SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 102
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGÔ HỒNG HÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGÔ HỒNG HÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐẶNG ĐỨC QUY
HÀ NỘI - 2014
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
An toàn lao động ATLĐ
Bảo hiểm xã hội BHXH
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
Giải quyết việc làm GQVL
Hợp tác xã HTX
Khu công nghiệp KCN
Lao động – Thương binh và xã hội LĐ - TB & XH
Nông nghiệp và phát triển nông thôn NN & PTNT
Nông thôn mới NTM
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Ủy ban nhân dân UBND
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI 10
1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hóa 10
1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá
trình đô thị hóa ở Đồng Nai 39
Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI 58
2.1. Một số quan điểm cơ bản về giải quyết việc làm cho
nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong
thời gian tới 58
2.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho nông
dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong thời
gian tới 64
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 90
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chăm lo giải quyết việc làm(GQVL) và cải thiện đời sống cho người
lao động đã trở thành chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta và
là mục tiêu xuyên suốt quá trình xây dựng đất nước của nhân dân ta. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “ Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được
ấm no và được sống một đời hạnh phúc ”[14, tr.17]. Thấm nhuần tư tưởng đó,
Đảng ta luôn xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy
nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp
ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"[5, tr.210].
Như vậy, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát
huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, mặt khác còn là hướng đi cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là
cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang tạo ra những bước
ngoặt quan trọng cho sự phát triển của đất nước, theo đó diện mạo nông thôn
nước ta cũng đang có nhiều biến đổi to lớn do tác động của tốc độ đô thị hoá.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự thay đổi này cũng đã bộc lộ những vấn
đề phức tạp mới về kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên
những địa bàn đô thị hoá. Một trong những vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm là
tình trạng thiếu việc làm hoặc không tìm được việc làm do chưa thích ứng kịp
với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nhu cầu về lao động có chất lượng cao.
Đây cũng chính là nỗi băn khoăn của các cấp chính quyền ở các địa phương
đang diễn ra quá trình đô thị hoá do tác động của công nghiệp hoá, hiện đại
3
hoá. Nếu không giải quyết đuợc vấn đề này một cách cơ bản sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, theo đó mục tiêu
phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước xác định cũng khó có thể trở thành
hiện thực.
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của khu
vực miền Đông Nam bộ. Là địa phương có dân số đông, đứng thứ 5 trong cả
nước, địa bàn rộng, tốc độ đô thị hóa nhanh, với hệ thống giao thông đa dạng
(Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành
– Dầu Giây, đường cao tốc Bến Lức - Long Thành ...), với hơn 60 khu và cụm
công nghiệp tập trung với gần 12 ngàn nhà máy, công ty, xí nghiệp hoạt động
và đặc biệt là Cảng hàng không quốc tế Long Thành với diện tích khoảng 5.000
ha đang chuẩn bị được đầu tư xây dựng. Đây là những thuận lợi, là điểm nổi
bật của Đồng Nai so với các địa phương khác ở Nam Bộ, đồng thời cũng đặt ra
nhiều vấn đề phức tạp mới trong việc quản lý lao động và giải quyết việc làm,
ổn định đời sống đối với nông dân trong quá trình thực hiện các dự án. Thực tế
quá trình đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, quy mô rộng lớn ở
Đồng Nai những năm qua đã làm nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội phức
tạp mới. Tình trạng nông dân sau khi hiến đất cho các khu công nghiệp, những
vùng đô thị hóa lúng túng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp đang là những
vấn đề phức tạp mới đối với lãnh đạo và chính quyền các cấp. Đây không chỉ là
nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị xã hội hết sức quan trọng và bức
thiết đối với Đồng Nai hiện nay. Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu vấn đề giải
quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai hiện nay là
hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa
chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở
Đồng Nai” làm luận văn cao học kinh tế.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân là một trong những chủ
đề được quan tâm khá nhiều trong các cuộc hội thảo khoa học trên các diễn
đàn quốc gia, quốc tế. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề này càng trở
nên hấp dẫn và thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, nhiều nhà
khoa học khi vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân đã trở
thành tâm điểm trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
trước tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đã có khá nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu bàn về vấn đề
này. Có thể kể ra một số công trình khoa học tiêu biểu liên quan trực tiếp đến
đề tài sau đây :
* Dưới dạng các ấn phẩm thành sách
- “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Chu Tiến Quang,
Nxb CTQG, H. 2001. Tác giải đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông
thôn Việt Nam và cho rằng, việc làm cho người lao động và thất nghiệp là
một trong những vấn đề toàn cầu. Từ đó, đưa ra phương pháp tiếp cận tổng
quát về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh
giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của công trình đã đề
xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp giải quyết việc làm và kiến nghị một
số chính sách cụ thể về việc làm, chống thất nghiệp trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
- “Đô thị hoá ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông
dân”của GS, TS Phùng Hữu Phú, Nxb CTQG, H. 2009.
Tác giả cho rằng từ lâu nay, vấn đề đô thị hóa tuy có bàn đến nhưng
chưa được quan tâm đúng tầm, trong khi trên thực tế, làn sóng đô thị đang
từng ngày, từng giờ tác động trực tiếp nhiều mặt đến nông nghiệp, nông thôn,
nông dân. Đô thị hóa đã làm cho địa bàn nông thôn xuất hiện những khu công
5
nghiệp, khu chế xuất, trung tâm dịch vụ .... từ đó tạo nhiều cơ hội cho người
nông dân có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, đời sống văn hóa tinh
thần được nâng lên rõ rệt. Song quá trình đô thị hóa vẫn còn nhiều mâu thuẫn,
thách thức, nhất là vấn đề về quy hoạch, quản lý sử dụng đất, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, sự ùn tắc lao động nông nghiệp, văn hóa, môi trường suy
thoái. Từ những vấn đề trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính
khái quát nhằm đảm bảo cho quá trình đô thị hóa ở khu vực nông thôn đi
đúng quy định khách quan của nó.
- Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, thực
trạng và giải pháp của Nông Mạnh Hải, Nxb CTQG, H. 2007.
Tác giả cho rằng, trong những năm qua, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta đã mang lại nhiều lợi thế cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đại bộ phận người dân
được nâng lên. Công tác bồi thường cho những hộ nông dân bị thu hồi đất
phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tiến hành đúng
pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt chức năng của mình, đảm
bảo đáp ứng mong muốn của nhân dân. Song trong công tác đền bù còn gặp
nhiều vướng mắc, nhất là trong đền bù đất nông nghiệp. Từ thực trạng đó, tác
giả đã đưa ra nhiều giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác
bồi thường trong thu hồi đất ở Việt Nam thời gian tới.
* Dưới dạng luận văn, luận án
- Giải quyết việc làm cho người lao động và tác động của nó đến cũng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay (2001), Luận văn thạc sĩ,
Dương Văn Thi, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả làm rõ cơ sở lý
luận GQVL cho người lao động ở tỉnh Bắc Giang, đồng thời tác giả phân tích
thực trạng GQVL cho người lao động và tác động của nó đến củng cố quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
6
- Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh (2006), Luận văn
thạc sĩ, Nguyễn Thị Hồng Ninh, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã
tập trung nghiên cứu đưa ra các quan niệm về việc làm, về GQVL cho người lao
động ở nông thôn. Tác giả luận giải, phân tích thực trạng việc làm, GQVL ở Việt
Nam nói chung, của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đề xuất phương hướng và một số
giải pháp GQVL phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục
vụ phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (2010), Luận văn thạc
sĩ kinh tế, Hà Văn Tâm, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên
cứu việc làm, GQVL cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi, luận giải
thực trạng GQVL, nêu các quan điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết tốt vấn đề việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển
đổi phục vụ phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong
quá trình đô thị hóa hiện nay (2012), Luận văn thạc sĩ kinh tế, Dương Xuân
Hoàn, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả phân tích làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn về GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ
yếu nhằm GQVL cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô
thị hóa hiện nay.
* Dưới dạng các bài báo khoa học
- “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra” Nguyễn
Sinh Cúc, tạp chí Con số và Sự kiện, số 8 năm 2003.
- “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn” của Nguyễn Hữu Dũng, tạp chí
Lao động và Xã hội, số 247 năm 2004.
- “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn” của Vũ Đình Thắng, tạp
chí Kinh tế và Phát triển, số 3 năm 2003
7
- “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn 2001-2005” của Bùi Văn Quán, tạp chí Lao động và Xã hội, số
chuyên đề 3 năm 2001
Tổng quát lại các công trình và bài viết trên đây đã đề cập khá đầy đủ
và toàn diện cơ sở lý luận của việc làm, lao động và những vấn đề giải quyết
việc làm cho nông dân mang định hướng vĩ mô. Trong các công trình đó, các
tác giả đặt vấn đề về việc làm của người lao động và thất nghiệp là một trong
những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách
việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn
đề việc làm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận nghiên cứu vấn đề
giải quyết việc làm cho nông dân từ một địa phương có những đặc điểm điển
hình về đô thị hoá như Đồng Nai thì cho đến nay vẫn chưa có những công
trình được nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống. Những tài liệu đã được kể
trên sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả có thể tham
khảo cho việc nghiên cứu vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho nông dân ở
Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm,
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai
trong quá trình đô thị hóa.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm cho nông
dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho
nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá.
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân
trong quá trình đô thị hóa.
* Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho nông dân đang sinh
sống ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hóa và thời gian chủ yếu tính từ năm
2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tác giả luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của
kinh tế chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác
như: thống kê so sánh, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn và lấy ý kiến
chuyên gia để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra của đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác – Lênin, đồng thời có
thể là tài liệu tham khảo để làm căn cứ cho các cơ quan chức năng nghiên cứu
xây dựng chính sách quản lý lao động và giải quyết việc làm cho nông dân ở
Đồng Nai và các địa phương có đặc điểm tương tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 2 chương 4 tiết, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI.
1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình
đô thị hóa
1.1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm nói chung
* Quan niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn
đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ
thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với
Việt Nam, một đất nước có tốc độ tăng dân số khá nhanh, nguồn lao động dồi
dào, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định và bền vững
thì việc tận dụng và khai thác nguồn lực lao động xã hội là vô cùng cần thiết.
Thực tế đó đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần phải tạo mọi điều kiện để
khai thác hết tiềm năng lao động. Nhưng trước hết là cần phải có sự thống
nhất nhận thức để đạt tới sự đồng thuận cao về quan niệm việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa.
Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong thời kỳ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung dựa trên hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể hợp tác xã, việc làm được quan niệm là những công
việc đòi hỏi ở một mức độ chuyên môn nào đó, tạo ra thu nhập nhất định;
người lao động được coi là có việc làm phải là những người làm việc ở trong
các cơ quan của Nhà nước, hay trong các thành phần kinh tế thuộc Nhà nước
quản lý như kinh tế quốc doanh, nông trường quốc doanh hoặc trong các hợp
tác xã. Trong cơ chế đó, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm, trực tiếp
10
quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ
đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này,
những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy
đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là
điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào. Do đó việc làm và người có
việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong
các cơ sở kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Từ khi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH thì quan niệm về việc làm
có bước phát triển mới toàn diện hơn. Tại Điều 13 bộ luật Lao động được Quốc
hội thông qua ngày 23/6/1994 có ghi: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập, không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm”[23,tr.132].
Theo đó có thể hiểu mọi hoạt động được coi là việc làm cần phải thoả mãn hai
điều kiện cơ bản. Thứ nhất, việc làm là những hoạt động lao động có ích cho
bản thân, gia đình và cộng đồng. Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề,
hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm.
Quan niệm trên đã tạo ra bước ngoặt mới và là cơ sở pháp lý cho việc tự tạo việc
làm, giải quyết việc làm phù hợp. Bởi lẽ, nhận thức mới về việc làm đã dẫn đến
các thay đổi về quan niệm, cũng như chính sách và các biện pháp tạo việc làm
cho người lao động. Từ chỗ tạo việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động
là thuộc trách nhiệm của Nhà nước, người lao động dựa dẫm vào Nhà nước, nay
chuyển sang nhận thức mới là: mọi hoạt động lao động - xã hội tạo ra thu nhập
mà không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Tạo việc làm
chính là quá trình tạo ra những điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người
có khả năng lao động đều có cơ hội được lao động, tạo ra của cải vật chất cho xã
hội và đem lại thu nhập cho bản thân, nghĩa là có việc làm. Tham gia vào quá
11
trình này không chỉ có riêng Nhà nước mà còn có cả các thành phần kinh tế, các
tổ chức đoàn thể và cá nhân người lao động. Trong đó, người lao động phải chủ
động tìm kiếm việc làm, tự tạo ra việc làm cho mình, trong môi trường kinh tế -
xã hội thống nhất, sẽ có ý nghĩa quyết định nhất.
Quan niệm này đã xóa bỏ được quan niệm cũ khi cho rằng chỉ có làm
việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm. Bởi vì, lao động
tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu
vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình... Ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này
là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế,
động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác,
khái niệm trên còn làm sâu sắc thêm đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những
việc mà pháp luật không cấm.
Với quan niệm trên đây về việc làm còn là cơ sở, là căn cứ pháp
lý để phân biệt việc làm chính đáng với các hoạt động việc làm phi pháp. Nếu
một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn
bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một
hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không
được thừa nhận là việc làm.
* Các dạng việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình
thức khác nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp
lý và những điều kiện sử dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao
động quốc gia hoạt động lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp
của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau, được phân biệt bởi định mức
điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động
lao động, vị trí thực hiện công việc...
12
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích
theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở
đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm
việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội luôn có khuynh hướng đạt
được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển động
nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm việc.
Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền
kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với
mức lương thực tế khống chế. Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng
nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra
thành nhiều dạng như việc làm năng suất và việc làm hiệu quả .
+ Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và
dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động.
+ Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được
trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và
đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện
vọng của họ. Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người
đang làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước
với mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ
cho nhu cầu.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người
lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế
-xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm
13
đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp
lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con
người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá
nhân người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn
đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự
do lựa chọn việc làm.
* Mối quan hệ giữa việc làm và lao động
Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động hay nói
cách khác lao động và việc làm luôn gắn bó với nhau. Việc làm và lao động là
hai cặp phạm trù luôn đi liền với nhau, gắn bó khăng khít và có mối quan hệ
phụ thuộc vào nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những
chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn
ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động,
là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể
hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con
người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Sự tương thích, gắn bó và
phụ thuộc vào nhau giữa lao động và việc làm được thể hiện ra ở mối quan hệ
giữa cơ cấu lao động với cơ cấu việc làm. Một khi cơ cấu việc làm phù hợp và
tương thích với cơ cấu lao động thì đó là trường hợp lý tưởng khi cung việc
làm trùng khít với cầu về lao động. Trong trường hợp này lao động được huy
động và sử dụng triệt để cho các lĩnh vực, ngành nghề tạo ra việc làm và đang
có nhu cầu thực sự về lao động. Hay nói cách khác, đó là trường hợp cơ cấu
việc làm phù hợp với cơ cấu lao động cả về số lượng và chất lượng. Trong
trường hợp này xã hội không có hiện tượng dư thừa lao động. Tuy nhiên, đây
chỉ là giả thuyết lý tưởng vì trên thực tế rất hiếm khi xảy ra.
14
Trên thực tế thường xảy ra tình trạng cơ cấu lao động và cơ cấu việc
làm nhiều khi không thể trùng khít, do không đáp ứng được yêu cầu của nhau.
Đó là tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động giản đơn nhưng
lại thiếu lao động kỹ thuật, lao động đã qua đào tạo. Đây là hiện tượng phổ
biến thường xảy ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
nói chung, đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn – Lĩnh vực sản
xuất mà phần lớn lao động đều chỉ là lao động giản đơn, ít được đào tạo chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm.
* Quan niệm giải quyết việc làm nói chung
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi
quốc gia có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với đời
sống xã hội của mỗi quốc gia. Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải
quyết một vấn đề cấp thiết trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động
đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người.
Vấn đề giải quyết việc làm luôn được các học giả, nhà nghiên cứu quan
tâm. Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có một số lý thuyết bàn
xoay quanh vấn đề giải quyết việc làm như: Lý thuyết tạo việc làm của J.M.
Keynes; Lý thuyết các yếu tố cơ bản của quá trình lao động của C.Mác; Lý
thuyết tạo việc làm bằng cách gia tăng đầu tư của các nhà kinh tế học thuộc
trường phái Chính hiện đại,...
Lý thuyết việc làm của J.M. Keynes cho rằng: việc làm có vai trò rất
quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm tăng
thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây là nhân
tố thúc đẩy tăng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Để tăng quy
mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết định quy mô việc
15
làm. Tức là, để tăng khối lượng đầu tư Nhà nước cần có những chương trình
đầu tư quy mô lớn, đồng thời cần có những chính sách kích thích đầu tư của tư
nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách thuế...).
Việc mở rộng chi tiêu của Nhà Nước, tăng tiêu dùng của những người giàu,
chính sách “ướp lạnh tiền công”, “tín dụng tiêu dùng” cũng được coi là những
giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng quy mô việc làm.
Theo C.Mác, quá trình lao động chính là sự kết hợp của ba yếu tố gồm:
sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thiếu một trong ba yếu tố
này thì không thể diễn ra quá trình lao động được. Nói cách khác, những khách
thể bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung là tư liệu sản
xuất) là điều kiện thiết yếu để người lao động có được việc làm.
Theo “Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh
tế” của các nhà kinh tế thuộc trường phái Chính hiện đại thì, muốn tăng trưởng
kinh tế phải có tích lũy để có vốn tái sản xuất mở rộng, từ đó tạo nhiều việc
làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng
chậm, tỷ lệ tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng
trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên
và nguồn nhân lực dồi dào để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (bao gồm cả vốn
bằng ngoại tệ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện
đại...) để tạo nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ trực tiếp
thúc đẩy tăng tốc độ và quy mô việc làm.
Hiện nay cũng còn nhiều quan niệm khác nhau về giải quyết việc làm
những tựu chung lại có thể khái quát như sau: Một là, theo nghĩa rộng, GQVL
là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế - xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập. Hai là, theo nghĩa
hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách; chủ yếu hướng vào đối tượng thất
16
nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm
thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Từ những quan niệm trên tác giả cho rằng, GQVL hiểu theo nghĩa chung
nhất là tạo mới và tạo thêm việc làm cho người lao động. Nói một cách khác
là tạo ra cơ hội để người lao động có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập,
đáp ứng nhu cầu, lợi ích của bản thân người lao động, của gia đình và cộng
đồng.
GQVL cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực con người. Với tính cách là chủ thể, con người tiến hành các
họat động thực tiển nhằm phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển
lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con người là đối tượng được
hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết có việc
làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao
động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người
lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra
thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu
hưởng thụ, cản trở sự phát triển của nền kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình
sản xuất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Bất kỳ một đất nước nào,
giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và tăng trưởng kinh tế đều
có mối quan hệ nhân – quả với nhau, ngay cả khi quốc gia đó có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí bị thiên tai đe dọa. Do đó, trong
chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang được
thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 Đảng ta nhấn mạnh: “Thực
hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm
17
khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Đảm bảo
quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy
mạnh dạy nghề và tạo việc làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các
đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị
hóa..”[7, tr.125].
Trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động càng có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội và củng cố quốc phòng an ninh.
Bởi, xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp
cao không những thiệt hại lớn cho nền kinh tế, gây nhiều khó khăn cho cuộc
sống cá nhân người lao động, mà còn tiềm ẩn sự mất ổn định xã hội. Rõ ràng,
việc làm và giải quyết tốt việc làm cho người lao động là mục tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy.
Ngày nay, với quan niệm việc làm là tất cả các hoạt động của con người
tạo ra thu nhập, không vi phạm pháp luật đều được coi là việc làm chính
đáng, thì nhận thức về giải quyết việc làm đã có sự thay đổi căn bản. Giải
quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước như trước đây
mà còn là trách nhiệm của mỗi người. Mọi công dân Việt Nam đến tuổi
trưởng thành, có sức lao động đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ lao động
trước hết là lo cho bản thân và gia đình mình, sau đó là trách nhiệm nghĩa vụ
đóng góp cho xã hội vì lợi ích cộng đồng. Mọi người có sức lao động thì phải
lao động, không thể trông chờ dựa dẫm vào sự cưu mang, bảo trợ của Nhà
nước và xã hội, sống bằng sự lao động của người khác hoặc ăn bám xã hội.
- Với quan niệm này thì việc giải quyết việc làm trước hết là sự chủ
động tích cực của mỗi người lao động, chủ động tạo ra việc làm, tìm kiếm
việc làm với khả năng và điều kiện cho phép. Tuy nhiên, không thể không nói
đến vai trò của Nhà nước và các đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp, các tổ
18
chức kinh tế, xã hội trong việc tạo ra môi trường, điều kiện để xúc tiến việc
làm, tạo ra nhu cầu việc làm trong chiến lược phát triển chung của đất nước.
Nếu như trước đây, với quan niệm việc làm và giải quyết việc làm chỉ
liên quan đến vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm các điều kiện để tạo
việc làm, thu xếp việc làm theo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã được kế
hoạch hoá theo từng năm phấn đấu, thì giờ đây, trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết việc làm đã hoàn toàn thay đổi. Giải
quyết việc làm là một chính sách kinh tế xã hội lớn của Đảng, Nhà nước
mang tính định hướng và cũng là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ mà
chúng ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là một xã hội mà trong đó mọi ngưòi
đều có quyền bình đẳng như nhau về các quyền lao động, quyền đuợc huởng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện và đuợc huởng các quyền đó,
trước hết phải thực hiện đuợc quyền lao động có việc làm. Giải quyết vấn đề
này rõ ràng phải kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà nước với trách
nhiệm công dân, phải phân biệt thật rạch ròi giữa nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân trong việc tạo lập việc làm và thực thi trách nhiệm lao động với các
việc làm mà mình đảm nhận. Không thể có việc giải quyết việc làm đơn
phương mà cần phải có nỗ lực và trách nhiệm của cả hai phía nhà nước và
nhân dân trong việc kiến tạo việc làm, để không còn sự bất cập giữa cơ cấu
lao động và cơ cấu việc làm trên thực tế.
1.1.2. Đô thị hóa và những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm
cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai
Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, vấn đề việc làm và
giải quyết việc làm cho nông dân đã trở thành tâm điểm thời sự nóng bỏng ở
nông thôn, đặc biệt với những vùng bị thu hồi đất cho các dự án phát triển
khu công nghiệp và khu đô thị mới.
19
Đồng Nai là một trong những địa phương có tốc độ CNH, HĐH cao
nhất cả nước, theo đó quá trình đô thị hoá cũng đã và đang tác động sâu sắc
đến đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng Nai. Bên cạnh những thuận
lợi do quá trình đô thị hoá đem lại, cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khó
khăn, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân đang trở thành thách
thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Đồng Nai.
* Đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến việc làm của nông dân
- Tuy còn có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị, nhưng theo cách
hiểu phổ biến hiện nay, đô thị là khái niệm dùng để chỉ phạm vi ranh giới địa
chính nội thị của đô thị, thị xã và thị trấn, bao gồm các quận và phường,
không bao gồm phần ngoại thị, là tụ điểm dân cư phi nông nghiệp và làm
chức năng một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng lãnh thổ hoặc
quốc gia. Trong quá trình phát triển, các đô thị ngày càng được mở rộng. Việc
mở rộng các đô thị diễn ra một cách nhanh chóng trên một diện rộng được gọi
là quá trình đô thị hoá.
Như vậy, đô thị hoá được hiểu, là quá trình thay đổi phương thức hay
hình thức cư trú của con người. Đô thị hoá không chỉ thay đổi phương thức
sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điểu kiện sản xuất công
nghiệp và lối sống hiện đại. Đô thị hoá là sự phản ánh những chuyển biến sâu
sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Có thể
nói, đô thị hoá là quá trình biến nông thôn thành thành thị với tốc độ nhanh,
quy mô lớn, là quá trình phát triển lực lượng sản xuất gắn với phân bố lại lực
lượng lao động và thay đổi môi trường sống của cư dân với mật độ cao, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Đô thị hoá là quá trình biến người nông
dân thành lao động phi nông nghiệp trong môi trường sống, làm việc theo
hướng văn minh công nghiệp. Quá trình đô thị hoá là kết quả tất yếu của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đô thị hoá đã và sẽ tác động
20
mạnh mẽ đế nhận thức, tâm tư, tình cảm, việc làm, thu nhập, mức sống và lối
sống của người lao động và cư dân.
- Quá trình đô thị hoá sẽ có tác động nhất định đến việc làm và giải
quyết việc làm của lao động nông nghiệp. Vấn đề đó được biểu hiện ở những
khía cạnh sau:
Thứ nhất, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp thu
hẹp, dẫn đến làm giảm, thậm chí mất việc làm của một bộ phận lao động
nông nghiệp
Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phục vụ sản
xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và phát triển đô thị, làm xuất hiện một
bộ phận không nhỏ những người lao động nông nghiệp bị mất viêc làm do
diện tích đất canh tác bị giảm. Đây là vấn đề khó khăn trong giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp, bởi vì, đại đa số lao động nông nghiệp có trình
độ học vấn thấp, không có tay nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm.
Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn
hóa nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập
các mối liên hệ để giải quyết việc làm cho mình, khả năng tiếp cận các dịch
vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị…. Những vấn đề trên đã
cản trở lao động nông nghiệp tìm kiếm việc làm mới.
Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông
nghiệp từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp
Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho nhu cầu về lao động ngày càng
tăng nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người
lao động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại,
dịch vụ. Ngòai ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng
giảm việc làm nông nghiệp , tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa
góp phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường
21
sức lao động họat động sôi nổi hơn….Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội
chuyển đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Để làm tốt
vấn đề này, không chỉ đòi hỏi sự nổ lực của bản thân lao động nông nghiệp,
mà điều quan trọng hơn là nhà nước phải có kế họach và tổ chức tuyên
truyền, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ ba, đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm, chuyển đổi việc làm
và phân bố lại lực lượng lao động xã hội
Cùng với quá trình đô thị hóa, ở nông thôn sẽ diễn ra quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ
lao động phi nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch tiến bộ, hợp quy luật trên cơ
sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Song trong thời gian qua, ở nước ta nói chung, ở Đồng Nai nói riêng, sự
chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong khi giá trị nông nghiệp trong tổng GDP
giảm xuống, nhưng thực tế lao động nông nghiệp vẩn còn ở mức cao. Điều đó
chứng tỏ rằng công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn Đồng Nai phát
triển chậm, chưa đủ sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực lượng lao động
nông nghiệp còn rất tiềm tàng. Ngòai một bộ phận được tuyển dụng vào các
doanh nghiệp trên địa bàn của Tỉnh hoặc đi tìm kiếm việc làm ở các đô thị,
các khu công nghiệp lớn thì phần lớn lao động nông nghiệp ở khu vực nông
thôn Đồng Nai vẫn không có hoặc không đủ việc làm. Một bộ phận lao động
nông nghiệp tiếp tục sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác ngày
càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các họat động phi nông nghiệp giản
đơn, số còn lại sẽ bị thất nghiệp khi thời vụ nông nhàn do không tìm được
việc làm. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động, làm cho
đời sống của lao động nông nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Quá trình đô thị
hoá không chỉ tạo sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp mà cho cả xã
22
hội nói chung, vì một bộ phận nông dân không còn đất đổ xô ra thành thị
kiếm việc làm dẫn đến cung về lao động tăng.
* Quan niệm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị
hoá ở Đồng Nai
Từ những phân tích về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, lao động
nông nghiệp và đô thị hóa, tác giả luận văn đưa ra quan niệm về giải quyết
việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai như sau:
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng
Nai là quá trình Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội
sử dụng tổng thể các chính sách nhằm tạo ra môi trường hình thành các nhu
cầu việc làm và thu hút nông dân vào các việc làm phù hợp, có chất lượng,
đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động trong
quá trình đô thị hóa, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Như vậy, giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa
cần được hiểu trên một số nội dung sau:
Một là, chủ thể giải quyết việc làm
Chủ thể giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
gồm Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, các doanh
nghiệp và chính bản thân người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mỗi lực
lượng trên có vai trò khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện giải quyết
việc làm. Trong đó, tổ chức Đảng và chính quyền các cấp của tỉnh là chủ thể
quan trọng nhất, là người lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành các cơ chế, chính
sách nhằm thực hiện đầy đủ mọi đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đảng
và Nhà nước về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hóa. Bởi vì, thực hiện đô thị hóa, phải thu hồi đất, trong đó đa
phần là đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu, cụm công
nghiệp, dịch vụ, các khu đô thị mới và phát triển kết cấu hạ tầng nhằm thực
23
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Song, bên cạnh đó, việc thu hồi đất cũng làm cho số lượng lao động
nông nghiệp không có việc làm có xu hướng gia tăng. Vì vậy, các tổ chức
Đảng và chính quyền các cấp từ Tỉnh đến huyện, xã phải là người chịu trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ việc quy hoạch đô thị và kế hoạch giải quyết
việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa.
Các sở, ban, ngành liên quan là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Đảng
bộ, chính quyền về công tác quy hoạch phát triển đô thị và các kế hoạch liên
quan tới giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho nông dân nói
riêng trong quá trình đô thị hóa, tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc quá
trình thực hiện. Trong quá trình tổ chức, các sở, ban, ngành cần phối hợp một
cách chặt chẽ, tránh tình trạng mạnh ai người ấy làm. Sở xây dựng là cơ quan
chuyên môn ngòai chức năng quản lý nhà nước về ngành xây dựng tại địa
phương còn làm tốt chức năng xây dựng kiến trúc quy hoạch xây dựng đô thị,
quy hoạch xây dựng điểm dân cư, hạ tầng kỷ thuật đô thị. Sở Công thương
thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và làng nghề, khôi phục làng nghề truyền thống, quy họach,
quản lý và xây dựng cơ chế chính sách phát triển khu, cụm công nghiệp, tham
gia ban chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Sở lao động Thương binh
và Xã hội trình UBND Tỉnh quyết định chương trình và các giải pháp về việc
làm của tỉnh. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật
về lao động, việc làm lao động: Tuyển lao động, hợp đồng lao động, tổ chức
quản lý và sử dụng nguồn lao động, thông tin thị trường lao động, giải pháp
tạo việc làm, giới thiệu việc làm, công tác xuất khẩu lao động, tiền lương, tiền
công, phụ cấp và các hình thức trả lương trả công lao động và các chế độ vật
chất thuộc khu vực sản xuất kinh doanh và các chính sách lao động, việc làm
khác đối với lao động nông nghiệp… ngoài ra còn một số Sở, Ban, ngành
24
khác liên quan như: Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Tài chính, BQL các dự án….
Cần thực hịên tốt chức năng của mình để đảm bảo vấn đề giải quyết việc làm
cho nông dân trong quá trình đô thị hoá được thực hiện có hiệu quả.
Các doanh nghiệp là nơi tiếp nhận lao động vào làm việc, trước hết ưu
tiên cho lao động tại địa phương, nhất là số lao động nông nghiệp dư thừa do
độ thị hoá tác động để đảm bảo sự cân đối cung – cầu lao động. Phối hợp
cùng với các tổ chức chính trị – xã hội, các trường chuyên nghiệp, các trung
tâm dạy nghề của tỉnh, của địa phương làm tốt công tàc đào tạo nghề, tự đào
tạo nghề cho lao động của nhà máy, xí nghiệp mình và thực hiện tốt các chế
độ, chính sách về lao động việc làm như: tiền công, tiền lương, BHXH,
ATLĐ… đối với người lao động.
Người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ thể quan trọng, cần có
tính chủ động cao trong tự giải quyết việc làm cho mình. Mặc dù thực tế cho thấy,
xuất phát từ trình độ học vấn chuyên môn nghiệp vụ, cộng với thói quen, phong
tục, tập quán…của lao động nông nghiệp, nên việc tìm một nghề nghiệp cho mình
khi bị tác động của quá trình độ thị hoá là hết sức khó khăn. Song không phải là
không có cơ hội tìm được việc làm, vì khi các khu công nghiệp được lấp đầy, các
doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh, thì ngoài số lượng lao động nông
nghiệp được học nghề và được tuyển chọn vào làm việc tại các khu công nghiệp,
số còn lại vẫn có thể chuyển đổi nghề khác như làm các nghề dịch vụ, lao động
phổ thông như: thương mại, xây dựng, môi trường, cầu đường, mở trang trại, làm
những việc tại các làng nghề mà không cần đến trình độ chuyên môn, như vậy sẽ
tạo ra thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của bản thân, gia đình trong lúc chưa tìm
được việc làm mới có tính ổn định lâu dài.
Hai là, yêu cầu của quá trình giải quyết việc làm cho nông dân
Trong quá trình đô thị hoá, việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi
mục đích sử dụng cần được tính toán một cách khoa học, đảm bảo lợi ích
25
trước mắt và lâu dài. Vấn đề quy hoạch phải gắn chặt với kế hoạch đào tạo, sử
dụng lao động trong đó kế hoạch về đào tạo giải quyết việc làm cần phải có
trước khi thu hồi đất. Gắn kết quy hoạch sản xuất nông nghiệp với quy hoạch
phát triển nông nghiệp phát triển dịch vụ trên địa bàn. Tăng cường thu hút đầu
tư của các doanh nghiệp vào các khu công nghiệp và đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết nhu cầu lao động tại chổ và
nâng cao thu nhập của lao động nông nghiệp của khu quy hoạch đô thị. Tạo
mọi điều kiện để số lao động nông nghiệp không còn đất canh tác có cơ hội
chuyển đổi nghề nhưng vẫn gắn bó với chính quê hương mình, hạn chế dòng
chuyển cư sang các vùng lân cận và các thành phố lớn. Cùng với quy hoạch
các khu đô thị, tỉnh cần ban hành và thực hiện các chủ trương, chính sách phù
hợp trong việc giải quyết việc làm cho người lao động như chính sách về vốn,
thị trường lao động, các chương trình về giải quyết việc làm, cơ chế chính
sách phát triển nghề, làng nghề, thu hút đầu tư… có như vậy mới tháo gở
được những khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá của tỉnh nói riêng.
Ba là, nội dung giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị
hoá, cần tập trung vào mội số việc chính sau đây:
- Thứ nhất: Dự báo nguồn lao động và quản lý nguồn lao động. Đây là
khâu cơ bản đầu tiên mà các cấp chính quyền cùng cơ quan chức năng quản lý
nguồn lao động của Tỉnh phải xúc tiến ngay từ đầu và duy trì thường xuyên.
Bởi chỉ có trên cơ sở nắm chắc nguồn lao động trên địa bàn mới có căn cứ
xây dựng các chương trình xúc tiến việc làm một cách cơ bản và có kế hoạch.
- Thứ hai: Phân tích thực trạng nguồn lao động.
Trên cơ sở nắm chắc nguồn lao động trên địa bàn quản lý, bao gồm cả
số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cần làm tốt công tác phân tích thực
trạng nguồn lao động. Việc làm tốt khâu phân tích thực trạng nguồn lao động
26
sẽ giúp cho chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp nắm được thực trạng
nguồn lao động của địa phương, từ đó có kế hoạch chủ động trong việc bố trí
sắp xếp việc làm và thu hút lao động phù hợp.
- Thứ ba: Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
Đây là khâu triển khai các hoạt động xúc tiến việc làm có vị trí rất quan
trọng. Nếu làm tốt khâu này sẽ giúp cho các cơ quan chức năng, các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội nắm vững tình , trên cơ sở đó xây dựng
phương hướng giải quyết việc làm phù hợp, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa
phương và giải quyết những ách tắc ngay trên địa bàn.
- Thứ tư, Ban hành các chính sách hỗ trợ tạo việc làm
Không ngừng bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách giải quyết việc làm
cho lao động nói chung, lao động nông nghiệp dư thừa không có việc làm do
đô thị hoá nói riêng, trong đó, đặc biệt quan tâm tới số lao động nông nghiệp
bị thu hồi đất. Các chính sách cần được thực hiện tốt trong giải quyết việc làm
như: chính sách đền bù đất nông nghiệp, chính sách và các chương trình, dự
án đào tạo, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, chính sách bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư…
- Thứ năm, Đẩy mạnh sản xuất, mở rộng ngành nghề, gắn với phân
công lại lao động, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Đẩy mạnh sản xuất tập trung quy mô lớn trên cơ sở tăng cường áp dụng
kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp để “tăng cầu” về lao
động. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển nhanh các
vùng chuyển canh quy mô lớn. Tăng cường tạo những ngành nghề phù hợp
với lợi thế của từng địa phương như trồng hoa, cây cảnh, trồng rau sạch…tại
các vùng ven đô thị và phát triển mô hình kinh tế trang trại để từ đó nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô, thu hút lao động nông nghiệp
đang thiếu việc làm.
27
Duy trì môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, trong đó cần các giải
pháp đồng bộ về quản lý thị trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật… nhằm nâng
cao hiệu quả giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm cần phải được quan tâm,
xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của bộ
máy nhà nước.
Một trong những bài học kinh nghiệm của nhiều địa phương trong cả
nước đã thành công về giải quyết việc làm cho nông dân ở những vùng bị đô
thị hoá là khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, phát triển kinh tế
làng nghề, tạo ra nhu cầu việc làm mới cho nông dân. Chính sự phát triển của
kinh tế làng nghề đã tạo ra việc làm và thu nhập khá hơn, mà nông dân vẫn
bám trụ lại quê hương, “ ly nông bất ly hương”.
Mặt khác cần đẩy mạnh, mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức,
nâng cao chất luợng đào tạo và chưyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp.
Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nói chung , đặc biệt là lao động nông
nghiệp dư thừa không có việc làm dưới hình thức như: mở các lớp đào tạo
nghề tại chổ cho lao động tại địa phương; liên kết với các trung tâm dạy nghề
của tỉnh, của huyện, các doanh nghiệp tự tổ chức dạy nghề…để làm được việc
này, chính quyền các cấp cần chủ động mở các khoá đào tạo dài hạn theo
chương trình đào tạo, kể cả đào tạo ngắn hạn tại những cơ sở đào tạo nghề
chuyên nghiệp để đồng thời cung cấp nguồn lao động có tay nghề chuyên
môn đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn,
hoặc cung cấp nguồn lao động cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cần tích cực
mở rộng phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp. khuyến khích các doanh
nghiệp đóng trên địa bàn ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương vào làm
việc, đặc biệt là số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất do quá ttrình đô thị
hoá. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, khuyến khích, động
viên và tạo mọi điều kiện cho các bậc nghệ nhân, các lao động lâu năm có
28
kinh nghiệm và tay nghề giỏi tình nguyện tham gia nhằm tăng thêm cơ hợi
việc làm cho lao động nông nghiệp dư thừa và không có việc làm. Việc
chuyển đổi nghề cho nông dân trong quá trình đô thị hoá cần phải phù hợp
với nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và khả năng
của người lao động ở các địa phương. Đồng thời, quá trình chuyển đổi nghề
phải được tiến hành cả trước, trong và sau khi thực hiện các dự án thu hồi đất
nông nghiệp đề đảm bảo cho người lao động có có việc làm ổn định, lâu dài,
chất lượng cuộc sống tốt hơn trước khi thu hồi đất.
- Cuối cùng là phải hoàn thiện thị trường lao động ở nông thôn, tiến tới
hình thành nên những trung tâm giao dịch và giới thiệu việc làm để nông dân
có thể tiếp cận được với các nhu cầu giao dịch về việc làm
Như vậy, thực chất của vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hoá hiện nay chính là quá trình đào tạo, chuyển đổi nghề cho
lực luợng lao động nông nghiệp trong quá trình quy hoạch, phát triển đô thị.
Đó cũng là quá trình giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp và thời gian nông nhàn cho
người lao động trong khu vực đô thị hoá hoặc vùng ven đô, hướng tới sự toàn
dụng nhân công trong nông nghiệp.
Bốn là, đối tượng, mục đích giải quyết việc làm
Để hiện thực hoá quan điểm của Đảng, các cấp uỷ đảng, chính quyền
địa phương và các cơ quan, ban, ngành cần xác định rõ đối tượng giải quyết
việc làm chính là người nông dân nói chung và lao động nông nghiệp nói
riêng nằm trong quy hoạch khu, cụm công nghiệp, khu đô thị, từ đó xác định
mục đích, nội dung, chương trình giải quyết việc làm cho phù hợp. Mục đích
của các chương trình, đề án giải quyết việc làm là đảm bảo có đủ việc làm cho
người lao động nông nghiệp, để người lao động nông nghiệp ổn định cuộc
sống. Đây cũng là nhu cầu chính đáng của người lao động nói chung, lao
động nông nghiệp trong khu quy hoạch đô thị nói riêng.
29
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá hiện nay là
nhiệm vụ trước mắt nhưng là vấn đề cơ bản, lâu dài. Trước hết, nhằm ổn định
thu nhập, nâng cao đời sống vất chất tinh thần cho lao động nông nghiệp, nhất
là số lao động bị thu hồi đất. Nếu vấn đề này không được thực hiện ngay sau
khi quy hoạch, phát triển đô thị thì cuộc sống của ngưòi lao động sẽ bị xáo
trộn do việc làm, thu nhập bị thay đổi, kéo dài là những thay đổi khó luờng về
mặt xã hội. Về lâu dài, giải quyết việc làm cho nông dân nhằm mục tiêu đảm
bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh được giữ vững
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
* Những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho nông dân
trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai
Thứ nhất, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích đất
nông nghiệp giảm
Việc làm cho nông dân phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, đặc
biệt là yếu tố đất đai. Quá trình đô thị hoá là quá trình chuyển đổi diện tích đất
sản xuất nông nghiệp thành khu đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ. Việc này
được tiến hành không chỉ ở vùng nông thôn nằm trong quy hoạch (khu ven
đô) có đất canh tác chuyển đổi mục đích sử dụng, nông dân không còn ruộng
mà còn ở các vùng tiếp giáp, vùng phụ cận. Các thành phố, thị xã, thị trấn mới
xây dựng hoặc mở rộng cũng phải dành một phần đất sản xuất để xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường giao thông, vành đai xanh, khu vui chơi
giải trí, trường học, bệnh viện…từ đó làm cho người nông dân thiếu đất sản
xuất, nên thiếu việc làm là điều kiện tất yếu xảy ra. Do vậy, đất đai là yếu tố
hết sức cơ bản và cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp và khả năng tạo việc
làm cho nông dân hiện nay. Nhiều đất, khả năng tạo việc làm cho nông dân
lớn. Chính vì thế quá trình đô thị hoá càng nhanh chóng thì nguy cơ thất
nghiệp và thiếu việc làm của nông dân càng gia tăng.
30
Thứ hai, chất luợng và trình độ lao động của người nông dân thấp
Đa số nông dân có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật thấp, do vậy
khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây
dựng, phát triển các đô thị, thì cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân ở các đô thị là rất khó khăn. Trên thực tế, việc
làm ở các đô thị thì rất đa dạng , bao gồm: lao động trong các nhà máy hiện
đại; lao động trong các trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị - xã hội; lao
động trong các ngành dịch vụ… ngoài số lao động trong ngành nông
nghiệp và một bộ phận không lớn trong một số ngành dịch vụ có trình độ
văn hoá, chuyên môn kỹ thuật chưa cao, là phần lớn lao động ở các đô thị
là lao động được đào tạo có trình độ văn hoá, trình độ quản lý, tri thức về
nền kinh tế thị trường cao và rất cao. Điều đó làm cho thị trường lao động
có tính cạnh tranh gay gắt hơn, gây khó khăn trong giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp. Nếu trình độ lao động phù hợp với tiến trình đô thị
hoá, khi đó khả năng giải quyết việc làm cho lao động sẽ thuận lợi. Ngược
lại, nếu trình độ lao động thấp, sẽ gây khó khăn hơn cho việc giải quyết
việc làm. Tiến trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới cho người lao động.
Ngoài việc được tuyển chọn đào tạo trong môi trường chuyên nghiệp ra,
đòi hỏi người lao động nông nghiệp phải tự đào tạo nâng cao năng lực,
trình độ của mình, nếu không nguy cơ mất việc làm là rất lớn, cơ hội tìm
kiếm việc làm sẽ rất khó khăn, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm là
không thể tránh khỏi.
Như vậy, quá trình giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô
thị hoá cần thiết phải quan tâm tới việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động
nông nghiệp nói riêng, lao động xã hội nói chung theo cơ cấu lao động hợp lý,
phù hợp với từng giai đoạn, quy mô và tốc độ của quá trình đô thị hoá
31
Thứ ba, tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn
Hiện nay, tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn cao hơn nhiều so với khu
vực đô thị. Do quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích đất
nông nghiệp bình quân đầu người ngày càng thấp, dẫn đến thu nhập thấp. Mặt
khác đa số người dân nông thôn hiện nay vẫn có tư tưởng “đông con là đông
của” dẫn đến tỷ lệ sinh còn lớn, hệ quả là khả năng tìm kiếm, chuyển đổi việc
làm cho lao động nông nghiệp gặp khó khăn. Trong quá trình sản xuất nông
nghiệp hiện nay, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu, tính thời vụ của lao động
nông nghiệp cao. Vì vậy, tốc độ gia tăng dân số ắt sẽ dẫn tình trạng thiếu việc
làm, thất nghiệp của lao động nông nghiệp có xu hướng gia tăng, nhất là khi
quá trình đô thị hoá ngày càng phát triển theo quy luật vốn có của nó. Đây là
một thực tế cần sớm có biện pháp khắc phục
Thứ tư, vốn đầu tư và sự phát triển của khoa học – công nghệ
Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động, vốn
dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo
đội ngũ lao động… đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản xuất
đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng tiến
bộ khoa học – công nghệ. Hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh trong thị
trường kinh tế cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao, có vốn lớn đem
lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất. Quá trình đô thị hoá đã tạo ra
nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm nâng cao thu nhập, ổn định đời
sống. Song tình trạng thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế việc mở rộng cơ sở sản
xuất hoặc phát triển các ngành nghề mới thu hút lao động nông nghiệp không
có đất để canh tác do đô thị hoá hoặc một bộ phận lao động nông nghiệp thiếu
việc làm lúc thời vụ nông nhàn. Do đó, việc tự tạo ra nguồn vốn để tổ chức
sản xuất, kinh doanh và giải quyết vấn đề về vốn cũng như đầu tư cho ứng
dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất của lao động nông nghiệp trong
32
quá trình đô thị hoá cần phải có sự quan tâm giúp đỡ của tỉnh cũng như các
cấp các ngành liên quan.
Hơn nửa để giải quyết việc làm phải có tư liệu sản xuất, muốn có tư
liệu sản xuất phải có vốn đầu tư. Nếu cấu tạo C/V không thay đổi thì vốn đầu
tư tăng, việc làm sẽ tăng và ngược lại. Song trên thực tế C/V luôn có xu
hướng tăng cùng với sự phát triển của khoa học công nghê. Khi đó việc làm
giản đơn giảm, nhưng việc làm phức tạp tăng lên. Sự phát triển của khoa học
công nghệ còn làm xuất hiện nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Như
vậy nếu muốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ thấp sẽ gia
tăng việc làm, nhưng đó là những việc làm giản đơn, năng suất lao động thấp,
thu nhập thấp. Ngược lại, nếu tăng vốn đầu tư vào phát triển các ngành có
công nghệ cao thì việc làm sẽ giảm, nhưng đây lại là những việc làm có năng
suất, thu nhập cao và tương đối ổn định. Do vậy, việc tăng hay giảm vốn đầu
tư và phát triển các ngành sử dụng công nghệ cao, trung bình hay thấp đều
ảnh hưởng tới giải quyết việc làm đối với lao động nông nghiệp. Xuất phát từ
trình độ nhận thức, tay nghề… của lao động nông nghiệp, nên nếu vốn đầu tư
vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ thấp thì cơ hội giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp sẽ tăng lên. Còn nếu đầu tư vốn vào phát triển
các ngành sử dụng công nghệ cao thì cơ hội giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp gần như không có.
Thứ năm, vai trò và các chính sách của nhà nước
Với xuất phát điểm thấp, bản thân nông nghiệp và những người nông
dân không đủ khả năng để tự giải quyết công việc làm cho chính mình. Trong
quá trình đô thị hoá, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động
nông nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò
và các chính sách của nhà nước ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển
33
đất nước, quy hoạch phát triển đô thị. Thông qua các chính sách, các chương
trình, các dự án, nhà nước đã tác động tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào
tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, hướng dẫn,
khuyến khích người lao động phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tạo vốn đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, qua đền bù đất, qua vay ưu đải, qua luật đầu
tư, qua việc tạo lập môi trường kinh đoanh, môi trường pháp lý ổn định, thu
hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước…đây chính là những việc làm có tác
động lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng chính là làm tăng khả năng
tạo việc làm cho người lao động nói chung và cho nông dân trong quá trình
đô thị hoá nói riêng….
1.1.3. Giải quyết việc làm cho nông dân là một nhu cầu bức thiết
trong quá trình đô thị hoá
- Thứ nhất, GQVL là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm hướng tới một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh”[7, tr.22].
Mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế của chúng ta không phải chí là quá
trình CNH, HĐH chung chung, mà là quá trình CNH, HĐH theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng trong mỗi bước đi của tiến trình
CNH, HĐH đất nước phải đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thực sự bền
vững. Tức là phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với các vấn đề xã hội và môi trường. Phải làm cho mỗi người dân cảm nhận
được những lợi ích mà quá trình CNH, HĐH đem lại cho cuộc sống của họ và
gia đình họ. Sẽ là vô nghĩa nếu quá trình CNH, HĐH gắn liền với đô thị hóa
không cải thiện được tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của người lao động,
đặc biệt với những nông dân ở những vùng bị thu hồi đất để phát triển khu
công nghiệp và khu đô thị mới.
CNH, HĐH là một tất yếu kinh tế mà bất kỳ quốc gia nào từ một nền
kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên sản xuất lớn đều phải trải qua. Đi liền với
34
quá trình này là sự đô thị hóa những vùng phát triển công nghiệp mới sẽ làm
thu hẹp diện tích canh tác của nông dân, theo đó một bộ phận nông dân mất
đất sẽ trở nên không còn những điều kiện sản xuất như trước, buộc phải
chuyển đổi nghề nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng
với đặc điểm của lao động trong nông nghiệp trình độ thủ công là chính, ít
qua đào tạo nghề, học vấn lại thấp nên không phải dễ dàng gì có thể chuyển
đổi nghề nghiệp và thích nghi với hoàn cảnh mới trong một thời gian ngắn.
Điều này đòi hỏi phải cần có một quá trình đào tạo lại cho nông dân để thích
nghi với những biến đổi mới, trong đó vai trò của Nhà nước là hết sức quan
trọng trong việc tổ chức và định hướng cho việc giải quyết việc làm cho nông
dân ở những vùng đô thị hóa.
GQVL cho nông dân bị thu hồi đất không chỉ là một chính sách kinh
tế - xã hội mà còn là một nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng đối với lãnh
đạo và chính quyền Đồng Nai hiện nay. Bởi nếu không làm tốt vấn đề này sẽ
làm nảy sinh các vấn đề chính trị xã hội phức tạp mới ở nông thôn, mà nguồn
gốc phát sinh cũng từ việc thu hồi đất và không có việc làm cho nông dân.
Nông dân mất đất có nghĩa là những điều kiện duy trì cuộc sống như
trước không còn nữa, điều này sẽ liên quan trực tiếp đến thu nhập và đời sống
bản thân họ và gia đình họ. Hơn nữa, còn làm thay đổi căn bản thói quen, tập
quán, lối sống đã gắn bó với họ qua nhiều thế hệ với lối canh tác nông nghiệp
truyền thống. Nếu tình trạng này không được khắc phục và giải quyết tích
cực, chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi tình trạng phân hóa giàu nghèo ngay
trên mảnh đất mà họ đã từng sinh sống nhiều đời. Và sự chênh lệch về mức
sống và lối sống giữa cư dân nông thôn với cư dân thành thị, giữa cư dân có
việc làm và cư dân không có việc làm sẽ làm hố ngăn cách giàu nghèo ngày
càng doãng cách. Đó là một thực tế đã từng diễn ra ở nhiều nơi khi quá trình
đô thị hóa nông thôn trước tác động của CNH, HĐH. Bởi vậy GQVL cho
nông dân không chỉ là những biện pháp tích cực để khai thác, phát huy hết
35
mọi tiềm năng lao động và các nguồn lực xã hội, mà còn là con đường cơ bản
để giúp đỡ nông dân thoát khỏi đói nghèo, giảm bớt sự cách biệt giữa nông
thôn và thành thị, làm cho đời sống của nông dân được cải thiện và từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cuộc vận động xây dựng nông thôn mới
ở Đồng Nai hiện nay..
Năm 2009, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM cùng
với Bộ tiêu chí quốc gia về NTM đã được đưa vào triển khai trên phạm vi cả
nước. Với 19 tiêu chí xây dựng NTM và được phân thành 5 nhóm cụ thể: về
quy hoạch; về hạ tầng kinh tế - xã hội; về kinh tế và tổ chức sản xuất; về văn
hóa - xã hội - môi trường; về hệ thống chính trị. Trong đó, GQVL cũng là một
nội dung quan trọng để hoàn thành và củng cố vững chắc thêm Bộ tiêu chí về
xây dựng NTM. GQVL giúp phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, giảm dần
khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, từng bước nâng cao bộ mặt kinh tế vùng nông thôn. Thực tế cho
thấy, địa phương nào GQVL tốt thì nơi đó, địa phương đó sẽ có điều kiện
thuận lợi trong việc hoàn thành các tiêu chí về kinh tế - xã hội của chương
trình NTM. GQVL cho nông dân ở các vùng đô thị hóa chính là phát huy nhân
tố con người vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa
phương. Đó cũng chính là mục tiêu mà Chương trình NTM hướng tới xét về
mặt kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, khi việc làm của người lao động ở những vùng đô
thị hóa được quan tâm giải quyết sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho người lao
động, giúp cho người lao động có thu nhập ổn định, yên tâm gắn bó với quê
hương, đồng thời góp phần vào xóa đói, giảm nghèo và thúc đẩy kinh tế - xã
hội của tỉnh cũng như của địa phương phát triển ổn định và bền vững.
Ngoài ra, khi người nông dân ở những vùng đô thị hóa được quan tâm
giải quyết sẽ góp phần quan trọng vào củng cố quốc phòng. Bởi lẽ, một khi
36
vấn đề việc làm cho người lao động được quan tâm giải quyết tốt sẽ góp phần
trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội một cách ổn định và bền vững. Từ
đó nâng cao được yếu tố chính trị tinh thần, củng cố lòng tin của người lao
động cũng như bảo đảm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp
củng cố quốc phòng. Bên cạnh đó, GQVL cho người lao động ở các vùng đô
thị hóa còn góp phần quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn. Bởi vì, GQVL cho người lao động sẽ giúp nâng cao thu
nhập, ổn định đời sống người lao động và làm giảm tỷ lệ đói nghèo… Qua đó
giúp cho người lao động nâng cao ý thức chính trị, củng cố niềm tin, luôn có
ý thức vươn lên, yêu nghề và gắn bó với nghề. Đây là những điểm cốt yếu, là
yếu tố cơ bản nhất làm giảm thiểu các tệ nạn xã hội như nạn lô đề, cờ bạc,
trộm cắp, tệ nạn ma túy và mại dâm… Điều này cho thấy một khi vấn đề việc
làm của người lao động được giải quyết thì vấn đề an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn của tỉnh cũng như ở các khu đô thị mới sẽ được củng
cố và tăng cường hơn.
Như vậy, từ những lý giải trên chúng ta có thể khẳng định chính quá
trình xây dựng NTM ở Đồng Nai hiện nay mà đòi hỏi các địa phương phải
chú trọng đến yếu tố GQVL. Ngược lại, chính quá trình GQVL cho người lao
động ở các vùng đô thị hóa lại góp phần quan trọng hoàn thành và củng cố
vững chắc thêm Bộ tiêu chí về xây dựng NTM ở Đồng Nai hiện nay.
Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu giải quyết những vấn đề thực tiễn từ quá
trình đô thị hóa tác động đến việc phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh
trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua .
Quá trình đô thị hóa vừa mở ra cơ hội lớn cho lao động nông thôn có
điều kiện chuyển đổi ngành nghề, tìm kiếm được việc làm có thu nhập cao
hơn lao động nông nghiệp, nhưng mặt khác lại đặt ra những thách thức khó
khăn mới cho việc tạo việc làm và giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn. Trong khi một bộ phận lao động nông thôn năng động nhanh chóng
37
thích nghi với sự biến đổi của kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa, kịp
thời nắm bắt cơ hội, chuyển sang lĩnh vực ngành nghề mới tạo ra nhiều thu
nhập và nhanh chóng thành đạt, thì một bộ phận không nhỏ nông dân vẫn
còn lúng túng, chưa biết làm gì để thích nghi.
Từ thực tiễn quá trình chuyển đổi ngành nghề cho nông dân ở Đồng
Nai ở những địa bàn đô thị hóa cho thấy, chỉ những hộ nông dân nào có điều
kiện về vốn, nhạy bén với thị trường, biết tính toán làm ăn, biết nắm cơ hội
và biết cách đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ nhanh chóng thích nghi và gặt hái
được những thành công. Còn đối với số đông lao động ở những vùng đô thị
hóa hiện nay ở Đồng Nai vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá
trình chuyển đổi ngành nghề. Mặc dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đền
bù, tạo điều kiện cho nông dân được học nghề và được ưu tiên bố trí sắp xếp
lao động ở ngay trên mảnh đất của quê hương mình, song do nhiều nguyên
nhân, nhiều hộ nông dân vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động phù hợp với tiến trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Đồng Nai hiện nay.
Tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động ở nông thôn đã và đang tiềm
ẩn nhiều vấn đề bất ổn về kinh tế - xã hội, làm nảy sinh những hiện tượng tiêu
cực trong nông dân, nông thôn. Nhờ được đền bù tiền đất đai bị thu hồi, một số
hộ nông dân muốn được cải thiện ngay cuộc sống bằng cách đua nhau làm nhà
to, sắm tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, thậm chí còn tiêu dùng lãng phí, ném vào cờ
bạc, rượu chè nên chỉ sau một thời gian đã cạn vốn mà chưa biết đầu tư vào đâu
để đem lại hiệu quả kinh tế. Tình trạng này đã và đang làm tha hóa một bộ phận
nông dân, làm xáo trộn đời sống của cư dân nông thôn vốn xưa nay chất phác
thật thà lao động nay cũng bị cuốn theo lối sống thị thành, làm thay đổi các quan
hệ tình làng nghĩa xóm vốn đã được hình thành bền vững từ nhiều đời nay. Như
vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân ở những vùng đô thị hóa không chỉ
là nhằm tạo việc làm và thu nhập cho nông dân mà còn mang ý nghĩa xã hội cấp
bách đối với Đồng Nai hiện nay.
38
1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình
đô thị hóa ở Đồng Nai
1.2.1. Tình hình đô thị hóa ở tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai nằm ở khu vực cửa ngõ thông ra phía Bắc của Vùng Kinh tế
trọng điểm Phía Nam, kết nối Miền Đông Nam Bộ với Duyên Hải Miền
Trung và Nam Tây Nguyên, có vị trí, vai trò chiến lược về giao lưu kinh tế,
thương mại và quốc phòng, an ninh ở Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng
điểm Phía Nam. Đồng Nai là một trong những địa phương có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, là một trong 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất trong cả nước [46].
Tỉnh có diện tích tự nhiên xấp xỉ 5.907,2 km2
bằng 1,78% diện tích của cả
nước và 19,4% diện tích của Vùng Kinh tế trọng điểm Phía Nam, dân số (2010)
có 2.569,42 nghìn người [phụ lục 6], đứng thứ 2 về diện tích và dân số của các
địa phương thuộc vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, sau thành phố Hồ Chí
Minh. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Biên Hoà,
thị xã Long Khánh và các huyện Vĩnh Cửu, Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất,
Trảng Bom, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Long Thành, Nhơn Trạch, trong đó thành phố
Biên Hoà là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá xã hội của tỉnh.
Nằm ở khu vực trung tâm kết nối Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và
Nam Tây Nguyên, địa bàn có nhiều tuyến giao thông quốc gia đi qua như
tuyến đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A xuyên Bắc - Nam, quốc lộ 20 nối Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ, quốc lộ 51 và quốc lộ 56 chạy từ Đông sang Tây
kết nối các khu vực của tỉnh và Vùng Đông Nam Bộ với khu vực ven biển Bà
Rịa - Vũng Tàu, quốc lộ 1K nối Đồng Nai với Bình Dương và thành phố Hồ
Chí Minh. Đồng Nai có vị trí chiến lược về giao lưu kinh tế, thương mại và
quốc phòng - an ninh ở Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.
Điều kiện vị trí thuận lợi giao thương với trong nước và quốc tế bằng đường
biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không (khi sân bay Long Thành đi
39
vào hoạt động) để phát triển trở thành một trung tâm kinh tế, thương mại,
khoa học - công nghệ và đào tạo ở khu vực các tỉnh phía Nam.
Giai đoạn 2001 - 2010, kinh tế của tỉnh chuyển hẳn từ chỗ dựa chủ yếu
vào nông nghiệp và một số ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp sang
nền kinh tế phát triển đa ngành, đa lĩnh vực với cơ cấu chủ lực là ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng GDP tỉnh (giá 1994) bình
quân đạt 13,2%/năm, cao gấp 1,1 lần tốc độ tăng trưởng chung của Vùng
Đông Nam Bộ (12,6%/năm). Giai đoạn 2006 - 2010, trong điều kiện chịu tác
động của suy giảm kinh tế thế giới xảy ra năm 2008, tăng trưởng kinh tế
không đạt mục tiêu qui hoạch đề ra (14 - 14,5%/năm) nhưng tỉnh vẫn duy trì
được nhịp độ tăng trưởng khá, bình quân 13,5%/năm cao hơn mức tăng
trưởng chung của cả nước (6,7%/năm).
Môi trường cơ chế, chính sách thu hút đầu tư năng động, Đồng Nai là
một trong các địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài và
phát triển doanh nghiệp. Thời kỳ 2001- 2010, toàn tỉnh thu hút được 851 dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký 13.081,85 triệu
USD, vốn thực hiện đạt 7.790 triệu USD. Trong đó, giai đoạn 2006- 2010, thu
hút được 428 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký
8.345,2 triệu USD, vốn thực hiện đạt 5.150 triệu USD (cao hơn gần gấp đôi so
với giai đoạn 2001- 2005), đưa tổng số dự án FDI thu hút được vào tỉnh đến hết
năm 2010 lên 1.059 dự án với số vốn đăng ký 18.772,2 triệu USD, vốn thực hiện
9.510 triệu USD, đạt tỷ lệ giải ngân 50,66%. Năm 2011, tổng vốn đăng ký cấp
mới và dự án tăng vốn FDI là 900 triệu USD, bằng 59,2% so năm 2010; Năm
2012, tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn là 1.200,5 triệu USD, tăng
33,4% so năm 2011. Lũy kế đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 999 dự án đầu tư
nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 20,5 tỷ USD.
40
% cao hơn bình quân cả nước (mức bình quân chung cả nước là 46%)
[phụ lục 12]. Nhiều KCN đạt tỉ lệ lấp đầy 100% như Biên Hòa I, Biên Hòa II,
Tam Phước, Nhơn Trạch II, Nhơn Trạch III, Gò Dầu, Loteco, Định Quán.
g.
Đi đôi với phát triển các khu công nghiệp, tỉnh rất quan tâm và đã có quy
hoạch khu dân cư dịch vụ phục vụ khu công nghiệp, giao cho Công ty kinh
doanh hạ tầng khu công nghiệp đầu tư để gắn với trách nhiệm tạo điều kiện
thuận lợi về nhà ở và sinh hoạt cho người lao động. Các khu công nghiệp đã có
khu dân cư dịch vụ phục vụ khu công nghiệp, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng đang
triển khai thực hiện gồm: KCN Amata, KCN Long Đức, KCN An Phước, KCN
Tam Phước, KCN Long Thành, KCN Giang Điền, KCN Bàu Xéo, KCN Lộc An
- Bình Sơn, KCN Dầu Giây, KCN Long Khánh, KCN Cẩm Mỹ.
Trong định hướng phát triển theo chiều sâu, trong những năm qua, đối
với các KCN đang hoạt động, Đồng Nai đã ưu tiên việc đầu tư chuyển đổi
công nghệ, thu hút các dự án có hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ
và thực tế Đồng Nai đã có một số đơn vị sản xuất linh kiện, chi tiết sản phẩm
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Ngoài ta tỉnh đã và đang chuẩn bị phát
triển các khu chuyên ngành như Trung tâm công nghệ sinh học, Khu công
nghiệp công nghệ cao Long Thành, Khu liên hợp công nông nghiệp Dofico.
Chuẩn bị đề án chuyển đổi KCN Biên Hòa 1 thành khu đô thị thương mại
dịch vụ. Ngoài ra, đến cuối năm 2010, trên địa bàn tỉnh còn có 18 cụm, điểm
công nghiệp với diện tích 1.017 ha và trong tương lai nhiều dự án lớn đã được
Thủ tướng phê duyệt đã, đang và sẽ triển khai xây dựng như: Cảng hàng
không quốc tế Long Thành (5.000ha), đường cao tốc Bến Lức – Long Thành,
41
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

Was ist angesagt? (20)

Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu sốLuận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ
Luận văn: Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữLuận văn: Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ
Luận văn: Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ
 
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà NộiLuận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
 
Luận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
Luận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xãLuận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
Luận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tỉnh Kon Tum
Luận văn: Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tỉnh Kon TumLuận văn: Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tỉnh Kon Tum
Luận văn: Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tỉnh Kon Tum
 
Luận văn: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
Luận văn: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niênLuận văn: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
Luận văn: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
 
Luận văn: Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, HOT
Luận văn: Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, HOTLuận văn: Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, HOT
Luận văn: Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, HOT
 
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk LắkLuận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng, HOT
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng, HOTLuận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng, HOT
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng, HOT
 
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong công nghiệp hóa ở nông thôn
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong công nghiệp hóa ở nông thônĐề tài: Việc làm cho nông dân trong công nghiệp hóa ở nông thôn
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong công nghiệp hóa ở nông thôn
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOTLuận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
 
Luận văn: Thực trạng về lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình, HAY
Luận văn: Thực trạng về lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình, HAYLuận văn: Thực trạng về lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình, HAY
Luận văn: Thực trạng về lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình, HAY
 
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đĐề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận văn: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nayLuận văn: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
 
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt NamLuận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤTLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho lao động nữ Tỉnh Đăk Nông
Luận văn: Giải quyết việc làm cho lao động nữ Tỉnh Đăk NôngLuận văn: Giải quyết việc làm cho lao động nữ Tỉnh Đăk Nông
Luận văn: Giải quyết việc làm cho lao động nữ Tỉnh Đăk Nông
 
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tỉnh Đắk Lắk, HAYLuận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tỉnh Đắk Lắk, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao độngĐề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
 

Ähnlich wie Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá

Ähnlich wie Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá (20)

Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAYGiải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
 
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Hà NộiĐề tài: Việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
Đề tài: Việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
 
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng NaiGiải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai
 
Luận văn HAY, HOT: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn HAY, HOT: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất Luận văn HAY, HOT: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn HAY, HOT: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
 
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệpĐề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
 
Giải quyết việc làm cho nông dân trong đô thị hoá ở Hà Nội, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong đô thị hoá ở Hà Nội, HAYGiải quyết việc làm cho nông dân trong đô thị hoá ở Hà Nội, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong đô thị hoá ở Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đất
Luận văn: Giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đấtLuận văn: Giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đất
Luận văn: Giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đất
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
 
Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà NộiGiải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAYLuận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
 
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đấtLuận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
 
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nayTác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
 
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nayĐề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy TiênLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
 
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà ĐôngLuận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
 
Đề tài: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội, HAY
Đề tài: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội, HAYĐề tài: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội, HAY
Đề tài: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội, HAY
 
Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố, HAY!
Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát  triển làng nghề thành phố, HAY!Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát  triển làng nghề thành phố, HAY!
Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố, HAY!
 
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
 
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà NộiLuận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
 

Mehr von Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Mehr von Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Kürzlich hochgeladen

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Kürzlich hochgeladen (20)

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 

Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá

  • 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ HỒNG HÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  • 2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ HỒNG HÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở TỈNH ĐỒNG NAI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐẶNG ĐỨC QUY HÀ NỘI - 2014
  • 3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt An toàn lao động ATLĐ Bảo hiểm xã hội BHXH Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Giải quyết việc làm GQVL Hợp tác xã HTX Khu công nghiệp KCN Lao động – Thương binh và xã hội LĐ - TB & XH Nông nghiệp và phát triển nông thôn NN & PTNT Nông thôn mới NTM Tổng sản phẩm quốc nội GDP Ủy ban nhân dân UBND
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI 10 1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa 10 1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai 39 Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI 58 2.1. Một số quan điểm cơ bản về giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong thời gian tới 58 2.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong thời gian tới 64 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC 90
  • 5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chăm lo giải quyết việc làm(GQVL) và cải thiện đời sống cho người lao động đã trở thành chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta và là mục tiêu xuyên suốt quá trình xây dựng đất nước của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “ Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống một đời hạnh phúc ”[14, tr.17]. Thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng ta luôn xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"[5, tr.210]. Như vậy, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác còn là hướng đi cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang tạo ra những bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển của đất nước, theo đó diện mạo nông thôn nước ta cũng đang có nhiều biến đổi to lớn do tác động của tốc độ đô thị hoá. Bên cạnh những tác động tích cực, sự thay đổi này cũng đã bộc lộ những vấn đề phức tạp mới về kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên những địa bàn đô thị hoá. Một trong những vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm là tình trạng thiếu việc làm hoặc không tìm được việc làm do chưa thích ứng kịp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nhu cầu về lao động có chất lượng cao. Đây cũng chính là nỗi băn khoăn của các cấp chính quyền ở các địa phương đang diễn ra quá trình đô thị hoá do tác động của công nghiệp hoá, hiện đại 3
  • 6. hoá. Nếu không giải quyết đuợc vấn đề này một cách cơ bản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, theo đó mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước xác định cũng khó có thể trở thành hiện thực. Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của khu vực miền Đông Nam bộ. Là địa phương có dân số đông, đứng thứ 5 trong cả nước, địa bàn rộng, tốc độ đô thị hóa nhanh, với hệ thống giao thông đa dạng (Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, đường cao tốc Bến Lức - Long Thành ...), với hơn 60 khu và cụm công nghiệp tập trung với gần 12 ngàn nhà máy, công ty, xí nghiệp hoạt động và đặc biệt là Cảng hàng không quốc tế Long Thành với diện tích khoảng 5.000 ha đang chuẩn bị được đầu tư xây dựng. Đây là những thuận lợi, là điểm nổi bật của Đồng Nai so với các địa phương khác ở Nam Bộ, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp mới trong việc quản lý lao động và giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với nông dân trong quá trình thực hiện các dự án. Thực tế quá trình đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, quy mô rộng lớn ở Đồng Nai những năm qua đã làm nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp mới. Tình trạng nông dân sau khi hiến đất cho các khu công nghiệp, những vùng đô thị hóa lúng túng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp đang là những vấn đề phức tạp mới đối với lãnh đạo và chính quyền các cấp. Đây không chỉ là nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị xã hội hết sức quan trọng và bức thiết đối với Đồng Nai hiện nay. Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai hiện nay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai” làm luận văn cao học kinh tế. 4
  • 7. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân là một trong những chủ đề được quan tâm khá nhiều trong các cuộc hội thảo khoa học trên các diễn đàn quốc gia, quốc tế. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề này càng trở nên hấp dẫn và thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học khi vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân đã trở thành tâm điểm trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trước tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đã có khá nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu bàn về vấn đề này. Có thể kể ra một số công trình khoa học tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề tài sau đây : * Dưới dạng các ấn phẩm thành sách - “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Chu Tiến Quang, Nxb CTQG, H. 2001. Tác giải đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông thôn Việt Nam và cho rằng, việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề toàn cầu. Từ đó, đưa ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của công trình đã đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp giải quyết việc làm và kiến nghị một số chính sách cụ thể về việc làm, chống thất nghiệp trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. - “Đô thị hoá ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông dân”của GS, TS Phùng Hữu Phú, Nxb CTQG, H. 2009. Tác giả cho rằng từ lâu nay, vấn đề đô thị hóa tuy có bàn đến nhưng chưa được quan tâm đúng tầm, trong khi trên thực tế, làn sóng đô thị đang từng ngày, từng giờ tác động trực tiếp nhiều mặt đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đô thị hóa đã làm cho địa bàn nông thôn xuất hiện những khu công 5
  • 8. nghiệp, khu chế xuất, trung tâm dịch vụ .... từ đó tạo nhiều cơ hội cho người nông dân có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, đời sống văn hóa tinh thần được nâng lên rõ rệt. Song quá trình đô thị hóa vẫn còn nhiều mâu thuẫn, thách thức, nhất là vấn đề về quy hoạch, quản lý sử dụng đất, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự ùn tắc lao động nông nghiệp, văn hóa, môi trường suy thoái. Từ những vấn đề trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính khái quát nhằm đảm bảo cho quá trình đô thị hóa ở khu vực nông thôn đi đúng quy định khách quan của nó. - Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp của Nông Mạnh Hải, Nxb CTQG, H. 2007. Tác giả cho rằng, trong những năm qua, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta đã mang lại nhiều lợi thế cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đại bộ phận người dân được nâng lên. Công tác bồi thường cho những hộ nông dân bị thu hồi đất phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tiến hành đúng pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt chức năng của mình, đảm bảo đáp ứng mong muốn của nhân dân. Song trong công tác đền bù còn gặp nhiều vướng mắc, nhất là trong đền bù đất nông nghiệp. Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác bồi thường trong thu hồi đất ở Việt Nam thời gian tới. * Dưới dạng luận văn, luận án - Giải quyết việc làm cho người lao động và tác động của nó đến cũng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay (2001), Luận văn thạc sĩ, Dương Văn Thi, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận GQVL cho người lao động ở tỉnh Bắc Giang, đồng thời tác giả phân tích thực trạng GQVL cho người lao động và tác động của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. 6
  • 9. - Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh (2006), Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Thị Hồng Ninh, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã tập trung nghiên cứu đưa ra các quan niệm về việc làm, về GQVL cho người lao động ở nông thôn. Tác giả luận giải, phân tích thực trạng việc làm, GQVL ở Việt Nam nói chung, của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đề xuất phương hướng và một số giải pháp GQVL phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. - Giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục vụ phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (2010), Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Văn Tâm, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu việc làm, GQVL cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi, luận giải thực trạng GQVL, nêu các quan điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt vấn đề việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục vụ phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. - Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa hiện nay (2012), Luận văn thạc sĩ kinh tế, Dương Xuân Hoàn, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm GQVL cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa hiện nay. * Dưới dạng các bài báo khoa học - “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra” Nguyễn Sinh Cúc, tạp chí Con số và Sự kiện, số 8 năm 2003. - “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn” của Nguyễn Hữu Dũng, tạp chí Lao động và Xã hội, số 247 năm 2004. - “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn” của Vũ Đình Thắng, tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3 năm 2003 7
  • 10. - “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn 2001-2005” của Bùi Văn Quán, tạp chí Lao động và Xã hội, số chuyên đề 3 năm 2001 Tổng quát lại các công trình và bài viết trên đây đã đề cập khá đầy đủ và toàn diện cơ sở lý luận của việc làm, lao động và những vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân mang định hướng vĩ mô. Trong các công trình đó, các tác giả đặt vấn đề về việc làm của người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân từ một địa phương có những đặc điểm điển hình về đô thị hoá như Đồng Nai thì cho đến nay vẫn chưa có những công trình được nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống. Những tài liệu đã được kể trên sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả có thể tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: * Mục đích nghiên cứu Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình này. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hóa. - Phân tích và đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá. - Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá. 8
  • 11. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa. * Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho nông dân đang sinh sống ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hóa và thời gian chủ yếu tính từ năm 2005 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tác giả luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như: thống kê so sánh, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn và lấy ý kiến chuyên gia để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra của đề tài luận văn. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác – Lênin, đồng thời có thể là tài liệu tham khảo để làm căn cứ cho các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng chính sách quản lý lao động và giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai và các địa phương có đặc điểm tương tự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 2 chương 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 9
  • 12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI. 1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa 1.1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm nói chung * Quan niệm việc làm Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, một đất nước có tốc độ tăng dân số khá nhanh, nguồn lao động dồi dào, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định và bền vững thì việc tận dụng và khai thác nguồn lực lao động xã hội là vô cùng cần thiết. Thực tế đó đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần phải tạo mọi điều kiện để khai thác hết tiềm năng lao động. Nhưng trước hết là cần phải có sự thống nhất nhận thức để đạt tới sự đồng thuận cao về quan niệm việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa. Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể hợp tác xã, việc làm được quan niệm là những công việc đòi hỏi ở một mức độ chuyên môn nào đó, tạo ra thu nhập nhất định; người lao động được coi là có việc làm phải là những người làm việc ở trong các cơ quan của Nhà nước, hay trong các thành phần kinh tế thuộc Nhà nước quản lý như kinh tế quốc doanh, nông trường quốc doanh hoặc trong các hợp tác xã. Trong cơ chế đó, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm, trực tiếp 10
  • 13. quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong các cơ sở kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể. Từ khi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH thì quan niệm về việc làm có bước phát triển mới toàn diện hơn. Tại Điều 13 bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 có ghi: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm”[23,tr.132]. Theo đó có thể hiểu mọi hoạt động được coi là việc làm cần phải thoả mãn hai điều kiện cơ bản. Thứ nhất, việc làm là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm trên đã tạo ra bước ngoặt mới và là cơ sở pháp lý cho việc tự tạo việc làm, giải quyết việc làm phù hợp. Bởi lẽ, nhận thức mới về việc làm đã dẫn đến các thay đổi về quan niệm, cũng như chính sách và các biện pháp tạo việc làm cho người lao động. Từ chỗ tạo việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động là thuộc trách nhiệm của Nhà nước, người lao động dựa dẫm vào Nhà nước, nay chuyển sang nhận thức mới là: mọi hoạt động lao động - xã hội tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Tạo việc làm chính là quá trình tạo ra những điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội được lao động, tạo ra của cải vật chất cho xã hội và đem lại thu nhập cho bản thân, nghĩa là có việc làm. Tham gia vào quá 11
  • 14. trình này không chỉ có riêng Nhà nước mà còn có cả các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể và cá nhân người lao động. Trong đó, người lao động phải chủ động tìm kiếm việc làm, tự tạo ra việc làm cho mình, trong môi trường kinh tế - xã hội thống nhất, sẽ có ý nghĩa quyết định nhất. Quan niệm này đã xóa bỏ được quan niệm cũ khi cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm. Bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình... Ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác, khái niệm trên còn làm sâu sắc thêm đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Với quan niệm trên đây về việc làm còn là cơ sở, là căn cứ pháp lý để phân biệt việc làm chính đáng với các hoạt động việc làm phi pháp. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm. * Các dạng việc làm Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình thức khác nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp lý và những điều kiện sử dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao động quốc gia hoạt động lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau, được phân biệt bởi định mức điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động lao động, vị trí thực hiện công việc... 12
  • 15. - Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội luôn có khuynh hướng đạt được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển động nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm việc. Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với mức lương thực tế khống chế. Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”. Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra thành nhiều dạng như việc làm năng suất và việc làm hiệu quả . + Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động. + Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm. - Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện vọng của họ. Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu. Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế -xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm 13
  • 16. đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích của xã hội. Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự do lựa chọn việc làm. * Mối quan hệ giữa việc làm và lao động Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động hay nói cách khác lao động và việc làm luôn gắn bó với nhau. Việc làm và lao động là hai cặp phạm trù luôn đi liền với nhau, gắn bó khăng khít và có mối quan hệ phụ thuộc vào nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Sự tương thích, gắn bó và phụ thuộc vào nhau giữa lao động và việc làm được thể hiện ra ở mối quan hệ giữa cơ cấu lao động với cơ cấu việc làm. Một khi cơ cấu việc làm phù hợp và tương thích với cơ cấu lao động thì đó là trường hợp lý tưởng khi cung việc làm trùng khít với cầu về lao động. Trong trường hợp này lao động được huy động và sử dụng triệt để cho các lĩnh vực, ngành nghề tạo ra việc làm và đang có nhu cầu thực sự về lao động. Hay nói cách khác, đó là trường hợp cơ cấu việc làm phù hợp với cơ cấu lao động cả về số lượng và chất lượng. Trong trường hợp này xã hội không có hiện tượng dư thừa lao động. Tuy nhiên, đây chỉ là giả thuyết lý tưởng vì trên thực tế rất hiếm khi xảy ra. 14
  • 17. Trên thực tế thường xảy ra tình trạng cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm nhiều khi không thể trùng khít, do không đáp ứng được yêu cầu của nhau. Đó là tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật, lao động đã qua đào tạo. Đây là hiện tượng phổ biến thường xảy ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nói chung, đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn – Lĩnh vực sản xuất mà phần lớn lao động đều chỉ là lao động giản đơn, ít được đào tạo chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. * Quan niệm giải quyết việc làm nói chung Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với đời sống xã hội của mỗi quốc gia. Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải quyết một vấn đề cấp thiết trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người. Vấn đề giải quyết việc làm luôn được các học giả, nhà nghiên cứu quan tâm. Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có một số lý thuyết bàn xoay quanh vấn đề giải quyết việc làm như: Lý thuyết tạo việc làm của J.M. Keynes; Lý thuyết các yếu tố cơ bản của quá trình lao động của C.Mác; Lý thuyết tạo việc làm bằng cách gia tăng đầu tư của các nhà kinh tế học thuộc trường phái Chính hiện đại,... Lý thuyết việc làm của J.M. Keynes cho rằng: việc làm có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm tăng thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây là nhân tố thúc đẩy tăng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Để tăng quy mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết định quy mô việc 15
  • 18. làm. Tức là, để tăng khối lượng đầu tư Nhà nước cần có những chương trình đầu tư quy mô lớn, đồng thời cần có những chính sách kích thích đầu tư của tư nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách thuế...). Việc mở rộng chi tiêu của Nhà Nước, tăng tiêu dùng của những người giàu, chính sách “ướp lạnh tiền công”, “tín dụng tiêu dùng” cũng được coi là những giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng quy mô việc làm. Theo C.Mác, quá trình lao động chính là sự kết hợp của ba yếu tố gồm: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thiếu một trong ba yếu tố này thì không thể diễn ra quá trình lao động được. Nói cách khác, những khách thể bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung là tư liệu sản xuất) là điều kiện thiết yếu để người lao động có được việc làm. Theo “Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh tế” của các nhà kinh tế thuộc trường phái Chính hiện đại thì, muốn tăng trưởng kinh tế phải có tích lũy để có vốn tái sản xuất mở rộng, từ đó tạo nhiều việc làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên và nguồn nhân lực dồi dào để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (bao gồm cả vốn bằng ngoại tệ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện đại...) để tạo nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ trực tiếp thúc đẩy tăng tốc độ và quy mô việc làm. Hiện nay cũng còn nhiều quan niệm khác nhau về giải quyết việc làm những tựu chung lại có thể khái quát như sau: Một là, theo nghĩa rộng, GQVL là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế - xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập. Hai là, theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách; chủ yếu hướng vào đối tượng thất 16
  • 19. nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp. Từ những quan niệm trên tác giả cho rằng, GQVL hiểu theo nghĩa chung nhất là tạo mới và tạo thêm việc làm cho người lao động. Nói một cách khác là tạo ra cơ hội để người lao động có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của bản thân người lao động, của gia đình và cộng đồng. GQVL cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người. Với tính cách là chủ thể, con người tiến hành các họat động thực tiển nhằm phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con người là đối tượng được hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Bất kỳ một đất nước nào, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và tăng trưởng kinh tế đều có mối quan hệ nhân – quả với nhau, ngay cả khi quốc gia đó có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí bị thiên tai đe dọa. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang được thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm 17
  • 20. khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Đảm bảo quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa..”[7, tr.125]. Trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động càng có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội và củng cố quốc phòng an ninh. Bởi, xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp cao không những thiệt hại lớn cho nền kinh tế, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động, mà còn tiềm ẩn sự mất ổn định xã hội. Rõ ràng, việc làm và giải quyết tốt việc làm cho người lao động là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy. Ngày nay, với quan niệm việc làm là tất cả các hoạt động của con người tạo ra thu nhập, không vi phạm pháp luật đều được coi là việc làm chính đáng, thì nhận thức về giải quyết việc làm đã có sự thay đổi căn bản. Giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước như trước đây mà còn là trách nhiệm của mỗi người. Mọi công dân Việt Nam đến tuổi trưởng thành, có sức lao động đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ lao động trước hết là lo cho bản thân và gia đình mình, sau đó là trách nhiệm nghĩa vụ đóng góp cho xã hội vì lợi ích cộng đồng. Mọi người có sức lao động thì phải lao động, không thể trông chờ dựa dẫm vào sự cưu mang, bảo trợ của Nhà nước và xã hội, sống bằng sự lao động của người khác hoặc ăn bám xã hội. - Với quan niệm này thì việc giải quyết việc làm trước hết là sự chủ động tích cực của mỗi người lao động, chủ động tạo ra việc làm, tìm kiếm việc làm với khả năng và điều kiện cho phép. Tuy nhiên, không thể không nói đến vai trò của Nhà nước và các đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp, các tổ 18
  • 21. chức kinh tế, xã hội trong việc tạo ra môi trường, điều kiện để xúc tiến việc làm, tạo ra nhu cầu việc làm trong chiến lược phát triển chung của đất nước. Nếu như trước đây, với quan niệm việc làm và giải quyết việc làm chỉ liên quan đến vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm các điều kiện để tạo việc làm, thu xếp việc làm theo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã được kế hoạch hoá theo từng năm phấn đấu, thì giờ đây, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết việc làm đã hoàn toàn thay đổi. Giải quyết việc làm là một chính sách kinh tế xã hội lớn của Đảng, Nhà nước mang tính định hướng và cũng là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là một xã hội mà trong đó mọi ngưòi đều có quyền bình đẳng như nhau về các quyền lao động, quyền đuợc huởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện và đuợc huởng các quyền đó, trước hết phải thực hiện đuợc quyền lao động có việc làm. Giải quyết vấn đề này rõ ràng phải kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà nước với trách nhiệm công dân, phải phân biệt thật rạch ròi giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong việc tạo lập việc làm và thực thi trách nhiệm lao động với các việc làm mà mình đảm nhận. Không thể có việc giải quyết việc làm đơn phương mà cần phải có nỗ lực và trách nhiệm của cả hai phía nhà nước và nhân dân trong việc kiến tạo việc làm, để không còn sự bất cập giữa cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm trên thực tế. 1.1.2. Đô thị hóa và những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân đã trở thành tâm điểm thời sự nóng bỏng ở nông thôn, đặc biệt với những vùng bị thu hồi đất cho các dự án phát triển khu công nghiệp và khu đô thị mới. 19
  • 22. Đồng Nai là một trong những địa phương có tốc độ CNH, HĐH cao nhất cả nước, theo đó quá trình đô thị hoá cũng đã và đang tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng Nai. Bên cạnh những thuận lợi do quá trình đô thị hoá đem lại, cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khó khăn, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân đang trở thành thách thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Đồng Nai. * Đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến việc làm của nông dân - Tuy còn có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị, nhưng theo cách hiểu phổ biến hiện nay, đô thị là khái niệm dùng để chỉ phạm vi ranh giới địa chính nội thị của đô thị, thị xã và thị trấn, bao gồm các quận và phường, không bao gồm phần ngoại thị, là tụ điểm dân cư phi nông nghiệp và làm chức năng một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng lãnh thổ hoặc quốc gia. Trong quá trình phát triển, các đô thị ngày càng được mở rộng. Việc mở rộng các đô thị diễn ra một cách nhanh chóng trên một diện rộng được gọi là quá trình đô thị hoá. Như vậy, đô thị hoá được hiểu, là quá trình thay đổi phương thức hay hình thức cư trú của con người. Đô thị hoá không chỉ thay đổi phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điểu kiện sản xuất công nghiệp và lối sống hiện đại. Đô thị hoá là sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Có thể nói, đô thị hoá là quá trình biến nông thôn thành thành thị với tốc độ nhanh, quy mô lớn, là quá trình phát triển lực lượng sản xuất gắn với phân bố lại lực lượng lao động và thay đổi môi trường sống của cư dân với mật độ cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Đô thị hoá là quá trình biến người nông dân thành lao động phi nông nghiệp trong môi trường sống, làm việc theo hướng văn minh công nghiệp. Quá trình đô thị hoá là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đô thị hoá đã và sẽ tác động 20
  • 23. mạnh mẽ đế nhận thức, tâm tư, tình cảm, việc làm, thu nhập, mức sống và lối sống của người lao động và cư dân. - Quá trình đô thị hoá sẽ có tác động nhất định đến việc làm và giải quyết việc làm của lao động nông nghiệp. Vấn đề đó được biểu hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp thu hẹp, dẫn đến làm giảm, thậm chí mất việc làm của một bộ phận lao động nông nghiệp Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phục vụ sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và phát triển đô thị, làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động nông nghiệp bị mất viêc làm do diện tích đất canh tác bị giảm. Đây là vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, bởi vì, đại đa số lao động nông nghiệp có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập các mối liên hệ để giải quyết việc làm cho mình, khả năng tiếp cận các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị…. Những vấn đề trên đã cản trở lao động nông nghiệp tìm kiếm việc làm mới. Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông nghiệp từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho nhu cầu về lao động ngày càng tăng nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người lao động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Ngòai ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng giảm việc làm nông nghiệp , tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa góp phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường 21
  • 24. sức lao động họat động sôi nổi hơn….Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Để làm tốt vấn đề này, không chỉ đòi hỏi sự nổ lực của bản thân lao động nông nghiệp, mà điều quan trọng hơn là nhà nước phải có kế họach và tổ chức tuyên truyền, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Thứ ba, đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm, chuyển đổi việc làm và phân bố lại lực lượng lao động xã hội Cùng với quá trình đô thị hóa, ở nông thôn sẽ diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch tiến bộ, hợp quy luật trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song trong thời gian qua, ở nước ta nói chung, ở Đồng Nai nói riêng, sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong khi giá trị nông nghiệp trong tổng GDP giảm xuống, nhưng thực tế lao động nông nghiệp vẩn còn ở mức cao. Điều đó chứng tỏ rằng công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn Đồng Nai phát triển chậm, chưa đủ sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực lượng lao động nông nghiệp còn rất tiềm tàng. Ngòai một bộ phận được tuyển dụng vào các doanh nghiệp trên địa bàn của Tỉnh hoặc đi tìm kiếm việc làm ở các đô thị, các khu công nghiệp lớn thì phần lớn lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn Đồng Nai vẫn không có hoặc không đủ việc làm. Một bộ phận lao động nông nghiệp tiếp tục sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác ngày càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các họat động phi nông nghiệp giản đơn, số còn lại sẽ bị thất nghiệp khi thời vụ nông nhàn do không tìm được việc làm. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động, làm cho đời sống của lao động nông nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Quá trình đô thị hoá không chỉ tạo sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp mà cho cả xã 22
  • 25. hội nói chung, vì một bộ phận nông dân không còn đất đổ xô ra thành thị kiếm việc làm dẫn đến cung về lao động tăng. * Quan niệm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai Từ những phân tích về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, lao động nông nghiệp và đô thị hóa, tác giả luận văn đưa ra quan niệm về giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai như sau: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai là quá trình Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội sử dụng tổng thể các chính sách nhằm tạo ra môi trường hình thành các nhu cầu việc làm và thu hút nông dân vào các việc làm phù hợp, có chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình đô thị hóa, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước. Như vậy, giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa cần được hiểu trên một số nội dung sau: Một là, chủ thể giải quyết việc làm Chủ thể giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá gồm Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, các doanh nghiệp và chính bản thân người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mỗi lực lượng trên có vai trò khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện giải quyết việc làm. Trong đó, tổ chức Đảng và chính quyền các cấp của tỉnh là chủ thể quan trọng nhất, là người lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện đầy đủ mọi đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa. Bởi vì, thực hiện đô thị hóa, phải thu hồi đất, trong đó đa phần là đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ, các khu đô thị mới và phát triển kết cấu hạ tầng nhằm thực 23
  • 26. hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Song, bên cạnh đó, việc thu hồi đất cũng làm cho số lượng lao động nông nghiệp không có việc làm có xu hướng gia tăng. Vì vậy, các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp từ Tỉnh đến huyện, xã phải là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ việc quy hoạch đô thị và kế hoạch giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa. Các sở, ban, ngành liên quan là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Đảng bộ, chính quyền về công tác quy hoạch phát triển đô thị và các kế hoạch liên quan tới giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho nông dân nói riêng trong quá trình đô thị hóa, tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc quá trình thực hiện. Trong quá trình tổ chức, các sở, ban, ngành cần phối hợp một cách chặt chẽ, tránh tình trạng mạnh ai người ấy làm. Sở xây dựng là cơ quan chuyên môn ngòai chức năng quản lý nhà nước về ngành xây dựng tại địa phương còn làm tốt chức năng xây dựng kiến trúc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư, hạ tầng kỷ thuật đô thị. Sở Công thương thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, khôi phục làng nghề truyền thống, quy họach, quản lý và xây dựng cơ chế chính sách phát triển khu, cụm công nghiệp, tham gia ban chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Sở lao động Thương binh và Xã hội trình UBND Tỉnh quyết định chương trình và các giải pháp về việc làm của tỉnh. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động, việc làm lao động: Tuyển lao động, hợp đồng lao động, tổ chức quản lý và sử dụng nguồn lao động, thông tin thị trường lao động, giải pháp tạo việc làm, giới thiệu việc làm, công tác xuất khẩu lao động, tiền lương, tiền công, phụ cấp và các hình thức trả lương trả công lao động và các chế độ vật chất thuộc khu vực sản xuất kinh doanh và các chính sách lao động, việc làm khác đối với lao động nông nghiệp… ngoài ra còn một số Sở, Ban, ngành 24
  • 27. khác liên quan như: Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Tài chính, BQL các dự án…. Cần thực hịên tốt chức năng của mình để đảm bảo vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá được thực hiện có hiệu quả. Các doanh nghiệp là nơi tiếp nhận lao động vào làm việc, trước hết ưu tiên cho lao động tại địa phương, nhất là số lao động nông nghiệp dư thừa do độ thị hoá tác động để đảm bảo sự cân đối cung – cầu lao động. Phối hợp cùng với các tổ chức chính trị – xã hội, các trường chuyên nghiệp, các trung tâm dạy nghề của tỉnh, của địa phương làm tốt công tàc đào tạo nghề, tự đào tạo nghề cho lao động của nhà máy, xí nghiệp mình và thực hiện tốt các chế độ, chính sách về lao động việc làm như: tiền công, tiền lương, BHXH, ATLĐ… đối với người lao động. Người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ thể quan trọng, cần có tính chủ động cao trong tự giải quyết việc làm cho mình. Mặc dù thực tế cho thấy, xuất phát từ trình độ học vấn chuyên môn nghiệp vụ, cộng với thói quen, phong tục, tập quán…của lao động nông nghiệp, nên việc tìm một nghề nghiệp cho mình khi bị tác động của quá trình độ thị hoá là hết sức khó khăn. Song không phải là không có cơ hội tìm được việc làm, vì khi các khu công nghiệp được lấp đầy, các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh, thì ngoài số lượng lao động nông nghiệp được học nghề và được tuyển chọn vào làm việc tại các khu công nghiệp, số còn lại vẫn có thể chuyển đổi nghề khác như làm các nghề dịch vụ, lao động phổ thông như: thương mại, xây dựng, môi trường, cầu đường, mở trang trại, làm những việc tại các làng nghề mà không cần đến trình độ chuyên môn, như vậy sẽ tạo ra thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của bản thân, gia đình trong lúc chưa tìm được việc làm mới có tính ổn định lâu dài. Hai là, yêu cầu của quá trình giải quyết việc làm cho nông dân Trong quá trình đô thị hoá, việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi mục đích sử dụng cần được tính toán một cách khoa học, đảm bảo lợi ích 25
  • 28. trước mắt và lâu dài. Vấn đề quy hoạch phải gắn chặt với kế hoạch đào tạo, sử dụng lao động trong đó kế hoạch về đào tạo giải quyết việc làm cần phải có trước khi thu hồi đất. Gắn kết quy hoạch sản xuất nông nghiệp với quy hoạch phát triển nông nghiệp phát triển dịch vụ trên địa bàn. Tăng cường thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào các khu công nghiệp và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết nhu cầu lao động tại chổ và nâng cao thu nhập của lao động nông nghiệp của khu quy hoạch đô thị. Tạo mọi điều kiện để số lao động nông nghiệp không còn đất canh tác có cơ hội chuyển đổi nghề nhưng vẫn gắn bó với chính quê hương mình, hạn chế dòng chuyển cư sang các vùng lân cận và các thành phố lớn. Cùng với quy hoạch các khu đô thị, tỉnh cần ban hành và thực hiện các chủ trương, chính sách phù hợp trong việc giải quyết việc làm cho người lao động như chính sách về vốn, thị trường lao động, các chương trình về giải quyết việc làm, cơ chế chính sách phát triển nghề, làng nghề, thu hút đầu tư… có như vậy mới tháo gở được những khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá của tỉnh nói riêng. Ba là, nội dung giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, cần tập trung vào mội số việc chính sau đây: - Thứ nhất: Dự báo nguồn lao động và quản lý nguồn lao động. Đây là khâu cơ bản đầu tiên mà các cấp chính quyền cùng cơ quan chức năng quản lý nguồn lao động của Tỉnh phải xúc tiến ngay từ đầu và duy trì thường xuyên. Bởi chỉ có trên cơ sở nắm chắc nguồn lao động trên địa bàn mới có căn cứ xây dựng các chương trình xúc tiến việc làm một cách cơ bản và có kế hoạch. - Thứ hai: Phân tích thực trạng nguồn lao động. Trên cơ sở nắm chắc nguồn lao động trên địa bàn quản lý, bao gồm cả số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cần làm tốt công tác phân tích thực trạng nguồn lao động. Việc làm tốt khâu phân tích thực trạng nguồn lao động 26
  • 29. sẽ giúp cho chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp nắm được thực trạng nguồn lao động của địa phương, từ đó có kế hoạch chủ động trong việc bố trí sắp xếp việc làm và thu hút lao động phù hợp. - Thứ ba: Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực Đây là khâu triển khai các hoạt động xúc tiến việc làm có vị trí rất quan trọng. Nếu làm tốt khâu này sẽ giúp cho các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội nắm vững tình , trên cơ sở đó xây dựng phương hướng giải quyết việc làm phù hợp, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa phương và giải quyết những ách tắc ngay trên địa bàn. - Thứ tư, Ban hành các chính sách hỗ trợ tạo việc làm Không ngừng bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách giải quyết việc làm cho lao động nói chung, lao động nông nghiệp dư thừa không có việc làm do đô thị hoá nói riêng, trong đó, đặc biệt quan tâm tới số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất. Các chính sách cần được thực hiện tốt trong giải quyết việc làm như: chính sách đền bù đất nông nghiệp, chính sách và các chương trình, dự án đào tạo, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư… - Thứ năm, Đẩy mạnh sản xuất, mở rộng ngành nghề, gắn với phân công lại lao động, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Đẩy mạnh sản xuất tập trung quy mô lớn trên cơ sở tăng cường áp dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp để “tăng cầu” về lao động. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển nhanh các vùng chuyển canh quy mô lớn. Tăng cường tạo những ngành nghề phù hợp với lợi thế của từng địa phương như trồng hoa, cây cảnh, trồng rau sạch…tại các vùng ven đô thị và phát triển mô hình kinh tế trang trại để từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô, thu hút lao động nông nghiệp đang thiếu việc làm. 27
  • 30. Duy trì môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, trong đó cần các giải pháp đồng bộ về quản lý thị trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm cần phải được quan tâm, xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của bộ máy nhà nước. Một trong những bài học kinh nghiệm của nhiều địa phương trong cả nước đã thành công về giải quyết việc làm cho nông dân ở những vùng bị đô thị hoá là khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, phát triển kinh tế làng nghề, tạo ra nhu cầu việc làm mới cho nông dân. Chính sự phát triển của kinh tế làng nghề đã tạo ra việc làm và thu nhập khá hơn, mà nông dân vẫn bám trụ lại quê hương, “ ly nông bất ly hương”. Mặt khác cần đẩy mạnh, mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức, nâng cao chất luợng đào tạo và chưyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nói chung , đặc biệt là lao động nông nghiệp dư thừa không có việc làm dưới hình thức như: mở các lớp đào tạo nghề tại chổ cho lao động tại địa phương; liên kết với các trung tâm dạy nghề của tỉnh, của huyện, các doanh nghiệp tự tổ chức dạy nghề…để làm được việc này, chính quyền các cấp cần chủ động mở các khoá đào tạo dài hạn theo chương trình đào tạo, kể cả đào tạo ngắn hạn tại những cơ sở đào tạo nghề chuyên nghiệp để đồng thời cung cấp nguồn lao động có tay nghề chuyên môn đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, hoặc cung cấp nguồn lao động cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cần tích cực mở rộng phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp. khuyến khích các doanh nghiệp đóng trên địa bàn ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương vào làm việc, đặc biệt là số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất do quá ttrình đô thị hoá. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, khuyến khích, động viên và tạo mọi điều kiện cho các bậc nghệ nhân, các lao động lâu năm có 28
  • 31. kinh nghiệm và tay nghề giỏi tình nguyện tham gia nhằm tăng thêm cơ hợi việc làm cho lao động nông nghiệp dư thừa và không có việc làm. Việc chuyển đổi nghề cho nông dân trong quá trình đô thị hoá cần phải phù hợp với nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và khả năng của người lao động ở các địa phương. Đồng thời, quá trình chuyển đổi nghề phải được tiến hành cả trước, trong và sau khi thực hiện các dự án thu hồi đất nông nghiệp đề đảm bảo cho người lao động có có việc làm ổn định, lâu dài, chất lượng cuộc sống tốt hơn trước khi thu hồi đất. - Cuối cùng là phải hoàn thiện thị trường lao động ở nông thôn, tiến tới hình thành nên những trung tâm giao dịch và giới thiệu việc làm để nông dân có thể tiếp cận được với các nhu cầu giao dịch về việc làm Như vậy, thực chất của vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá hiện nay chính là quá trình đào tạo, chuyển đổi nghề cho lực luợng lao động nông nghiệp trong quá trình quy hoạch, phát triển đô thị. Đó cũng là quá trình giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp và thời gian nông nhàn cho người lao động trong khu vực đô thị hoá hoặc vùng ven đô, hướng tới sự toàn dụng nhân công trong nông nghiệp. Bốn là, đối tượng, mục đích giải quyết việc làm Để hiện thực hoá quan điểm của Đảng, các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan, ban, ngành cần xác định rõ đối tượng giải quyết việc làm chính là người nông dân nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng nằm trong quy hoạch khu, cụm công nghiệp, khu đô thị, từ đó xác định mục đích, nội dung, chương trình giải quyết việc làm cho phù hợp. Mục đích của các chương trình, đề án giải quyết việc làm là đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động nông nghiệp, để người lao động nông nghiệp ổn định cuộc sống. Đây cũng là nhu cầu chính đáng của người lao động nói chung, lao động nông nghiệp trong khu quy hoạch đô thị nói riêng. 29
  • 32. Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá hiện nay là nhiệm vụ trước mắt nhưng là vấn đề cơ bản, lâu dài. Trước hết, nhằm ổn định thu nhập, nâng cao đời sống vất chất tinh thần cho lao động nông nghiệp, nhất là số lao động bị thu hồi đất. Nếu vấn đề này không được thực hiện ngay sau khi quy hoạch, phát triển đô thị thì cuộc sống của ngưòi lao động sẽ bị xáo trộn do việc làm, thu nhập bị thay đổi, kéo dài là những thay đổi khó luờng về mặt xã hội. Về lâu dài, giải quyết việc làm cho nông dân nhằm mục tiêu đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh được giữ vững thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. * Những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai Thứ nhất, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm Việc làm cho nông dân phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là yếu tố đất đai. Quá trình đô thị hoá là quá trình chuyển đổi diện tích đất sản xuất nông nghiệp thành khu đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ. Việc này được tiến hành không chỉ ở vùng nông thôn nằm trong quy hoạch (khu ven đô) có đất canh tác chuyển đổi mục đích sử dụng, nông dân không còn ruộng mà còn ở các vùng tiếp giáp, vùng phụ cận. Các thành phố, thị xã, thị trấn mới xây dựng hoặc mở rộng cũng phải dành một phần đất sản xuất để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường giao thông, vành đai xanh, khu vui chơi giải trí, trường học, bệnh viện…từ đó làm cho người nông dân thiếu đất sản xuất, nên thiếu việc làm là điều kiện tất yếu xảy ra. Do vậy, đất đai là yếu tố hết sức cơ bản và cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp và khả năng tạo việc làm cho nông dân hiện nay. Nhiều đất, khả năng tạo việc làm cho nông dân lớn. Chính vì thế quá trình đô thị hoá càng nhanh chóng thì nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân càng gia tăng. 30
  • 33. Thứ hai, chất luợng và trình độ lao động của người nông dân thấp Đa số nông dân có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật thấp, do vậy khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng, phát triển các đô thị, thì cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân ở các đô thị là rất khó khăn. Trên thực tế, việc làm ở các đô thị thì rất đa dạng , bao gồm: lao động trong các nhà máy hiện đại; lao động trong các trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị - xã hội; lao động trong các ngành dịch vụ… ngoài số lao động trong ngành nông nghiệp và một bộ phận không lớn trong một số ngành dịch vụ có trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật chưa cao, là phần lớn lao động ở các đô thị là lao động được đào tạo có trình độ văn hoá, trình độ quản lý, tri thức về nền kinh tế thị trường cao và rất cao. Điều đó làm cho thị trường lao động có tính cạnh tranh gay gắt hơn, gây khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Nếu trình độ lao động phù hợp với tiến trình đô thị hoá, khi đó khả năng giải quyết việc làm cho lao động sẽ thuận lợi. Ngược lại, nếu trình độ lao động thấp, sẽ gây khó khăn hơn cho việc giải quyết việc làm. Tiến trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới cho người lao động. Ngoài việc được tuyển chọn đào tạo trong môi trường chuyên nghiệp ra, đòi hỏi người lao động nông nghiệp phải tự đào tạo nâng cao năng lực, trình độ của mình, nếu không nguy cơ mất việc làm là rất lớn, cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ rất khó khăn, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm là không thể tránh khỏi. Như vậy, quá trình giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá cần thiết phải quan tâm tới việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động nông nghiệp nói riêng, lao động xã hội nói chung theo cơ cấu lao động hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn, quy mô và tốc độ của quá trình đô thị hoá 31
  • 34. Thứ ba, tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn Hiện nay, tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn cao hơn nhiều so với khu vực đô thị. Do quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ngày càng thấp, dẫn đến thu nhập thấp. Mặt khác đa số người dân nông thôn hiện nay vẫn có tư tưởng “đông con là đông của” dẫn đến tỷ lệ sinh còn lớn, hệ quả là khả năng tìm kiếm, chuyển đổi việc làm cho lao động nông nghiệp gặp khó khăn. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp hiện nay, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu, tính thời vụ của lao động nông nghiệp cao. Vì vậy, tốc độ gia tăng dân số ắt sẽ dẫn tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp của lao động nông nghiệp có xu hướng gia tăng, nhất là khi quá trình đô thị hoá ngày càng phát triển theo quy luật vốn có của nó. Đây là một thực tế cần sớm có biện pháp khắc phục Thứ tư, vốn đầu tư và sự phát triển của khoa học – công nghệ Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động, vốn dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo đội ngũ lao động… đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản xuất đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ. Hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh trong thị trường kinh tế cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao, có vốn lớn đem lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất. Quá trình đô thị hoá đã tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm nâng cao thu nhập, ổn định đời sống. Song tình trạng thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế việc mở rộng cơ sở sản xuất hoặc phát triển các ngành nghề mới thu hút lao động nông nghiệp không có đất để canh tác do đô thị hoá hoặc một bộ phận lao động nông nghiệp thiếu việc làm lúc thời vụ nông nhàn. Do đó, việc tự tạo ra nguồn vốn để tổ chức sản xuất, kinh doanh và giải quyết vấn đề về vốn cũng như đầu tư cho ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất của lao động nông nghiệp trong 32
  • 35. quá trình đô thị hoá cần phải có sự quan tâm giúp đỡ của tỉnh cũng như các cấp các ngành liên quan. Hơn nửa để giải quyết việc làm phải có tư liệu sản xuất, muốn có tư liệu sản xuất phải có vốn đầu tư. Nếu cấu tạo C/V không thay đổi thì vốn đầu tư tăng, việc làm sẽ tăng và ngược lại. Song trên thực tế C/V luôn có xu hướng tăng cùng với sự phát triển của khoa học công nghê. Khi đó việc làm giản đơn giảm, nhưng việc làm phức tạp tăng lên. Sự phát triển của khoa học công nghệ còn làm xuất hiện nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Như vậy nếu muốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ thấp sẽ gia tăng việc làm, nhưng đó là những việc làm giản đơn, năng suất lao động thấp, thu nhập thấp. Ngược lại, nếu tăng vốn đầu tư vào phát triển các ngành có công nghệ cao thì việc làm sẽ giảm, nhưng đây lại là những việc làm có năng suất, thu nhập cao và tương đối ổn định. Do vậy, việc tăng hay giảm vốn đầu tư và phát triển các ngành sử dụng công nghệ cao, trung bình hay thấp đều ảnh hưởng tới giải quyết việc làm đối với lao động nông nghiệp. Xuất phát từ trình độ nhận thức, tay nghề… của lao động nông nghiệp, nên nếu vốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ thấp thì cơ hội giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sẽ tăng lên. Còn nếu đầu tư vốn vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ cao thì cơ hội giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp gần như không có. Thứ năm, vai trò và các chính sách của nhà nước Với xuất phát điểm thấp, bản thân nông nghiệp và những người nông dân không đủ khả năng để tự giải quyết công việc làm cho chính mình. Trong quá trình đô thị hoá, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò và các chính sách của nhà nước ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển 33
  • 36. đất nước, quy hoạch phát triển đô thị. Thông qua các chính sách, các chương trình, các dự án, nhà nước đã tác động tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, hướng dẫn, khuyến khích người lao động phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tạo vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, qua đền bù đất, qua vay ưu đải, qua luật đầu tư, qua việc tạo lập môi trường kinh đoanh, môi trường pháp lý ổn định, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước…đây chính là những việc làm có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng chính là làm tăng khả năng tạo việc làm cho người lao động nói chung và cho nông dân trong quá trình đô thị hoá nói riêng…. 1.1.3. Giải quyết việc làm cho nông dân là một nhu cầu bức thiết trong quá trình đô thị hoá - Thứ nhất, GQVL là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm hướng tới một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”[7, tr.22]. Mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế của chúng ta không phải chí là quá trình CNH, HĐH chung chung, mà là quá trình CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng trong mỗi bước đi của tiến trình CNH, HĐH đất nước phải đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thực sự bền vững. Tức là phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội và môi trường. Phải làm cho mỗi người dân cảm nhận được những lợi ích mà quá trình CNH, HĐH đem lại cho cuộc sống của họ và gia đình họ. Sẽ là vô nghĩa nếu quá trình CNH, HĐH gắn liền với đô thị hóa không cải thiện được tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của người lao động, đặc biệt với những nông dân ở những vùng bị thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp và khu đô thị mới. CNH, HĐH là một tất yếu kinh tế mà bất kỳ quốc gia nào từ một nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên sản xuất lớn đều phải trải qua. Đi liền với 34
  • 37. quá trình này là sự đô thị hóa những vùng phát triển công nghiệp mới sẽ làm thu hẹp diện tích canh tác của nông dân, theo đó một bộ phận nông dân mất đất sẽ trở nên không còn những điều kiện sản xuất như trước, buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng với đặc điểm của lao động trong nông nghiệp trình độ thủ công là chính, ít qua đào tạo nghề, học vấn lại thấp nên không phải dễ dàng gì có thể chuyển đổi nghề nghiệp và thích nghi với hoàn cảnh mới trong một thời gian ngắn. Điều này đòi hỏi phải cần có một quá trình đào tạo lại cho nông dân để thích nghi với những biến đổi mới, trong đó vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc tổ chức và định hướng cho việc giải quyết việc làm cho nông dân ở những vùng đô thị hóa. GQVL cho nông dân bị thu hồi đất không chỉ là một chính sách kinh tế - xã hội mà còn là một nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng đối với lãnh đạo và chính quyền Đồng Nai hiện nay. Bởi nếu không làm tốt vấn đề này sẽ làm nảy sinh các vấn đề chính trị xã hội phức tạp mới ở nông thôn, mà nguồn gốc phát sinh cũng từ việc thu hồi đất và không có việc làm cho nông dân. Nông dân mất đất có nghĩa là những điều kiện duy trì cuộc sống như trước không còn nữa, điều này sẽ liên quan trực tiếp đến thu nhập và đời sống bản thân họ và gia đình họ. Hơn nữa, còn làm thay đổi căn bản thói quen, tập quán, lối sống đã gắn bó với họ qua nhiều thế hệ với lối canh tác nông nghiệp truyền thống. Nếu tình trạng này không được khắc phục và giải quyết tích cực, chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi tình trạng phân hóa giàu nghèo ngay trên mảnh đất mà họ đã từng sinh sống nhiều đời. Và sự chênh lệch về mức sống và lối sống giữa cư dân nông thôn với cư dân thành thị, giữa cư dân có việc làm và cư dân không có việc làm sẽ làm hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng doãng cách. Đó là một thực tế đã từng diễn ra ở nhiều nơi khi quá trình đô thị hóa nông thôn trước tác động của CNH, HĐH. Bởi vậy GQVL cho nông dân không chỉ là những biện pháp tích cực để khai thác, phát huy hết 35
  • 38. mọi tiềm năng lao động và các nguồn lực xã hội, mà còn là con đường cơ bản để giúp đỡ nông dân thoát khỏi đói nghèo, giảm bớt sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, làm cho đời sống của nông dân được cải thiện và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở Đồng Nai hiện nay.. Năm 2009, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM cùng với Bộ tiêu chí quốc gia về NTM đã được đưa vào triển khai trên phạm vi cả nước. Với 19 tiêu chí xây dựng NTM và được phân thành 5 nhóm cụ thể: về quy hoạch; về hạ tầng kinh tế - xã hội; về kinh tế và tổ chức sản xuất; về văn hóa - xã hội - môi trường; về hệ thống chính trị. Trong đó, GQVL cũng là một nội dung quan trọng để hoàn thành và củng cố vững chắc thêm Bộ tiêu chí về xây dựng NTM. GQVL giúp phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, giảm dần khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao bộ mặt kinh tế vùng nông thôn. Thực tế cho thấy, địa phương nào GQVL tốt thì nơi đó, địa phương đó sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc hoàn thành các tiêu chí về kinh tế - xã hội của chương trình NTM. GQVL cho nông dân ở các vùng đô thị hóa chính là phát huy nhân tố con người vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Đó cũng chính là mục tiêu mà Chương trình NTM hướng tới xét về mặt kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, khi việc làm của người lao động ở những vùng đô thị hóa được quan tâm giải quyết sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, giúp cho người lao động có thu nhập ổn định, yên tâm gắn bó với quê hương, đồng thời góp phần vào xóa đói, giảm nghèo và thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như của địa phương phát triển ổn định và bền vững. Ngoài ra, khi người nông dân ở những vùng đô thị hóa được quan tâm giải quyết sẽ góp phần quan trọng vào củng cố quốc phòng. Bởi lẽ, một khi 36
  • 39. vấn đề việc làm cho người lao động được quan tâm giải quyết tốt sẽ góp phần trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội một cách ổn định và bền vững. Từ đó nâng cao được yếu tố chính trị tinh thần, củng cố lòng tin của người lao động cũng như bảo đảm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp củng cố quốc phòng. Bên cạnh đó, GQVL cho người lao động ở các vùng đô thị hóa còn góp phần quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Bởi vì, GQVL cho người lao động sẽ giúp nâng cao thu nhập, ổn định đời sống người lao động và làm giảm tỷ lệ đói nghèo… Qua đó giúp cho người lao động nâng cao ý thức chính trị, củng cố niềm tin, luôn có ý thức vươn lên, yêu nghề và gắn bó với nghề. Đây là những điểm cốt yếu, là yếu tố cơ bản nhất làm giảm thiểu các tệ nạn xã hội như nạn lô đề, cờ bạc, trộm cắp, tệ nạn ma túy và mại dâm… Điều này cho thấy một khi vấn đề việc làm của người lao động được giải quyết thì vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn của tỉnh cũng như ở các khu đô thị mới sẽ được củng cố và tăng cường hơn. Như vậy, từ những lý giải trên chúng ta có thể khẳng định chính quá trình xây dựng NTM ở Đồng Nai hiện nay mà đòi hỏi các địa phương phải chú trọng đến yếu tố GQVL. Ngược lại, chính quá trình GQVL cho người lao động ở các vùng đô thị hóa lại góp phần quan trọng hoàn thành và củng cố vững chắc thêm Bộ tiêu chí về xây dựng NTM ở Đồng Nai hiện nay. Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu giải quyết những vấn đề thực tiễn từ quá trình đô thị hóa tác động đến việc phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua . Quá trình đô thị hóa vừa mở ra cơ hội lớn cho lao động nông thôn có điều kiện chuyển đổi ngành nghề, tìm kiếm được việc làm có thu nhập cao hơn lao động nông nghiệp, nhưng mặt khác lại đặt ra những thách thức khó khăn mới cho việc tạo việc làm và giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Trong khi một bộ phận lao động nông thôn năng động nhanh chóng 37
  • 40. thích nghi với sự biến đổi của kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa, kịp thời nắm bắt cơ hội, chuyển sang lĩnh vực ngành nghề mới tạo ra nhiều thu nhập và nhanh chóng thành đạt, thì một bộ phận không nhỏ nông dân vẫn còn lúng túng, chưa biết làm gì để thích nghi. Từ thực tiễn quá trình chuyển đổi ngành nghề cho nông dân ở Đồng Nai ở những địa bàn đô thị hóa cho thấy, chỉ những hộ nông dân nào có điều kiện về vốn, nhạy bén với thị trường, biết tính toán làm ăn, biết nắm cơ hội và biết cách đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ nhanh chóng thích nghi và gặt hái được những thành công. Còn đối với số đông lao động ở những vùng đô thị hóa hiện nay ở Đồng Nai vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi ngành nghề. Mặc dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đền bù, tạo điều kiện cho nông dân được học nghề và được ưu tiên bố trí sắp xếp lao động ở ngay trên mảnh đất của quê hương mình, song do nhiều nguyên nhân, nhiều hộ nông dân vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động phù hợp với tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Đồng Nai hiện nay. Tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động ở nông thôn đã và đang tiềm ẩn nhiều vấn đề bất ổn về kinh tế - xã hội, làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong nông dân, nông thôn. Nhờ được đền bù tiền đất đai bị thu hồi, một số hộ nông dân muốn được cải thiện ngay cuộc sống bằng cách đua nhau làm nhà to, sắm tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, thậm chí còn tiêu dùng lãng phí, ném vào cờ bạc, rượu chè nên chỉ sau một thời gian đã cạn vốn mà chưa biết đầu tư vào đâu để đem lại hiệu quả kinh tế. Tình trạng này đã và đang làm tha hóa một bộ phận nông dân, làm xáo trộn đời sống của cư dân nông thôn vốn xưa nay chất phác thật thà lao động nay cũng bị cuốn theo lối sống thị thành, làm thay đổi các quan hệ tình làng nghĩa xóm vốn đã được hình thành bền vững từ nhiều đời nay. Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân ở những vùng đô thị hóa không chỉ là nhằm tạo việc làm và thu nhập cho nông dân mà còn mang ý nghĩa xã hội cấp bách đối với Đồng Nai hiện nay. 38
  • 41. 1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai 1.2.1. Tình hình đô thị hóa ở tỉnh Đồng Nai Đồng Nai nằm ở khu vực cửa ngõ thông ra phía Bắc của Vùng Kinh tế trọng điểm Phía Nam, kết nối Miền Đông Nam Bộ với Duyên Hải Miền Trung và Nam Tây Nguyên, có vị trí, vai trò chiến lược về giao lưu kinh tế, thương mại và quốc phòng, an ninh ở Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm Phía Nam. Đồng Nai là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, là một trong 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất trong cả nước [46]. Tỉnh có diện tích tự nhiên xấp xỉ 5.907,2 km2 bằng 1,78% diện tích của cả nước và 19,4% diện tích của Vùng Kinh tế trọng điểm Phía Nam, dân số (2010) có 2.569,42 nghìn người [phụ lục 6], đứng thứ 2 về diện tích và dân số của các địa phương thuộc vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, sau thành phố Hồ Chí Minh. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh và các huyện Vĩnh Cửu, Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất, Trảng Bom, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Long Thành, Nhơn Trạch, trong đó thành phố Biên Hoà là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá xã hội của tỉnh. Nằm ở khu vực trung tâm kết nối Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, địa bàn có nhiều tuyến giao thông quốc gia đi qua như tuyến đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A xuyên Bắc - Nam, quốc lộ 20 nối Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, quốc lộ 51 và quốc lộ 56 chạy từ Đông sang Tây kết nối các khu vực của tỉnh và Vùng Đông Nam Bộ với khu vực ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu, quốc lộ 1K nối Đồng Nai với Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai có vị trí chiến lược về giao lưu kinh tế, thương mại và quốc phòng - an ninh ở Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Điều kiện vị trí thuận lợi giao thương với trong nước và quốc tế bằng đường biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không (khi sân bay Long Thành đi 39
  • 42. vào hoạt động) để phát triển trở thành một trung tâm kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ và đào tạo ở khu vực các tỉnh phía Nam. Giai đoạn 2001 - 2010, kinh tế của tỉnh chuyển hẳn từ chỗ dựa chủ yếu vào nông nghiệp và một số ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp sang nền kinh tế phát triển đa ngành, đa lĩnh vực với cơ cấu chủ lực là ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng GDP tỉnh (giá 1994) bình quân đạt 13,2%/năm, cao gấp 1,1 lần tốc độ tăng trưởng chung của Vùng Đông Nam Bộ (12,6%/năm). Giai đoạn 2006 - 2010, trong điều kiện chịu tác động của suy giảm kinh tế thế giới xảy ra năm 2008, tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu qui hoạch đề ra (14 - 14,5%/năm) nhưng tỉnh vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá, bình quân 13,5%/năm cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước (6,7%/năm). Môi trường cơ chế, chính sách thu hút đầu tư năng động, Đồng Nai là một trong các địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển doanh nghiệp. Thời kỳ 2001- 2010, toàn tỉnh thu hút được 851 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký 13.081,85 triệu USD, vốn thực hiện đạt 7.790 triệu USD. Trong đó, giai đoạn 2006- 2010, thu hút được 428 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký 8.345,2 triệu USD, vốn thực hiện đạt 5.150 triệu USD (cao hơn gần gấp đôi so với giai đoạn 2001- 2005), đưa tổng số dự án FDI thu hút được vào tỉnh đến hết năm 2010 lên 1.059 dự án với số vốn đăng ký 18.772,2 triệu USD, vốn thực hiện 9.510 triệu USD, đạt tỷ lệ giải ngân 50,66%. Năm 2011, tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn FDI là 900 triệu USD, bằng 59,2% so năm 2010; Năm 2012, tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn là 1.200,5 triệu USD, tăng 33,4% so năm 2011. Lũy kế đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 999 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 20,5 tỷ USD. 40
  • 43. % cao hơn bình quân cả nước (mức bình quân chung cả nước là 46%) [phụ lục 12]. Nhiều KCN đạt tỉ lệ lấp đầy 100% như Biên Hòa I, Biên Hòa II, Tam Phước, Nhơn Trạch II, Nhơn Trạch III, Gò Dầu, Loteco, Định Quán. g. Đi đôi với phát triển các khu công nghiệp, tỉnh rất quan tâm và đã có quy hoạch khu dân cư dịch vụ phục vụ khu công nghiệp, giao cho Công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp đầu tư để gắn với trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi về nhà ở và sinh hoạt cho người lao động. Các khu công nghiệp đã có khu dân cư dịch vụ phục vụ khu công nghiệp, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng đang triển khai thực hiện gồm: KCN Amata, KCN Long Đức, KCN An Phước, KCN Tam Phước, KCN Long Thành, KCN Giang Điền, KCN Bàu Xéo, KCN Lộc An - Bình Sơn, KCN Dầu Giây, KCN Long Khánh, KCN Cẩm Mỹ. Trong định hướng phát triển theo chiều sâu, trong những năm qua, đối với các KCN đang hoạt động, Đồng Nai đã ưu tiên việc đầu tư chuyển đổi công nghệ, thu hút các dự án có hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ và thực tế Đồng Nai đã có một số đơn vị sản xuất linh kiện, chi tiết sản phẩm tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Ngoài ta tỉnh đã và đang chuẩn bị phát triển các khu chuyên ngành như Trung tâm công nghệ sinh học, Khu công nghiệp công nghệ cao Long Thành, Khu liên hợp công nông nghiệp Dofico. Chuẩn bị đề án chuyển đổi KCN Biên Hòa 1 thành khu đô thị thương mại dịch vụ. Ngoài ra, đến cuối năm 2010, trên địa bàn tỉnh còn có 18 cụm, điểm công nghiệp với diện tích 1.017 ha và trong tương lai nhiều dự án lớn đã được Thủ tướng phê duyệt đã, đang và sẽ triển khai xây dựng như: Cảng hàng không quốc tế Long Thành (5.000ha), đường cao tốc Bến Lức – Long Thành, 41