗi buồn cay đắng,
thấm đẫm nỗi đau đời… của các thi sĩ trước nghịch cảnh cuộc sống.
Tiểu kết
Từ việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu Trường thơ Loạn, chúng tôi rút ra một số
điểm sau:
Theo thời gian, các công trình nghiên cứu đã có nhiều cố gắng dựng lại diện
mạo của Trường thơ Loạn, nhất là những năm gần đây. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu xứng tầm so với đóng góp của
Trường thơ Loạn trên thi đàn dân tộc.
Nhìn lại quá trình vận động và phát triển phong trào Thơ mới, hầu hết các
nhà nghiên cứu nhận thấy, so với những nhóm thơ khác, Trường thơ Loạn khẳng
định tên tuổi và vị thế của mình hơn cả.
Nhiều tác giả đi sâu bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của Trường thơ
Loạn, khẳng định ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây nói chung và
Baudelaire nói riêng đến nhóm tác giả thơ Loạn từ sau 1936. Tuy vậy, những bài
viết này chỉ mang tính nhỏ lẻ, chưa thực sự chuyên sâu một cách hệ thống.
Từ những gợi ý quý báu trên của các nhà nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn
“len” vào nguồn mạch này để tiếp tục tìm hiểu Nghệ thuật tượng trưng trong sáng
tác của Trường thơ Loạn.
25
CHƯƠNG 2
TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI
2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng
2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại
Cuộc cách mạng trong Thơ mới được thể hiện trước hết ở sự bùng nổ của cái
tôi cá nhân (individu). Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng
tạo trước con người và tạo vật, nên “cái tôi trong mọi thời đại được coi như nguồn
gốc của mọi hoạt động thơ ca, như lõi cốt của thể loại trữ tình” (Claude Pichois).
Trong thơ trữ tình cổ điển, hình tượng cái tôi trữ tình tự ý thức về mình như một
yếu tố trong mô hình vũ trụ. Tính chất của cái tôi trữ tình cổ điển là “phi cá thể, siêu
cảm giác” (Trần Đình Sử). Thi nhân hướng về lời dạy thánh hiền, vào chí đức của
các bậc quân tử, vào một miền lý tưởng nào đó để ngợi ca và khẳng định, vì vậy ít
có nhu cầu bộc lộ cá tính. Phạm trù chính phản ánh trong thơ cổ là tình - cảnh, cảnh
- tình để cái tôi cá nhân được khách thể hóa vào vũ trụ. Vì vậy, cái tôi văn học trung
đại xét đến cùng nó vẫn là cái tôi đại diện - cái tôi không của riêng tôi. Cố nhiên, sẽ
là hời hợt nếu cho rằng, thơ trung đại là “vô ngã”. Đây đó trong thơ cổ, vẫn có xuất
hiện cái tôi “lệch chuẩn”. Một Hồ Xuân Hương sắc sảo, đáo để qua tiếng Tự tình
chua xót, đớn đau trong canh khuya vắng lặng: “Đêm khuya văng vẳng trống canh
dồn, - Trơ cái hồng nhan với nước non. - Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, - Vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn” (Tự tình - Hồ Xuân Hương); một Nguyễn Gia
Thiều muốn đạp phăng bức tường lễ giáo phong kiến tìm đến hạnh phúc đơn sơ của
chồng của vợ: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm, - Mùi hoắc lê thanh đạm
mà ngon. - Cùng nhau một giấc hoành môn, - Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”
(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều),… là những minh chứng. Nhưng xét
đến cùng, đó vẫn chỉ dừng lại ở sự manh nha của cái tôi cá nhân cá thể chứ chưa đủ
sức khẳng định như cái tôi trong Thơ mới sau này. Phải đến những năm đầu thế kỷ
XX, các yếu tố nội sinh cộng với sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được
tìm thấy và nở rộ trong thơ. “Những xáo trộn to lớn về mặt lịch sử - xã hội, sự thâm
nhập của các luồng tư tưởng phương Tây vào đầu thế kỷ này là tiền đề quyết định
sự ra đời của cái tôi lãng mạn chủ nghĩa” [1,36]. Hoài Thanh cho rằng, thơ Việt
Nam từ thời cổ điển đến thời hiện đại là đi từ “chữ ta” đến “chữ tôi”: “Tinh thần
26
xưa - hay thơ cũ nằm trong chữ ta”; “tinh thần nay - Thơ mới nằm trong chữ tôi”,
“tức nguồn cảm hứng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành linh
hồn Thơ mới lúc bấy giờ”.
Thơ mới được thể hiện trước hết với tư cách là tiếng nói giải phóng khỏi
những ràng buộc của con người phận vị. Con người được sống trọn với cảm xúc của
mình, khẳng định quyền tự do yêu đương của chính mình. Các nhà thơ đề cập đến
tình yêu không chút che đậy, giấu giếm. Xuân Diệu là cái tôi bộc lộ đầy đủ, cá tính
và đam mê một tình yêu mãnh liệt: “Tôi không biết, không biết gì nữa cả - Chỉ yêu
nhiều là tôi biết mà thôi” (Tặng thơ - Xuân Diệu). Thế Lữ gọi mời: “Yêu đi… yêu
nữa và yêu mãi”. Với Nguyễn Bính: “Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”. Và với Tế
Hanh: “Tôi là triệu phú rất nhiều yêu”… Từ “con người chức năng trong xã hội
luân thường” (Trần Đình Hượu) của văn học trung đại đến con người với “khát
vọng thành thật” (Hoài Thanh) trong Thơ mới là một bước tiến dài hơi và đột biến,
cho phép nhà thơ biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng.
Thơ mới đã tạo ra cái tôi cá thể hóa trong cách cảm nhận thiên nhiên độc
đáo, riêng tư. Nếu thơ xưa xem thiên nhiên là tấm gương soi ngắm mình thì ở Thơ
mới, vẻ đẹp toàn bích con người mới là chuẩn mực cho vạn vật. Xuân Diệu khi
miêu tả thiên nhiên đã lấy con người làm thước đo: “Lá liễu dài như một nét mi”,
“Mây đa tình như thi sĩ thời xưa”. Đinh Hùng thấy mình là trung tâm mà không gian,
thời gian như phụ thuộc vào đó: “Chúng ta đến mùa xuân thay sắc diện”… Cách nhìn
thế giới thay đổi, quan niệm mỹ học cũng thay đổi theo. Thơ mới đi sâu vào khai
thác thế giới thiên nhiên, coi nó như là một thế giới bình yên, thanh sạch, và là khách
thể cần khám phá, chinh phục.
Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi cá nhân trong Thơ mới đồng thời
cũng đóng vai trò là chủ thể sáng tạo mang phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng
định mình. Rất nhiều bài trong Thơ mới, cảm hứng chủ đạo phô bày trực tiếp một
quan niệm, một tư tưởng nào đó của nhà thơ. Con người cá nhân, cá thể xuất hiện
trong Thơ mới là con người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính
mình, hân hoan khẳng định chính mình. Các thi sĩ cất lên tiếng nói của chủ nghĩa cá
nhân đầy tự tin và tự hào. Xuân Diệu khẳng định mình như một văn nhân độc đáo,
cá biệt: “Ta là một, là riêng, là thứ nhất” (Hy Mã Lạp Sơn). Trần Huyền Trân lang
thang trên trên cánh đồng thơ bằng những bước đi đặc dị: “Chân mình vẫn lạc dấu
27
nghìn chân” (Tha hương)… Coi mình như người khác hẳn phàm trần, cũng đồng
nghĩa các nhà thơ mới tự cảm thấy mình lạc lối thời cuộc. Đinh Hùng chập chờn
giữa thế giới nguyên thủy tiền kiếp và đô thị hiện đại như lạc bước giữa trần đời:
“Ta về đây lạ hết các ngươi rồi - Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống” (Bài ca man
rợ). Xuân Diệu và Huy Cận như một “ải quan xa”, một đóa hoa trong hẻm núi… Lẻ
loi trước nhân thế, các thi sĩ luôn tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Ta là ai?” trên cõi
đời này. Chính vì vậy, xuất hiện nhiều câu thơ các thi sĩ tự truy vấn chính mình. Đó
cũng chính là một cách tuyên xưng dõng dạc đầy khẳng định của cái tôi - chủ thể.
Thế Lữ - “người khách đi qua trần thế” mộng mơ trong chốn bồng lai với tiên nga,
ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng
- Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi” (Cây đàn muôn điệu). Xuân Diệu tự xem
mình: “Tôi là một kẻ làm thơ thẩn - Cúi nhặt thơ rơi giữa sỏi đường” (Đi dạo). Và
còn nữa, Tôi - cây kim bé nhỏ, Tôi - con chim đến từ núi lạ, Tôi - con nai bị chiều
đánh lưới, Tôi - thi sĩ của yêu thương, Tôi - kẻ đưa răng bấu mặt trời… Ý thức chủ
quan của chủ thể được biểu lộ một cách trực tiếp qua sự khẳng định của ý thức cá
nhân. Trong sự biểu hiện ấy, cái tôi Thơ mới thể hiện mọi tâm trạng, từ niềm vui
đến nỗi buồn, sự tuyệt vọng trên đường tìm hạnh phúc và cả những giấc mơ không
thành hiện thực để hữu hình hóa những vi diệu tâm hồn.
Mặc dù cái tôi Thơ mới xuất hiện với đầy đủ ý nghĩa tuyệt đối, nhưng sau sự
lên ngôi rực rỡ buổi đầu, thì về sau lại tỏ ra bất lực. Đỗ Lai Thúy nhận xét: “Con
người cá nhân Việt Nam vừa mới ra đời đã vấp phải bao mâu thuẫn, ngoài những
mâu thuẫn thường hằng của bản chất người. Đó là mâu thuẫn giữa nền văn hóa
nông thôn cổ truyền và nền văn hóa đô thị mới hình thành, giữa Đông và Tây, giữa
dân tộc và thế giới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái ta và cái tôi…” [88,268].
Nói cách khác, đó là sự lỗi nhịp của vòng quay lịch sử - thi ca. Trong sự lỗi nhịp ấy,
cái tôi cá nhân Thơ mới có nguy cơ chao đảo và bộc lộ hạn chế về tư tưởng. Thi
nhân đơn độc cùng nỗi âu sầu riêng tư, miên viễn vì một tình yêu trắc trở, một cảnh
sắc thiên nhiên, một nỗi niềm tâm sự… Nhưng trên hết, vì họ không thỏa hiệp được
với xã hội “kim tiền ô trọc”, lại xa rời và không có niềm tin vào thắng lợi của cuộc
đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Vậy là cái buồn trong cuộc đời thực
đã trở thành “tham số thi ca”… Thi sĩ biết cách tạo dựng cho lâu đài thơ mình một
thế giới buồn sầu riêng biệt. Trong dàn đồng ca đa sầu đa cảm Thơ mới, Huy Cận là
hồn thơ ảo não, thê thiết nhất. Nhà thơ tìm đến “nỗi sầu nhân thế” (Spléen) của Poe
28
và Baudelaire, khơi dậy mạch “sầu vạn kỷ” mấy ngàn năm ngấm ngầm trong hồn
thơ kim cổ để chiêm nghiệm không gian vô biên vô cùng và thời gian vô thủy vô
chung. Hồ Dzếnh mang nỗi sầu bao la bất tận của một tâm hồn Minh hương viễn
xứ. Giữ vai trò thi sĩ tiên phong của phong trào Thơ mới, tiếng thơ Lưu Trọng Lư
sẵn sàng “lịm người trong thú đau thương”, tự tay “buộc dải tang cho mình” để đối
chất, bộc bạch nỗi “sầu bao la”, “sầu biêng biếc”, “sầu vô hạn”. Nỗi sầu ngấm vào
từng thi ảnh, từng giai điệu thơ ông: “mắt sầu gợn sóng”, “sầu tràn cỏ cây”, “ngày
một thêm sầu”… với trạng thái “não nùng”, “bi thiết”: “Nghiêng nghiêng mái tóc
hương nồng - Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh” (Thơ sầu rụng)... Chất sầu
buồn Thơ mới còn ở nỗi dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, nỗi phẫn uất của Nguyễn
Vỹ, nỗi khắc khoải của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, nỗi thống thiết tang thương
trong thi phẩm Trường thơ Loạn…
Đằng sau những buồn thương, đơn độc trước thực tại tối đen và lòng người
dưng dửng, các nhà thơ mới thường đặt mình vào cõi tiên, cõi ma để mộng mơ, siêu
tưởng… Và trong vô vàn cách trốn thoát, không ít người chọn đường về quá khứ,
một ngày xưa mơ hồ giúp họ tìm lại thời gian đã mất để may ra còn thấy sự hiện
hữu chính mình trong thế giới xa vời của ngày xưa thân ái. Nguyễn Nhược Pháp có
cả một tập thơ lấy tên là Ngày xưa nhằm làm sống lại một thời “sắc màu tươi, hình
dáng ngộ nghĩnh” [83,270]. Vũ Đình Liên hướng lòng vào “hàng thành quách cũ -
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa” (Lòng ta là những hàng thành quách cũ),
tưởng nhớ bóng dáng ông đồ viết câu đối tết, hoài vãng nét đẹp văn hoá một thời
trong niềm da diết: “Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ” (Ông đồ - Vũ
Đình Liên). Chế Lan Viên mơ tưởng về những gì rực rỡ nhất thời hoàng kim Chiêm
quốc… Vọng về quá khứ từ hiện tại đau buồn là hành trình tìm ký ức cội nguồn và
ký ức tâm hồn của thi nhân, cũng là của nhân sinh, của thế sự.
Tuy có hạn chế về mặt tư tưởng, nhưng sự xuất hiện của cái tôi cá nhân cá
thể Thơ mới đã đóng góp lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị nghệ thuật, làm
thay đổi quan niệm thơ, quan niệm nghệ thuật về con người, chuyển từ “thơ điệu
ngâm” sang “thơ điệu nói” (Trần Đình Sử), đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa
từng có trước đó.
Khi “cái tinh thần Thơ mới” - chữ tôi nở rộ, tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi
về thi pháp, mở rộng chân trời sáng tạo cho các nhà thơ mới, nhất là bình diện nghệ
thuật ngôn từ.
29
Thơ ca phương Tây, đặc biệt thơ ca Pháp hiện đại là nguồn mạch quan trọng
của Thơ mới. Có thể xem Thơ mới là một hành trình tiếp thu những trào lưu thơ
Pháp: lần lượt từ thơ lãng mạn thế kỉ XIX, đến thơ tượng trưng và có những biểu
hiện đầu tiên gần với thơ siêu thực những năm 20 của thế kỉ XX… Vì cùng lúc tiếp
nhận nhiều trào lưu nghệ thuật, nên phong trào Thơ mới, việc đẩy lên thành chủ
nghĩa riêng biệt là bất khả. Dù mỗi thi sĩ chịu ảnh hưởng của trường phái này hay
trường phái khác, nhưng khó có thể tìm ra lát cắt rạch ròi để phân xu hướng cho
từng nhà thơ, mà đa phần ở họ có sự đan xen, xuyên thấm của nhiều khuynh hướng.
Được giải phóng triệt để khỏi các phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể
loại thơ truyền thống, Thơ mới bắt đầu xuất hiện nhiều bài mà số lượng các câu thơ
không còn bị giới hạn. Sau bao năm thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những
viên gạch để lắp vào bộ khung cố định của luật thơ” (Trần Đình Sử), thì với Thơ
mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong phú, mới lạ hơn bao giờ hết. Với số từ vựng
giàu có, cách diễn đạt tự nhiên, đầy năng lượng và biến hóa trong từng phong cách,
Thơ mới khai thác nhiều giá trị các biện pháp tu từ, tạo cho ngôn ngữ thơ giàu sắc
thái biểu cảm, cung cấp thông tin mới cho từ trong hoạt động ngữ nghĩa. Đó là
những cách dùng từ rất lạ, những kiểu lập ngôn đầy hấp dẫn của Thơ mới mà văn
chương trung đại không bao giờ chấp nhận, như: “Chị ơi, em cưới mùa xuân nhé? -
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng” (Xuân tha hương - Nguyễn Bính)… Đặc biệt,
ngôn ngữ bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ
nghệ thuật nhằm mở rộng khả năng biểu đạt và biểu hiện để đáp ứng nhu cầu thổ lộ
dòng tâm trạng đang chất chứa nguồn cảm xúc tràn bờ trong thơ.
Không chỉ phong phú về số lượng và mới mẻ trong diễn đạt, ngôn từ Thơ
mới còn rất giàu tính nhạc. Nhạc tính là nguyên lý của thơ tượng trưng - đó cũng là
tinh túy của âm thanh, là đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam. Bằng cách phối hợp thanh
điệu, kết hợp nguyên âm cao với phụ âm vang, cùng nhịp điệu tâm hồn và tinh thần
âm nhạc của thơ tượng trưng, các thi sĩ Thơ mới tạo nên những bản hòa âm giữa thơ
với nhạc. Tiếng nhạc vang ngân, da diết của Thơ mới được tạo nên bằng nhiều
cách: bằng làn điệu lục bát ca dao, dân ca được các nhà thơ biến tấu, vắt dòng, ngắt
nhịp: “Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi - Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...” (Buồn đêm
mưa - Huy Cận); bằng việc xây dựng câu thơ bình thanh: “Sương nương theo trăng
ngừng lưng trời - Tương tư nâng hồn lên chơi vơi” (Xuân Diệu); bằng cách điệp
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI nataliej4
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnMan_Ebook
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaNguyễn Duy Bình
 

Was ist angesagt? (20)

Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOTLuận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
 
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAYCảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAYLuận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
 
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
 
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật ÁnhĐề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
 

Ähnlich wie Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdf
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdfbieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdf
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdfduong734764
 

Ähnlich wie Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn (20)

Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiLuận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiThơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAYKhóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
 
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdf
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdfbieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdf
bieutuongtrongtholuuquangvu_9629.pdf
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 

Mehr von Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Mehr von Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Kürzlich hochgeladen

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiTruongThiDiemQuynhQP
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Kürzlich hochgeladen (20)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 

Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÕ NHƯ NGỌC NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2016
  • 2. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÕ NHƯ NGỌC NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS HỒ THẾ HÀ 2. TS NGUYỄN THANH SƠN HUẾ - NĂM 2016
  • 3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Hồ Thế Hà, TS Nguyễn Thanh Sơn đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án. Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Quy Nhơn, Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường Đại học Quy Nhơn; lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, những người luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án. Tác giả luận án Võ Như Ngọc
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trên bất kì công trình nào. Huế, tháng 12 năm 2016 Tác giả luận án Võ Như Ngọc
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................2 3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu .................................................................3 4. Đóng góp mới của luận án.............................................................................................5 5. Cấu trúc luận án .............................................................................................................5 NỘI DUNG...........................................................................................................................6 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .............................................6 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................6 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945 .........................6 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975..............10 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay ................13 1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài........................................22 1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu...........................................................................22 1.2.2. Hướng triển khai đề tài ......................................................................................23 CHƯƠNG 2. TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI .25 2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng............................................25 2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại.............................................................25 2.1.2. Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng của Thơ mới ..................................31 2.2. Trường thơ Loạn và những dòng tượng trưng Thơ mới ...........................................38 2.2.1. Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn ........................................................38 2.2.2. Trường thơ Loạn - chi lưu tượng trưng Thơ mới...............................................44 2.3. Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn............................................................50 2.3.1. “Làm thơ là làm sự phi thường” ........................................................................50 2.3.2. “Thơ là hoa trái của đau thương và sắc màu hoan lạc” .....................................57 CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG...........................64 3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình ........................................................................................64 3.1.1. Cái tôi gắn kết thi nhân và tín đồ.......................................................................64 3.1.2. Cái tôi đối cực trần thế và siêu nhiên.................................................................70
  • 6. 3.2. Hình tượng không gian và thời gian .........................................................................75 3.2.1. Không gian - những khung trời ảo diệu.............................................................75 3.2.2. Thời gian - những chiều kích vô biên................................................................81 3.3. Những biểu tượng đặc sắc ........................................................................................87 3.3.1. Trăng, Hồn, Máu................................................................................................88 3.3.2. Hoa, Nhạc, Hương .............................................................................................96 CHƯƠNG 4. NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA ..........103 TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN..........................103 4.1. Ngôn từ nghệ thuật .................................................................................................103 4.1.1. Sự lạ hóa về ngôn từ ........................................................................................103 4.1.2. Các thủ pháp tạo nghĩa.....................................................................................108 4.2. Nhạc tính và họa tính..............................................................................................114 4.2.1. Nhạc tính..........................................................................................................114 4.2.2. Họa tính............................................................................................................121 4.3. Giọng điệu và nghệ thuật tương hợp ......................................................................128 4.3.1. Giọng điệu........................................................................................................128 4.3.2. Nghệ thuật tương hợp ......................................................................................134 KẾT LUẬN.......................................................................................................................142 NHỮNG CÔNG TÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI.....................145 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................147
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Với sự công phá mạnh mẽ vào thành trì thơ cũ, phong trào Thơ mới (1930 - 1945) khép lại dòng văn học mang đậm chất quy phạm và chuẩn mực, đưa tiến trình thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Tuy nhiên, từ khi có một lối thơ trình chánh giữa làng thơ đến nay, Thơ mới phải trải qua một cuộc hành trình vinh quang và đau khổ. Song, vượt lên tất cả, nó vẫn khẳng định vị trí vững chắc trong nền văn học dân tộc. Một thời đại trong thi ca ấy khắc ghi vào lịch sử văn chương Việt mốc son rạng ngời với những tên tuổi tài danh: Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương... Họ sáng tác nhiều bài thơ hay, đem đến một phạm trù thơ hiện đại, một hệ thi pháp mới thay thế thơ trữ tình cổ điển có tự ngàn năm. 1.2. Nếu nói Thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem Trường thơ Loạn là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào Thơ mới. Khởi nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định (còn gọi là Bàn thành tứ hữu hay nhóm Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng, ứng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn và Chế Lan Viên). Nhóm thơ Bình Định sau này có sự phân hóa về khuynh hướng sáng tác. Cuối năm 1936, từ sự phân hóa này, Hàn Mặc Tử cùng Chế Lan Viên chủ trương thành lập Trường thơ Loạn. Từ sau 1938, Trường thơ Loạn phát triển và kết nạp thêm những thành viên: Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, tôn vinh Hàn Mặc Tử làm chủ soái. Bỏ qua những yếu tố sáo mòn, lỗi thời của văn học truyền thống, vượt lên khỏi giới hạn Thơ mới để tiếp biến văn hóa, văn học hiện đại phương Tây, nhất là chủ nghĩa tượng trương Pháp, các thi sĩ thơ Loạn tạo nên một dấu ấn phong cách riêng, một quan niệm riêng, một miền đề tài riêng độc đáo và bí ẩn, đưa người đọc đến những tầng bậc cảm nhận sâu thẳm. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời thi ca Việt Nam như vừng sáng huy hoàng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát triển và phá cách của thơ ca hiện đại.
  • 8. 2 1.3. Trải qua ba phần tư thế kỷ, đến nay Trường thơ Loạn vẫn là hiện tượng văn học đầy ám gợi với những vần thơ trùng điệp lớp tầng, thách thức bao người khám phá, giải mã. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn khó cưỡng lại của tổ chức thi ca này. Các tác giả thơ Loạn đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: phong cách học, thi pháp học, phân tâm học, văn hóa học... Dù vậy, những băn khoăn, hoài nghi về trường thơ lạ lẫm này vẫn còn đó. Các thi nhân như vẫn còn ẩn sâu trong thế giới đầy khói sương, huyền hoặc của mình. Không ít người nhìn vào Trường thơ Loạn với đôi mắt ngỡ ngàng, ngạc nhiên cùng những xung lực trái chiều trong cách nhìn nhận, đánh giá. Một giai đoạn rất dài, những vần thơ tài hoa từ những tài năng yểu mệnh này bị định kiến là suy đồi, bế tắc, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Dưới ánh sáng của những quan điểm cởi mở hơn, Trường thơ Loạn dần được trả lại công bằng. Thơ Loạn được xem xét trong sự vận động nội tại, thống nhất, hài hòa giữa nội dung và hình thức, được thừa nhận như một sự cách tân đầy đột phá, có sức vang vọng lớn đến thơ ca sau này. Tuy nhiên, đó mới là những bước đi ban đầu trong việc lý giải và đôi chỗ còn chưa thỏa đáng. Đặc biệt, nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn là một trong những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang chờ tay người đánh thức. Mĩ học và thực tiễn nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp với những thi sĩ thiên tài như Baudelaire, Verlaine, Rimbaud, Mallarmée, Valéry đã khai mở những cách tân trong phong trào Thơ mới Việt Nam, tiêu biểu là thi phẩm của những đỉnh cao thơ Loạn. Vì lẽ đó, nhu cầu tìm hiểu Trường thơ Loạn một cách sâu sắc, đặt nó trong tiến trình chung của Thơ mới để lý giải khách quan, chỉ ra giá trị trong tính toàn vẹn, bao quát và chỉnh thể của thi pháp tượng trưng, thiết nghĩ là “hành trình thám mã” cần thiết và cấp bách. Luận án của chúng tôi cố gắng đáp ứng những yêu cầu đó, chỉ ra thế giới nghệ thuật độc đáo, quan niệm thơ mới lạ và những cách tân về nghệ thuật, từ đó chứng minh các thi sĩ thơ Loạn là những nhà thơ lớn và có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Theo nhiều tư liệu đã được công bố, Trường thơ Loạn có sáu thành viên:
  • 9. 3 Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, chúng tôi chủ yếu khảo sát các thi phẩm của ba nhà thơ nổi bật và khá thống nhất, gần gũi nhau về nhiều mặt: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê. Đây là ba thi sĩ trụ cột trung thành, đi suốt hành trình thơ và đời với tuyên ngôn tượng trưng, làm nên đặc sắc của Trường thơ Loạn thời tiền chiến. Dù Trường thơ Loạn được thành lập vào năm 1936 với nòng cốt là ba thành viên vừa kể trên, nhưng ngoài những bài thơ mang phong cách Đường thi, những thi phẩm còn lại của ba tác giả thơ Loạn được sáng tác trước 1945 đều là đối tượng chúng tôi nghiên cứu, vì những thi phẩm ấy hầu hết mang hơi hướng Loạn. Ngoài ra, tác phẩm văn xuôi, tiểu luận, phê bình, tạp văn của các tác giả thơ Loạn cũng được xem là tài liệu tham khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn đề trong quá trình nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn một cách có hệ thống, phạm vi của luận án sẽ đi sâu nghiên cứu những điểm đặc sắc về nội dung và hình thức biểu hiện của chúng ở những giá trị nổi bật về ngôn từ nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật, nhạc tính và họa tính, các biện pháp tu từ… độc đáo của trường thơ này trong tính tương quan với nghệ thuật tượng trưng. 3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý thuyết: Luận án soi chiếu mỹ học của trường phái thơ tượng trưng phương Tây vào sáng tác của Trường thơ Loạn. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, thi phái tượng trưng đã tìm được tiếng đồng vọng và mở ra một thế giới trong tư duy của các nhà thơ mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng, góp phần hiện đại hóa thơ ca dân tộc, đưa thơ Việt lên một tầm cao mới. - Phương pháp nghiên cứu: Trong luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp văn học sử: Nghiên cứu trường phái thơ cụ thể nhưng chúng tôi không tách rời, biệt lập mà đặt trong mối quan hệ với trào lưu cùng thời. Vì văn học là một quá trình lịch sử - hiện thực, một quá trình lịch sử - sáng tạo, cho nên mỗi hiện tượng văn học thường có định hướng của cả phong trào. Tìm hiểu Nghệ
  • 10. 4 thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn, chúng tôi đặt trong mối quan hệ giữa các tác giả và trào lưu, tác phẩm và thời đại… - Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học: Luận án sẽ khảo sát tần số xuất hiện hệ thống hình tượng trở đi trở lại như ám ảnh nghệ thuật trong thi phẩm thơ Loạn, và hệ thống các phương thức, phương tiện cấu thành chỉnh thể nghệ thuật đó; mặt khác hình dung về mối quan hệ chủ nghĩa tượng trưng và Trường thơ Loạn. - Phương pháp thống kê - phân loại: Dùng để khảo sát, thống kê nguồn tư liệu theo những vấn đề chi tiết: tần số xuất hiện, hệ thống phương thức, phương tiện biểu hiện... Từ đó phân loại để thấy được những nét riêng và mô hình riêng ổn định của từng yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật của Trường thơ Loạn trong tương quan với nghệ thuật tượng trưng. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: Dùng đối chiếu các nhà thơ Loạn trong tương quan với tổ chức thi ca và các nhà thơ cùng thời, soi sáng những nét độc đáo về phong cách thơ. So sánh, đối chiếu cũng là cách chỉ ra ảnh hưởng của các trường phái văn học phương Tây, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi phân tích để làm sáng tỏ từng luận điểm. Từ những luận điểm đó, tổng hợp, khái quát thành những đặc điểm cơ bản trong sáng tác của Trường thơ Loạn. Ngoài ra, trong luận án, chúng tôi còn vận dụng những yếu tố hỗ trợ của các thao tác nghiên cứu văn học, như: phê bình văn học, ngôn ngữ học... để thấy nét đặc sắc của nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác Trường thơ Loạn so với các tác giả và trào lưu văn học khác. Trên đây là những hướng nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong toàn bộ luận án. Tuy vậy, chúng tôi quan niệm, mỗi phương pháp nghiên cứu nói trên không thể rạch ròi, tách biệt mà có thể tiếp cận được chân lý. Vì thế, trong quá trình thực hiện, chúng tôi cố gắng cùng lúc kết hợp nhiều phương pháp để giải quyết vấn đề một cách tối ưu và hiệu quả nhất.
  • 11. 5 4. Đóng góp mới của luận án Thơ Loạn là hiện tượng thơ ca độc đáo của phong trào Thơ mới. Đã có những công trình quan tâm nghiên cứu Trường thơ Loạn trên nhiều phương diện, góc độ khác nhau, trong đó có một số bài viết đặt trong so sánh với nghệ thuật tượng trưng. Tuy nhiên, đây là những bài viết ngắn, đề cập từng yếu tố cụ thể của từng tác phẩm, tác giả, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện. Luận án của chúng tôi là công trình chuyên biệt đầu tiên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn. Luận án đóng góp vào việc hệ thống hóa và khái quát hóa phong cách thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, những người thể nghiệm và thiết kế mô hình thơ hiện đại, làm nên một trường thơ nổi bật của phong trào Thơ mới. Luận án chứng minh sự gặp gỡ giữa Trường thơ Loạn với thi phái tượng trưng phương Tây để hình thành một khuynh hướng, một tuyên ngôn nghệ thuật riêng biệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính sự tiếp thu và tiếp biến nghệ thuật thơ tượng trưng phương Tây của Trường thơ Loạn đã mở rộng biên độ và nội hàm cho Thơ mới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cỗ xe văn học Việt Nam lăn nhanh trên con đường hiện đại hóa, tiến vào quỹ đạo của thơ ca thế giới. Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Ngữ văn các trường phổ thông, sinh viên Khoa Ngữ văn các trường đại học, cao đẳng, cũng như phổ biến rộng rãi đến độc giả yêu thích văn học. 5. Cấu trúc luận án Ngoài các phần: Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (6 trang), Nội dung luận án được triển khai theo 4 chương: - Chương 1: Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài (19 trang). - Chương 2. Trường thơ Loạn trong nguồn tượng trưng Thơ mới (39 trang). - Chương 3. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn - nhìn từ thế giới hình tượng và biểu tượng (39 trang). - Chương 4. Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn - nhìn từ phương thức biểu hiện (39 trang).
  • 12. 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài Ngay khi mới xuất hiện trên thi đàn, các thi sĩ thơ Loạn lập tức nổi lên trong nền thơ ca Việt Nam như là một trong những hiện tượng thơ mang tầm thời đại. Với những cách tân thơ rõ rệt, những thi phẩm của Trường thơ Loạn đã vượt ra ngoài khuôn khổ, thoát khỏi biên độ của cái thông thường, thổi vào thơ Việt Nam đầu thế kỷ XX một luồng gió mới, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Điều này khiến cho người yêu thơ phải khâm phục, ngạc nhiên và các nhà nghiên cứu văn học phải ngẫm nghĩ về tài năng nghệ thuật của họ. Càng ngày, Trường thơ Loạn càng được độc giả quan tâm yêu thích. Sáng tác của Trường thơ Loạn, vì vậy, trở thành đối tượng hướng tới của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình bằng những phương pháp khoa học mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về thơ Loạn được tiếp cận ở nhiều khía cạnh. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu mải miết kiếm tìm và khám phá được nhiều giá trị trong sáng tác của Trường thơ Loạn, khẳng định được tầm vóc, vị trí, vai trò của các nhà thơ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn trước 1945 Từ những ngày phôi thai của phong trào Thơ mới, cuộc tranh luận, bút chiến giữa nội hàm Thơ mới và thơ cũ, giữa phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và phái “nghệ thuật vị nhân sinh” diễn ra rầm rộ trên các báo: Phong hóa, Tri tân, Ngày nay, Hà Nội báo, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy… Nằm trong mạch nguồn Thơ mới, nhưng phản xạ của dư luận văn nghệ đương thời về Trường thơ Loạn lại khá mờ nhạt, có chăng là những bài viết nhỏ lẻ về từng thi sĩ của trường thơ. Điều này một phần vì Trường thơ Loạn không có cơ quan ngôn luận nào cổ vũ nên sáng tác của họ lúc bấy giờ không gây được tiếng vang. Từ những điểm nhìn khác nhau, văn giới, bạn đọc giải mã “ẩn số” thơ Loạn với không ít tranh cãi, bất đồng. Bằng hướng tiếp cận có phần định kiến, nhiều người phủ nhận gay gắt các tác giả thơ Loạn. Chính Xuân Diệu sau khi tuyên bố: “Hàn Mặc Tử không phải hạng chân thi sĩ” đã hạ bệ Trường thơ Loạn xuống thành những rên siết của xác thân bệnh hoạn, xem đó
  • 13. 7 như biểu hiện của một thứ suy đồi: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây!... Tôi điên đây!... Điên cũng không dễ như người ta tưởng đâu! Nếu không biết điên tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà lặng yên sống” [14,10]. Đầu năm 1938, trên báo Ích hữu, Trương Tửu có bài “Quan niệm về thơ Chế Lan Viên”. Ở bài viết này, một mặt Trương Tửu thừa nhận, nhờ vào “nghệ thuật tài hoa” và “trực giác linh mẫn”, Chế Lan Viên “đã hồi sinh được cả một cái đã mất”. Mặt khác, Trương Tửu nhận định thơ tập Điêu tàn là một “trạng thái kì dị của tâm hồn”, từ trạng thái kì dị ấy, Chế Lan Viên hình thành một quan niệm sai lầm và nguy hiểm. Ông công kích việc tác giả lý thuyết hóa cái điên, cái mê của mình trong bài tựa của tập Điêu tàn, bài tựa được Trường thơ Loạn coi như tuyên ngôn thơ của mình: “Chế Lan Viên đã khách quan hóa cái chủ thể của ông. Nên ông lầm. Vì thi sĩ bao giờ cũng có khuynh hướng chủ quan hóa cái khách thể của sự vật. Ông đã rời bỏ khuynh hướng ấy. Ông đã phản cái bản tính thiên bẩm của mình. Ông có tội với Nàng Thơ” [96,15]. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới những đàm đạo sôi nổi từ các thi hữu của Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử xem thơ Bích Khê là “một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc. Ta có thể so sánh văn, thơ Bích Khê như đóa hoa thần dị ấy”. Hàn còn gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh” bởi thơ Bích Khê vừa “nhuộm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường”, vừa “nhuộm đầy máu huyết Baudelaire”. Hàn khẳng định thơ Bích Khê gồm ba tính cách khác nhau: tượng trưng, huyền diệu, trụy lạc, trong đó tượng trưng được coi là quan trọng nhất. Ở khu vực thơ tượng trưng, Hàn nhận thấy “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất thơ, rất mộng, rất ảo” [95,133]. Đây chính là bài viết đầu tiên giới thiệu thơ Bích Khê với độc giả đương thời. Đánh giá về Chế Lan Viên, Nguyễn Vỹ cho rằng thơ Chế nhiều bài cảm động, độc đáo: “Tập Điêu tàn của anh còn để lại một chiếc bóng trong văn học sử Việt Nam, giống như những tháp Chàm trên đất nước Đồ Bàn, còn văng vẳng tiếng nức nở nghìn thu Chiêm nữ hận” [45,28]. Trên báo Người mới, Chế Lan Viên nói về người bạn thơ Hàn Mặc Tử: “… Mai sau, tôi xin hứa hẹn với các người rằng, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” [97,9]… Những nhận định ưu ái này có thể chưa hoàn toàn thuyết phục được công chúng, nhưng ít ra cũng khai mở một hướng tiếp cận, khiến những người yêu sáng tác của các tác giả thơ Loạn tiêu tốn bao giấy mực để lần tìm đến địa hạt thơ bí ẩn này.
  • 14. 8 Năm 1941, Trần Thanh Mại hoàn thành tập sách: Hàn Mặc Tử - thân thế và thi văn, công trình chuyên khảo đầu tiên về thơ Hàn. Công trình này, tác giả đi sâu vào đời tư và tìm ra được những ảnh hưởng trầm tích văn hóa và vẻ đẹp tự nhiên của quê hương Bình Định góp phần hun đúc và thai nghén thơ Hàn. Cũng như Xuân Diệu, ban đầu Trần Thanh Mại mỉa mai, công kích Hàn Mặc Tử khi nói về âm hưởng thơ tượng trưng trong sáng tác của Hàn: “điên hẳn… còn dễ chịu hơn là những anh chàng cố tình đi vào lối thơ tượng trưng… để vừa che đậy cái dốt của mình, vừa lòe đời bằng một cách lường gạt có tổ chức”. Nhưng sau đó, tác giả nhìn nhận: “Tôi quả đã vô duyên với thơ Hàn Mặc Tử”, và đánh giá: “Hàn Mặc Tử là người đầu tiên ở thế kỷ XX mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam thành công một cách vinh quang, rực rỡ”… Thậm chí, khi so sánh với Baudelaire, Edgar Poe và thơ tượng trưng, ông kết luận: “Thiên tài của Hàn Mặc Tử cao hơn tất cả các thiên tài trên thế giới” [53,55]. Dù tồn tại nhiều tranh cãi, nhưng phải thừa nhận, đây là công trình nghiên cứu bài bản “bằng những phương pháp xưa nay chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam” [60,25]. Việc công trình của Trần Thanh Mại giới thiệu trang trọng Hàn Mặc Tử đã gợi mở cho các nhà phê bình sau này một thông điệp quan trọng trong quá trình khảo cứu, giúp những người yêu văn học dấn thân vào công cuộc khám phá thế giới thơ Hàn, đưa nhà thơ đến rộng khắp công chúng, nhất là lúc bấy giờ độc giả chưa biết nhiều về thi sĩ. Một năm sau, Vũ Ngọc Phan cũng đưa tên tuổi Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên vào Nhà văn hiện đại và tìm ra con đường tiếp cận riêng khi so sánh: “Chế Lan Viên, trái lại không cứng cáp chút nào. Thơ ông toàn là những tiếng khóc than; ông tả rặt những cái u sầu, ông có giống Hàn Mặc Tử thì chỉ giống ở chỗ hay nhắc đến linh hồn chứ cái sầu của ông là cái sầu não nùng, thê thảm, cái sầu bát ngát, khó khuây. Thật là thứ sầu vong quốc - thứ sầu của dân tộc Chiêm Thành tuy ông không cùng dòng máu với họ” [68,702]. Công phu nhất là các bài viết của Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam. Tác phẩm tổng kết thành quả của phong trào Thơ mới với 45 nhà thơ tiêu biểu mà theo Hoài Thanh “không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy (tức thơ tượng trưng - VNN)”. Cùng với các tên tuổi đương thời khác, Hoài Thanh giới thiệu, đánh giá các nhà thơ chủ chốt của vương quốc thơ Loạn: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan. Và cũng ở đây, lần đầu tiên cái tên Trường thơ Loạn được một nhà phê bình
  • 15. 9 văn học nhắc đến: “Trái hẳn với lối thơ tả chân, có lối thơ Hàn Mặc Tử - Chế Lan Viên. Cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại, từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp kinh thánh của đạo Thiên chúa. Cả hai đều cai trị Trường thơ Loạn và chiêu tập một số đồ đệ là Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai (tức Yến Lan - VNN). Tôi vừa nói Chế Lan Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi đến thơ tượng trưng của Pháp có lẽ đúng hơn, tuy hai lối này có chỗ giống nhau. Điều này cũng thấy rất rõ ở các tác phẩm của một người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê”. Tiếp cận thơ Loạn theo lối phê bình ấn tượng, tác giả Thi nhân Việt Nam thẩm bình, kết tinh sáng tác của họ một cách nhạy bén và sắc sảo. Tuy vậy, Hoài Thanh còn dè dặt khi đánh giá các nhà thơ này. Viết về Bích Khê, có lúc tác giả khẳng định: “Tôi đã bắt gặp ở Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”, và cho rằng Bích Khê là một trong những nhà thơ “đi đến chỗ mà người ta thường cho là cao nhất của thơ tượng trưng: Mallarmée, Valéry”, rồi lại coi đó là “biệt thự một nhà triệu phú” xa cách và khó thâm nhập, bởi thế “chưa thể nói nhiều về Bích Khê”. Ông đánh giá Hàn Mặc Tử là “một vườn thơ rung rinh không bờ bến, càng đi xa càng thấy lạnh”, nhưng kết thúc bài giới thiệu về thơ Hàn, lại lấp lửng: “Một tác phẩm như thế ta không thể nói hay hay dở”, vì “Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn”. Cũng như vậy, đánh giá Điêu tàn, Hoài Thanh xem như “một niềm kinh dị”, “giữa đồng bằng văn học Việt Nam thế kỷ XX, nó đứng sừng sững như một cái tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí mật”. Ông còn nhận xét về Chế Lan Viên rằng: “Con người này là con người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được”, đến cuối cùng ngần ngại: “Chúng ta, người đồng bằng, thỉnh thoảng trèo lên đó - có người trèo đuối sức mà trầm ngâm và xem gạch rụng, nghe tiếng rên rỉ của ma Hời cũng hay, nhưng triền miên trên đó không nên” [83,217]. Có thể thấy, Thi nhân Việt Nam đã có công phát hiện những tài hoa của phong trào Thơ mới, tinh tế nhận ra trong thơ Loạn sự bức bối, quẫy đạp “vượt ra ngoài vòng nhân gian để bung thoát đến những giới hạn rộng xa của thi ca” [83,291]. Nhưng công trình này dường như chỉ tập trung làm nổi rõ thời đại Thơ mới với cái tôi cá nhân, phong cách sáng tác của từng nhà thơ mà chưa đặt họ vào vị trí thành viên của một trường phái sáng tác.
  • 16. 10 Nhìn chung, đa phần các công trình, bài viết về các tác giả thơ Loạn kể trên còn tản mạn, nặng về cảm xúc hay những kỷ niệm riêng chứ chưa đi vào cảm thụ giá trị đích thực tác phẩm của họ với tư cách là những tài năng thơ của thế kỷ. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1945 đến 1975 Trong đời sống phê bình văn học 1945 - 1975, việc nhìn nhận, đánh giá Thơ mới nói chung, Trường thơ Loạn nói riêng tương đối phức tạp. Ở miền Bắc, dưới sự chi phối của hai cuộc kháng chiến, thời đại Thơ mới dường như chấm dứt, nhường chỗ cho những vấn đề lớn của cuộc sống, của nhân dân qua những vần thơ cổ động kháng chiến, ngợi ca anh bộ đội Cụ Hồ. Căn nguyên lịch sử ấy khiến Thơ mới không còn là đối tượng được ưu tiên nghiên cứu, và sự đánh giá về nó cũng chưa thật chuẩn xác, nhất là về mặt nội dung. Một số người có cái nhìn xã hội học dung tục cắt nghĩa tâm trạng đau buồn của các thi sĩ lãng mạn “là vì anh nghèo khó nên anh không thể thực hiện cái lí tưởng tư sản của mình, cái lí tưởng đầy những vàng son châu báu, lụa là hoa bướm, rượu - như hình ảnh thơ các anh”, trong khi “tình yêu và sự hưởng lạc cần tiền”. Vì vậy nên “thơ anh thường thể hiện giấc mơ về cõi tiên, về quá khứ, ở đó có đủ rượu, hoa, gái đẹp, yến tiệc…” [71,76]. Hồng Chương kịch liệt phê phán các tác giả Thơ mới là “có thái độ tiêu cực”. Ngay cả tác giả Thi nhân Việt Nam trong Nói chuyện thơ kháng chiến cũng đánh giá lại Thơ mới bằng thái độ cực đoan, một chiều: “Những vần thơ buồn tủi, bơ vơ ấy là những vần thơ có tội: nó xui con người ta buông tay cúi đầu, do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Sự thực khách quan là thế” [63,197]. Theo Hoài Thanh, “Thơ mới cơ hồ không biết đến tiếng nói đau khổ, tiếng nói căm thù, tiếng nói quật khởi của các chiến sỹ cách mạng, của quần chúng cần lao” [84,222]. Phan Cự Đệ trong Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 dành nhiều tâm huyết nghiên cứu ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp đến Thơ mới: “Nhìn chung từ 1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao đây?… Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội, đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc bị đàn áp dữ dội…”. Về phương diện ảnh hưởng, theo tác giả: “Thơ ca Pháp đã ảnh hưởng rõ rệt vào Thơ mới trong cách gieo vần, lối ngắt nhịp, lối bắc cầu, cách làm cho ngôn ngữ giàu nhạc điệu, lối diễn tả bằng những cảm giác tinh tế…”. Trên tinh thần phản ánh luận Mác xít, tác giả đánh giá những vấn đề của bản chất sáng tạo như hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, nguyên nhân ra đời phong trào Thơ mới,
  • 17. 11 đồng thời có phần khách quan khi phê phán xu hướng thoát li tiêu cực và ghi nhận những mặt tích cực của Thơ mới, như: thái độ không chấp nhận thực tại đối với xã hội thực dân phong kiến, tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống, nhất là về mặt ngôn từ nghệ thuật… Nhưng khi giới thiệu về Trường thơ Loạn, Phan Cự Đệ lại viện dẫn như minh chứng về sự suy đồi trong Thơ mới giai đoạn sau: “Đương thời, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hoàng Diệp đã xướng lên Trường thơ Loạn. Chịu ảnh hưởng của những quan niệm thẩm mĩ của Edga Poe, kể chuyện ca ngợi vẻ đẹp của tử thần; và của Baudelaire, kẻ đã mĩ hóa cả cái độc, cái tởm, cái vô đạo đức, Trường thơ Loạn bắt đầu đi tìm cái đẹp ở bến bờ xa lạ của cảm giác, tìm những cái đẹp khoái lạc bệnh tật chưa được khám phá” [19,67]. Những ý kiến trên cơ bản nhìn nhận nội dung và cái tôi trữ tình Thơ mới dưới góc độ phê phán. Sự kết án về tư tưởng này càng khiến Thơ mới cũng như những vần thơ duy tân, nhuộm đầy máu huyết của Trường thơ Loạn tạm thời bị quên lãng. Ở miền Nam, do đặc thù của hoàn cảnh lịch sử xã hội, đến những năm 60 thế kỷ XX, việc nghiên cứu giảng dạy văn học lãng mạn, trong đó có phong trào Thơ mới được chú trọng. Và các tác giả thơ Loạn cũng được bàn luận khá sôi nổi trên các tạp chí, như: Văn hóa Á châu, Nhận thức, Bách khoa, Phổ thông, Văn... cùng nhiều công trình liên quan khác, như: Văn học sử Việt Nam của Bùi Đức Tịnh, Phê bình văn học thế hệ 1932 - 1945 của Thanh Lãng, Từ Thơ mới đến thơ tự do của Bằng Giang, Thi ca Việt Nam thời tiền chiến của Phan Canh, Việt Nam thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long, Khuynh hướng thi ca tiền chiến của Nguyễn Tấn Long - Phan Canh, Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Lược khảo về thơ 1900 - 1950 của Uyên Thao, Những khuynh hướng trong thơ ca Việt Nam của Minh Huy, Lược sử văn nghệ Việt Nam của Thế Phong, Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Ý Văn của Tam Ích... Đặc biệt, có những chuyên san về Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: Hàn Mặc Tử nhà thơ siêu thoát của Thế Phong, Đôi nét về Hàn Mặc Tử của Quách Tấn, Hàn Mặc Tử thi sĩ tiền chiến của Hoàng Diệp, Chế Lan Viên thi sĩ tiền chiến của Hoàng Diệp, Đời Bích Khê của Quách Tấn… Trong những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn của các tác giả phía Nam, chúng tôi quan tâm nhiều những đánh giá của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh. Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long kết luận: “Hàn Mặc
  • 18. 12 Tử cũng như Bích Khê là người ở phái thơ cũ chuyển sang lĩnh vực Thơ mới. Từ địa hạt thi ca có quy tắc trầm lặng tiến đến Thơ mới rồi vượt qua địa hạt tượng trưng vươn lên nguồn thơ siêu thực”. Tác giả phát hiện ra cái mới lạ của Trường thơ Loạn mà ông gọi đó là “Những vấn đề thơ khó hiểu, những lời nói khó tin”, và chứng minh bằng luận điểm sắc sảo: “Nếu một Hàn Mặc Tử hay nói về thượng giới thì Chế Lan Viên lại nhắc mãi về hạ giới, về cõi âm… Nếu Hàn thường nghĩ về cảnh chết trước mắt nên ý thơ thường hướng về tương lai, ngược lại Chế hay tiếc thương về thời đại cũ lại thích quay vần thơ về dĩ vãng” [50,67]. Trong công trình Khuynh hướng thơ ca tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Phan Canh dù không trực tiếp tiếp cận ảnh hưởng thơ tượng trưng trong Trường thơ Loạn, nhưng mặc nhiên thừa nhận ít nhiều có sự chi phối của khuynh hướng ấy trong sáng tác của các thi nhân, khi cho rằng “Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử là nguồn thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ siêu tưởng” [51,72]. Phan Canh trong Thi ca Việt Nam thời tiền chiến 1932 - 1945 [6], phần viết về chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực cũng giới thiệu và tuyển thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê. Cùng với Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, phải kể đến nhận định của Minh Huy trong Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam. Theo tác giả, Hàn Mặc Tử và Bích Khê là hai nhà lý thuyết của khuynh hướng thơ tượng trưng: “Hàn Mặc Tử và Bích Khê, thi ca tượng trưng Việt Nam đã đến một cao độ tuyệt vời, đến một nơi thật cao siêu và khả kính cho đến ngày nay chưa một nhà thơ tượng trưng tiền và hậu thế chiến nào có thể vượt đến được” [31,127]. Trong công trình này, bên cạnh Thơ mới tiền chiến, Minh Huy còn tìm hiểu ảnh hưởng của khuynh hướng tượng trưng đến thi ca hậu chiến qua các tên tuổi, như: Quách Thoại, Đoàn Thêm, Xuân Phụng, Cung Trầm Tưởng,… Ngoài ra, còn có những công trình, bài viết bàn luận trực tiếp đến từng tác giả thơ Loạn. Về Bích Khê có: “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê” của Đinh Cường, “Người em Bích Khê” của Lê Thị Ngọc Sương, “Dòng thơ, khoảng thơ và thời gian” của Phạm Hoài Việt, “Nhân nhớ Bích Khê và thơ Bích Khê bàn về thơ tượng trưng” của Tam Ích... Đặc biệt, bài viết “Thế giới thơ tượng trưng Bích Khê”, Phạm Kim Thịnh tôn vinh thơ Bích Khê “thuộc hàng tượng trưng điển hình nhất”. “Bích Khê đã dẫn người đọc vào một không gian chạm trổ những trăng sao, màu sắc, hương thơm làm no nê tất cả mọi giác quan của người đọc”. Về Hàn Mặc Tử có: “Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ” của Nguyễn Mộng Giác, “Nỗi Khắc khoải
  • 19. 13 siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” của Nguyễn Xuân Hoàng, “Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử” của Đặng Tiến, “Tan loãng trong Hàn Mặc Tử” của Phạm Đán Bình, “Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử” của Võ Long Tê, “Thấy được những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện tượng Hàn Mặc Tử” của L.M Dũng Lạc Trần Cao Tường, “Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử” của Bùi Xuân Bảo, “Hàn Mặc Tử hay là sự hiện hữu của thơ” của Huỳnh Phan Anh,... Các bài viết đều hết sức coi trọng những thành tựu nổi bật như: đề cao những cái khác thường, kì dị, lý giải công phu vấn đề rất nhạy cảm là sự phóng chiếu tính dục, yếu tố tôn giáo và tâm linh siêu hình trong thơ Hàn. Rất tiếc, dấu ấn tượng trưng thơ Hàn lại không được nhắc đến. Cùng với đó là những công trình nghiên cứu khẳng định lại giá trị tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên theo kiểu phê bình ấn tượng. Có thể thấy, tuy các công trình không đề cập trực tiếp về Trường thơ Loạn, nhưng về từng thi sĩ riêng biệt của trường thơ được các tác giả, nhất là các tác giả phía Nam nghiên cứu khá kỹ. Về cơ bản, các nhà phê bình văn học phía Nam giai đoạn này đều thống nhất đề cao những thi sĩ thơ Loạn, và cho rằng chính họ mang lại cho thi học và thi ca dân tộc những vấn đề mới lạ. Tuy nhiên, lập luận của các nhà nghiên cứu còn mang tính chủ quan, thường dựa vào đời tư tác giả để cảm nhận tác phẩm nên đôi chỗ còn cực đoan, phiến diện. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Trường thơ Loạn từ 1975 đến nay Từ sau 1975, giới phê bình văn học có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về phong trào Thơ mới, trong đó có sáng tác của Trường thơ Loạn. Dù vậy, những năm đầu sau giải phóng, các nhà nghiên cứu đây đó vẫn còn nhìn các tác giả thơ Loạn bằng ánh mắt khắt khe và định kiến. Phạm Văn Sĩ ghi nhận ảnh hưởng của Baudelaire đến Thơ mới: “Có một số thi sĩ Việt Nam nhìn Baudelaire như một nhà cách tân trong lĩnh vực thơ và hướng theo cách làm của Baudelaire, số người đó tìm cách làm cho thơ Việt Nam mới mẻ hơn. Bằng thực tiễn sáng tác, họ góp phần làm cho thơ Việt Nam đi gần với những cảm xúc cá thể, với cách diễn đạt riêng của mỗi người làm thơ, làm cho thơ Việt Nam tự do, phóng khoáng hơn trước, vượt qua những công thức gò bó, những niêm luật nghiêm ngặt của thơ cổ” [82,51]. Nhưng đề cập đến ảnh hưởng thơ tượng trưng Pháp đến sáng tác của hai thi sĩ thơ Loạn, ông phê phán: “Trong lúc một số thanh niên, một số trí thức chuyển biến theo cách mạng thì một số khác lại lấn sâu vào cuộc sống suy đồi, đi sâu hơn vào tâm trạng buồn chán, bế tắc, họ ra sức đào bới những cảm xúc chủ quan của con người xa rời
  • 20. 14 cuộc sống thực tiễn, quay vào cái tôi cô đơn, bệnh hoạn như Bích Khê, Hàn Mặc Tử, hoặc đi vào cuộc sống ăn chơi truỵ lạc như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương. Những người này đã khai thác mặt sa đọa trong thơ Baudelaire, mặt tiêu cực trầm trọng nhất trong cuộc sống riêng của Baudelaire” [82,49]. Ngay cả Nguyễn Hoành Khung cũng có lần nhận định: “Trường thơ Loạn là một xu hướng tiêu biểu cho tình trạng bế tắc khủng hoảng của phong trào Thơ mới”, và cho rằng thơ của họ “có nhiều bài kinh dị, có những vần thơ giống như tiếng gào rú của một linh hồn đau thương cùng cực” [39,472]. Phải đến sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), dưới tư duy đổi mới, Thơ mới cũng như Trường thơ Loạn được nhìn nhận lại một cách bình tĩnh, khách quan và khoa học hơn. Tiếp cận lý thuyết văn học so sánh, các nhà nghiên cứu chứng minh ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây đối với nhiều nhà thơ mới và tiêu biểu là các nhà thơ trong Trường thơ Loạn. Nguyễn Quốc Túy trong chuyên luận Thơ mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại cho rằng: “Có những trường phái Thơ mới giống các trường phái thơ phương Tây, thơ Pháp: lãng mạn, tượng trưng, siêu thực” [94,47]. Theo Phan Ngọc: “Thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng từ thơ Pháp nhưng chủ yếu là từ Baudelaire về sau chứ không phải từ Baudelaire trở về trước. Ảnh hưởng của Baudelaire rõ nhất ở Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử và hầu như không có ai không chịu ảnh hưởng của ông” [57,27]. Hoàng Hưng khi bàn về hành trình đến với chủ nghĩa tượng trưng của phong trào Thơ mới Việt Nam, đánh giá: “Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Xuân Thu nhã tập, Thơ mới đã đi vào quỹ đạo thơ tượng trưng của Âu Mỹ”. Nhưng theo ông, đó là lối thơ tượng trưng không triệt để, còn mang tính chất nửa vời. “Các nhà thơ Việt Nam không triệt để tượng trưng đến thế. Chế Lan Viên còn quá tỉnh táo và nhân tạo, Bích Khê còn quá rườm lời và lộ ý. Còn Xuân Thu nhã tập theo tôi đã đi lạc đường: muốn đạt cái mơ hồ, họ dùng sự léo lắt của lý trí, họ lẫn trộn sự mù mờ tăm tối mà tiềm thức trực cảm được với sự khó hiểu cầu kỳ phải dùng trí năng để giải thích” [32,23]. Gần với quan điểm của Hoàng Hưng, Trần Đình Sử trong Những thế giới nghệ thuật thơ có bài phân tích thơ tượng trưng và khẳng định ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với các nhà Thơ mới Việt Nam: “Họ đọc Baudelaire, Valéry, Rimbaud, Mallarmé, nhưng chỉ học một vài thủ pháp”. Trần Đình Sử cho rằng, Thơ mới trước sau vẫn là thơ lãng mạn, kể cả đó là sáng tác của các thi sĩ thơ Loạn. “Có những bài thơ, hình tượng thơ phảng phất phong cách
  • 21. 15 tượng trưng, nhưng không phải thơ tượng trưng”, vì theo tác giả, môi trường xã hội Việt Nam lúc này không phù hợp cho phong cách thơ tượng trưng đúng nghĩa. Ngay cả những bài như: Cô liêu (Hàn Mặc Tử) hay Tranh lõa thể (Bích Khê), dù “có dáng tượng trưng nhưng thực ra là lãng mạn” [78,45]. Trần Thị Mai Nhi trong Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam: Giao lưu, gặp gỡ chứng minh chủ nghĩa tượng trưng là một trường phái của chủ nghĩa hiện đại phương Tây. Thơ tượng trưng Pháp trên đường du nhập vào văn học thế giới đã dừng chân ở Việt Nam và để lại dấu tích cho các nhà thơ mới. “Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Thế Lữ và nhiều nhà thơ mới Việt Nam không hoàn toàn là những người theo chủ nghĩa lãng mạn mà đã bước tới ngưỡng cửa của thơ hiện đại, đã tới gần chủ nghĩa tượng trưng Baudelaire” [61,105]. Tác giả cũng chỉ ra những nét thi pháp tượng trưng có trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê: thơ bắt nguồn từ cõi vô thức, từ sự phi duy lý của con người, thơ của thế giới tâm linh khải thị, “tổ chức lại tự nhiên” bằng các sức mạnh tưởng tượng của tinh thần theo ý niệm về sự tương hợp Baudelaire... Đồng tình với quan niệm này, Phan Cự Đệ cho rằng những ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê là do tác động từ thuyết tương giao của Baudelaire, từ tinh thần âm nhạc do thi phái tượng trưng chủ nghĩa đề xướng. “Thức nhọn giác quan tác động trực tiếp vào thế giới cảm giác của con người, đó là một đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, của một số nhà thơ lãng mạn khác chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng”, và “nhạc điệu của thơ tượng trưng Pháp đã có ảnh hưởng ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến thơ Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh” [16,18]. Trong Văn học đổi mới và giao lưu văn hóa, ông còn khẳng định thêm rằng: “Hàn Mặc Tử và Bích Khê là những thi sĩ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của Baudelaire” [18,90]. Chúng tôi kế thừa những kết quả khoa học này để khẳng định, làm sáng tỏ thêm vấn đề cần triển khai. Nhiều tác giả trực tiếp bàn về giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ Loạn. Trong các công trình này, những gương mặt thơ Loạn hiện lên khá sắc nét về chân dung và phong cách. Lê Đình Kỵ trong Thơ mới những bước thăng trầm tái hiện phong trào Thơ mới dưới dạng chân dung văn học. Ở phần nghiên cứu về các thi sĩ thơ Loạn, tác giả tinh tế khám phá được từng “tạng” riêng của mỗi người: “Từ Chế Lan Viên đến Bích Khê, Hàn Mặc Tử nằm ở giữa. Dù nói chuyện đầu lâu ma Hời, Chiêm nương
  • 22. 16 hiện hồn tất cả ở Chế Lan Viên đều sáng tỏ. Thơ Bích Khê hầu hết là khó đọc. Hàn Mặc Tử chỉ lạ ở mông lung, phiếu diễm ở tứ thơ chứ không ở câu, ở chữ, ở điệu thơ, không phải cái lạ nằm ngay trong tư duy như ở Bích Khê”. Tuy không đánh giá mức độ ảnh hưởng thơ tượng trưng ở Trường thơ Loạn, nhưng ông phân tích giá trị thơ của các thi sĩ ở phương diện có tiếp biến này. Đó là sáng tác của Hàn Mặc Tử “không ít trường hợp dù rơi vào ảo giác, thơ ấy vẫn thấy đẹp và cuốn hút được ta”. Hàn chỉ lạ khi “bị ánh sáng của chiêm bao vay xiết”. Ở Bích Khê có “dáng quyến rũ, vừa mới lạ, vừa thân quen”, chữ bí mật nhưng “gây nên sức nổ dây chuyền của cái lạ lẫm, cái tiềm thức, cái vô thức qua những ấn tượng, những liên tưởng đột xuất, bất ngờ, xóa tan mọi khoảng cách, đem nhích lại gần nhau giữa những cái xa lạ, vô can”. Ông cũng đặc biệt chú ý đến những sáng tạo của Bích Khê, xem nhạc tính là sức mạnh của nhà thơ: “thành công ở lối thơ ngắt nhịp ở từ thứ tư, chia câu bát làm hai nửa tứ ngôn, tạo thành giai điệu nửa riêng tây, nửa thuận hòa” [41,236]. Từ góc nhìn thi pháp học, Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy nhận định xác đáng về thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê. Theo Đỗ Lai Thúy, thơ Hàn Mặc Tử “chín rộ vào quãng gối đầu giữa tượng trưng và siêu thực”. “Dĩ nhiên, một căn cốt Đông phương thâm hậu đã làm cho tượng trưng của ông có bóng dáng tượng trưng Đường thi, và xa hơn nữa là tượng trưng thiền, còn siêu thực thì đậm nhạt một màu sắc Liêu Trai. Điều này tạo nên sự riêng biệt, vừa phong phú, vừa sâu sắc trong phong cách trữ tình của thơ Hàn Mặc Tử”. Quan trọng hơn, Đỗ Lai Thúy còn nêu ra đặc trưng mô hình trong thế giới thơ Hàn: Tính trữ tình + tư duy tôn giáo + mô hình và sáng tạo… Ông tìm hiểu thơ Bích Khê từ ảnh hưởng của thơ ca phương Đông đến sự tiếp nhận văn học phương Tây. Đặc biệt, ông đi sâu phân tích biện pháp nghệ thuật ẩn dụ mà Bích Khê sử dụng hết sức thành công. “Thi nhân không chỉ phục hồi ý nghĩa từ nguyên cho ẩn dụ, mà quan trọng hơn, còn cải tạo chúng theo cái nhìn thế giới của riêng mình”. Đỗ Lai Thúy còn phát hiện ở “ngòi bút Bích Khê có biệt tài trong việc tạo ra những ẩn dụ mới, độc đáo, lạ lẫm, tuy giống ẩn dụ cũ về ý nghĩa nhưng khác về diễn tả ngôn từ”. Đỗ Lai Thúy còn quan tâm đến hiện tượng trùng phức, nhạc tính trong thơ Bích Khê. Từ đó kết luận “Bích Khê đã vượt qua địa hạt lãng mạn sang lãnh địa tượng trưng và trở thành chủ soái của trường thơ này” [88,193]... Tiếc rằng, ở Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy không đề cập đến Chế Lan Viên. Về sau, bài viết “Chế Lan Viên tháp Chàm bốn mặt”, lý giải việc Chế không có chân trong nhóm thất tinh của Mắt thơ, Đỗ Lai Thúy cho rằng Điêu tàn không tiêu biểu cho một
  • 23. 17 phạm trù thi pháp học, “nếu xét về mặt tư duy nghệ thuật, so với Tinh huyết của Bích Khê, Đau thương của Hàn Mặc Tử, những người cùng Trường thơ Loạn với ông, thì không bằng”. Theo Đỗ Lai Thúy, “mặc dù có một số khám phá mới mẻ về ngôn ngữ, nhưng ở Điêu tàn, Chế Lan Viên vẫn chưa tìm được một ngôn ngữ thích hợp để phô diễn những tư tưởng tân kỳ” [89,96]. Hà Minh Đức trong Văn chương tài năng và phong cách điểm qua các gương mặt Thơ mới tiêu biểu trong đó có Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và khẳng định thành tựu trong sáng tạo nghệ thuật của họ là “một nguồn mạch phong phú của thơ ca dân tộc trong thời kỳ hiện đại” [24,106]. Trong chuyên luận Một thời đại trong thi ca, bên cạnh khắc họa sinh động chân dung các nhà thơ mới cùng những đỉnh cao thơ Loạn, Hà Minh Đức chứng minh các nhà thơ mới Việt Nam học được thơ tượng trưng lối cảm, lối nghĩ và cả lối sống. “Ở Baudelaire, các nhà thơ mới tìm thấy nhiều hình thức biểu hiện phức tạp của cái tôi trữ tình, từ sự mong ước đến chán nản, tuyệt vọng, từ cái đẹp vươn tới của nghệ thuật đến chất suy đồi của thơ”. Tác giả đề cập đến quá trình hội nhập thầm kín và ngân tỏa sâu rộng từ “những niềm hoan hỷ của tinh thần và giác quan” trong cảm nhận thế giới của Baudelaire đến các nhà thơ mới. “Trong cảm nhận thi ca, câu thơ Hương thơm, màu sắc và âm thanh tương hợp với nhau của Baudelaire cũng gợi nhiều cho các nhà thơ kinh nghiệm khai thác thế giới nội cảm với những biến thái linh hoạt của cái tôi trữ tình” [23,46]. Trước đó, trong bài viết “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên”, Hà Minh Đức cho thấy sự cách tân quan trọng trong quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn: “Với Trường thơ Loạn, quan niệm về thơ và nhà thơ đã có những thay đổi quan trọng. Mẫu hình thi sĩ ru với mây gió, đẫm tình và mộng đã bị thay thế bằng những thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thường. Họ muốn xác lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ quen thuộc của đời thường. Cái lôgíc của thi ca đã trở nên khác biệt nhiều khi đối lập với lôgíc của cuộc đời. Nhà thơ, chủ thể sáng tạo, một nhân tố mạnh xem mình như trung tâm của vạn vật và bộc lộ cảm xúc một cách khác thường” [22,29]. Mã Giang Lân trong Tìm hiểu thơ phân tích dấu ấn tượng trưng trong thi phẩm của các tác giả thơ Loạn và đưa ra luận điểm khá xác đáng: “Về quan điểm nghệ thuật, và từ đó là những sáng tác của bộ ba Trường thơ Loạn (Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê - VNN) là những con người trung thành với thơ tượng trưng, siêu thực. Nhưng có điều, họ thực sự là những chân tài nên đã tạo nên nhiều
  • 24. 18 bài thơ đặc sắc, có giá trị lâu dài” [46,244]. Trong bộ ba thơ Loạn này, Mã Giang Lân quan tâm nhiều đến Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên. Theo Mã Giang Lân, “cả hai ông đều đề cao con người nghệ sĩ là con người khác thường, siêu phàm và coi quá trình sáng tạo thơ như là một cái gì siêu phàm, thần bí”. Bên cạnh đó, Mã Giang Lân còn đặc biệt chú ý đến tuyên ngôn nghệ thuật của hai nhà thơ, mà với nhà nghiên cứu, nó bắt nguồn từ đức tin tôn giáo và sự dồn nén cảm xúc của nỗi niềm nhân thế. Nói cách khác, đó là sự cộng hưởng của quan niệm triết mĩ và nỗi đau đời: “Cả hai đã tuyên ngôn, bằng hình thức này hay hình thức khác, hình thành một trường phái tạo nên những vần thơ kinh dị, bột phát từ những ẩn ức, tiềm thức và cả những ý tưởng tôn giáo tối thượng linh thiêng”. Mã Giang Lân đánh giá Hàn Mặc Tử “là người tiên phong đưa thơ đi vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng thơ hiện đại thế giới”. Với Bích Khê, tác giả cho rằng: “Bích Khê nổi bật với sự trung thành với những nguyên lý tối cao của chủ nghĩa tượng trưng, của Baudelaire, ông tổ thơ hiện đại Pháp” [46,23-24]. Trong chuyên luận Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Mã Giang Lân đánh giá “những yếu tố tượng trưng siêu thực đã hiện rõ, đậm đặc trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê”. Theo tác giả, chính thi pháp tượng trưng đã “tạo nên nét khác biệt giữa nhóm các nhà thơ này và các nhà thơ lãng mạn cùng thời” [47,131]. Phát hiện sự tương đồng trong việc thai nghén nguồn thi liệu giữa Baudelaire với các thi sĩ thơ Loạn, Chu Văn Sơn cho rằng: “Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở những vật ghê rợn kinh hãi như xác chết, máu me, xương tủy, sự dâm đãng… Đến lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của Trường thơ Loạn cũng đi tìm thi hứng và nói rất thoải mái đến những cái chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng… Tuy nhiên, trong khi các thi hữu của mình nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, nghĩa là tuân theo những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống thực tế rất gần với cái thời gian kinh dị đó” [76,32]. Trong một công trình khác, Chu Văn Sơn phát hiện mức độ ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến mỗi nhà thơ Loạn ở những khía cạnh khác nhau. Mỗi nhà thơ có một hướng đi trên cơ sở tiếp thu và sáng tạo, hình thành một phong cách riêng cho mình: “Mỗi thi sĩ ảnh hưởng lại tâm đắc một sắc thái nào đó. Do tạng của mình, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên nghiêng về đau thương và kỳ dị, rồi đẩy lên đến kinh dị. Bích Khê lại mê cái kỳ dị và xấu” [81,63].
  • 25. 19 Trần Thị Huyền Trang trong công trình Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng nhìn thấy nét gần gũi trong thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn. “Qua các tác phẩm thuộc Trường thơ Loạn, người đọc dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng lẫn nhau trong ngôn ngữ và hình tượng thơ. Họ bắt gặp nhau trong ý tưởng và ngôn từ, nhưng giọng điệu thì khác. Về mức độ, có lẽ Hàn Mặc Tử là người gây ảnh hưởng nhiều nhất đối với các nhà thơ trong vương quốc của mình, tiếp đến là Chế Lan Viên. Thơ của Hàn có trăng, hồn, máu thì thơ Chế Lan Viên, Bích Khê và Yến Lan cũng có trăng, hồn, máu. Thơ Chế có bóng ma thì thơ Hàn, Bích Khê bóng ma thỉnh thoảng cũng hiện về. Sọ người, tinh tủy, xương người đầy rẫy trong thơ Chế Lan Viên và Bích Khê. Còn điều này nữa, cái chất chung, tan chảy điều hòa toàn bộ sáng tác của họ là cái chất sầu… Với mỗi nhà thơ, cái sầu được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Ở Hàn Mặc Tử, nó phơi bày ở khía cạnh đau thương. Ở Bích Khê, nó là sự dằn vặt triền miên. Ở Chế Lan Viên, nó cô lại thành khối chán nản. Ở Yến Lan, nó khoanh tròn trong nỗi cô đơn tuyệt vọng não nề” [90,93-94]. Dù đây không phải là phát hiện mới mẻ, nhưng qua việc nghiên cứu hiện tượng thơ Hàn Mặc Tử, phần nào cho thấy tác giả có phần dày công trong việc đặt vị trí của một nhà thơ trong tương quan trường phái sáng tác. Phạm Phú Phong với bài viết “Bích Khê trong Trường thơ Loạn” quan tâm nhiều đến khía cạnh huyền hoặc, đầy biến hóa trong sáng tạo nghệ thuật của các thi sĩ. Theo tác giả, Trường thơ Loạn “đã tạo ra một dòng thơ lạ lẫm, kì dị khiến cho nhiều người phải giật mình sửng sốt. Thơ của họ vút cao chót vót nối tầng cao nhất của thiên đường tới tận cùng địa phủ, từ đó tạo ra thứ ánh sáng huyền hoặc”. Phạm Phú Phong nhìn nhận: “Điều đáng lưu ý là tuy nói Loạn mà không loạn, Điên mà không điên. Không bừa bãi, cẩu thả, mà được trau chuốt cẩn thận từng câu, từng chữ, nhằm thể hiện cảm xúc luôn khao khát được sống hết mình, đòi hỏi người nghệ sĩ phải sống bằng trái tim, bằng tâm hồn cháy bỏng từng ngọn lửa yêu thương, phải mở lòng rộng rung rinh, lắng nghe tiếng nói thì thầm ở nơi tĩnh lặng nhất của cõi lòng mình, phải thét phải gào cho thỏa những khát khao, ước mong về thế giới đau thương, về cái đẹp, về tình yêu và cuộc sống. Điều ấy thể hiện rõ rệt thông qua sáng tác của những tác giả chủ chốt của nhóm như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê” [69,188]. Trong một bài viết khác, tác giả nhận định: “Đọc tác phẩm của các tác giả trong Trường thơ Loạn, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thống nhất về quan điểm trong một nguồn chung, có ảnh hưởng lẫn nhau trong ngôn ngữ và hình tượng,
  • 26. 20 nhưng đều có những thi pháp biểu hiện riêng và đã đạt được những thành tựu khác nhau, còn sống mãi trên thi đàn dân tộc” [70,18]. Tuy không đặt vấn đề nghệ thuật tượng trưng trong thi phẩm của Trường thơ Loạn như một phương diện nghiên cứu độc lập, nhưng ở nhiều bài viết, Hồ Thế Hà thấp thoáng đề cập đến lĩnh vực này. Trong “Tư duy thơ Bích Khê - nhìn từ các dạng thái của cái tôi trữ tình”, Hồ Thế Hà đưa người đọc đi từ thi giới Bích Khê đến thế giới kinh dị của thơ Loạn. “Với Trường thơ Loạn, người đọc bất giác nhận ra thế giới kì lạ, hình như không có khoảng cách giữa địa ngục và thiên đường, giữa thực và ảo, giữa nhớ và quên, giữa mê và tỉnh, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bình thường và phi thường. Những đối lập này đã va chạm và phản âm, phản cảnh và phản sắc tạo ra những kinh dị huyền diệu choáng ngợp… Chính các lớp hình tượng trên được biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ cũng quái đản, biến hóa đã làm cho thơ Loạn càng lung linh, huyền bí, có sức cuốn hút kỳ lạ đối với bao thế hệ người đọc hiếu kỳ và thích tận hưởng cái mới, cái ngoại vi thơ độc đáo, bất khả giải của thi ca. Tưởng cũng nên nhắc lại các quan niệm thi ca của Trường thơ Loạn. Các thi sĩ của Trường thơ Loạn đề cao tinh thần nghệ thuật vị nghệ thuật mà các yếu tố của thi ca (éléments de póesie) bao gồm trăng, hương, hoa, nhạc được đề cao. Đó là thế giới riêng của cái đẹp mà thi sĩ là thiên sứ mang cái đẹp đó cho trần gian, nối liền với mọi người” [28,89]. Bài viết “Nhóm thơ Bình Định thời kỳ Thơ mới 1930 - 1945”, sau khi điểm lại những gương mặt Thơ mới tại Bình Định, Hồ Thế Hà cho rằng quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn là kết quả của sự kiếm tìm, đổi mới, sự phá rào để “tiền trạm cho tương lai” (Breton). Dù rằng nhận thấy có những quá đà, quá ngưỡng trong một số bài thơ, câu thơ dẫn đến huyền bí, siêu hình, nhưng theo tác giả, “ngày nay, bình tĩnh nhìn lại, quả là các ông đã làm nên sự tân kỳ, hấp dẫn mà lịch sử văn học phải ghi nhận công đầu” [28,348]. Luận án tiến sĩ ngữ văn Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại, Hoàng Sĩ Nguyên điểm qua những nét đặc trưng nổi bật về cái tôi cá nhân của các tác giả thơ Loạn, và khẳng định: “Cái tôi trong thế giới Điêu tàn của Chế Lan Viên luôn khoác cho mình một dĩ vãng vàng son và bi tráng đã lùi xa để gửi thông điệp về sự hủy hoại của con người”, còn “Cái tôi trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê là cái tôi khát khao tìm hiểu, khám phá và phát hiện trong chiều sâu” [59,29]. Đặc biệt, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Hữu Hiếu Những biểu hiện của khuynh hướng tượng tưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 [34] đã luận giải
  • 27. 21 khá sâu sắc nhiều vấn đề: từ cơ sở hình thành khuynh hướng tượng trưng đến những quan niệm và khuynh hướng biểu hiện trong sáng tác của các nhà thơ mới... Công trình này, Nguyễn Hữu Hiếu bao quát trên diện rộng và nhận thấy nhiều nhà thơ của phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng. Vì bao quát trên diện rộng, nên tác giả dù có đề cập, nhưng không thể đi sâu làm rõ ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến sáng tác của Trường thơ Loạn. Nguyễn Toàn Thắng trong chuyên luận Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định là người tìm hiểu nhiều về trường phái thơ Loạn. Bàn về quan niệm nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn gắn với chủ nghĩa tượng trưng, tác giả cho rằng: “Trường thơ Loạn đã có quan niệm nghệ thuật gần gũi với thơ tượng trưng. Trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, thế giới hình tượng nghệ thuật đã có những thay đổi đáng kể. Cả cái biểu đạt (hình tượng tượng trưng) và cái được biểu đạt bị che giấu đều trở nên bí ẩn. Hình tượng tượng trưng giống như một câu đố đòi hỏi chúng ta phải đi tìm kiếm cái gì ý nghĩa đằng sau hình tượng” [87,97]. Công trình này, tác giả có điểm qua sự tích hợp chất Đạo và chất Đời của ba thi sĩ thơ Loạn: “Rõ ràng như thể có sự đồng điệu, vang vọng về chất đạo, chất đời trong nhóm thơ Bình Định, Trường thơ Loạn giữa Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê. Đó là một nội dung quan trọng để cắt nghĩa Trường thơ Loạn nói riêng và nhóm thơ Bình Định nói chung. Phải chăng có như vậy mới phục nguyên được dáng vẻ toàn bích của tổ chức thi ca này?” [87,236]. Tuy vậy, chuyên luận này chủ yếu viết về Hàn Mặc Tử. Trên cơ sở nghiên cứu thơ Hàn, Nguyễn Toàn Thắng so sánh những điểm tương đồng trong sáng tạo nghệ thuật với nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn. Cũng vì vậy, tác giả chưa thể tách Trường thơ Loạn thành phạm trù nghiên cứu riêng biệt. Mặt khác, dù xác định thành viên của Nhóm thơ Bình Định và Trường thơ Loạn là khác nhau, nhưng đây đó dường như tác giả đồng nhất nhóm thơ và trường thơ này về thi pháp sáng tác, khi cho rằng: “Trường thơ Loạn hoài thai trong lòng nhóm thơ Bình Định, cho nên nghiên cứu nhóm thơ Bình Định cũng là bao hàm cả Trường thơ Loạn” [87,37]. Điều này theo chúng tôi cũng cần phải bàn thêm. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các luận án Tiến sĩ Ngữ văn nghiên cứu về các tác giả của Trường thơ Loạn, như: Đoàn Trọng Huy với Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau 1945 [33]; Hồ Thế Hà với Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên [27]; Nguyễn Quốc Khánh với Thi pháp thơ
  • 28. 22 Chế Lan Viên [35]; Chu Văn Sơn với Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử [77]... Ở những công trình này, các thi sĩ của Trường thơ Loạn hiện lên rõ nét về chân dung và phong cách. Ngoài các công trình đã được in thành sách, còn có các khóa luận Tốt nghiệp Đại học, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về Trường thơ Loạn hoặc từng tác giả thơ Loạn riêng biệt, nhưng chúng tôi chưa có dịp dẫn chứng, tham khảo, vì nhìn chung các công trình này vẫn không bàn ngoài những vấn đề mà các công trình đi trước đã đề cập. Xem sáng tác của Trường thơ Loạn là đặc trưng thẩm mĩ quan trọng, tạo ra những khác biệt và lạ hóa so với phần còn lại của Thơ mới, chúng tôi đã công bố một số bài viết trực tiếp liên quan đến trường phái thơ này. Những bài viết đó, dù có đặt Trường thơ Loạn trong tương quan so sánh với nghệ thuật thơ tượng trưng, nhưng trong giới hạn của những bài báo, chúng tôi chưa thể trình bày một cách cụ thể, chi tiết và thấu đáo vấn đề này. 1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài 1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu Điểm qua phần lịch sử nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất: Có thể thấy, việc đón nhận Trường thơ Loạn của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học có nhiều bước thăng trầm. Do những tác động của thời đại, các quan điểm đánh giá về Thơ mới nói chung và Trường thơ Loạn nói riêng cũng có những khác nhau dựa trên những phương pháp luận khác nhau. Trước 1975, những vần thơ ấy được coi như “chiếc nấm lạ”, và bị đặt dưới góc nhìn phê phán, minh họa cho sự tiêu cực của phong trào Thơ mới. Họ bị cho là bế tắc, bi quan, thậm chí suy đồi. Phải hơn 10 năm sau khi đất nước thống nhất, việc đánh giá Trường thơ Loạn mới có những bước tiến khách quan hơn. Thứ hai: Dù là hiện tượng độc đáo trong bước chuyển mình ngoạn mục của một chặng đường thi ca dân tộc, nhưng số lượng công trình nghiên cứu riêng biệt về Trường thơ Loạn lại rất ít. Hầu hết các công trình chỉ điểm qua khuynh hướng sáng tác của Trường thơ Loạn ở mức độ tổng quát và sơ lược. Thứ ba: Theo thống kê của chúng tôi, trong ba đỉnh cao thơ Loạn, Hàn Mặc Tử là nhà thơ được nghiên cứu nhiều nhất, tiếp đến là Chế Lan Viên và Bích Khê. Tuy đi sâu tìm hiểu và phát hiện những giá trị đặc sắc của từng nhà thơ, nhưng các
  • 29. 23 nhà nghiên cứu ít khi đặt tác giả trong hệ thống của trường phái thơ để có một cái nhìn tổng thể về phong cách nghệ thuật của Trường thơ Loạn. Thứ tư: Trong các công trình kể trên, nhiều nhà nghiên cứu chung quan điểm cho rằng Thơ mới Việt Nam chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng phương Tây. Họ khẳng định các tác giả thơ tượng trưng Pháp như Charles Baudelaire, Arthur Rimbaud, Paul Verlaine, hay nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ Edgar Allan Poe đã để lại dấu ấn đậm nhạt khác nhau, góp phần mở rộng biên độ thơ, làm đa dạng phong cách nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Từ đó, các tác giả thống nhất nhận định Trường thơ Loạn chịu ảnh hưởng khá đậm của chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt là việc tiếp nhận nguyên lý mỹ học tượng trưng của Baudelaire. Tuy vậy, xét về một tổng thể hệ thống sáng tác của Trường thơ Loạn, có thể khẳng định, chưa có công trình nào thật sự đặt vấn đề nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ này. 1.2.2. Hướng triển khai đề tài Những thành viên chủ chốt của Trường thơ Loạn là những nhà thơ tài danh của thi ca dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của họ có thể xem là “thi ca chi bảo”, đòi hỏi nhiều người tiếp tục nghiên cứu. Luận án của chúng tôi góp một cái nhìn mới trên cơ sở tiếp thu thành tựu những công trình đi trước và cố gắng vận dụng lý thuyết tiếp nhận văn học hiện đại để tìm hiểu, khám phá, chỉ ra giá trị ưu việt trong tính toàn vẹn, bao quát và chỉnh thể Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn. Thực hiện điều này, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau: Một là: Luận án hệ thống lý thuyết thơ tượng trưng: sự hình thành và phát triển, đặc trưng thẩm mỹ, ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với Thơ mới Việt Nam tiền chiến. Quá trình ảnh hưởng này đã hình thành những chi lưu tượng trưng Thơ mới, như: Dạ Đài, Xuân Thu nhã tập, Trường thơ Loạn… Trong đó, Trường thơ Loạn là một hiện tượng văn học đầy hấp dẫn và ám gợi. Chúng tôi nhận thấy rằng, mỗi người trong Trường thơ Loạn có sự thống nhất với nhau ở một số mặt, nhưng đều có thi pháp biểu hiện riêng và đạt được những thành tựu khác nhau. Những gương mặt thơ độc sáng đã kiến trúc nên cả một trường thơ còn sống mãi trên thi đàn dân tộc cho đến tận hôm nay. Hai là: Là hình thái ý thức xã hội đặc thù, văn học có quan hệ gắn bó với cơ sở lịch sử xã hội làm nảy sinh ra nó. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác Trường thơ Loạn, không thể không nói đến những trầm tích và sắc thái riêng biệt của vùng đất Bình Định - không gian văn hóa của các tác giả thơ
  • 30. 24 Loạn, cũng như những giao lưu văn học Đông - Tây… góp phần hình thành và phát triển tư duy thẩm mỹ của các thi sĩ. Ba là: Luận án chứng minh tuyên ngôn nghệ thuật của Trường thơ Loạn có sự tương đồng với nguyên tắc mỹ học của thơ tượng trưng phương Tây, nhất là của Baudelaire. Và từ tuyên ngôn nghệ thuật này đã chi phối như thế nào đến hệ thống hình tượng và biểu tượng cơ bản của Trường thơ Loạn: hình tượng cái tôi, hình tượng không gian và thời gian, các biểu tượng trăng - hồn - máu, hoa - nhạc - hương... Đây là cơ sở then chốt để cắt nghĩa sáng tác của họ. Bốn là: Khẳng định ảnh hưởng của thơ tượng trưng đến Trường thơ Loạn qua các phương diện: ngôn từ nghệ thuật, nhạc tính và họa tính, giọng điệu và nghệ thuật tương hợp… Đây là những phương diện tạo nên giá trị bền vững cho sáng tác của Trường thơ Loạn. Những thủ pháp nghệ thuật này có khả năng chứa đựng, diễn tả được cảm xúc, tâm trạng cũng như những suy nghiệm của các nhà thơ trước cuộc đời. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận chính xác hơn những nỗi buồn cay đắng, thấm đẫm nỗi đau đời… của các thi sĩ trước nghịch cảnh cuộc sống. Tiểu kết Từ việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu Trường thơ Loạn, chúng tôi rút ra một số điểm sau: Theo thời gian, các công trình nghiên cứu đã có nhiều cố gắng dựng lại diện mạo của Trường thơ Loạn, nhất là những năm gần đây. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu xứng tầm so với đóng góp của Trường thơ Loạn trên thi đàn dân tộc. Nhìn lại quá trình vận động và phát triển phong trào Thơ mới, hầu hết các nhà nghiên cứu nhận thấy, so với những nhóm thơ khác, Trường thơ Loạn khẳng định tên tuổi và vị thế của mình hơn cả. Nhiều tác giả đi sâu bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của Trường thơ Loạn, khẳng định ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng phương Tây nói chung và Baudelaire nói riêng đến nhóm tác giả thơ Loạn từ sau 1936. Tuy vậy, những bài viết này chỉ mang tính nhỏ lẻ, chưa thực sự chuyên sâu một cách hệ thống. Từ những gợi ý quý báu trên của các nhà nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn “len” vào nguồn mạch này để tiếp tục tìm hiểu Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của Trường thơ Loạn.
  • 31. 25 CHƯƠNG 2 TRƯỜNG THƠ LOẠN TRONG NGUỒN TƯỢNG TRƯNG THƠ MỚI 2.1. Thơ mới và quá trình tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng 2.1.1. Thơ mới - cuộc cách mạng thi ca vĩ đại Cuộc cách mạng trong Thơ mới được thể hiện trước hết ở sự bùng nổ của cái tôi cá nhân (individu). Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo trước con người và tạo vật, nên “cái tôi trong mọi thời đại được coi như nguồn gốc của mọi hoạt động thơ ca, như lõi cốt của thể loại trữ tình” (Claude Pichois). Trong thơ trữ tình cổ điển, hình tượng cái tôi trữ tình tự ý thức về mình như một yếu tố trong mô hình vũ trụ. Tính chất của cái tôi trữ tình cổ điển là “phi cá thể, siêu cảm giác” (Trần Đình Sử). Thi nhân hướng về lời dạy thánh hiền, vào chí đức của các bậc quân tử, vào một miền lý tưởng nào đó để ngợi ca và khẳng định, vì vậy ít có nhu cầu bộc lộ cá tính. Phạm trù chính phản ánh trong thơ cổ là tình - cảnh, cảnh - tình để cái tôi cá nhân được khách thể hóa vào vũ trụ. Vì vậy, cái tôi văn học trung đại xét đến cùng nó vẫn là cái tôi đại diện - cái tôi không của riêng tôi. Cố nhiên, sẽ là hời hợt nếu cho rằng, thơ trung đại là “vô ngã”. Đây đó trong thơ cổ, vẫn có xuất hiện cái tôi “lệch chuẩn”. Một Hồ Xuân Hương sắc sảo, đáo để qua tiếng Tự tình chua xót, đớn đau trong canh khuya vắng lặng: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, - Trơ cái hồng nhan với nước non. - Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, - Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” (Tự tình - Hồ Xuân Hương); một Nguyễn Gia Thiều muốn đạp phăng bức tường lễ giáo phong kiến tìm đến hạnh phúc đơn sơ của chồng của vợ: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm, - Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon. - Cùng nhau một giấc hoành môn, - Lau nhau ríu rít cò con cũng tình” (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều),… là những minh chứng. Nhưng xét đến cùng, đó vẫn chỉ dừng lại ở sự manh nha của cái tôi cá nhân cá thể chứ chưa đủ sức khẳng định như cái tôi trong Thơ mới sau này. Phải đến những năm đầu thế kỷ XX, các yếu tố nội sinh cộng với sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được tìm thấy và nở rộ trong thơ. “Những xáo trộn to lớn về mặt lịch sử - xã hội, sự thâm nhập của các luồng tư tưởng phương Tây vào đầu thế kỷ này là tiền đề quyết định sự ra đời của cái tôi lãng mạn chủ nghĩa” [1,36]. Hoài Thanh cho rằng, thơ Việt Nam từ thời cổ điển đến thời hiện đại là đi từ “chữ ta” đến “chữ tôi”: “Tinh thần
  • 32. 26 xưa - hay thơ cũ nằm trong chữ ta”; “tinh thần nay - Thơ mới nằm trong chữ tôi”, “tức nguồn cảm hứng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành linh hồn Thơ mới lúc bấy giờ”. Thơ mới được thể hiện trước hết với tư cách là tiếng nói giải phóng khỏi những ràng buộc của con người phận vị. Con người được sống trọn với cảm xúc của mình, khẳng định quyền tự do yêu đương của chính mình. Các nhà thơ đề cập đến tình yêu không chút che đậy, giấu giếm. Xuân Diệu là cái tôi bộc lộ đầy đủ, cá tính và đam mê một tình yêu mãnh liệt: “Tôi không biết, không biết gì nữa cả - Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi” (Tặng thơ - Xuân Diệu). Thế Lữ gọi mời: “Yêu đi… yêu nữa và yêu mãi”. Với Nguyễn Bính: “Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”. Và với Tế Hanh: “Tôi là triệu phú rất nhiều yêu”… Từ “con người chức năng trong xã hội luân thường” (Trần Đình Hượu) của văn học trung đại đến con người với “khát vọng thành thật” (Hoài Thanh) trong Thơ mới là một bước tiến dài hơi và đột biến, cho phép nhà thơ biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng. Thơ mới đã tạo ra cái tôi cá thể hóa trong cách cảm nhận thiên nhiên độc đáo, riêng tư. Nếu thơ xưa xem thiên nhiên là tấm gương soi ngắm mình thì ở Thơ mới, vẻ đẹp toàn bích con người mới là chuẩn mực cho vạn vật. Xuân Diệu khi miêu tả thiên nhiên đã lấy con người làm thước đo: “Lá liễu dài như một nét mi”, “Mây đa tình như thi sĩ thời xưa”. Đinh Hùng thấy mình là trung tâm mà không gian, thời gian như phụ thuộc vào đó: “Chúng ta đến mùa xuân thay sắc diện”… Cách nhìn thế giới thay đổi, quan niệm mỹ học cũng thay đổi theo. Thơ mới đi sâu vào khai thác thế giới thiên nhiên, coi nó như là một thế giới bình yên, thanh sạch, và là khách thể cần khám phá, chinh phục. Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi cá nhân trong Thơ mới đồng thời cũng đóng vai trò là chủ thể sáng tạo mang phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng định mình. Rất nhiều bài trong Thơ mới, cảm hứng chủ đạo phô bày trực tiếp một quan niệm, một tư tưởng nào đó của nhà thơ. Con người cá nhân, cá thể xuất hiện trong Thơ mới là con người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính mình, hân hoan khẳng định chính mình. Các thi sĩ cất lên tiếng nói của chủ nghĩa cá nhân đầy tự tin và tự hào. Xuân Diệu khẳng định mình như một văn nhân độc đáo, cá biệt: “Ta là một, là riêng, là thứ nhất” (Hy Mã Lạp Sơn). Trần Huyền Trân lang thang trên trên cánh đồng thơ bằng những bước đi đặc dị: “Chân mình vẫn lạc dấu
  • 33. 27 nghìn chân” (Tha hương)… Coi mình như người khác hẳn phàm trần, cũng đồng nghĩa các nhà thơ mới tự cảm thấy mình lạc lối thời cuộc. Đinh Hùng chập chờn giữa thế giới nguyên thủy tiền kiếp và đô thị hiện đại như lạc bước giữa trần đời: “Ta về đây lạ hết các ngươi rồi - Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống” (Bài ca man rợ). Xuân Diệu và Huy Cận như một “ải quan xa”, một đóa hoa trong hẻm núi… Lẻ loi trước nhân thế, các thi sĩ luôn tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Ta là ai?” trên cõi đời này. Chính vì vậy, xuất hiện nhiều câu thơ các thi sĩ tự truy vấn chính mình. Đó cũng chính là một cách tuyên xưng dõng dạc đầy khẳng định của cái tôi - chủ thể. Thế Lữ - “người khách đi qua trần thế” mộng mơ trong chốn bồng lai với tiên nga, ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng - Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi” (Cây đàn muôn điệu). Xuân Diệu tự xem mình: “Tôi là một kẻ làm thơ thẩn - Cúi nhặt thơ rơi giữa sỏi đường” (Đi dạo). Và còn nữa, Tôi - cây kim bé nhỏ, Tôi - con chim đến từ núi lạ, Tôi - con nai bị chiều đánh lưới, Tôi - thi sĩ của yêu thương, Tôi - kẻ đưa răng bấu mặt trời… Ý thức chủ quan của chủ thể được biểu lộ một cách trực tiếp qua sự khẳng định của ý thức cá nhân. Trong sự biểu hiện ấy, cái tôi Thơ mới thể hiện mọi tâm trạng, từ niềm vui đến nỗi buồn, sự tuyệt vọng trên đường tìm hạnh phúc và cả những giấc mơ không thành hiện thực để hữu hình hóa những vi diệu tâm hồn. Mặc dù cái tôi Thơ mới xuất hiện với đầy đủ ý nghĩa tuyệt đối, nhưng sau sự lên ngôi rực rỡ buổi đầu, thì về sau lại tỏ ra bất lực. Đỗ Lai Thúy nhận xét: “Con người cá nhân Việt Nam vừa mới ra đời đã vấp phải bao mâu thuẫn, ngoài những mâu thuẫn thường hằng của bản chất người. Đó là mâu thuẫn giữa nền văn hóa nông thôn cổ truyền và nền văn hóa đô thị mới hình thành, giữa Đông và Tây, giữa dân tộc và thế giới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái ta và cái tôi…” [88,268]. Nói cách khác, đó là sự lỗi nhịp của vòng quay lịch sử - thi ca. Trong sự lỗi nhịp ấy, cái tôi cá nhân Thơ mới có nguy cơ chao đảo và bộc lộ hạn chế về tư tưởng. Thi nhân đơn độc cùng nỗi âu sầu riêng tư, miên viễn vì một tình yêu trắc trở, một cảnh sắc thiên nhiên, một nỗi niềm tâm sự… Nhưng trên hết, vì họ không thỏa hiệp được với xã hội “kim tiền ô trọc”, lại xa rời và không có niềm tin vào thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Vậy là cái buồn trong cuộc đời thực đã trở thành “tham số thi ca”… Thi sĩ biết cách tạo dựng cho lâu đài thơ mình một thế giới buồn sầu riêng biệt. Trong dàn đồng ca đa sầu đa cảm Thơ mới, Huy Cận là hồn thơ ảo não, thê thiết nhất. Nhà thơ tìm đến “nỗi sầu nhân thế” (Spléen) của Poe
  • 34. 28 và Baudelaire, khơi dậy mạch “sầu vạn kỷ” mấy ngàn năm ngấm ngầm trong hồn thơ kim cổ để chiêm nghiệm không gian vô biên vô cùng và thời gian vô thủy vô chung. Hồ Dzếnh mang nỗi sầu bao la bất tận của một tâm hồn Minh hương viễn xứ. Giữ vai trò thi sĩ tiên phong của phong trào Thơ mới, tiếng thơ Lưu Trọng Lư sẵn sàng “lịm người trong thú đau thương”, tự tay “buộc dải tang cho mình” để đối chất, bộc bạch nỗi “sầu bao la”, “sầu biêng biếc”, “sầu vô hạn”. Nỗi sầu ngấm vào từng thi ảnh, từng giai điệu thơ ông: “mắt sầu gợn sóng”, “sầu tràn cỏ cây”, “ngày một thêm sầu”… với trạng thái “não nùng”, “bi thiết”: “Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng - Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh” (Thơ sầu rụng)... Chất sầu buồn Thơ mới còn ở nỗi dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, nỗi phẫn uất của Nguyễn Vỹ, nỗi khắc khoải của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, nỗi thống thiết tang thương trong thi phẩm Trường thơ Loạn… Đằng sau những buồn thương, đơn độc trước thực tại tối đen và lòng người dưng dửng, các nhà thơ mới thường đặt mình vào cõi tiên, cõi ma để mộng mơ, siêu tưởng… Và trong vô vàn cách trốn thoát, không ít người chọn đường về quá khứ, một ngày xưa mơ hồ giúp họ tìm lại thời gian đã mất để may ra còn thấy sự hiện hữu chính mình trong thế giới xa vời của ngày xưa thân ái. Nguyễn Nhược Pháp có cả một tập thơ lấy tên là Ngày xưa nhằm làm sống lại một thời “sắc màu tươi, hình dáng ngộ nghĩnh” [83,270]. Vũ Đình Liên hướng lòng vào “hàng thành quách cũ - Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa” (Lòng ta là những hàng thành quách cũ), tưởng nhớ bóng dáng ông đồ viết câu đối tết, hoài vãng nét đẹp văn hoá một thời trong niềm da diết: “Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ” (Ông đồ - Vũ Đình Liên). Chế Lan Viên mơ tưởng về những gì rực rỡ nhất thời hoàng kim Chiêm quốc… Vọng về quá khứ từ hiện tại đau buồn là hành trình tìm ký ức cội nguồn và ký ức tâm hồn của thi nhân, cũng là của nhân sinh, của thế sự. Tuy có hạn chế về mặt tư tưởng, nhưng sự xuất hiện của cái tôi cá nhân cá thể Thơ mới đã đóng góp lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị nghệ thuật, làm thay đổi quan niệm thơ, quan niệm nghệ thuật về con người, chuyển từ “thơ điệu ngâm” sang “thơ điệu nói” (Trần Đình Sử), đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa từng có trước đó. Khi “cái tinh thần Thơ mới” - chữ tôi nở rộ, tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi về thi pháp, mở rộng chân trời sáng tạo cho các nhà thơ mới, nhất là bình diện nghệ thuật ngôn từ.
  • 35. 29 Thơ ca phương Tây, đặc biệt thơ ca Pháp hiện đại là nguồn mạch quan trọng của Thơ mới. Có thể xem Thơ mới là một hành trình tiếp thu những trào lưu thơ Pháp: lần lượt từ thơ lãng mạn thế kỉ XIX, đến thơ tượng trưng và có những biểu hiện đầu tiên gần với thơ siêu thực những năm 20 của thế kỉ XX… Vì cùng lúc tiếp nhận nhiều trào lưu nghệ thuật, nên phong trào Thơ mới, việc đẩy lên thành chủ nghĩa riêng biệt là bất khả. Dù mỗi thi sĩ chịu ảnh hưởng của trường phái này hay trường phái khác, nhưng khó có thể tìm ra lát cắt rạch ròi để phân xu hướng cho từng nhà thơ, mà đa phần ở họ có sự đan xen, xuyên thấm của nhiều khuynh hướng. Được giải phóng triệt để khỏi các phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể loại thơ truyền thống, Thơ mới bắt đầu xuất hiện nhiều bài mà số lượng các câu thơ không còn bị giới hạn. Sau bao năm thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những viên gạch để lắp vào bộ khung cố định của luật thơ” (Trần Đình Sử), thì với Thơ mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong phú, mới lạ hơn bao giờ hết. Với số từ vựng giàu có, cách diễn đạt tự nhiên, đầy năng lượng và biến hóa trong từng phong cách, Thơ mới khai thác nhiều giá trị các biện pháp tu từ, tạo cho ngôn ngữ thơ giàu sắc thái biểu cảm, cung cấp thông tin mới cho từ trong hoạt động ngữ nghĩa. Đó là những cách dùng từ rất lạ, những kiểu lập ngôn đầy hấp dẫn của Thơ mới mà văn chương trung đại không bao giờ chấp nhận, như: “Chị ơi, em cưới mùa xuân nhé? - Đốt pháo cho thơm với rượu hồng” (Xuân tha hương - Nguyễn Bính)… Đặc biệt, ngôn ngữ bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ nghệ thuật nhằm mở rộng khả năng biểu đạt và biểu hiện để đáp ứng nhu cầu thổ lộ dòng tâm trạng đang chất chứa nguồn cảm xúc tràn bờ trong thơ. Không chỉ phong phú về số lượng và mới mẻ trong diễn đạt, ngôn từ Thơ mới còn rất giàu tính nhạc. Nhạc tính là nguyên lý của thơ tượng trưng - đó cũng là tinh túy của âm thanh, là đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam. Bằng cách phối hợp thanh điệu, kết hợp nguyên âm cao với phụ âm vang, cùng nhịp điệu tâm hồn và tinh thần âm nhạc của thơ tượng trưng, các thi sĩ Thơ mới tạo nên những bản hòa âm giữa thơ với nhạc. Tiếng nhạc vang ngân, da diết của Thơ mới được tạo nên bằng nhiều cách: bằng làn điệu lục bát ca dao, dân ca được các nhà thơ biến tấu, vắt dòng, ngắt nhịp: “Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi - Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...” (Buồn đêm mưa - Huy Cận); bằng việc xây dựng câu thơ bình thanh: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời - Tương tư nâng hồn lên chơi vơi” (Xuân Diệu); bằng cách điệp