Sách "Nguồn gốc người Việt-người Mường "của tác giả Tạ Đức công bố rừ năm 2014, được nhiều người khen, do không nghiên cứu sâu về vấn đề này, còn người phê phán là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập qua mạng do các tác giả châu Âu...
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1192 - vanhien.vn
Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức
1. Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức.
Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn Hà Nội ngày 22 tháng 8 năm 2016.
Nhà Dân tộc -Âm hhạc học.
Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức công bố rừ năm 2014,
được nhiều người khen, do không hiểu biết về nguồn gốc tư liệu, còn người phê phán
là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập
qua mạng do các tác giả châu Âu Văn kì thanh bất kiến kì hình mà viết về nguồn gốc
người Việt. Là nó bắt nguồn từ nhà khảo cổ học người Thụy Điền OIov Janse trong
cuốn “Việt Nam carrefour des peuples et de civilisations” é,
d. France đã kết luận : “Về
Việt Nam thì nền văn minh Đông Sơn hình như phần lớn của dân nguyên thủy Mã Lai,
và tầng văn minh về sau là của chủng tộc phần lớn nguồn gốcThái”. Trong một số giai
đoạn lịch sử người Đông Sơn có quan hệ gắn bó với các nước ở Viễn Đông và các nước
có nền văn hóa chính thống như Trung Quốc (Classic) . OIov Janse từ năm 1932 -1938
khai quật một số ngôi mộ cổ ở Thạch Trường Thanh Hóa và ở Bắc Ninh(1)
. Hiện vật
trong mộ là của các thế kỉ trước và sau C.N mà phát biểu về sự hình thành của một
dân tộc có nguồn gốc lịch sử 20 ngàn năm trở lại. Dù nhận định sai nhưng được Viện
Bảo tàng Quốc gia Pháp và Mỹ “bảo lãnh” vì 2 đơn vị đó ủy nhiệm cho OIov Janse
công việc khảo cổ ở Việt Nam và Philippin. Cho nên các nhà nghiên cứu khác theo đó
mà xào xáo thành những bài viết của mình và Tạ Đức copi luôn mới biết “nguồn gốc”
của hàng trăm dân tộc ở Đông Nam Á và Hàn Quốc. Tôi nghe Tạ Đưc nói thế mà buồn
cười, song mặc kệ. Nhưng nghĩ lại là người Việt Nam mà “mặc kệ” là thiếu trách
nhiệm.
Ngay những nhà khoa học châu Âu chân chính như nhà Bác học Pháp
L.Bezacier có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử văn minh Việt Nam, cuối đời năm
1972 khi hệ thống lại các công trình của mình cũng đã phải thốt lên lời chua chát rằng:
Phương Tây sau gần một thế kỷ ( giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) nghiên cứu,
hoàn toàn không hiểu, không biết gì chắc chắn cả về nguồn gốc của trống đồng, cũng
như về công dụng và ý nghĩa của nó (
2)
- Nói trống đồng tức là nói nền văn hóa Việt
Nam. Vì thế, tôi hỏi Tạ Đức một điểm như sau.
Nguồn gốc về sự hình thành của một dân tộc có hai cứ liệu: Một là lời Truyền
miệng cùng gia phả, mộ chí và tục thờ cúng Tổ tiên ; hai là tập tục và di vật (khảo cổ).
Ở dân tộc ta, về cứ liệu thứ nhất là sách sử loại chữ Khoa đẩu, nhưng đã bị tàn
phá và xuyên tạc trong ngàn năm Bắc thuộc. Phải đến khi dân tộc ta giành được quyền
tự chủ các bậc Tiên triết đã cóp nhặt từng mảnh vụn để viết về nguồn gốc của dân tộc,
dần dà bổ sung làm thành bốn tập Thời Hùng Vương Dựng Nước. Còn di vật là lời nói
trung thực khách quan nhất được chôn dấu trong lòng đất- Những di vật ấy xuất hiện từ
khi Tổ tiên dân tộc ta mới có nhận thức. Từ Thập kỉ 60 của Thế kỉ 20 đến nay, do giới
khảo cổ của ta khai quật đưa lên mặt bàn.
Đặc biệt: Hiện vật nơi sinh ra con người các dân tộc đều có biểu tượng: Ấn Độ
là Liga Yoni hóa thành thần Siva, Trung Quốc biểu tượng thành chữ “tổ” ( ) trong
chữ “tổ” có bộ thả ( ) nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng hình)
(
3)
, còn dân tộc ta gọi là Nỏ Nường.
Hiện vật Nỏ Nường xuất hiện từ thời đại đồ đá. Đó là đôi thỏi đá ở hang Ki,
huyện Võ Nhai Thái Nguyên (ảnh 1), đôi bàn nghiền bằng đá hình 3 góc ở hang đá Hòa
Bình và Quỳnh Văn Nghệ An (ảnh 2). Hai loại hiện vật này đang trưng bày ở Viện Bảo
1
2. tàng Quốc gia Hà Nội. Tính truyền kì của nó đền thời đương đại là cái cuốc chim và
lưới cày bướm (ảnh 3).
Ảnh 1a . Đôi thỏi đá: Ảnh 2 . Đôi bàn nghiền bằng đá Bảo tàng.
Nguồn Trần Tiêu- Đăng Kỉnh. Ảnh của tác giả.
Ảnh 3a. Cái cuốc chim: Ảnh 3 b: Lưỡi cày bướm:
Ảnh của tác giả Nguồn của Hà Văn Tấn
Về ngôn ngữ. Đứa bé sinh ra con trai gọi là thằng Cò, con gái gọi là cái Hĩm, cha
mẹ đứa bé cũng gọi theo tên con là anh chị Cò, hay anh chị Hĩm; cụ già 80 tuổi mà có
đứa chắt con trai thì cụ được gọi là cụ chắt Cò. Còn tên người đang sống đều kiêng.
Vậy Tạ Đức cho người Mường có gốc từ người Mon, Man đến trước chủ nhân
của văn hóa Phùng Nguên, còn Việt có gốc là người Lava đến sau tạo nên văn hóa
Đông Sơn- nghĩa là không qua thời kì chuẩn bị. Thế là “thần Đèn” chăng.
Việc nghiên cứu nguồn gốc của một dân tộc không thể cắt lát từng giai đoạn thế
được mà phải đi từ khởi nguồn cho đến ngày nay là cùng một dòng tư tưởng và sắc thái,
qua hiện vật khảo cổ. Di vật của dân tộc ta theo “đôi” và “tứ” tất cả chúng đều hướng
sang bên phải, ngay cả đôi chữ “S” và đôi đầu rồng (ảnh 4a b). Đó là vận hành vòng
tròn theo chiều ngược kim đồng hồ. Động thái này được thể hiện trong tập tục của dân
tộc từ khởi thủy cho đến đương đại: Đó là vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng
hồ trong nghi lễ; ở đời thường là gọt vỏ trái cây đặt lưỡi quay ra, xay lúa, dần sàng gạo,
xoay bàn nghiền đồ gốm (không tính làm đồ gốm mới); đi thể dục ở bờ hồ v.v.; đặc biệt
người Kinh khi khởi hành thì chân phải bước trước, ngay từ trẻ mới tập đi là đã theo tập
tính di truyền này.
2
3. Ảnh 4 a. đôi chữ S. Ảnh 4b đôi đầu rồng.
Ngay cái vật hèm mà Mã Viện gọi là đồng cổ (trống đồng) thì đã được Tổ Tiên
chúng ta dân tộc Kinh phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, từ khởi thủy là hoa
văn Núi Đọ Thanh Hóa (ảnh 5 )- ở ảnh 5 này số lượng (cánh sao) chưa rõ.
Ảnh 5: nguồn Hoàng Xuân Chinh.
Đến ảnh 6: Hình a tìm thấy ở khu mộ Đông Sơn, các cánh vẫn chưa rõ, nhưng
đến hoa văn Phùng Nguyên hình b gần rõ 12 cánh và hình c là 14 cánh . Hình 14 cánh
này nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ (Hà Văn Tấn)
Ảnh 6a b,c .
Ảnh 6 a Nguồn của V.Gôlubép (V.Goloubew), ảnh 6 b và 6 c nguồn của Hà Văn
Tấn, sách Theo dấu các văn hoá cổ, Nxb Khoa học xã hội, 1998: 3 hình này ở các trang
hình 6 a là (hình 4 trang 602), hình 6b là ( hình 23trang 612) và hình 6c là (hình 34
trang 659).
Nếu Tạ Đức dùng biện luận và di vật để bác bỏ được 6 ảnh này tôi mới coi Tạ
Đức là người nghiên cứu. Còn loại di vật bằng ngọc của vùng Triết Giang mà Tạ Đức
dẫn thì thần thái khác xa thần thái di vật của cư dân sông Hồng.
Trong khi đó, tôi khâm phục T.S. Nuyễn Việt đúng là nhà nghiên cứu, thành quả
không được hàng mấy trăm trang sách, nhưng để đời không ai chê trách, chỉ biết tôn
trọng.
Tôi đã có bài dài đầy đủ hơn: Bàn thêm về Nguồn gốc người Việt –người
Mường của Tạ Đức.
3
4. Tạ Đức có nói mong mỏi ai có ý kiến gì gửi đến cho Tạ Đức theo địa chỉ, nên
Minh sơn gửi bài này.
Email: duongdinhminhson2012@gmail.com
1 OIov Janse, Bí mật của cây đèn hình người Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 2000 tr 2.
2.
Dẫn theo Phạm Huy Thông Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 1998, tr274.
3
.Trần Chí Lương (Trung Quốc), Đối thoại với Tiên triết về văn hoá phương Đông thế
kỉ XXI, N.x.b Đại học quốc gia Hà Nội 1999 tr 49.
4