3. LỜI NÓI ĐẦU
Hải Phòng là một trong những địa phương có truyền thống phát triển
về văn học, nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca.“Sóng, gió, nắng, mưa, rồi lại vẫn
sóng. Cái chất biển cả xuyên thấu vào tâm hồn, dựng nên tính cách con
người, phát lộ ngay từ thể chất, đây đó thấm đượm cái mạnh mẽ của sóng,
cái mặn mòi của gió biển.” ( “Một miền văn chương” - Phạm Ngà).
Từ khi phong trào thơ mới ra đời, miền đất Cảng đã trở thành
nguồn cảm hứng mãnh liệt cho văn học nghệ thuật. Người đất cảng rất yêu
thơ, đam mê sáng tạo nghệ thuật.Thơ đến với mọi người trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống. Nhiều người từ những miền quê khác “Đến đây muốn ở lại
đây”, sống làm việc và làm thơ. Nhiều nhà thơ đã đến làm việc và sáng tác ở
Hải Phòng như: Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Lê Đại Thanh, Lan Sơn,
Nguyên Hồng, Nguyễn Viết Lãm, Nguyễn Đình Thi, Hồ AnhTuấn, Phạm
Ngà, Thúc Hà, Văn Xây,Thanh Tùng , …
Tôi yêu đất Cảng. Đất Cảng là quê hương thứ hai của tôi. Là một
giáo viên trọn đời dạy học và viết văn ở Hải Phòng, tôi đã đọc, tìm hiểu về
thơ và các nhà thơ, giành nhiều năm đọc, nghiên cứu và ra mắt bạn đọc tác
phẩm“Chân dung thi nhân Việt Nam”, “Chân dung các nhà thơ Hải
phòng”(Tập I) . Nay tôi tiếp tục giới thiệu các nhà thơ Hải Phòng đương
đại”(Tập II…) mà tôi đã may mắn được đọc. Mỗi tác giả, tôi xin giới thiệu
về:
+ Tiểu sử của nhà thơ.
+ Sự nghiệp văn học
+ Những bài thơ tham khảo được bạn đọc quan tâm.
+ Những ý kiến nhận xét, đánh giá về thơ và nhà thơ.
+ Bài thơ cảm nhận một vài nét nổi bật về từng nhà thơ.
3
4. Với một đội ngũ đông đảo các nhà thơ Hải Phòng là Hội viên Hội nhà
văn việt Nam, việc sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về họ chắc chắn không thể
tránh khỏi thiếu sót. Tìm đọc được tác giả nào, cảm nhận được tới mức độ
nào, tôi xin được giới thiệu về thơ và các nhà thơ tới đó. Ở tập này, người
viết giới thiệu cảm nhận về thơ cùng các nhà thơ đã, đang sống và làm việc,
sáng tác tại Hải phòng, góp phần nhỏ cho việc giới thiệu tài liệu tham khảo
dạy- học văn học địa phương (Thứ tự các nhà thơ được xếp theo A,B.C…tên
của các tác giả). Nội dung giới thiệu thể hiện cách nhìn cá nhân, có thể
không đồng nhất với ý kiến của tác giả và bạn đọc. Kính mong các tác
giả, người thân gia đình tác giả và bạn đọc lượng thứ, thông cảm cho.
Tập sách có điều gì thiếu sót, bất cập, tôi tha thiết đón nhận ý kiến
góp ý của mọi người. Người viết xin chân thành cảm ơn.
Nguyễn Cảnh Ân
4
7. 1. ĐỒNG ĐỨC BỐN.
(1948 – 2006).
A. TIỂU SỬ:
+Họ và tên: Đồng Đức Bốn.
+Sinh ngày 30/3/1948. Mất ngày 14/02/2006
+Quê quán: xã An Hồng, Huyện An Dương , Hải Phòng .
+Năm 1966, đi thanh niên xung phong.
+Nghề nghiệp:
-Thợ cơ khí bậc 6/7ở công ty xây dựng Bạch Đằng, Xí nghiệp 20/7
- Cán bộ công ty xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng
- Năm 1980, bắt đầu sáng tác thơ.
+Hội viên Hội nhà văn Việt nam.
7
8. C.SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*ĐÃ XUẤT BẢN:
· Con ngựa trắng và rừng quả đắng. NXB Văn học, 1992
· Chăn trâu đốt lửa. NXB Lao động, 1993
· Trở về với mẹ ta thôi. NXB Hội nhà văn, 2000
· Cuối cùng vẫn còn dòng sông. NXB Hội nhà văn, 2000
· Chuông chùa kêu trong mưa 2002
· Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc. NXB Hội nhà văn 2006 (tập thơ cuối
cùng, dày 1.108 trang)
8
9. *NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Em Bỏ Chồng Về Ở Với Tôi Không
Tác giả: Đồng Đức Bốn
Con muỗm xanh trên sóng lúa rập rờn
Mùi cỏ dại vẫn ven bờ nước đắng
Tình của em như một tờ giấy trắng
Mãi bây giờ tôi mới viết thành thơ
Tình của em như lối rẽ bất ngờ
Tôi đi đến trọn đời còn chưa biết
Dẫu cho đến tận cùng cái chết
Em bỏ chồng về ở với tôi không?
Tôi không tin rằng trong bão giông
Em cam chịu con tàu chết chìm trên sóng
Và tôi tin rằng trong cát bỏng
Em – Cây xương rồng vẫn hoa
Em ở gần tôi lại ở xa
Tim vẫn đập về nơi em nhiều nhất
Và tôi tin tình em là có thật
Những lúc buồn tôi mới viết thành thơ
Và niềm vui có khi đến bất ngờ
Tôi lại hát ru em ngủ
Nhà của em ở giữa phường Trung Tự
Cây tháp nước bồn hoa còn nhớ chỗ ta ngồi
Cỏ nát rồi cỏ mới lại sinh sôi
Hoa vẫn nở mùi hương đằm thắm
Và tôi tin một ngày gần lắm
Em bỏ chồng về ở với tôi không?
9
10. 2 . Chăn Trâu Đốt Lửa
Tác giả: Đồng Đức Bốn
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều.
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
3. Trở Về Với Mẹ Ta Thôi
Tác giả: Đồng Đức Bốn
10
11. 1.
Cả đời ra bể vào ngòi
Mẹ như cây lá giữa trời gió rung
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
Đường đời còn rộng thênh thang
Mà tóc mẹ đã bạc sang trắng trời
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ xẻ nhường cho nhau
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.
2.
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.
3.
Mẹ mua lông vịt chè chai
Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy
Xóm quê còn lắm bùn lầy
Phố phường còn ít bóng cây che đường
Lời rào chim giữa gió sương
Con nghe cách mấy thôi đường còn đau.
11
12. 4.
Giữa khi cát bụi đầy trời
Sao mẹ lại bỏ kiếp người lầm than
Con vừa vượt núi băng ngàn
Về nhà chỉ kịp đội tang ra đồng
Trời hôm ấy chửa hết giông
Đất hôm ấy chẳng còn bông lúa vàng
Đưa mẹ lần cuối qua làng
Ba hồn bảy vía con mang vào mồ
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này.
5.
Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay
Mẹ không còn nữa để gầy
Gió không còn nữa để say tóc buồn
Người không còn dại để khôn
12
13. Nhớ thương rồi cũng vùi chôn đất mềm
Tôi còn nhớ hay đã quên
Áo nâu mẹ vẫn bạc bên nắng chờ
Nhuộm tôi hồng những câu thơ
Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời
Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ.
C.NHẬN XÉT:
1.
Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng trong thể loại thơ
lục bát. Thơ lục bát của ông với cách ngắt nhịp, dùng từ và rất giàu hình ảnh
với tứ thơ sâu sắc đã chinh phục được bạn đọc. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có khoảng 15 bài thơ
cực hay, tài tử vô địch, nhưng có nhiều bài cũng chẳng ra gì.[1]
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
2.
“ Trong con đường thơ, người ta đã bắt đầu thấy rõ dấu hiệu của
sự lặp lại và gắng sức của Đồng Đức Bốn. Tôi cho rằng giá trị của Đồng
Đức Bốn thực sự chỉ là ở hai tập Chăn trâu đốt lửa và Trở về với mẹ ta thôi.
Đến Chuông chùa kêu trong mưa thì tôi không còn thấy thích anh nữa.
Đã có nhiều nhạc sĩ vì tình cảm liên tài đã phổ nhạc cho thơ Đồng Đức
Bốn. Thuận Yến, Doãn Nho, Huy Du, Huy Thục, Đặng Hữu Phúc, An
Thuyên, Nguyễn Tiến, Nguyễn Cường, Tuấn Phương, Đoàn Bổng, Minh
13
14. Quang v.v... Đến nay Đồng Đức Bốn đã có chừng hơn 30 bài thơ được các
nhạc sĩ phổ nhạc. Thơ Đồng Đức Bốn không du dương nên phổ nhạc cũng
không phải dễ. Những câu thơ hay của Đồng Đức Bốn nằm rải rác ở nhiều
bài, nhiều chỗ khác nhau nên cũng phải nhặt lại, biên tập lại. Về điều này,
Đồng Đức Bốn tự mình không làm được. Anh cần một trợ thủ có học hơn và
biết tự giới thiệu cho thơ anh.
... Đồng Đức Bốn đã nổi lên trong trận bão người ấy như một nhà thơ lục bát
gin có một không hai. Anh đã chiếm được tình cảm mến mộ của nhiều siêu
độc giả... Không phải tự dưng Nguyễn Khoa Điềm đã họa tặng anh bài lục
bát sau đây:”( NGUYỄN HUY THIỆP)
3
Bạn Thơ
Bạn chừ đóng gạch nơi nao
Văn chương lấm láp vêu vao mặt người
Bất ngờ bạn đến thăm tôi
Gửi cho mấy tập ôi trời là thơ.
Câu dài câu ngắn ngẩn ngơ
Những rơm với lửa, những tơ với tình
Một người hoang dại một mình
Bơ vơ giữa phố mong thành thi nhân
Lòng yêu yêu đến trong ngần
Đường xa thương vết chân trần bạn tôi
Mong sao bạn bớt bùi ngùi
Cố làm thơ nữa để rồi gặp nhau...
( NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
14
15. ĐỒNG ĐỨC BỐN
Thương “Con ngựa trắng”*, một mình,
Vào “ Rừng quả đắng”*, gửi tình cho ai?
Tập thơ đầu tay ra đời,
Ngôn từ, vốn liếng – ý lời dốc ra.
Bạn đọc chẳng mấy mặn mà,
“Chăn trâu đốt lửa”*- thơ ra kịp thời.
Tập này có nhiều bài hay!
“Hiếm! Lạ! Có một không hai – khác người”(1)
“Cuối cùng vẫn…dòng sông”* trôi.
“Trở về quê mẹ ta thôi”* - “Chân trần”(2)
Thơ anh chưa phải cách tân,
Chưa khai sáng vẫn bảo tồn thơ xưa.
“Kêu trong mưa , tiếng chuông chùa” *
Bao nhiêu là thứ mê – bùa quanh ta.
Lục bát ở đồng – quê nhà,
Đòi ở với vợ người ta(3)… nực cười!
Chắp tay xin lạy anh thôi!
“Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc”*
- anh mời chào ai?
15
16. ( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(*):Tên các tập thơ của Đồng Đức Bốn đã xuất bản.
(1)Ý kiến nhận xét của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
(2)Trích bài “BẠN THƠ” của Nguyễn Khoa Điềm .
(3)Ý rút từ bài thơ “Em bỏ chồng về ở với tôi không?”
2. ĐÀO CẢNG.
(1941-1987).
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Đào Văn Cảng.
+ Sinh năm 1941 – Mất ngày 21/6/1987.
+ Quê quán: Xã Khúc thủy, huyện Thanh Oai, Hà Tây.
+ Nơi sinh: Huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
+ Nghề nghiệp: Thợ cơ khí, cán bộ lao động tiền lương ,
Cảng Hải Phòng.
+ Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
16
17. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
+Báo Văn nghệ
+Báo lao động
+Các báo và tạp chí trung ương và địa phương.
*ĐÃ XUẤT BẢN:
+Thành phố những con tàu (In chung với Trần Quốc Minh - NXB Hải
Phòng).
+Buồm trong phố (NXB Lao Động – 1997 )
+Thời yêu thương (In chung với tác phẩm “Chầm chậm với mình” của Trúc
Thông – NXB Tác phẩm mới, năm 1977)
+Nắng lên ( In chung với Sĩ Hồng, Khánh Nguyên, Vũ Từ Trang – NXB
Thanh niên năm 1985 )
+Vùng quê tuổi nhỏ ( NXB Hải Phòng – 1988)
+Tuyển thơ Đào Cảng 1960 -1987 ( NXB Hội Nhà Văn – 2007)
17
18. * NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
*
1.BÀI THƠ CỬA SỔ:
Lúc con đã đi xa
Bóng mẹ còn đậm in trên cửa sổ
Một khung cửa.
Đẹp như màu mắt đợi chờ
Đường con đi còn xa
Qua những đô thành thị trấn
Những ngõ nhỏ nghĩ suy im lặng
Vẫn những ô cửa dõi nhìn như mắt mẹ tiễn đưa.
Vẫ những ô cửa như mắt mẹ trầm tư,
Như mắt cha, mắt anh em đồng chí
Như con mắt Việt Nam căm thù đau xé.
Như mắt người thân đang chờ lệnh xung phong;
Như mắt người yêu thắm sắc thủy chung
Và ô cửa điệu “Bài ca may áo”.
Tiếng ai hay tiếng gọi của chân trời
Và ô cửa tiếng nôi đưa nhè nhẹ
Khiến bước người đi hồi hộp cả đêm dài.
Cây vạn niên thanh trên cửa sổ cao vời,
Xanh như tiếng thì thầm hẹn ước.
Một khung kính bóng hoa in như bức tranh tĩnh vật.
Có nói gì đâu mà rạo rực người đi.
Ôi! Người đi như nước mới ra nguồn,
Ôi! Người đi, người đi vì đất trời ta chảy máu.
Và tổ quốc ngày đêm thao thức,
Như mẹ hiền mong ngóng chiến công con.
( ĐÀO CẢNG)
18
19. 2, Sa pa.
Sa pa
mùa xuân mười hai tháng
Thị trấn dựng ngang tầm mây trắng
Một ngày hè 22 giờ mưa
Một tháng 60 giờ nắng
Sa Pa như từ mưa sinh ra
Chúng tôi đứng - hành lang cao lưng trời
Một đám mây nhiệt đới đậu ngang vai
Nếu là họa sĩ tôi sẽ vẽ
Sương ở Sa Pa xanh lá cây
Những rặng sa mu đứng lặng im
Rắc tiếng ve ra khắp xung quanh
19
20. Và mưa bỗng trút - không gian nước
Suối bỗng hình thành khắp núi xanh
Tháng sáu mưa nhiều mười tám độ
Bắp cải vườn dâu sẽ cựa mình
Gái H'Mông đánh ngựa mang đào xuống
Hương nấm thơm nồng nếp áo xanh
20
21. Ngược dòng người xuống chung tôi lên
Những bông lay-ơn đầu tháng sáu
Mọc rải rác trên đồi như bướm đậu
Như những nụ cười của ai bỏ quên
Chúng tôi lại đi nắng vàng thêm
Phăng xi Phăng chót vót, gió êm đềm
Tưởng rằng trong gió thơm tho ấy
Có gió Cà mau đang thổi về.
SA PA, 1971.
( Đào cảng)
C. NHẬN XÉT:
1.Đào Cảng là một tác giả tiêu biểu của thơ Hải Phòng thời kỳ
chống mỹ.
21
22. 2. “Đọc thơ Đào Cảng thú vị như đi đường, chốc chốc lại gặp
những gương mặt khả ái. Có lúc sững sờ…”; “ Cảm ơn cuộc đời đã
cho tôi gặp một trong những người bạn tốt nhất mà một đời người có
thể có. Vì thế, cuộc ra đi của anh khi mới ngoài 40 tuổi làm tôi đau
đớn và trống vắng biết bao” (Hữu Thỉnh-17/7/2007).
3.”Nghe tin Anh qua đời/ sao ta cứ phải mất/ Những người tốt
nhất” ( Ý Nhi – Văn Nghệ 7/1987).
4.”Đào Cảng đã đào cảng thật! Anh có cả một trường ca về phá
thủy lôi để giải tỏa cảng và rất nhiều bài thơ về cảng Hải Phòng, nơi
Anh làm việc: Giải tỏa cảng, Tàu Sô Panh, Cô lái xe trên cảng, Cảng
mới… * ( Trần Quốc Minh)
CHÚ THÍCH: * Tên các bài thơ viết về cảng Hải Phòng của Đào
Cảng.
22
23. ĐÀO CẢNG.
Đào cảng, “đào cảng thật”(1) rồi,
“Trường ca về phá thủy lôi”(1) một thời.
Xông pha đạn nổ, bom rơi.
“Giải tỏa cảng” *suốt một đời xuân xanh.
Từ “Cảng mới”*, “Tàu Sô Panh” *
Tiếng thơ anh thật chân thành, đẹp sao!
Đây “Thành phố những con tàu”*
Người đất cảng, quyết làm giàu quê hương.
Mảnh đất của “Thời yêu thương”
“Bài thơ cửa sổ”*, vấn vương đêm dài.
“Tiếng ai…, tiếng gọi chân trời”(2)
“…Trầm tư”(2) cửa sổ, mẹ ngồi đợi con.
23
24. “Buồm trong phố”,* đợi “Nắng lên”*
Một thời của những yêu thương ngọt ngào.
“Sa pa”*, “đứng hành lang cao,
Đám mây nhiệt đới đậu vào ngang vai”(3)
“Đẹp lạ lùng…mưa bóng mây”.
Đọc thơ anh cứ ngất ngây, sững sờ,
Giật mình đau, thoáng nụ cười,
“Ngoài bốn mươi, bỏ mọi người “ đi thôi ! (4)
24
25. “Người thơ sống mãi Cảng ơi,
Một Anh có vạn con người đọc Anh”(5)
( CẨN ANH )
CHÚ THÍCH:
* Tên các tác phẩm của Đào Cảng
(1):Ý kiến của Trần Quốc Minh.
(2):Trích “Bài thơ cửa sổ”
(3):Trích bài “Sa pa”
(4):Ngày 21/6/1987, Đào Cảng mất, khi đó anh mới ngoài 40 tuổi
(5):Cảm xúc của nhà thơ Lê Đại Thanh Khi Đào Cảng mất.
3. THI HOÀNG.
(1943)
A. TIỂU SỬ:
+Họ và tên: Hoàng Văn Bộ
+Bút danh: Thi Hoàng.
+Sinh năm 1943.
+Quê quán: Vĩnh bảo, Hải Phòng.
+Nghề nghiêp: Cán bộ kỹ thuật ngành giao thông vận tải.
+Năm 1967, tham gia quân đội vào chiến đấu ở miền Nam, bị thương
được chuyển về công tác ở Sở Văn hóa thông tin Hải Phòng.
+Năm 1976, về Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng . Làm biên tập tạp chí
25
26. Cửa biển.
+Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng,
+ Hội viên Hội nhà Văn Việt Nam.
+Năm 2004 nghỉ hưu
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
+Báo Văn Nghệ.
+Tạp chí Cửa biển.
+Các báo trung ương và địa phương.
*ĐÃ XUẤT BẢN:
- Cửa sông (tập thơ, in chung năm 1971)
- Nhịp sóng (thơ, 1976)
26
27. - Ba phần tư trái đất (thơ, 1989)
- Gọi nhau qua vách núi (trường ca, 1995)
- Bóng ai gió tạt (thơ, 2001)
- Cộng sinh với những khoảng trống (thơ, 2005)
- Tuyển trường ca và thơ (2010)
- Chìm vào mật nóng (thơ, 2011)
Giải thưởng văn học:
- Giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Phòng năm 1996-1997.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với trường ca Gọi nhau qua vách núi năm
1996.
- Giải thưởng Văn học đề tài Lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng 1994-
1995.
- Tặng thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT năm 2001.
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
*NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU (THAM KHẢO)
*
1. Người đem thơ đi đâu
27
28. Khi thật vui hay thật buồn thì thích ở ngoài sân hay trong nhà
Đấy không phải là một câu thơ
Tóc còn đen mà làm quan rất to
Đấy cũng không phải là một câu thơ
Mẹ ta mất đã hơn mười năm rồi
Không biết chân trái của người đã khỏi đau chưa
Người mang theo những câu thơ mà mình mong ước
Giờ thì lên đỉnh niềm vui hay xuống đáy nỗi buồn
Những câu thơ kia cũng chẳng tìm thấy được
Hỏi ông tóc đen ư
Câu hỏi ngã đau ở ngay cửa miệng!
( THI HOÀNG)
28
29. *
2. Ở GIỮA CÂY VÀ NỀN TRỜI.
Dường như là chưa có buổi chiều nào
Xanh như buổi chiều nay, xanh ngút mắt
Cây cứ đứng với nền trời khao khát
Nâng chiếc mầm trên tận đỉnh cây cao.
Sau chiều nay ta phải tốt lên nhiều
Thiên nhiên ở với mình cao cả quá
Tiếng lá động ân cần như tiếng mẹ
Và vòm trời mong ngóng lại như cha
Đừng phát giây quên đối mặt quân thù
Đừng hờ hững với đời như bọt bể
Sắc diệp lục um tùm đang nói thế
Sắc trời xanh day dứt chẳng vô tình
Trời thì xanh như rút ruột mà xanh
Cây thì biếc như vặn mình mà biếc
Mặt trời toả như trái tim nồng nhiệt
Trong cái chiều nhân nghĩa đến sâu xa.
29
30. Một tên người ai gọi cứ ngân nga…
(Trích tác phẩm”Nhịp sóng” )
THI HOÀNG
3. NGẪU CẢM.
Hòn đá rơi trúng đầu
Chàng trai vào bệnh viện
Rồi cô y tá và chàng thành vợ chồng quấn quyện
Liệu họ có cảm ơn hòn đá kia không?
Bông hoa đẹp mê hồn
Nở kề bên ngọn thác
Với ra hái tuột chân, người phải lòng hoa đã chết
Có pháp trường nào xử bắn một bông hoa?
Giận gì hòn đá kia
Oán gì bông hoa nọ
Cõi vạn biệt thiên sai ta rơi đời mình trong đó
30
31. Sáng dậy thấy còn mình cũng đã là vui!
(Trích tập thơ “Bóng gió ai tạt”)
THI HOÀNG.
C.NHẬN XÉT:
.1. “Tôi quan niệm, văn chương nói chung và thơ nói riêng phải
quyến rũ người đọc chứ không nên đuổi bắt độc giả... Tôi ủng hộ việc
cách tân thơ nhưng cách tân không có nghĩa là chỉ đơn giản là bẻ gãy
câu thơ, phá bỏ cấu trúc, ngữ pháp, khoa trương ngôn từ... Làm như thế,
thơ chỉ là một đống xác chữ chứ không tạo ra những câu thơ làm rưng
rưng người đọc và cũng không thể tạo ra những câu thơ vui buồn khi
cần người ta có thể mang ra ngẫm ngợi hoặc chia sẻ”(Quan điểm về
31
32. thơ của Thi Hoàng)
2. Tôi đã đi qua một phía của Thi Hoàng và đã nhìn thấy một phía ấy.
Mai Văn Phấn đi qua một phía khác. Đình Kính đi qua một phía khác nữa.
Bùi Ngọc Tấn lại đi qua một phía khác. Dư Thị Hoàn cũng đi một phía. Hoài
Khánh lại đi qua một phía khác nữa. Những gì tôi nhìn thấy Thi Hoàng có
thể được cộng thêm bởi những cái nhìn khác và cũng có thể bị trừ đi bởi
những cái nhìn khác. Nhưng chỉ có một thứ của ông mà không ai có thể trừ
đi hay cộng thêm: đó là những bài thơ của ông.
(Nguồn: lethieunhon.com)
32
33. THI HOÀNG
I.
Quyến rũ người đọc, người nghe,
Thơ được như thế mới là nên thơ.
Đừng bẻ câu thơ gãy ra
Đừng bỏ cấu trúc, ngôn từ khoa trương.
Quan điểm thơ của Thi Hoàng,
Thơ hay phải biết rưng rưng lòng người.
“Gọi nhau qua vách núi” thôi
Bản trường ca ấy một thời ngân vang.
“ Ba phần… trái đất”, ngỡ ngàng…
“ Bóng ai gió tạt”, bàng hoàng, ngẩn ngơ.
“ Cộng sinh những khoảng trống”… Thơ
Gai góc, sắc nhọn, ngôn từ chuốt trau.
33
34. Cứ ngẫm ngợi, sẻ chia nhau,
“Chìm vào mật nóng”, thấm sâu lòng người.
“Đom đóm và sao” sáng ngời,
“Ở giữa cây và nền trời”(1) thanh thanh.
“Trời xanh rút ruột mà xanh,
Cây biếc như vặn mình biếc thêm”(2)
Tứ thơ độc đáo, nỗi niềm…
Hồn thi nhân cháy! Cháy thêm! Tình đời.
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
CHÚ THÍCH:
+Những cụm từ in đậm là tên các tập thơ của Thi Hoàng.
+(1):Tên bài thơ đăng trên báo văn nghệ năm 1968.
+(2): Ý thơ được rút ra từ hai câu thơ hay nhất trong bài thơ:”Ở
34
35. giữa cây và nền trời”
II.
Có” Ba phần tư trái đất”,
Chiến tranh “Gọi nhau qua vách núi” dài
“Nhịp sống”, “Gió tạt bóng ai”
“Cộng sinh những khoảng trống” – Đời chông chênh
“Ở giữa cây…nền trời”* xanh,
“Trời xanh rút ruột mà xanh”(1), tuyệt vời!
“Cây biếc…vặn mình biếc” (1) thôi
35
36. Câu thơ chắt cả cuộc đời mộng mơ.
“Chìm vào mật nóng”, ngẩn ngơ.
Có con”Đom đóm…sao”mờ, bóng soi.
Thơ ai quyến rũ lòng người.
Thơ ai đọc mãi, đọc hoài…rưng rưng.
Quan điểm thơ của thi nhân,
Gọt từng con chữ, dũa từng ý thơ.
Nâng niu: Cành ,lá, nhụy, hoa…
Giữ gìn từng giọt hương thơ cho đời.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
+Những cụm từ in đậm là tên các tập thơ của Thi Hoàng.
+(*):Tên bài thơ củaThi Hoàng đăng trên báo Văn nghệ năm
1968 +(1): Ý thơ được rút ra từ hai câu thơ hay nhất trong bài
thơ:”Ở giữa cây và nền trời” .
36
37. 4. VÂN LONG
(1934)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên : Nguyễn Vân Long.
+ Bút danh: Thi Nguyễn, Nguyễn Phương.
+ Sinh ngày: 6/3/1934 ở Hà Nội
+ Quê quán: xã Việt hòa, huyện Khoái châu, tỉnh Hưng Yên.
+ Năm 1956, mở quán sách 72 Phố Huế, Hà Nội.
+ Năm 1965, cưới vợ, sau đó ít lâu được điều về Hải Phòng tham gia
dàn nhạc của thành phố Cảng.
+ Năm 1966, giã từ cây đàn, cầm bút đến với thơ, Anh chuyển sang làm
Cán bộ biên tập và sáng tác cho sở văn hóa Hải Phòng.
+ Sau hơn 10 năm lăn lộn gắn bó với thành phố Cảng, Anh chuyển về công
tác tại ty văn hóa Hà Sơn Bình
+ Cuối đời, Anh về Hà Nội làm trưởng ban văn nghệ báo ĐỘC LẬP rồi làm
biên tập thơ nhà xuất bản Hội nhà văn.
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ 1980.
37
38. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
Thơ
Ðường vào tim (in chung với Lê Tám, Giang Quân) 1957
Tia nắng 1962
Thành phố tôi yêu (in chung với Văn Thinh) 1977
Qua những miền đất (in chung với Thi Nhị, Nguyễn Quang Tính) 1980
Gió và lửa (in chung với Nguyễn Bùi Vợi) 1983
Thành phố những ban mai 1987
Vào thu 1990
Những khối hình câm 1993
Dưới lá xanh 1999
Vân Long - hành trình thơ (tuyển tập) 2002
Thơ, truyện viết cho các em
Sư tử xanh (tập truyện) 1979
Trai ngọc và sứa vật vờ (tập truyện) 1984
Làm ngọc (tập truyện) 1986
Ngàn cây số hoa (tập thơ) 1996
Rùa đá đi chơi (tập truyện) Tủ sách vàng NXB Kim Ðồng 1997
Xuân Quỳnh thơ và đời (biên soạn) 1996
Ngọn bút với thời gian (chân dung - tiểu luận) 1997
Mùa thu quê Việt (tuyển thơ) 1999
Thơ hay có lời bình (biên soạn)
2001
Giải thưởng:
Giải thưởng Văn học công nhân
1975-
1980
Giải thưởng thơ hội VHNT Hà Nội
1986-
1991
Giải thưởng thơ ủy ban toàn quốc các hội LHVHNT Việt Nam
2000
38
39. * NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂUTHAM KHẢO:
*
1. Thu cảm
Mở Cửa - Ðường thơm hoa sữa gọi
Phải bùng ra phố, phải đi thôi!
Hà Nội trời xanh màu cốm mới
Tôi nhập vào thu với mọi người
Mùa thu - Thu đến từng hơi thở
Thu đến từng thi tứ chín cây
Ai may áo mới cho Hà Nội
Vồng ngực ai căng đợi tỏ bầy
Em như con gió thổi qua ngang
Trẻ đến làm đau cả lá vàng
Lá phượng vụng về rơi mái tóc
Lại thành hoa rắc em mang
Như người chưa bao giờ được trẻ
Tôi đăm chiêu với mặt hồ đầy
Bước vào khoảng không em để lại
Một lần thêm trống trải nước mây
Bất giác đưa tay lên hất tóc
Bỏ quên đâu mái tóc xanh dầy
Xòe ra đôi sợi mang màu nắng
Bắt chợt mùa thu vương kẽ tay!
1987
2. LẦM
Gần nhau non buổi chiều
ngẩn ngơ tròn buổi tối
đường về quên mất lối
rẽ lầm tới… nhà em.
VÂN LONG.
39
40. 3. Vào thu
Nắng như sánh hơn
Lá cây trong hơn
Tưởng nghe được mùa thu nhẹ bước
Lao xao trên thảm cỏ mềm
Một gánh ổi thơm vào phố
Chùm nhãn đung đưa tay trẻ nhỏ
Trái thị vàng một sắc dân gian
Gặp mùa thu lòng mình
Nửa thế kỷ - Gánh trên vai cái tuổi
Mùa thu vầng trán trầm tư
Lượng trời rộng sao lòng mình hẹp
Thiên nhiên không biết cũ già
Lá biếc, nghìn năm vẫn biếc
Tàn nở nghìn năm - vẫn hoa
Trận mưa thu ào qua
Nắng lại xòe diêm đầu lá ướt...
4. QUA MƯA.
Qua dải sân mưa tôi ngắm em
Màn mưa nhòa những nét thân quen
Tình yêu mới nở sao mà đẹp
Một thoáng nhìn nhau, mưa cũng ghen!
VÂN LONG
40
41. 5.Ngọn cây
Những ngọn cây
Những ngọn cây cao
Cứ sục tìm chi khoảng biếc
Nõn lá tủa ra quyết liệt
Rồi cũng đến tầm ấy thôi
Làm sao có thể thành mây
Bay tới những miền chưa biết!
Lên đó để mà ngơ ngác
Lên đó để mà cô đơn
để mà run rẩy
Từng cơn lạnh thấu linh hồn!
VÂN LONG
6. Dưới lá xanh
Ðêm dài quá, nằm không ngủ
Ðời ngắn quá, yêu chưa đủ
Lặng đếm thời gian trôi
Loạt soạt nghìn trang gió thổi lạnh
Tay thì đã ngắn mong chi cánh
Chữ nghĩa xạc xào thua lá xanh
Mà bông hoa lạ cuối trời kia
Tới được chắc chi hoa vẫn thắm!
VÂN LONG
41
42. 7. Ở NHÀ MÁY GÀ.
“Những chú gà công nghiệp
Thật khác chú gà nhà
Được ấp trong lò điện
Tự mổ vỏ mà ra
Người đầu tiên chú thấy
Áo choàng trắng thướt tha
Chắc là mẹ mình đấy!
Mẹ đẹp như tiên sa!
Anh em đông hàng ngàn
Chẳng biết ai ra trước
Chẳng biết ai là út
Chẳng ai đòi phần hơn!
Mẹ chiều cả ngàn con
Giải trấu thay đệm mới
Thắp đèn làm lửa sưởi
Máng ăn ăm ắp đầy
42
43. Gà mà chẳng ở chuồng
Cả dãy nhà rộng đẹp
Bè bạn cứ vàng ươm
Hát suốt ngày liếp nhiếp.”
(Tiếng Việt 3, tập II)
VÂN LONG
C. NHẬN XÉT:
1. “ Trong sáng tạo thơ có 2 hiện tượng khá phổ biến: 1/ Có nhà thơ xuất hiện
sáng chói như sao băng rồi vụt tắt. 2/ Có nhà thơ xuất hiện lặng lẽ như ngôi sao nhỏ nhấp
nháy bên trời, rồi càng ngày càng tỏa sáng.Vân Long thuộc dạng nhà thơ thứ 2” “… 60
năm thơ và 80 tuổi đời của một nhà thơ thật chả có gì đáng nói nếu anh không
có những bài thơ để lại, sẻ chia, chung sống với bạn đọc. Tôi thích và nhớ
những bài thơ ngắn của Vân Long thời anh 20 tuổi, và giờ đây thơ ở tuổi 80 của
anh vẫn còn lay động không chỉ riêng tôi. Và tôi tin, có những bài thơ của anh sẽ
trường thọ hơn chính tác giả của nó. Đó chính là hạnh phúc đích thực của nhà
thơ – hạnh phúc của một tâm hồn lặng lẽ xanh trên suốt hành trình sáng tạo có
tên là Vân Long”. (“Nhà thơ Vân Long-lặng lẽ xanh” – Nguyễn Trọng Tạo)
2. Ở Hải Phòng, chàng trai này “ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân” suốt
10 năm, thâm nhập những nhà máy vừa bị bom, ra trận địa pháo, xuống những
con tàu rà phá thủy lôi để viết những ký sự của cuộc chiến bằng thơ. “Mười năm
thơ đất Cảng, Vân Long đem hồn thơ êm nhẹ, kín đáo, hòa vào cuộc sống lửa
thép, bom đạn. Đồng thời, anh kéo sự nóng hổi, cuộn xiết của đời vào thơ…Đó
là cuộc đấu tranh tạo một thế hài hòa giữa ảo và thực, của đôi cánh mơ mộng
chân trời với bước chân trần trên mặt đất chông gai, khúc khuỷu… ”
(- Nhà thơ Phạm Đức )
3.TỰ BẠCH:
43
44. Nếu ta dùng phương pháp so sánh: Văn xuôi là hành ngôn thường nhật có chuẩn
của nó thì thơ là một hành ngôn cách điệu, "lệch chuẩn" so với văn xuôi.
Hành ngôn thơ đã "lệch chuẩn", lại qua giọng điệu riêng của mỗi nhà thơ, sẽ xuất hiện
những lệch chuẩn cá nhân, mà ta thường gọi là phong cách của mỗi nhà thơ.
Một bài thơ có tứ hay, phần đóng góp trí tuệ là hàng đầu. Nhưng một câu thơ hay phải
bao gồm cả sự run rẩy cảm xúc của nhà thơ, bao gồm tài năng sử dụng ngôn ngữ, bao
gồm cả quan niệm về thi pháp của nhà thơ. Không ít bài thơ có ý khái quát lớn, nhưng
câu thơ lại không hay, chính vì tác giả đã dùng hành ngôn quá gần với văn xuôi. Ðó là
thơ giọng ngâm, giọng kể, trần thuật, tự sự... thường chỉ khác văn xuôi ở sự có vần và
ngắt câu theo tiết tấu thể thơ. Một nhà thơ có độ "lệch chuẩn" cá nhân riêng biệt trong
hành ngôn thường gia tăng hiệu quả thơ trong một diện tích câu nhỏ hẹp.
Các câu thơ hay, mỗi câu hay một vẻ, nhưng chúng giống nhau ở chỗ: Không có nét dư
ngữ nghĩa, tức không có chữ thừa, chữ độn. Mỗi chữ lại có thể làm vài ba chức năng, và
dồn nén vào nhau, chồng nghĩa lên nhau, tạo ra độ căng nhất định.
VÂN LONG
VÂN LONG.
Âm nhạc năng khiếu bẩm sinh
Có hơi ấm vợ, chung tình với thơ.
Ngồn ngộn cuộc sống mộng mơ
Rời cây đàn đến nàng thơ ấm lòng
Bồng bềnh sóng gió Hải Phòng,
Tôi trữ tình cháy đỏ lòng thơ Anh.
“Ngọn cây”*vươn “Dưới lá xanh”*
“Sục tìm…khoảng biếc”(1) túa cành chơi vơi
“Rồi cũng đến tầm ấy thôi”(1)
“Cô đơn…run rẩy”(1) nổi trôi linh hồn
Mái tóc thu nhuộm nắng tuôn,
44
45. “Đường vào tim”*, “Tia nắng”* buồn nao nao
Mạch sống đất Cảng dâng trào,
“Hành ngôn…lệch chuẩn”(2)-tứ vào thơ Anh
Cuối đời về với Hà thành
“…Khối tình câm”*, “Dưới lá xanh” thu vào.
Trẻ trung, mới mẻ, lao xao…
Nàng thơ vẫn mãi quyện vào trong Anh. ( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH: (*)Tên các tác phẩm của Vân Long.
(1): Trích trong bài “ Ngọn cây”; (2): Tác giả tự bạc
5. PHẠM NGÀ.
(1944)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Phạm Văn Ngà
+ Bút danh: Phạm ngà.
+ Sinh năm 1944.
+ Quê quán: Từ Liêm, Hà Nội.
+ Hiện sống và viết ở Hải Phòng.
45
46. + Tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội
+ Dạy học ở trường CĐSP Hải Phòng.
+ Giám đốc nhà xuất bản Hải Phòng.
+ Nguyên phó chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Hải Phòng.
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
B.SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*Tham gia viết:
+ Báo văn nghệ.
+ Tạp chí cửa biển.
+ Các báo trung ương và địa phương.
…
*Đã xuất bản (Đến 2013):
+Hoa nắng (in chung – 1981 )
+Đi dọc đời mình ( Trường ca – 1986 )
+Lời ru của người yêu cũ (1991)
+Trầm tư (1995)
46
47. + Mảnh vỡ (2001)
+ Độc thoại mưa (Trường ca – 2010)
…
*Những bài thơ được nhiều người ưa thích:
+ Gia đình.
+ Lời ru con của người yêu cũ.
+ Viết riêng cho người.
+ Độc thoại mưa.
…
· NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU THAM KHẢO:
·
1. GIA ĐÌNH.
Ngày nào cũng từ nơi nào ra đi
Nơi này trở về
Căn nhà ta gọi mái ấm
Bao nhiêu vui cược ở đây
Bao phiền muộn trút ở nơi này
Cứ phấp phỏng điều gì chẳng rõ
Rồi có thể
47
48. Vợ ta không nói những điều như xưa
Con ta chẳng nghe hết điều dặn dò
Đến ta đâu hẳn là ta nữa
Ăn rồi ngủ, đọc sách và làm tình…
Cái điệp khúc cũ mèn đầy ma mị
Nơi ta vừa thiếu lại vừa thừa
Ngày nào cũng ra đi cũng trở về
chỉ sợ có hôm dừng chân trước cửa
Bỗng xa lạ như nhầm phải nhà nào.
(PHẠM NGÀ)
2.LỜI RU CON CỦA NGƯỜI YÊU CŨ
Dừng chân bất chợt, lắng nghe
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi
Điệu ru quen thuộc bao đời
Mà xao xuyến mãi bồi hồi tiếng ru
Một thời thân thiết dạo xưa
Người con gái ấy bây giờ ru đây
Tròng trành tiếng gió gọi mây
Nửa ru bé ngủ, nửa lay gọi lòng
Con thuyền nói với dòng sông
Cánh cò nói với mênh mông nắng chiều
Thời gian nói với tình yêu
Buồn vui lại nói những điều buồn vui
Xin đừng ai nữa như tôi
Chuyện không đâu để bùi ngùi tháng năm
48
49. Hẳn như cách trở xa xăm
Thì tôi ru khẽ, ru thầm cùng em
Ngủ yên, cho bé ngủ yên
Và người cha ấy vững bên chiến hào
Qua bao sông rộng núi cao
Tiếng ru dẫu ở nơi nào cũng thương
Chẳng làm con nhện tơ vương
Bao con đường vẫn một đường quanh nôi
Lời ru như lửa bừng soi
Bên nhau ấm những cuộc đời chia xa
Để lòng mãi mãi thiết tha
Dẫu cho ai đó vượt qua chính mình .
( PHẠM NGÀ)
C NHẬN XÉT:
. “Phạm Ngà là người thủy chung với thơ ca truyền thống, nhưng không vì thế
mà anh thỏa mãn, bằng lòng với cái đã có. Anh luôn đau đáu trăn trở tìm đường,
mở lối để bứt phá, và không ngừng tự đổi mới thơ mình.
Đổi mới thơ nhưng quyết không làm lạ thơ, anh vẫn giữ được phong cách dung
dị mà sâu sắc, đằm thắm trên từng thi phẩm. Anh là người đam mê nhưng không
cực đoan thái quá, xưng tụng những lời tuyên ngôn to tát, một kiểu nóng vội
thường thấy ở những cây bút thiếu bình tĩnh, để rồi lạc bước đuối hơi, đến khi ngộ
ra, ngoảnh lại hóa toàn những ảo ảnh huyễn tưởng vô tiền khoáng hậu không
mục đích.
49
50. … Anh như đã thấu tỏ muôn nỗi thăng trầm, buồn vui, được mất của thân
phận người. Phải chăng là thế nên qua thời gian thụ giáo nơi trường ốc, qua thời
gian tồn sinh trong biển đời trôi giạt, làm bầu bạn cùng con người để đến tháng
năm này Phạm Ngà mới có cơ hội gửi vào từng con chữ, từng dòng thơ những gì
ấp ủ, tinh lọc, căn cốt tâm đắc nhất của anh hiến dâng cho bạn đọc.
Anh là người lao động hết mình cho thơ, bởi sự dày công dồn nén, kỹ lưỡng đến
từng dấu phảy trong mỗi tác phẩm. Độc thoại mưa là minh chứng cho điều ấy.
Tác phẩm này đủ xác lập một bước chuyển, cao hơn là một bứt phá đầy năng lực
mới của tác giả. Từng đơn vị chữ nghĩa trong Độc thoại mưa là sự đằm chín,
mang theo ma lực có khả năng hút cuốn, nhuyễn quyện, xoắn bện vào nhau đến
độ sáng láng kinh điển.” (Vũ Quốc Văn)
50
51. PHẠM NGÀ.
“Hoa nắng” “Đi dọc đời mình”,
Một khúc tâm tình nhà giáo, nhà thơ.
“Tâm phúc”*, “Cõi thực hư vô”*
“Hai nửa sáng tối”*, vày vò thi nhân.
“Tín điều xa, áo cơm gần”(1)
“Công lý chập chờn sáng tối”(1) mung lung.
“Bất ngờ”(1)cơ chế vô hình.
Mua bán nghĩa tình…nghĩ thật xót xa.
“Độc thoại mưa”- bản trường ca.
Luật đời “Định mệnh”*- Âu là đương nhiên.
Đau đáu trăn trở kiếm tìm.
Hướng đi đổi mới cho nền thi ca.
Ngôn từ đằm thắm mặn mà…
Đọc thi nhân thấy xót xa…, thấy buồn.
Nghe người yêu cũ ru con
“Trầm tư”, “Mảnh vỡ”- đời còn được thua.
51
52. “Dừng chân trước cửa…”, “Nhầm nhà”(2)
Cứ phấp phỏng sống nơi ra, nơi vào.
Mô phạm, mẫu mực, thanh tao…
Bấy nhiêu điều đáng tự hào – thi nhân.
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
CHÚ THÍCH:
+ Tên các tập thơ của nhà thơ Phạm Ngà được in đậm.
*: Tên các chương trong Trường ca “Độc thoại mưa”.
(1):Trích trường ca “Độc thoại mưa”.
(2):Trích trong bài thơ “Gia đình”.
52
53. 6. MAI VĂN PHẤN.
(1955)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Mai Văn Phấn.
+ Bút danh: nt
+ Sinh năm: 1955.
+ Quê quán: Kim Sơn, Ninh Bình.
+ Hiện đang làm việc và sáng tác ở Hải Phòng
+ Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng.
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
B.SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* Tác phẩm đã xuất bản:
- Giọt nắng (thơ, 1992);
- Gọi xanh (thơ, 1995);
53
54. - Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997);
- Nghi lễ nhận tên (thơ, 1999);
- Người cùng thời (trường ca, 1999);
- Vách nước (thơ, 2003);
- Hôm sau (thơ, 2009);
- Và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009);
- Bầu trời không mái che (thơ, 2010);
- Thơ tuyển Mai Văn Phấn (thơ cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, 2011);
- Hoa giấu mặt (thơ, 2012)…
Giải thưởng:
- Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội (1994).
- Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Văn Nghệ (1995).
- Giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993,
1994, 1995.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ Bầu trời không mái
che.
* NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU (THAM KHẢO):
*
1.TẮM ĐẦU NĂM (1)
Thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
54
55. thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp.
rễ thân cành đã chết đâm ngang.
tắm gội cho mùa xuân về
vừa lặn vào ánh sáng
vừa gọi thầm ông bà, cha mẹ
cơ thể bốc cao về phía ngọn đèn
vừa xối mạnh, vừa gọi tên em
ánh sáng bồng bềnh, bụng mang, dạ chửa
thử gọi một ai xa lắc, xa lơ
ngọn đèn lặng phắc càng tỏ
càng tỏ
( MAI VĂN PHẤN)
CHÚ THÍCH:
(1) Bài in trên báo Văn nghệ. Tạp chí Nhà văn số 4/ 20011 và trên mạng
(2) Thanh tẩy: Bài này dùng nhiều chữ vô lối, cảm vô lối, lung tung, lang tang. Lạm dụng
từ Hán Việt như thanh tẩy. Trong tiếng Hán thanh có 5 chữ, tẩy có 3 chữ. Thanh ở đây
theo nghĩa bài là trong, sạch, tẩy ở đây là rửa, xối. Nếu dùng thuần Việt thì nên viết là
rửa sạch.
(3) Lò thúc mầm là lò ươm giống lúa. Các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc thời thập
kỷ 60, 70 thế kỷ trước hay dùng.
2. EM CHO CON BÚ.
Chiều nay em cho con bú.Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ông vẫn còn
đang vỗ.Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta
bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn.Anh hôn lên ngực em căng
55
56. đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn.Căn
phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh
thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cư thu mình tìm vào miệng
con be bé xinh xinh…
Nghe đâu có tiếng thạch sùng điểm nhịp, hay những giọt nước xa xưa đang rơi vào
vại nước nhà mình.
( MAI VĂN PHẤN)
3.VIẾT CHO CÂY SÁO.
Tôi thỏi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường:Đồ rê
mi fa son la si. Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng trong ánh sáng bảy màu lung
linh huyền ảo, để những bóng tối kia cũng mang hình ống sáo , cho tôi lại ghé môi khắc
khoải thổi vào.
Rời bè trầm chúng bay lên cao, rồi thả vào đêm bao chiếc thang cung bậc. Nghe âm
vang bước chân của bóng đêm nặng nhọc, đang lần từng âm vực mà lên.
Vũ trụ lầm lỳ lơ lửng trong đêm.Những con sóng dịu mềm cho bên bờ lở biết mình
còn đó, để ban mai thức dậy bên bồi.
Mỗi góc tối trong tôi đang ngậm lấy âm thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình
he hé ánh sáng bồng bế nhau thong thả tràn vào.
( MAI VĂN PHẤN)
. 4.Đêm của em
(tặng N.HK)
Em không ngủ yên dưới tàng lá giật
Một nhành cây vừa rơi xuống mái tôn
Tiếng quả vỡ lăn trên thềm gạch cũ
56
57. Gió lồng lộn làm mặt nước không còn trơn mịn
Lối đi vươn cánh tay níu lấy bìa rừng
Mắt em mở vào đêm sâu lò than hồng rực
Dâng mùi ngô nướng, nếp thơm
Tiếng nước sôi trong trí nhớ em
Liên tục reo vang đến gần sáng
Cố nép vào thành giường
Em nín thở chờ thời khắc yên tĩnh
Ôm con bồ câu vô hình
Đợi mặt đất bình yên buông tay cho trời rạng.
(Hải Phòng, 18/8/2011)
( MAI VĂN PhẤN)
C. NHẬN XÉT:
1. Mai Văn Phấn trước đây làm thơ tuy không nổi trội nhưng
còn đọc được. Sau đó thi theo tân hình thức, theo hậu hậu hiện đại nên
viết thành một loại thể mà tôi (Đỗ Hoàng) đặt cho các kiểu viết của
nhiều người hiện nay là Vô lối. Thật ra, đó là một thứ bà dằn, tắc tỵ, hũ
nút, dở dơi, dở chuột, không hiểu ra làm sao. Tôi đã viết nhiều tiểu luận
nói rằng: Bây giờ nhiều kẻ viết yêu cầu người đọc, người thưởng thức
thơ ca phải có trình độ văn hóa cao, uyên bác, từng trải, có học vấn
57
58. thâm hậu. Nhưng thật phi lý là những người viết ra kiểu Vô lối như
trên thì trình độ học vẫn, trình độ văn hóa lại tầm tầm, thậm chí còn
yếu kém nữa…
2. “Tắm đầu năm” là một quái thai của sáng tạo. Bài này là một
trong hàng loạt bài Vô Lối của Tập “Bầu trời không mái che” của Mai
Văn Phấn, vừa được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010
– 2011 nó thể hiện một sự tắc tỵ, bất lực trong sáng tạo dẫn đến một
cách thể hiện quái dị, mung lung, sai lạc cả quy luật tự nhiên, quy luật
tâm lý bình thường của con người, phong tục tập quán của con người.
Người ta tắm gội tất niên, không ai nói tắm gội đầu năm để cho xuân về.
Xuân đã về từ o giờ 1 giây của đêm giao thừa rồi. Từ ngữ thì cũ rích,
đầy Hán Việt chưa Việt hoá. Mai Văn Phấn cố tìm tòi là đáng khen
nhưng rời vào lảm nhảm, lung tung làm hại thơ ca thì đáng chê trách vô
cùng. Thành công của thơ ca không chỉ ở gọt rũa câu chữ, thành công
của thơ ca là ngoài cuộc sống.
(“Bầu trời không mái che-yếu kém sáng tạo” – Đỗ Hoàng)
Được đăng bởi nguyentrongtao vào lúc: 9:22 sáng ngày
12/01/2012
3. ‘’Cửa Mẫu’’ đẹp, không phải cái đẹp cổ điển của Đường Thi hay
Haiku trong trong phác vẻ miêu tả mà là cái đẹp của tâm linh, của lớp
lớp hình ảnh chồng lên nhau thể hiện tâm thức người đương đại trong
hoặc nghi, phân vân, cả niềm sùng bái. “Cửa Mẫu” dắt tay ta về buổi
ban đầu để hoác ngộ cái như nhiên như là trong một không gian đặc
thời gian nhầm lẫn. Có thể giật mình, vui cười hay bi ai thống khổ, ngại
ngần…, đó là quyền thụ hưởng của người đọc. “Cửa Mẫu”, do vậy, là
một văn bản mở và là tiền đề, bước khởi động của “Bầu trời không mái
che”, một mênh mông ê hề gió, nắng, chim và sao bay .Và thi sĩ, “đứa
con” được sinh thành lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước/ Nhìn hướng
58
59. bầu trời mở đôi cánh. (Đọc tập thơ “Bầu trời không mái che” của Mai
Văn Phấn” – NXB Hội Nhà Văn 2010 của LÊ VŨ)
4. “Nếu có một nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ
mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm
nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ- tình- cổ- điển,
anh “bay” thẳng một mạch vào hậu- hiện- đại, rồi từ đó “lao” vào vòng
xoáy đầy ấn tượng của thơ-cách-tân.” ( Nguyễn Việt Chiến )
5. “… Nhà thơ Mai Văn Phấn và nhà thơ Đồng Đức Bốn sáng tác
theo hai khuynh hướng và phong cách khác nhau, là hai hiện tượng thơ
trên thi đàn trong vài thập niên qua. Nếu Đồng Đức Bốn trung thành
với thơ truyền thống, bằng bút lực lục bát ấn tượng, thì ngược lại, Mai
Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân,
định hình một tư duy thẩm mỹ mới, và anh đã thành công, được dư
luận hoan nghênh, đánh giá cao.
Tổ chức “Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn”, Ban Tổ
chức mong muốn, bằng phân tích, tường giải cụ thể trên cơ sở học
thuật, đặt trong lộ trình thơ ca đương đại, chúng ta cùng luận giải thấu
đáo về hai hiện tượng thơ, qua đó mở rộng biên độ nhận thức, góp phần
mở ra hướng đi mới cho thơ hiện nay.”…
(Nhà văn Đình Kính)
6. Mai Văn Phấn là nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những
gương mặt tiên phong của công cuộc cách tân thơ Việt đương đại. Anh
sinh ra ở Ninh Bình. Sống và làm việc ở đất Cảng Hải Phòng. Thơ anh,
bằng một cách tự nhiên nhất đã bắt vào “văn mạch” Hải Phòng- nơi trước
đây đã từng có Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi; tiếp nối có Bùi
Ngọc Tấn, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Dư Thị Hoàn, Bão Vũ, Đình Kính, rồi
tiếp nữa, có Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn...Từ văn mạch này, tất cả họ đã
toả sáng và đắp bồi vào nền văn chương dân tộc… (BBT)
7. Sau "Bầu trời không mái che" (NXB Hội Nhà văn, 2010), tập
thơ đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010, Mai Văn Phấn
59
60. đã in thêm tập thơ 3 câu "Hoa giấu mặt" (NXB Hội Nhà văn, 2012), và
bây giờ là "Vừa sinh ra ở đó". Anh nói với tôi rằng, trước tiên anh
muốn thực hiện "nghi lễ" tặng" Vừa sinh ra ở đó", vì đây là tập thơ
mới nhất anh vừa viết. Còn lại trong năm 2013, anh được in thêm 5 tập
thơ song ngữ nữa, 2 tập ở nước ngoài và 3 tập trong nước, gồm những
bài thơ được chọn từ những tập thơ đã in.( Cao Năm)
MAI VĂN PHẤN.
Thơ kiểu văn xuôi không vần,
Riêng biệt, mới, lạ…,Có cần vậy không(?)
Câu dài, câu ngắn, mung lung…
Dồn nén, cô đặc, tràn bung, đa tầng.
60
61. Đất – nước – cỏ - dòng sông…
Những giấc mơ cứ chất chồng đầy thơ.
“Thong dong”- Phong cách thi ca.
“Giọt nắng” – thơ mới chỉ là bản năng.
“Cầu nguyện ban mai”, “Giọt xanh”
Truyền thống…Hiện đại – thơ anh “tuyệt vời”(1)
“…Lễ nhận tên”, “Người cùng thời”,
“Vách nước” – siêu thực, rạch ròi hướng đi.
“Bầu trời không có mái che”
… “Vùng tiểu khí hậu thơ ca đương thời”(2)
Cả hành tinh – một bầu trời.
Một tứ “Thơ đẹp tuyệt vời”…xa xăm !
Đạt giải thưởng Hội nhà văn(3)
Mở trái tim mình, bè bạn năm châu.
Đợi chờ anh…thi phẩm sau,
Đổi mới thế nào, thuần Việt thi ca ?
(CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
+ Tất cả những cụm từ in đậm là tên các tập thơ của Mai văn Phấn.
(1):“Thơ Mai Văn Phấn đẹp thông minh, tuyệt vời”(Kalymiller-Anh)
(2):Ý kiến nhận xét của Hữu Thỉnh.
(3):Tập thơ“Bầu trời không mái che”đạt giải thưởng Hội nhà văn năm 2001
61
62. 7. HỒ ANH TUẤN
( 1943 )
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Hồ Anh Tuấn.
+ Ngày sinh : 14-12-1943
+ Quê quán: Quỳnh đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
+ Địa chỉ : Số 4/55, phố Lán Bè, Lê Chân, Hải Phòng
+ Nguyên Hiệu trưởng THPT Cát Hải, Hải Phòng.
+ Nguyên trưởng phòng GD&ĐT Cát hải, Hải Phòng
+ Nguyên phó chủ tịch UBND huyện Cát hải, Hải Phòng
+ Hội viên Hội VHNT Hải Phòng.
+ Hội viên HỘI NHÀ VĂN Việt Nam
+ Nguyên chủ tịch Hội VHNT Hải Phòng.
+ Chủ nhiệm CLB thơ nhà giáo Hải Phòng .
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
* THAM GIA VIẾT:
+ Báo Văn Nghệ
62
63. + Tạp chí Cửa biển
+ Các báo trung ương và địa phương
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+Thơ tình của đá ( NXB Hải Phòng, 1993 )
+ Mùa thu đến muộn ( NXB Hải Phòng,1995 )
+ Giấc mơ của biển ( NXB Văn học – (1998)
+ Cánh chim hoang ( NXB Hội nhà văn, 2002)
+ Biển và em ( NXB Hội nhà văn-2004)
+ Chàng dũng sĩ dưới đáy biển –Truyện đồng thoại NXB Kim đồng-2004)
+Nếu em là mùa thu (tập thơ nhạc – NXB Hải Phòng-2007)
+ Những mảnh tâm tư ( NXB Hội nhà văn-2008)
+ Tự tình với mùa thu (NXB Hội nhà văn -2010)
+ Tình yêu không biên giới( NXB Hội nhà văn – 2012)
*GIẢI THƯỞNG:
+Giải C về thơ, cuộc thi báo Người giáo viên nhân dân,1971
+Giải C tập “Cánh chim hoang”(2002) và tập “Biển và em”(2004)của uỷ
ban toàn quốc liên hiệp các hội VHNT Việt Nam.
+Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm 1995-1997 của thành phố Hải Phòng.
+Giải thưởng VHNT Hải Phòng năm2004-2005.
+08 giải thưởng viết lời thơ cho các ca khúc (đồng tác giả) của UBTQLH
các Hội VHNT Việt Nam, Hội nhạc sĩ Việt Nam và các bộ ngành.
+ …
*NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU ( THAM KHẢO)
*
1.THƠ TÌNH CỦA ĐÁ.
63
64. Có phải thu về bình thản quá
Núi buồn đứng lẻ soi gương.
Có phải vô tình bên đảo đá
Sóng không ru nữa lặng chiều sương?
Tôi nghe gió heo may xào xạc
Động cô tiên người Việt cổ thầm thì*
Tôi nhận ra dáng thu đã khác
Khi người bạn gái ấy ra đi…
Tôi ngồi dưới châu sa thạch nhũ
Tắt nến đi sợ- nhạt sắc sao trời
Bạn đời ơi! Đêm nay ai không ng
Có nghe hồn gọi phút đơn côi?
Hỡi đảo đá cuộc đời nào cằn cỗi
Giữa khoảng trời phóng khoáng vô biên?
Mất mát nào làm tình yêu mòn mỏi,
Triều nước ngẩn ngơ, thu đến im lìm?
64
65. Cả quần đảo núi tách ra riêng lẻ
Chẳng với tay ra được biển xanh
Khát vọng bên nhau- triệu năm vẫn thế!
Nỗi đau gầm lên hết cả mùa hè!
Thì mùa thu hãy nghe tôi kể:
Biển bao la tình sử chất đầy
Những cô gái tan vỡ tình yêu,
Đi lấy chồng thuở ấy
Để 360 chàng trai hóa đá giữa biển đông!**
1990-1991
( HỒ ANH TUẤN)
CHÚ THÍCH:
*Động Cô Tiên thuộc vịnh Cát Bà.
**Quần đảo Cát Bà hơn 360 hòn đảo đá.
2. CÁNH CHIM HOANG.
Đảo Cát
Con rơi của trời và đất.
65
66. Bờ bãi như cười, như khóc
Người đến
Người đi
Cánh chim hoang.
Gió từ miệng trời ùa ra tất bật
Sóng cuộn biển lên vật vã con tàu
Nửa đêm trăng buông câu
Đậu vào giấc ngủ
Dường như có ai đợi trên buồng lái
Mang cô đơn ra đi trước bình minh
Hòn đảo trong hoang tưởng ta hoá thánh thần.
Người xưa
Ai qua đây mang mộng bá vương
Khởi nghiệp?
Bao lứa đôi đến đây mượn sóng
Tỏ nỗi niềm?
Bao người đã chết, không để lại dấu vết?
Chỉ còn biển
Còn trăng
Giống hệt em!
Còn mối tình khát khao bất diệt
Giống hệt anh!
( HỒ ANH TUẤN )
3. CÁT BÀ TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI
Nơi em chờ anh
Cát Bà
Xứ thần tiên cổ tích
66
67. Vịnh Lan Hạ bốn mùa xanh ngọc bích
Mây trắng bay theo cánh buồm bay
Sóng nhớ ai dào dạt đêm ngày.
Rừng nguyên sinh trăng thao thức vòm cây
Sơn tiêu hót, Kim Giao xanh huyền thoại
Phong lan buông, ong mật bay mê mải
Phố biển tàu về gối sóng lân tinh.
Phiêu lãng anh qua Hang Cả, Hang Xình
Động Cô Tiên, Đá Hoa, Trung Trang thơ mộng
Trong hoang sơ có thiên đường cuộc sống
Chợt thấy lòng thêm nhân hậu yêu thương.
Đất gọi mời lữ khách bốn phương
Cát Bà tình yêu - tình yêu không biên giới!
Trái tim đảo - trái tim con gái
Mặn nồng người ở, hút hồn người xa.
Phía chân trời ai gọi thiết tha
Mênh mông trời xanh, mênh mông sóng biếc.
Núi lội biển như người đi mải miết
Chùm đảo như chùm quả linh thiêng.
Một vùng hoang sơ, một vùng thần tiên
Ngư phủ thả buồm hồng vào trong biển
Ảo giác rắc bùa lót bàn chân anh đến
Để bến bờ nghiêng ngả phút chia tay…
( HỒ ANH TUẤN )
4. BIỂN VÀ EM.
Sóng vùi tiếng cười bờ cát
Biển tìm về kỉ hồng hoang
Những thiếu nữ phô mình trên bãi
Như con cá lạ biển khơi.
67
68. Biển bất ngờ nín lặng
Mặt trời tự vỡ nắng
Chiếm đoạt những khuôn ngực trần.
Lửa từ mắt con trai
Đốt cháy thịt da con gái
Con mắt đi hồn vía để lại
Nuối tiếc uống cạn biển khơi
Biển chỉ là biển khi có em
Em ra đi hồn biển sẽ mất
Em thổi gió vào cánh buồm
Em bỏ bùa mê cho biển
Có em, trái tim biển có sóng
Đam mê và hy vọng
( HỒ ANH TUẤN)
5.NIỀM VUI NGƯỜI ĐÁNH CÁ.
Thoát bão tàu gối bờ say lử
Chén mừng sóng gió cuộn trên tay
Ví thử đại dương thành vò rượu
Cũng xin dốc cạn đáy đêm nay.
( HỒ ANH TUẤN)
* NHẬN XÉT:
68
69. 1. Chế Lan Viên có câu thơ rất hay viết về hạnh phúc:
Khi được lúa, ta được cả chim trời đến hót
Hạnh phúc trở về, hạnh phúc hoá thành đôi.
Câu thơ ấy ứng vào những năm cuối khi từ giã quan trường của
Hồ Anh Tuấn: Năm 2005 anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, đó
là sự khẳng định muộn màng với một người đã yêu, đã tin, gửi gắm cả đời
mình cho thơ với một sự mê đắm lạ lùng… Anh đã đi trên con đường gập
ghềnh, gian khó, khổ đau ấy "con đường ảo của người làm thơ" như anh tự
bạch, để viết những câu thơ có ích cho nhân sinh thế thái muôn đời … Điều
thứ hai đáng mừng hơn: anh làm được một ngôi nhà nhỏ trong chiếc ngõ ồn
ã, chật hẹp của những người lao động ở phố ven sông. Ngôi nhà giản dị chắc
sẽ rất đỗi ấm áp, ngọt ngào với hơn con người hơn 40 năm ăn cơm cơ quan,
ngủ giường cá nhân như anh. Điều mừng thứ ba là anh được giải thưởng văn
học nghệ thuật lần thứ 2 của thành phố Hoa phương đỏ (năm 2004 - 2005).
Đó là sự thừa nhận tài năng của nhà thơ huyện đảo đã gắn cuộc đời mình với
thành phố biển. Anh đã có 5 tập thơ, 1 cuốn truyện thiếu nhi, 83 bài hát phổ
thơ anh… tất cả đều có dấu tích của Hải Phòng, thành phố đã trở thành quê
hương thứ hai của anh, hệt mảnh đất Quỳnh Lưu, Nghệ An - nơi anh đã sinh
ra.
(Nguyễn Long Khánh )
2. Hồ Anh Tuấn là một nhà giáo, nhà thơ gắn bó gần suốt cuộc đời
với biển đảo. Hầu hết các tập thơ của Anh đều cháy lòng với biển đảo, với
em và mùa thu. Thơ tình rút từ lòng Anh những dòng mật ngọt dâng hiến
cho đời .
HỒ ANH TUẤN.
69
70. Trọn đời trải nghiệp văn chương
Rời quê, tâm gửi mái trường xứ xa
Biển, Đảo là quê, là nhà.
Câu thơ biển, muối - mặn mà, sáng trong.
« Thơ tình của đá »(*)- rêu phong
« Cánh chim hoang »(*)- thoả chí cùng đảo xa.
« Mùa thu đến muộn »(*), trang thơ...
“Biển và em”(*), tóc rối tơ... xao lòng.
Không quên “bờ cát thuỷ chung”(1)
“Giấc mơ của biển”(*), ấm lòng thi nhân.
“Cánh thơ mang đến mùa lành”(2)
Thơ tình – mật rút trong anh trao đời.
(CẨN ANH )
CHÚ THÍCH : (*): Tên các tập thơ đã xuất bản
(1):Trích trong bài “ Giấc mơ của biển”
(2): Trích trong bài giới thiệu Hồ anh Tuấn trên báo Văn
nghệ- đăng lại trên báo điện tử VNnet của Nguyễn Long Khánh.
70
71. 8. THANH TÙNG.
(1935).
A, TIỂU SỬ:
+Họ và tên: Doàn Tùng.
+Bút danh : Thanh Tùng.
+Sinh ngày: )7/11/1935.
+ Quê quán: Mỹ lộc, Nam Định.
+Nghề nghiệp: công nhân khuân vác cảng Hải Phòng, Công nhân đóng tàu...
Hành nghề bán sách, sáng tác văn học.
+Năm 1997 được cử đại diện của Việt Nam sang Hy Lạp giao lưu thơ.
+Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
+Những thi phẩm nổi tiếng đều được sáng tác trong thời kỳ ở Hải Phòng.
71
72. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*Tham gia viết :
các báo, tạp chí, trung ương và địa phương.
*Đã xuất bản:
+Thời hoa đỏ ( NXB Văn học – 2001)
+Con sông chảy từ lòng phố.
+Cửa sóng.
+Trường ca phương nam.
+Gió chân trời. (NXB Hải Phòng – 1985)
+Khúc hát quê xa (NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh)
+Cái ngày xưa ấy. (NXB Đà Nẵng – 2004)
+Thuyền đời (NXB Đà Nẵng – 2006)
*Thơ đã phổ nhạc:
+Thời hoa đỏ ( Nhạc của Nguyễn Đình Bảng)
+Hà Nội ngày trở về ( Nhạc của Phú Quang)
+Người về nt
+Mùa thu dấu em nt
*Giải thưởng:
+ Tập thơ “Thời hoa đỏ” được giải thưởng của Hội NVViệt Nam
72
73. *NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU (THAM KHẢO):
*
1. THỜI HOA ĐỎ.
Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao
Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng
Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh
Chẳng chịu cho lòng ta yên
Anh mải mê về một màu mây xa
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa
Em hát một câu thơ cũ
Cái say mê một thời thiếu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về
Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa một thời trai trẻ
Hoa như mưa rơi rơi
Như tháng ngày xưa ta dại khờ
Ta nhìn sâu vào mắt nhau
Mà thấy lòng đau xót
73
74. Trong câu thơ của em
Anh không có mặt
Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết
Anh đâu buồn mà chỉ tiếc
Em không đi hết những ngày đắm say
Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ
Không cho ai có thể lạnh tanh
Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ
Như vết xước của trái tim
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ
Anh biết mình vô nghĩa đi bên em
Sau bài hát rồi em như thể
Em của thời hoa đỏ ngày xưa
Sau bài hát rồi anh cũng thế
Anh của thời trai trẻ ngày xưa.
74
75. ( THANH TÙNG)
2. CHỜ.
Em ơi sao nỡ lặng im
Để anh nín thở đi tìm...giấc mơ
Đêm nay trăng lặn, sao mờ
Trái tim nghèn nghẹn...Hững hờ, nhói đau !
Anh xin vay trước kiếp sau
Thay quả tim lỡ nhuốm màu xót thương
Ngập ngừng trên khắp đoạn trường
Lắng từng hơi thở nẻo đường em qua.
75
76. Đành ngồi lại giữa ngã ba
Qủa tim mới cũng sắp già đến nơi...
(THANH TÙNG)
C. NHẬN XÉT:
1.“Tôi đã phổ của Thanh Tùng ba bài thơ "Người về", "Hà Nội
ngày trở về" và "Mùa thu giấu em". Riêng bài “Hà Nội ngày trở về” thì câu
hát “vội vã trở về, vội vã ra đi” đã trở thành câu cửa miệng của nhiều
người. Phải thừa nhận, Thanh Tùng có những câu thơ thật thi sĩ, đọc một
76
77. lần thì ám ảnh khôn nguôi. Ngoài cái tứ, thơ Thanh Tùng cũng giàu nhạc
điệu. Tôi đang phổ một bài thơ khác của Thanh Tùng viết về mẹ với hình
ảnh đắt giá “tiếng mẹ run như sóng, tiếng mẹ mềm như tơ, mẹ cười hay mẹ
khóc, chỉ thấy mắt ta mờ”.[1]
(Nhạc sĩ Phú Quang)
2 Tôi đọc thơ Thanh Tùng đã lâu, khi thơ ông được in chung
với các nhà thơ khác trong hai tập thơ “Con sông chảy trong phố” và
“Cửa Sóng”. ấy vậy mà thời gian đã gần 30 năm rồi còn gì ? một
khoảng thời gian đủ cho một đứa bé như anh bạn tôi trở thành một
lão nông lực lưỡng phong sương ,từng trải.
Và tôi mới biết thêm ,sau hơn 30 năm làm thơ , đến năm
2002(hay năm 2001) Thanh Tùng mới cho ra đời tập thơ riêng đầu
tiên của ông đó là tập thơ Thời hoa đỏ và được giải thưởng Hội Nhà
văn Viêt Nam năm 2002
Bài thơ Thời hoa đỏ của Thanh Tùng được Nhà xuất bản Hà
Nội xuất bản năm 2002 chọn là một trong những bài thơ tiêu biểu của
thơ ca Cách mạng giai đoạn 1945-1975 ,ban đầu ,quả có làm tôi bất
ngờ .nhưng ngẫm kỹ tôi lại thấy những người làm tuyển thơ này thật
có lý ,khi chọn Thời hoa đỏ của Thanh Tùng
Sức sống của một bài thơ hay phải được thử thách qua thời
gian .Thời hoa đỏ (33 câu) của nhà thơ Thanh Tùng có nằm ngoài
quy luật khắc nhiệt đó ? rất may, Thời hoa đỏ đã được phổ nhạc và
nó đã là một trong những bài hát đắm say của bao lớp trẻ Việt Nam.
( LỜI BÌNH: NGUYỄN ANH NÔNG )
T
. THANH TÙNG.
77
78. Một “ Thời hoa đỏ”(1) nao nao.
“Tiếng ve sôi”* chẳng thể nào lặng yên.
Hoa rơi rơi nặng bên thềm
“Như vết xước của trái tim”* thuở nào.
“Hoa đỏ lặng im rực màu”*
“Hoa như lửa cháy khát khao”*giữa trời.
“Cửa sóng”(1) ngát “Gió chân trời”(1)
“Cái ngày xưa ấy”(1), “Thuyền đời”(1)lướt qua.
Âm vang “Khúc hát quê xa”(1)
“Phương Nam” rộn khúc “Trường ca…”(1)ấm lòng.
“Chảy từ lòng phố… con sông”(1)
Mang phù sa tự đáy lòng thi nhân.
Tiếng thơ thi sĩ Thanh Tùng,
“Run run tiếng mẹ mỏng mềm như tơ”*
Một đời thợ, một đời thơ,
“Lặng tìm”(2), “Một nửa”(2), còn “Chờ”(2)đợi ai?
Có thừa “hai nửa”- đủ rồi!
Cuộc đời Anh có bao người khát khao.
(CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(*): Những câu thơ trích trong các tác phẩm của Thanh Tùng.
(1):Tên các tập thơ của Thanh Tùng đã xuất bản.
(2):Tên các bài thơ được nhiều người khen hay.
78
79. 9. PHẠM XUÂN TRƯỜNG.
( 1947)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Phạm Xuân Trường.
+ Bút danh:
+ Sinh năm 1947
+ Quê quán: Hải Phòng.
+ Nghề nghiệp: Đóng tàu ( Thơ bậc cao 7/7), sáng tác văn học.
+ Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nạm.
79
80. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* THAM GIA VIẾT:
+ Tạp chí cửa biển.
+ Các báo trung ương và địa phương.
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Hai tập thơ đầu in chung.
+ Cỏ cháy ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2006)
+ Ở trọ hồn làng ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2007 )
+ Bến chuồn chuồn ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2010 )
+ Ấn tượng trong tôi ( Thơ chân dung...)
+ Chim bìm bịp ( kịch bản phim – Đoàn Lê đạo diễn )
+ ...
* GIẢI THƯỞNG:
+ Tập thơ “Cỏ cháy” đạt giải C ( không có giải A,B) của liên
hiệp các Hội VHNT toàn quốc năm 2007.
+ Kịch bản phim “Chim bìm bịp”,Đoàn Lê đạo diễn-đạt giải ba.
+ Đạt giải ba thi thơ lục bát của báo “GD&TĐ”(1996-1997)
* NHỮNG BÀI THƠ TIÊU BIỂU (THAM KHẢO):
*
80
81. 1. CHÔN DỌC
Phạm Xuân Trường
Bố chết con đừng chôn ngang
Bây giờ tấc đất tấc vàng con ơi!
Ngửa mặt nhìn chỉ thấy trời
Chôn dọc cho bố nhìn đời thẳng cong
Để mà thấu rõ đục trong
Biết ai gan ruột thật lòng với ai
Và ai trong cuộc đứng ngoài
Lựa màu gió thổi đậm phai sắc hồng
Ai về sau bão sau giông
Những hòn máu đỏ nuôi không nên người
Ai từ muôn dặm trùng khơi
Trở về ban phát nụ cười cho quê
Kìa ai nửa tỉnh nửa mê
Trắng tay còn một câu thề chặt đôi
Đất đai giờ đã lên ngôi
Tình người đồng kẽm buông xuôi giữa đời
Đất đai đã hóa vàng mười
Chôn ngang tốn đất cho người chết sau
Sống thì làm khổ lẫn nhau
Bố không mong có kiếp sau luân hồi.
( “Cỏ cháy”- NXB Hội Nhà văn- 2006)
81
82. 2. MUỐI DƯA.
Phạm Xuân Trường.
Mải đi về phía cầu vồng
Quay về cải đã lên ngồng… khổ chưa
Em ngồi phơi kỷ niệm xưa
Muối thời con gái làm dưa ăn dần.
*
. 3. VỀ ĐI EM.
Phạm Xuân Trường
(…)
Phận gốc rễ doc, rễ ngang
Nuôi bao tầm gửi nghênh ngang một thời.
Ngồi chăn kiến hóa tóc vôi
Giời xanh, Cuội tập nói lời Quân vương
( Trích “Cỏ cháy”)
C NHẬN XÉT:
82
83. “Vốn là thợ cơ khí bậc 7/7, cái nghề xem ra chả liên quan gì
đến “sự bút nghiên”, ấy thế mà như một thứ định mệnh, Phạm Xuân
Trường ngẫu hứng se duyên với lục bát, và sau hơn ba chục năm
lăn lộn trong cõi đời gió bụi, ngọt ngào thì ít, đắng cay lại nhiều, lục
bát đã hơn một lần làm nên gương mặt nhà thơ “thảo dân” mà câu
“Cỏ may khâu kín chân trời/ Thơ buồn nẫu cả nụ cười gái quê” như là
một dấu ấn đóng vào lý lịch văn chương của anh.
Nhận xét một cách tổng quát, cả ba tập, phần lục bát đều rất ấn
tượng, nếu không nói là nổi trội hơn so với phần còn lại. Tuy nhiên,
mỗi tập, mảng lục bát lại có mức độ thành công đậm nhạt khác nhau.
Nếu “Ở trọ hồn làng” cái tôi trữ tình đằm thắm, duyên dáng bao
nhiêu, thì ở “Cỏ cháy” tư cách công dân trực diện đột phá dữ dội
bấy nhiêu. Bến chuồn chuồn được xem như một thi tập trung dung,
nhưng nếu khai thác đến cùng thủ pháp ẩn dụ đa tầng qua khá nhiều
câu thơ cô đọng, giầu chất trí tuệ như một sự chiêm nghiệm nỗi đau
nhân thế, người đọc sẽ thấy Phạm Xuân Trường đã có công đổi mới
thi pháp lục bát.
…Lục bát Phạm Xuân Trường vừa hiện đại vừa kế thừa và
phát triển được những tinh hoa của thi pháp ca dao cổ. Thơ anh giầu
hình ảnh, chẳng những ý tứ phong phú mà còn hàm chứa tư tưởng
thời đại. Kỹ năng viết lục bát của Phạm Xuân Trường đã đạt đến độ
nhuần nhuyễn với những khám phá có chất lượng thông qua các
biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, thậm xưng, phúng dụ...
Nhưng điều đáng trân trọng ở nhà thơ đất cảng này là, anh đã thổi
bùng lên ngọn lửa đam mê vào lục bát hiện đại, một thể loại thơ vốn
được xem là hồn dân tộc.
( Trích “Phạm Xuân Trường:Người thổi bùng lên
ngọn lửa Đam mê vào lục bát hiện đại )
Chí Linh, 23-9-2011
Đ.V.S
83
84. PHẠM XUÂN TRƯỜNG.
Một đời thợ giỏi, làm thơ,
Đóng tàu nuôi chí, ước mơ đổi đời**.
“Chân đất, điếu cày lên ngôi”(1).
Cháy trang thơ, cháy đỏ trời – xót đau !
“Cỏ cháy”, cháy trụi, cháy sâu,
Nỗi đau nhân thế ! Nỗi đau để đời !
Tứ thơ sâu thẳm, tình người,
“Chọi trâu”(2)-Thua, thắng “Hồn phơi nắng vàng”(3)
“Mồ côi, đàn nghé kêu hoang,
Và bao trâu mẹ đội tang đi tìm”(3).
Đau lòng án “Lệ Chi Viên”(4).
Thi nhân tiếc nuối tầm nhìn Nguyễn xưa(5)
Đắng cay, đọc những trang thơ...
Thấy “ thơ mất máu”(6), sống vờ đắm say !
Thơ Xuân Trường, tứ sâu, cay...!
Khát khao tìm hướng để xoay chuyển hồn.
“Cỏ cháy”*với “Bến chuồn chuồn”*
Hồn thi nhân đượm nỗi buồn nhân gian.
Nỗi đau “Ở trọ hồn làng”*
“Ba đời lý lịch trích ngang”, “Đổi màu”(7)
84
85. Thơ “Chân dung” – tập tiếp theo(8)
Còn nhiều câu chữ vẫn gieo nỗi sầu.
Chờ anh những tập thơ sau,
Đổi mới , sáng tạo sắc màu thi ca.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
**: Phạm Xuân Trường là thợ đóng tàu giỏi, say mê sáng chế (bậc 7/7)
Anh đã đóng hai con tàu theo mẫu tàu Emerost (Tàu Pháp) thu nhỏ lại dài
1,25m để ngay phòng ở nhà. Anh đóng tiếp con tàu lịch sử TITANIC.Anh
là người tài hoa và nghị lực.
*: Tên các tập thơ của Phạm Xuân Trường.
(1):Trích trong bài “Làm vua” – Tập “Cỏ cháy”.
(2); “Chọi trâu” in trong tập “Ở trọ hồn làng”.
(3):Trích bài thơ “Chọi trâu”
(4):Ý thơ rút từ bài “Qua ô chợ Dừa” trong tập “Bến chuồn chuồn”
(5): Nguyễn Trãi.
(6):Trích trong bài thơ 4 câu:
“Cả đời chỉ sống giả vờ,
Câu thơ “Ba chỉ” lập lờ trắng đen.
Lấy thương hiệu dởm làm men
Câu thơ mất máu chỉ quen sống vờ.
(7); Trích tập thơ “Ở trọ hồn làng”.
(8):Tập thơ “Ấn tượng trong tôi”- Thơ chân dung của P.X.T.
85
86. 10. VĂN XÂY
(1932-1995)
A. TIỂU SỬ
+Tên thật : Phạm Đình Đa.
+Bút danh: Minh Đà, Văn Xây
+Năm sinh: 1932. Mất năm 1995
+Quê quán :Xã Đà sơn, Đô lương, Nghệ An.
+Nghề nghiệp:Phóng viên các báo Quảng Ninh
Phóng viên báo Hải Phòng.
+Hội viên Hội nhà báo Việt Nam.
86
87. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
+ Báo Văn nghệ
+ Báo Hải Phòng
+ Báo Quảng Ninh.
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Bắt mạch thầy lang (Thơ trào phúng, NXB Văn học – 1995 )
+ Thơ đăng ở các báo, tạp chí TW và địa phương từ 1953
* GIẢI THƯỞNG:
+ Giải thưởng thơ trào phúng( Báo Văn nghệ 1983-1984)
87
88. *NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
*
1. BẮT MẠCH THẦY LANG.
Chuyện này rõ thật là ngang,
Bệnh nhân bắt mạch thầy lang, ngược đời.
Biết thầy có máu bia hơi,
Bênh nhâm liền có một vài chai dâng.
Biết thầy gà nếp đang mong,
Bệnh nhân sẵn có dăm cân làm quà.
Đoán thầy cần gạch xây nhà,
Phiếu nguyên vật liệu xì ra tặng thầy.
Thầy liền chữa trúng bệnh ngay,
Phiếu cấp thuốc quý, tăng ngày nghỉ thêm.
Nhập viện, chế độ ưu tiên,
Xuất viện muốn được kê thêm thước gì.
Muốn điều dưỡng cũng chuyển đi.
Tham quan , nghỉ mát khó gì chẳng cho.
Muốn về mất sức khỏi lo,
Có ngay bệnh án hồ sơ đàng hoàng…
Rõ ràng còn có nơi ngang,
Bệnh nhân bắt mạch thầy lang –
Ngược đời!
1981
VĂN XÂY.
88
89. 2. KÍNH CHUYỂN.
Chưa thông tôi viết đơn lên
Đơn tôi khiếu với cấp trên việc này
Qua đường bưu điện bao ngày
Vòng vèo mãi mới đến tay người trình
Đơn tôi được bóc xem nhanh
Rồi phê và chuyển các ngành, các ban
Ngành ban ngâm một thời gian
Lại phê chuyển cấp trung gian xét cùng.
Trung gian chuyển đến ban, phòng
Thêm con dấu đỏ mấy vòng loanh quanh
Chuyển về cơ sở thi hành
Điều tra nghiên cứu sự tình đúng sai
Cấp cơ sở chuyển tận nơi
Chuyển đến hỏi lại chính người tôi thưa
Lên lên, xuống xuống tháng vừa
Thưa lên thưa xuống bằng thừa, phí công
Mong trên thấu tỏ nỗi lòng
Bớt phần kính chuyển, bớt vòng loanh quanh
Đơn từ cần giải quyết nhanh.
1976
VĂN XÂY.
89
90. 3 .CHẠY
Không cần đoạt giải quán quân
Không cần luyện tập. không cần cắt băng
Không cần phải có mặt đường
Không cần giám khảo, hội đồng chấm thi
Không cần đồng đội nhất, nhì…
Chạy đây đâu phải chạy thi mà cần!
Chạy này chả phải bằng chân
Chạy công, chạy việc phải cần đường riêng
Chạy lên “Xì xụp” cấp trên
Chạy mua tình cảm anh em các ngành
Chạy trên các chuyến tốc hành
Chạy đường cửa hậu để nhanh hơn người!
1975
VĂN XÂY.
90
91. C. NHẬN XÉT:
1. Văn xây là một nhà báo có nhiều đóng góp cho sự nghiệp báo
chí.
Anh là một trong những cây bút xuất sắc trên mặt trận chống tiêu cực.Anh
đã tham gia viết cho nhiều báo trung ương và địa phương. Anh đã đạt giải
thưởng cuộc thi thơ trào phúng do Báo Văn Nghệ tổ chức năm 1983-1984.
“Bắt mạch thầy lang” là tập thơ trào phúng của Văn Xây do nhà
xuất
bản Văn học xuất bản năm 1995 đã được đông đảo bạn đọc đón nhận. Nhà
thơ, nhà báo Văn Xây đã thẳng thắn phê phán những thói hư tật xấu,
những tệ nạn đang lây nhiễm trong đời sống xã hội.Thơ Văn Xây thực sự
thức tỉnh nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều người, góp phần làm đẹp cho đời.
Hầu hết các sáng tác của Văn Xây vẫn còn nguyên giá trị trong đời
sống xã hội hiện nay.
2. Tự bạch.
Tên thường thì gọi Đình Đa,
Thơ tình tôi ký MINH ĐÀ cho hay.
Đời còn kẻ tỉnh, người say,
Thơ châm tôi ký VĂN XÂY với đời !
( VĂN XÂY )
91
92. VĂN XÂY.
“Đời còn kẻ tỉnh, người say,
Thơ châm tôi ký Văn Xây với đời”(1)
“Bắt mạch thầy lang” kịp thời.
Bắt mạch cuộc đời, Anh thật uyên thâm!
Nào “ông lo chạy”, ông “ngâm”,
“Thừa”, , “Quà biếu”, “Ông chôn ông”lạ kỳ!
“Chạy”, “Ngược”, “Thấy và nghe”, “lỳ”.
“Đầu voi đuôi chuột”, “Cắt đi”cho rồi
“Hoàn thành kế hoạch”...Ôi thôi...!
“Xe con cho... con”ông ngồi “Cược”, “Quay”...
“Ngày mai...rồi mai”...lại mai...
“Dịch vụ” phen này vớ bở, kiếm ăn.
“Kính chuyển”, “Lên với cấp trên”.
Phong bì, tôm, mực gói thêm đẫy vào.
Kẻo đơn thưa gửi lộn nhào.
Chuyển về cơ sở - người nào dám thưa?
“Hợp đồng” “Hợp tác xã ma”
.Làm ăn cái kiểu “Tréo ngoe”lũ “Hèn”.
Cuộc đời “Thật...giả”, bon chen.
Kẻ say, người tỉnh...Anh lèn rõ đau !
Văn Xây! Anh đang ở đâu ?
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
CHÚ THÍCH :
+ (1) Trích bài thơ đề trang 5, Tập thơ “Bắt mạch thầy lang”
+Các từ in nghiêng đậm là tên các bài thơ trong tập “Bắt mạch thầy
lang”
92
93. TÁC GIẢ ĐỀ NGHỊ BAN BIÊN TẬP IN:
*Trong trang bìa phía trước: *Mặt ngoài bìa phía sau:
THƠ IN TRONG CÁC TUYỂN TẬP:
ảnh -Tấm lòng nhà giáo nxb Giáo dục
NGUYỄN CẢNH ÂN -Hương thơ Đất Việt nxb Văn học.
Bút danh: Cẩn Anh -Còn mãivớithời gian nxb Lao động.
Năm sinh: 1946 -Thơ nhà giáo HP nxb H phòng.
Quê quán: Đô lương, Nghệ An -Dấu ấn những gương
Địa chỉ: 395 Lê Thánh Tông, mặt thơ hiện đại nxb Văn học
Hải Phòng -Tác giả thơ-chân dung
ĐT: 0313766803- 0934297899 và phong cách nxb VHTT
Cử nhân Văn khoa ĐHSP Hà Nội. -Thơ nhà giáo nxb Văn học
Nghề nghiệp: Nguyên Hiệu trưởng, - Nhớ Đô lương nxb VHTT
dạy học và sáng tác văn học.
HỘI VIÊN: TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
-CLB thơ nhà giáo Hải Phòng. 1.Chân dung thi nhân
-CLB sáng tác VHNT Việt Nam. Việt Nam nxb VHTT
2.Trăng Tam Đảo nxb Văn học
GIẢI THƯỞNG: 3. Nghề dạy học nxb VHTT
-Giải ba (không có giải nhất) cuộc 4.Chân dung thi nhân
Thi thơ quốc gia “Hương Thơ Hải Phòng (Tập I) nxbVăn học
Đất Việt”- Năm 2013 5.Các nhà thơ Hải phòng
Có thơ xuất bản, đăng báo và (Chân dung – tập II) nxbVăn học
In chung nhiều tuyển tập.
Đề nghị Ban biên tập quan tâm đến nguyện vọng của tác giả. Cảm ơn !
Ngày 29/4/2014.
Tác giả:
NGUYỄN CẢNH ÂN.
93
113. ảnh
PHẠM XUÂN TRƯỜNG.
( 1947)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Phạm Xuân Trường.
+ Bút danh:
+ Sinh năm 1947
+ Quê quán: Hải Phòng.
113
114. + Nghề nghiệp: Đóng tàu ( Thơ bậc cao 7/7), sáng tác văn học.
+ Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng
+ Hội viên Hội nhà văn Việt Nạm.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* THAM GIA VIẾT:
+ Tạp chí cửa biển.
+ Các báo trung ương và địa phương.
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Hai tập thơ đầu in chung.
+ Cỏ cháy ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2006)
+ Ở trọ hồn làng ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2007 )
+ Bến chuồn chuồn ( thơ – NXB Hội nhà văn, 2010 )
+ Ấn tượng trong tôi ( Thơ chân dung...)
+ Chim bìm bịp ( kịch bản phim – Đoàn Lê đạo diễn )
+ ...
* GIẢI THƯỞNG:
+ Tập thơ “Cỏ cháy” đạt giải C ( không có giải A,B) của liên
114
115. hiệp các Hội VHNT toàn quốc năm 2007.
+ Kịch bản phim “Chim bìm bịp”,Đoàn Lê đạo diễn-đạt giải ba.
+ Đạt giải ba thi thơ lục bát của báo “GD&TĐ”(1996-1997)
* NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
*
1. CHÔN DỌC
Phạm Xuân Trường
Bố chết con đừng chôn ngang
Bây giờ tấc đất tấc vàng con ơi!
Ngửa mặt nhìn chỉ thấy trời
Chôn dọc cho bố nhìn đời thẳng cong
Để mà thấu rõ đục trong
Biết ai gan ruột thật lòng với ai
Và ai trong cuộc đứng ngoài
Lựa màu gió thổi đậm phai sắc hồng
Ai về sau bão sau giông
Những hòn máu đỏ nuôi không nên người
Ai từ muôn dặm trùng khơi
Trở về ban phát nụ cười cho quê
115
116. Kìa ai nửa tỉnh nửa mê
Trắng tay còn một câu thề chặt đôi
Đất đai giờ đã lên ngôi
Tình người đồng kẽm buông xuôi giữa đời
Đất đai đã hóa vàng mười
Chôn ngang tốn đất cho người chết sau
Sống thì làm khổ lẫn nhau
Bố không mong có kiếp sau luân hồi.
( “Cỏ cháy”- NXB Hội Nhà văn- 2006)
2. MUỐI DƯA.
Phạm Xuân Trường.
Mải đi về phía cầu vồng
Quay về cải đã lên ngồng… khổ chưa
Em ngồi phơi kỷ niệm xưa
Muối thời con gái làm dưa ăn dần.
*
. 3. VỀ ĐI EM.
Phạm Xuân Trường
116
117. (…)
Phận gốc rễ doc, rễ ngang
Nuôi bao tầm gửi nghênh ngang một thời.
Ngồi chăn kiến hóa tóc vôi
Giời xanh, Cuội tập nói lời Quân vương
( Trích “Cỏ cháy”)
C NHẬN XÉT:
“Vốn là thợ cơ khí bậc 7/7, cái nghề xem ra chả liên quan gì
đến “sự bút nghiên”, ấy thế mà như một thứ định mệnh, Phạm Xuân
Trường ngẫu hứng se duyên với lục bát, và sau hơn ba chục năm
lăn lộn trong cõi đời gió bụi, ngọt ngào thì ít, đắng cay lại nhiều, lục
bát đã hơn một lần làm nên gương mặt nhà thơ “thảo dân” mà câu
“Cỏ may khâu kín chân trời/ Thơ buồn nẫu cả nụ cười gái quê” như là
một dấu ấn đóng vào lý lịch văn chương của anh.
Nhận xét một cách tổng quát, cả ba tập, phần lục bát đều rất ấn
tượng, nếu không nói là nổi trội hơn so với phần còn lại. Tuy nhiên,
mỗi tập, mảng lục bát lại có mức độ thành công đậm nhạt khác nhau.
Nếu “Ở trọ hồn làng” cái tôi trữ tình đằm thắm, duyên dáng bao
nhiêu, thì ở “Cỏ cháy” tư cách công dân trực diện đột phá dữ dội
bấy nhiêu. Bến chuồn chuồn được xem như một thi tập trung dung,
nhưng nếu khai thác đến cùng thủ pháp ẩn dụ đa tầng qua khá nhiều
câu thơ cô đọng, giầu chất trí tuệ như một sự chiêm nghiệm nỗi đau
nhân thế, người đọc sẽ thấy Phạm Xuân Trường đã có công đổi mới
thi pháp lục bát.
117
118. …Lục bát Phạm Xuân Trường vừa hiện đại vừa kế thừa và
phát triển được những tinh hoa của thi pháp ca dao cổ. Thơ anh giầu
hình ảnh, chẳng những ý tứ phong phú mà còn hàm chứa tư tưởng
thời đại. Kỹ năng viết lục bát của Phạm Xuân Trường đã đạt đến độ
nhuần nhuyễn với những khám phá có chất lượng thông qua các
biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, thậm xưng, phúng dụ...
Nhưng điều đáng trân trọng ở nhà thơ đất cảng này là, anh đã thổi
bùng lên ngọn lửa đam mê vào lục bát hiện đại, một thể loại thơ vốn
được xem là hồn dân tộc.
( Trích “Phạm Xuân Trường:Người thổi bùng lên
ngọn lửa Đam mê vào lục bát hiện đại )
Chí Linh, 23-9-2011
Đ.V.S
PHẠM XUÂN TRƯỜNG.
Một đời thợ giỏi, làm thơ,
Đóng tàu nuôi chí, ước mơ đổi đời**.
“Chân đất, điếu cày lên ngôi”(1).
Cháy trang thơ, cháy đỏ trời – xót đau !
“Cỏ cháy”, cháy trụi, cháy sâu,
Nỗi đau nhân thế ! Nỗi đau để đời !
Tứ thơ sâu thẳm, tình người,
“Chọi trâu”(2)-Thua, thắng “Hồn phơi nắng vàng”(3)
“Mồ côi, đàn nghé kêu hoang,
Và bao trâu mẹ đội tang đi tìm”(3).
118
119. Đau lòng án “Lệ Chi Viên”(4).
Thi nhân tiếc nuối tầm nhìn Nguyễn xưa(5)
Đắng cay, đọc những trang thơ...
Thấy “ thơ mất máu”(6), sống vờ đắm say !
Thơ Xuân Trường, tứ sâu, cay...!
Khát khao tìm hướng để xoay chuyển hồn.
“Cỏ cháy”*với “Bến chuồn chuồn”*
Hồn thi nhân đượm nỗi buồn nhân gian.
Nỗi đau “Ở trọ hồn làng”*
“Ba đời lý lịch trích ngang”, “Đổi màu”(7)
Thơ “Chân dung” – tập tiếp theo(8)
Còn nhiều câu chữ vẫn gieo nỗi sầu.
Chờ anh những tập thơ sau,
Đổi mới , sáng tạo sắc màu thi ca.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
**: Phạm Xuân Trường là thợ đóng tàu giỏi, say mê sáng chế(bậc 7/7)
Anh đã đóng hai con tàu theo mẫu tàu Emerost(Tàu Pháp) thu nhỏ lại dài
1,25m để ngay phòng ở nhà. Anh đóng tiếp con tàu lịch sử TITANIC.Anh
là người tài hoa và nghị lực.
*: Tên các tập thơ của Phạm Xuân Trường.
(1):Trích trong bài “Làm vua” – Tập “Cỏ cháy”.
(2); “Chọi trâu” in trong tập “Ở trọ hồn làng”.
(3):Trích bài thơ “Chọi trâu”
(4):Ý thơ rút từ bài “Qua ô chợ Dừa” trong tập “Bến chuồn chuồn”
(5): Nguyễn Trãi.
(6):Trích trong bài thơ 4 câu:
“Cả đời chỉ sống giả vờ,
Câu thơ “Ba chỉ” lập lờ trắng đen.
Lấy thương hiệu dởm làm men
Câu thơ mất máu chỉ quen sống vờ.
(7); Trích tập thơ “Ở trọ hồn làng”.
(8):Tập thơ “Ấn tượng trong tôi”- Thơ chân dung của P.X.T.
119
129. MAI VĂN PHẤN.
Thơ kiểu văn xuôi không vần,
Riêng biệt, mới, lạ…,Có cần vậy không(?)
Câu dài, câu ngắn, mung lung…
Dồn nén, cô đặc, tràn bung, đa tầng.
Đất – nước – cỏ - dòng sông…
Những giấc mơ cứ chất chồng đầy thơ.
“Thong dong”- Phong cách thi ca.
“Giọt nắng” – thơ mới chỉ là bản năng.
129