3. I. Nguồn gốc của Thiên Chúa Giáo
1. Khái quát về đạo Gia tô
Từ sau thế kỷ XV, Gia tô giáo đã được truyền bá
Đạo Gia tô (nguyên thuỷ gọi là đạo Ki tô) ra đời vào
mạnh mẽ sang nhiều nước . Việt Nam nằm trên ngã ba
thế kỷ I sau công nguyên tại Palestine thuộc đế quốc La
đường hàng hải Đông- Tây nên cũng là điểm du nhập
Mã - tôn giáo của những người bị áp bức. Ban đầu nó bị
Gia tô giáo từ khá sớm
các chủ nô La Mã (nhất là thời hoàng đế Néron) ngăn
cản và bức hại
Từ thế kỷ thứ IX - XI, Kitô giáo có sự phân hoá thành
hai dòng: Chính Thống và Thiên Chúa.
Đến thế kỷ XV, XVIGia Tô tiếp tục có sự phân hoá
thành Anh Giáo và đạo Tin Lành.
5. Thời kỳ hình thành
Đàng ngoài
trong
Vào thế kỷ XVI, các vị Thừa sai Kitô giáo
Các giáo sĩ Dòng Tên cũng bắt đầu truyền bá đạo Giatô từ khá
cũng bắt đầu việc truyền bá Thánh kinh ở
sớm
xứ này.
Kể từ năm 1615 đến 1625, đã có hơn hai mươi giáo sĩ Dòng Tên
Năm 1525, Dòng Tên (Jésuite) phái 21 giáo sĩ
đến Hội An truyền đạo
đến Đàng Ngoài để truyền bá đạo Gia tô
vào Việt Nam.
Đến đầu thế kỷ XIX số lượng giáo dân ở nước ta trở nên đông
Năm 1533. Inêkhu (ignatio) đã theo đường
đảo với các linh mục người Phương Tây và cả người Việt
biển lẻn vào giảng Đạo, Đây được coi là
Nam.
mốc xác định công giáo được du nhập sang
Việt nam
6. Thời kỳ thử thách
Năm 1802,. Gia Long cho phép tự do truyền bá đạo
Công giáo. ”.
Người Công giáo bắt đầu gặp nhiều cuộc cấm đạo kể
từ triều vua Minh Mạng
7. Thời kỳ phát triển
Khi triều đình Huế công nhận sự đô hộ
của Pháp thì Công giáo Việt Nam lúc
đó mới thật sự được tự do, công khai
hoạt động
Số lượng Giáo dân, cơ sở tôn giáo tăng
nhanh
8. Hiện trạng
Công giáo tại Việt Nam hiện có 5,7 triệu tín
đồ trong tổng số dân 82 triệu, với 3.100 linh
mục, 14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh và
53.800 giáo lý viên ( năm 2005)
Ba giáo tỉnh:
Giáo tỉnh Hà Nội: mười giáo phận
Giáo tỉnh Huế: sáu giáo phận
Giáo tỉnh Sài Gòn: mười giáo phận
9. II. Những giá trị - ảnh hưởng của đạo Thiên
Chúa đến Việt Nam
10. 1. Chữ quốc ngữ
Các giáo sĩ thuộc Dòng Tên Jesus đã sáng tạo
ra cách dùng chữ La tinh để ghi âm tiếng Việt.
Ban đầu họ sáng tạo ra chữ Việt để dùng
trong các giáo đoàn
Người Việt nắm bắt được lối viết này và đã
tiếp nhận ngay làm chữ của quốc gia
11. Năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám
Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn
Giá trị văn học: nhiều tác phẩm tiêu biểu, như sách
lại ngày nay
Kinh( Tân ước, Cựu ước), sách sáng thế, sách cầu
nguyền, sách giáo lý,....). Mang giá trị nhân văn, và
Gần cuối thế kỷ thứ 18, chữ quốc ngữ
Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho
tính triết lý sâu sắc.
người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo
mới được trau giũa tốt đẹp gần như chữ
Việt ngày nay.
Và được coi là mở đầu cho công cuộc truyền bá
giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại
Việt Nam.
12. 2. Kiến trúc
Kiến trúc đặc sắc: Đền thờ ( Ngôi Thánh Đường) và các
Một ngôi thánh đường xây dựng với rất nhiều nét
Tòa thánh lễ
đặc sắc phong phú đa dạng, gồm có 3 phần sau:
Tòa phục vụ:( nơi đầu nhà thờ)
Ngôi Thánh Đường là nơi phục vụ các giờ cầu nguyện
và thờ phượng Thiên chúa
Phục vụ giáo dân :( phần thân nhà thờ)
Phần tháp: (phần cuối nhà thờ
14. 3. Phong tục tập quán và lễ hội
Phong tục tập quán:
• Khái niệm bí tích: “là dấu bề ngoài Ðức
Chúa Giêsu đã lập để ban ơn bề trong cho
ta.”
• Mỗi tín hữu đạo Thiên Chúa phải trải qua
sáu trên bảy bí tích của hội thánh.
15. Có tập tục làm dấu thánh giá và cầu nguyện
trước mỗi bữa ăn.
Lễ buộc ngày sabat
Tục buộc giáo dân xưng tội một năm ít là một
lần ( tức tham dự bí tích giải tội)
Người tín hữu Kito: phải học qua một hệ thống
giáo lý, học kinh thánh rất nghiêm khắc
16. Mùa vọng
Mùa giáng sinh
Mùa chay
Lễ hội
Mùa Phục sinh
Mùa quanh năm ( mùa
thường niên )
19. Lối sống
Người kito luôn trải qua ba quá trình là theo đạo,
giữ đạo đến sống đạo.
Theo đạo hay còn gọi là đi đạo, và nghi thức vào
đạo đầu tiên đó chính là chịu phép bí tích rửa tội.
Đạo công giáo có nghi thức đó là trở lại đạo cho
những những tân tòng hay những người lầm lỡ,
đồng thời cho cả những giáo dân của tôn giáo bạn.
21. Sống đạo là dấn thân phục vụ cộng đồng và
xã hội ( hành đạo)
Sống đạo là sống lời chúa và đem lời chúa ra
thực hành, tức là phải biết sống bác ái yêu
thương nhau.
Người Công giáo sống đạo giữa đời chứ không
chỉ sống trong nhà thờ, với Giáo hội
23. III, Mối quan hệ giữa Giáo hội Thiên Chúa
ở Việt Nam với Phương Tây
Cơ cấu tổ chức: Chúa Giáo tại Việt Nam có mối
quan hệ mật thiêt với Phương Tây, là giáo hội địa
phương
Giáo hội Công giáo Việt Nam có tổ chức
phân cấp, mỗi cấp có người trị sự được Giáo
hội chỉ định với ba chức thánh sau: giám
mục, linh mục và phó tế. Hiện ở Việt Nam có
một Hồng y giáo chủ là có vai trò quan trọng
nhất trong việc đưa ra các quyết định cho
toàn giáo hôi
24.
25. IV. Hạn chế của Thiên Chúa Giáo
2 lý do chủ yếu:
1.TCG là tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn
của truyền thống văn hóa phương Tây, do vậy
Tam giáo ( Nho-Phật-Đạo ) bị các giáo
mà trong một thời gian dài khó hòa đồng với
sĩ coi là “mê tín dị đoan” và phủ nhận.
văn hóa Việt Nam.
Quan niệm cực đoan này là “lạc đường
Mâu thuẫn với văn hóa Phương Đông: giữa
và gây trở ngại không thể vượt qua được
truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt
cho việc truyền đạo
Nam với bên kia là tính độc tôn của TCG
không chấp nhận việc thờ cúng ai ngoài Chúa
27. Quá trình hoạt động của Hội truyền giáo nước
ngoài và quá trình bành trướng của chủ nghĩa
thực dân phương Tây có mối quan hệ khá chặt
chẽ.
Sự truyền đạo vào Việt Nam được coi như là
một cánh tay đắc lực của thực dân Pháp và
giáo dân bị coi như kẻ đồng lõa với kẻ xâm
lược