1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai có nguồn gốc tự nhiên, là tặng vật tự nhiên dành cho con người và
loài người. Từ hàng triệu năm qua, đất đai đã được coi là tài nguyên đặc biệt. Đất
đai là “giang sơn gấm vóc” của mỗi quốc gia, là điều kiện để tồn tại, phát triển của
con người và các sinh vật khác trên trái đất. Trải qua nhiều thế hệ, “đất đai nhuốm
máu cha ông” và mỗi “tấc đất” trở thành “tấc vàng”, vô cùng quý giá, thiêng liêng,
khó lấy thước đo nào định giá được.
Dưới sự tác động khai phá của con người, xét trong góc độ kinh tế thị
trường, đất đai trở thành hàng hóa đặc biệt. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành
sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Trong nông
nghiệp, đất đai là chỗ tựa, chỗ đứng, là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng.
Trong công nghiệp, đất đai là nền tảng, làm cơ sở, làm địa điểm để tiến hành
những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh… Đúng như William Petty
đã nói “lao động là cha của của cải vật chất còn đất đai là mẹ”.
Có thể thấy được cái tính chất vô cùng đặc biệt của đất đai là ở chỗ tính
chất tự nhiên và tính chất xã hội đan quyện vào nhau. Nếu không có nguồn gốc tự
nhiên, thì con người dù có tài giỏi đến đâu cũng không tự mình (dù là sức cá nhân
hay tập thể) tạo ra đất đai được. Con người có thể làm ra nhà máy, lâu đài, công
thự và sản xuất, chế tạo ra muôn nghìn thứ hàng hoá, sản phẩm, nhưng không ai có
thể sáng tạo ra đất đai. Hơn nữa, đất đai quý giá còn bởi con người không thể làm
nó sinh sản, nở thêm, ngoài diện tích tự nhiên vốn có của quả đất. Vì thế, khi
chúng ta nói đất đai là hàng hoá, dù có thêm hai chữ đặc biệt vào đó, thì cũng
không lột tả được hết tính chất đặc biệt của đất đai cả về phương diện tự nhiên
cũng như xã hội.
Chính vì thế, sự ứng xử với vấn đề đất đai trong hoạt động quản lý không
thể được đơn giản hoá, cả trong nhận thức cũng như trong hành động. Chủ thể thực
hiện quyền sở hữu, định đoạt, sử dụng đất đai, dù Nhà nước hay người dân cũng
cần phải hiểu đặc điểm, đặc thù hết sức đặc biệt ấy. Bài thảo luận nhóm 1 với chủ
đề “Phân tích vai trò của đất đai trong đời sống kinh tế - xã hội” sẽ làm rõ sự quý
giá vô cùng của tài nguyên đặc biệt này.
2. I. Vai trò của đất đai đối với xã hội.
- Đất đai là đóng vai trò làm địa bàn thực hiện các hoạt động của con
người
1. Đất đai– không gian sống, môi trường sống.
- Để khẳng định đất đai là sản phẩm tự nhiên, chúng ta cùng đi xét quá
trình hình thành Trái Đất.
Trái Đất và các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời đã hình thành từ tinh vân
Mặt Trời - đám mây bụi và khí dạng đĩa do Mặt Trời tạo ra. Quá trình hình
thành Trái Đất được hoàn thiện trong vòng 10 đến 20 triệu năm. Khí thải và
các hoạt động núi lửa tạo ra các yếu tố sơ khai của khí quyển. Trong các
niên đại địa chất, quá trình hình thành và phân rã của các lục địa đã tạo nên
bề mặt trái đất như hiện nay. 71% diện tích bề mặt Trái đất là đại dương
nước mặn, cònlại là đất liền và các đảo.
- Đất đai là nơi phát sinh loài người, nơi con người, động thực vật tồn
tại và phát triển.
Khi có sự hình thành trái đất, các sinh vật nhân chuẩn, sinh vật đơn bào rồi
đa bào là những sinh vật đầu tiên tồn tại. Các dạng sống máu nóng ngày
càng trở nên đa dạng, và một vài triệu năm trước đây thì một loài động vật
dáng vượn ở châu Phi đã có khả năng đứng thẳng. Điều này cho phép chúng
sử dụng công cụ và thúc đẩy giao tiếp cũng như cung cấp các chất dinh
dưỡng và các yếu tố kích thích cần thiết cho một bộ não lớn hơn. Sự phát
triển của nông nghiệp, và sau đó là sự văn minh, cho phép con người trong
một khoảng thời gian ngắn gây ảnh hưởng đến Trái Đất nhiều hơn bất kì một
dạng sống nào khác, thậm chí cả tính chất cũng như số lượng của các
loài sinh vật khác.
- Áp lực vai trò đất đai ngày càng lớn khi dân số ngày càng tăng.
Con người ngày càng gia tăng về số lượng gây nên áp lực lớn đến đất đai.
Diện tích đất đai không tăng, thậm chí ngày càng thu hẹp thì dân số của thế
giới tăng 8,43 triệu ng/1giờ. Nhu cầu của con người ngày càng tăng, nhu cầu
3. về tiêu dùng, thực phẩm, phương tiện vận tải, nhu cầu về năng lượng đã dẫn
đến diện tích đất để sản xuất và ở, phục vụ những nhu cầu này ngày càng
tăng, và 1 lần nữa áp lực về diện tích đất đai gia tăng. Ở nước ta, do dân số
tăng nhanh, đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm nên dù năng suất lúa
có tăng nhanh, bình quân lương thực đầu người vẫn tăng chậm. Mỗi năm
tăng thêm từ 1 triệu đến 1,4 triệu lao động. Để đảm bảo đủ việc làm cho số
lao động này là một việc khó khăn. Trong nông nghiệp tuy còn 10 triệu ha
đất cần lao động nhưng điều cần thiết là phải có vốn, kỹ thuật... Trong công
nghiệp, muốn có việc làm cho 1,3 triệu người trong điều kiện kỹ thuật thấp
kém như hiện nay cần tăng tổng mức đầu tư của toàn xã hội lên từ 5000 tỷ
đồng hiện nay lên đến 15000 tỷ đồng hàng năm. Điều này không dễ dàng,
đấy là chưa kể đến trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại hơn thì số tiền đầu
tư vào cho một chỗ làm việc sẽ tăng lên gấp 10 lần hiện nay hoặc cao hơn.
2. Đấtđai – địa bàn thực hiện các hoạt động của con người.
- Đất đai là sản phẩm tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Các hoạt
động sản xuất đều cần có đất để làm yếu tố đầu tiên then chốt.
3. Vấn đề đặt ra
- Con người tác động đến đất đai.
Trong quá trình phát triển để đáp ứng những nhu cầu cần thiết của
mình, con người đã thu hẹp diện tích đất tự nhiên (rừng, sông..) để xây dựng
các khu công nghiệp, khu du lịch, nhà ở… Các tác nhân ôi nhiễm của con
người đã hủy hoại môi trường và làm ôi nhiễm đất (đô thị hóa, phương tiện
giao thông, tăng cường khai thác độ phì nhiêu của đất…)
Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt động công nghiệp: kết
quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các
khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công
nghiệp Phước Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao
từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.
Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kỹ
thuật trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50%
4. lượng đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay
gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất.
Cạnh tranh giữa các mục đích sử dụng khác nhau đã dẫn đến mâu
thuẫn giữa cung về địa bàn và cầu kinh tế - xã hội. Việt nam ưu tiên mục đích
phát triển kinh tế là hàng đầu, diện tích đất nông nghiệp dần chuyển sang
phục vụ mục đích phi nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ cũng nhờ đó mà
ngày càng phát triển, nhưng nước ta lại đang đứng trước lo ngại về vấn đề
đảm bảo lương thực, xuất khẩu gạo. Đó là chưa nói đến những vấn đề xã hội
như ôi nhiễm môi trường…
II. Vai trò của đất đai đối với kinh tế
1. Tổng quan nền kinh tế
Đối với mỗi ngành kinh tế, đất đai lại có vai trò đặc biệt khác nhau nhưng
vai trò cơ bản nhất đối với mọi ngành kinh tế chính là vai trò làm địa bàn
hoạt động. Chính vì thế một nền kinh tế có phát triển mạnh mẽ hay không,
phát triển có cân đối giữa các ngành hay không phụ thuộc rất lớn vào kế
hoạch, quy hoạch sử dụng đất.
Một ví dụ điển hình là tại Việt Nam.
Sau pháp lệnh nhà ở 1991, Luật Đất Đai 1993 đã mở đường cho thị trường
giao dịch đất đai . Người có quyền sử dụng đất được mua bán trao đổi, cho
thuê, góp vốn, thế chấp…và công dân được tự do mua, thuê bất động sản…
Điều này làm cho địa bàn hoạt động kinh tế của các ngành mở rộng, thông
thoáng hơn.
Tổng kết sau gần 20 năm đổi mới, từ năm 1994, tốc độ tăng trưởng kinh tế
luôn đạt mức cao, trên 5,3%, năm 2008 ước tính bình quân thu nhập đầu
người đạt 1.047USD. Đây là mốc đánh dấu Việt Nam thoát khỏi nhóm
nước nghèo (nhóm có thu nhập thấp nhất).
5. Năm Tốc độ tăng trưởng (%) GDP/đầu người (USD)
1995 9,54 288
2000 6,79 391
2001 6,84 413
2002 7,20 440
2003 7,26 492
2004 7,70 552
2005 8,43 636
2006 8,17 723
2007 8,50 835
2008 6,23 1.047
2009 5,32
Tất nhiên, đất đai không phải là yếu tố duy nhất tạo nên sự phát triển kinh tế
nhưng là yếu tố then chốt, đóng góp vào hiệu quả đầu tư, tỷ lệ gia tăng sản
xuất cho các ngành. Chúng ta sẽ xem xét kỹ lưỡng vai trò của đất đai đối
với các ngành công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ - khai khoáng.
2. Vai trò đất đaiđối với công nghiệp
_ Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế:
Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công
nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. Trong nền kinh tế
hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cùng nhau tham gia
hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
thì vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hóa ở nước ta là một tất yếu khách
6. quan của lịch sử nước nhà. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta là
một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa
so với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải sử dụng quỹ đất cho công nghiệp sao cho
thật hợp lý, hiệu quả vừa đạt được mục tiêu phát triển công nghiệp, vừa cân
đối ổn định quỹ đất với các ngành khác
_ Vai trò của đất đai đốivới ngành côngnghiệp:
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội .
Tuy vậy đối với từng ngành cụ thể của nền kinh tế quốc dân , đất đai có vai
trò khác nhau.
+) Trong ngành công nghiệp chế tạo , chế biến , đất đai chỉ đóng vai
trò là cơ sở không gian , là nền tảng, vị trí để thực hiện quá trình sản xuất.
Quy trình sản xuất sản phẩm ở đây không phụ thuốc vào tính chất và độ
màu mỡ của đất đai. Ví dụ : Làm mặt bằng sản xuất, xây dựng nhà xưởng
không cần quan tâm đến độ phì của đất, chất đất. Có chăng chỉ cần quan
tâm đến tính chất vật lý của đất để có các biện pháp xử lý nền móng phù
hợp.
+) Trong ngành công nghiệp khai khoáng, ngoài vai trò cơ sở không
gian , đất đai còn là kho tàng cung cấp các nguyên liệu khoáng sản quý giá
cho con người. Quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào
chất lượng đất. Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa
dạng, phong phú với gần 5.000 mỏ và điểm quặng của khoảng 60 loại
khoáng sản khác nhau. Tổng lượng than xuất khẩu của cả nước năm 2009
lên gần 25 triệu tấn, tăng 29,1% và đạt kim ngạch 1,32 tỷ USD, giảm 5,15%
so với năm 2008. Cũng như tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản là tài
sản, là điều kiện và nguồn lực rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy, đối với Việt Nam, một nước đang
trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển, nguồn tài nguyên đất đai và tài
nguyên khoáng sản lại có vai trò rất lớn trong quá trính thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
_Thực trạng đất công nghiệp
7. Kể từ khi KCX Tân Thuận với diện tích hơn 300 ha tại Thành phố Hồ Chí
Minh là khu chế xuất đầu tiên được thành lập vào cuối năm 1991, đến nay
chúng ta đã có 228 KCN, KCX (bao gồm 225 KCN và 03 KCX) được thành
lập với tổng diện tích đất tự nhiên 58.220 ha, trong đó diện tích đất công
nghiệp có thể cho thuê là 38.075 ha, chiếm 65,5% tổng diện tích đất tự
nhiên. Các KCN, KCX phân bố ở 54 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó
tập trung ở 3 Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, miền Trung và miền Bắc
với tổng số 149 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên trên 49.232 ha (chiếm
trên 80,9% tổng diện tích các KCN cả nước).
3. Vai trò đất đaiđối với nông nghiệp.
- Vai trò của đất đai:
Đất đai tham gia vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy vậy, đối với
từng ngành cụ thể thì đất đai có nhũng vai trò cụ thể khác nhau. Riêng với
sản xuất nông nghiệp thì đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng. Nông nghiệp
là quá trình sản xuất dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, do những quy luật vận
động của tự nhiên tạo nên. Đất đai không chỉ là chỗ đứng, chỗ tựa của lao
động, mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng và thông qua sự phát
triển của sản xuất trồng trọt mà cung cấp thức ăn cho gia súc. Do đó, đất đai
là tư liệu sản xuất chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp mà không gì có thể
thay thế. Không có đất đai, không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nông
nghiệp vì đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động.
+ Đất đai là đối tượng lao động:
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, con người với kinh nghiệm, khả
năng lao động và các phương pháp canh tác khác nhau như: thâm canh, tăng
vụ… tác động vào đất đai, làm thay đổi chất lượng đất đai nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi phù hợp với từng mục đích sử dụng như đất trồng
lúa, đất trồng cây lâu năm, đất trồng hoa màu, đất trồng rừng, đất nuôi trồng
thuỷ sản…
+ Đất đai là tư liệu lao động:
Trong quá trình lao động nông nghiệp, con người đã sử dụng yếu tố đất
đai như là một tư liệu lao động không thể thiếu được. Đất đai là điều kiện
8. sống của cây trồng, vật nuôi cung cấp các chất dinh dưỡng, các yếu tố lý
học, hoá học, sinh vật và các tính chất khác để cây trồng, vật nuôi có thể
sinh trưởng và phát triển
- Vấn đề đặt ra:
Việc sử dụng đất đai phải ưu tiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
đầu tiên. Sự thay đổi vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế đang đặt
ra nhiều thách thức cho các nhà quản lý. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, nhu cầu sử dụng đất phi nông nghiệp cũng tăng cao theo dẫn tới việc đất
nông nghiệp đang dần bị thu hẹp để thay vào đó là các khu công nghiệp, các
sân golf, các khu chung cư… gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp.
Bên cạnh đó, chất lượng đất nông nghiệp cũng đang bị uy hiếp của
các hiện tượng xói mòn do mất rừng đầu nguồn hay đất nhiễm mặn, nhiễm
phèn ở các khu vực cửa sông, cửa biển… do hiện tượng nước biển dâng cao
hay là ô nhiễm đất, ô nhiễm các mạch nước ngầm do hoạt động sinh hoat,
sản xuất, kinh doanh của con người gây ra những tổn thương lâu dài hoặc
vĩnh viễn cho đất đai. Trong khi đó, nhu cầu đối với gỗ tự nhiên và các sản
phẩm lâm nghiệp đang thu hẹp diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng
cây lâu năm đang gây những tác động xấu tới cả diện tích và chất lượng của
đất nông nghiệp.
Việt Nam hiện nay có trên 85 triệu dân đứng thứ 13 thế giới là một thị
trường có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm nông nghiệp. Theo thống kê,
sản lượng các loại lương thực ngũ cốc bình quân trên đầu người của Việt
Nam hiện nay là 501.8kg/người vẫn thấp hơn mức trung bình của thế giới.
Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2008 là 156681,9 tỷ đồng trong khi
năm 1998 chỉ là 99096,2 tỷ đồng tăng gần gấp đôi sau 10 năm trong khi
GDP phải mất khoảng 70 năm để đạt được thành tựu đó. Giá trị xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam mỗi năm đạt khoảng 9191,7 triệu đô la Mỹ, và
thường xuyên duy trì trong nhóm 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, nhu cầu thực tế còn cao hơn thế rất nhiều và không ngừng
tăng lên qua từng năm, từng giai đoạn phát triển. Điều này cho thấy nhu cầu
9. sản xuất nông nghiệp là rất lớn, kéo theo đó là nhu cầu sử dụng đất trong
nông nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng. Thế nhưng việc sử dụng đất nông
nghiệp hiện nay chưa thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc nông dân
trồng trọt, chăn nuôi không theo quy hoạch vùng, quy hoạch ngành mang
tính tự phát cao đang gây ra lãng phí tài nguyên đất rất lớn.
4. Vai trò đất đaiđối với ngànhdịch vụ.
Đất đai là nguồn của cải, là tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là
thước đo sự giàu có của 1 quốc gia.
Đối với các ngành dịch vụ phi công-nông nghiệp: đất đai có chức
năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động. Quá
trình sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ không phụ thuộc vào đặc điểm, độ
phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự nhiên có
trong đất.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá
trình sản xuất. Con người cũng ngày càng sử dụng đất đai với nhiều mục
đích khác nhau, ngoài cư trú xây dựng sản xuất, giao thông đường sá… mà
còn phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Ví dụ 1 khu đất có
vị trí địa hình đẹp thuận lợi cho du lịch người ta có thể xây dựng ở đó những
khu nghỉ dưỡng, bãi tắm, resort, khu vui chơi giải trí...trong trường hợp này,
đất đai là có lợi ích kin tế rất lớn đốivới chủ thể sở hữu nó.
Ngày nay với sự phát triển của xã hội loài người, giá trị đóng góp của
các ngành dịch vụ vào GDP mỗi nước ngày càng tăng và chiếm 1 vị trí quan
trọng không thể thiếu đối với mỗi nước, điều đó gây áp lực về cường độ sử
dụng đất. Thực tế giá đất ở các khu kinh doanh dịch vụ bao giờ cũng cao
hơn giá đất nông nghiệp và công nghiệp ở nước ta. Theo những nghiên cứu
cho thấy là 1ha đất nông nghiệp thì chỉ cần khoảng 3-5 lao động, nhưng 1 ha
đất sử dụng cho mục đích phi nông nghiệp thì có thể huy động hàng trăm lao
động. Như vậy, với đất dich vụ thì có thể giải quyết cơ bản vấn đề việc làm.
Để thực hiện đúng vai trò của đất đai, nhà nước phải có quy hoạch sử dụng
đất cụ thể đối với từng vùng. việc làm. Để tránh lãng phí đất nhà nước cần
10. cân đối quỹ đất dành cho các ngành. Phải có 1 quỹ đất ưu tiên phát triển
công nghiệp, dịch vụ nhưng không làm ảmh hưởng đến đất nông nghiệp. ví
dụ, đối vơi miền núi, khuyến khích chuyển đất nông nghiệp sang sản xuất
công nghiệp, dịch vụ, nơi mà điều kiện sản xuất nông nghiệp bấp bênh, gắn
với việc đầu tư hạ tầng cho vùng này, đào tạo nguồn nhân lực, bố trí lại dân
cư để đẩy nhanh xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế của vùng đặc biệt
khó khăn và vùng miền núi. Mặt khác, Chính phủ cần đầu tư nghiên cứu,
phát triển đường sá, điện, cơ sở hạ tầng tại những khu vực đất cằn, đồi núi,
hiện ở chưa có đường giao thông, để kéo các nhà đầu tư đến, tránh việc để
các nhà đầu tư chỉ chọn những nơi ven quốc lộ, thuận tiện cho giao thông.
- Vấn đề đặt ra
Tuy nhiên, bên cạnh việc phát triển và đô thị hóa cũng làm mất rất nhiều
đất nông nghiệp. Đây là một nhu cầu tự nhiên của quá trình phát triển.
Nhưng nếu có tầm nhìn thì vẫn có thể giữ được đất nông nghiệp mà không
ảnh hưởng đến phát triển đô thị. Đó là việc đưa các đô thị lên vùng đồi gò và
phát triển đô thị theo chiều cao chứ không theo chiều rộng. Chẳng hạn như
thủ đô Hà Nội với 6 triệu dân và trong tương lai là 10 triệu năm 2020, nếu
phát triển theo chiều cao thì sẽ tiết kiệm nhiều được quỹ đất. Kinh nghiệm
của các đô thị lớn trên thế giới như Hồng Kông, New York, Toky, Thượng
Hải…diện tích thì ít nhưng có rất nhiều người sinh sống và làm việc. Đó là
những nơi này xây dựng các tòa nhà lớn và cao – trên dưới 30 tầng, không
cho phép xây nhà dưới 20 tầng. Hà Nội hiện vẫn lãng phí tài nguyên đất khi
xây nhà qúa thấp, các khu đô thị mới chỉ xây trên dưới 20 tầng nhưng lại
dành một phần cho xây cái gọi là “ biệt thự thấp tầng”. Trong khi diện tích
đất ở trung bình của người dân thu hẹp lại, vậy tại sao không nâng chiều cao
các ngôi nhà lên 30 tầng hay 40 tầng để thêm chỗ cho hàng nghìn người
khác, mà không phải lấy ruộng xây nhà?
11. KẾT LUẬN
Luật Đất đai 1993 có ghi: “ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu vực dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an
ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân đan tốn bao nhiêu công sức, xương
máu mới tạo lập, bảo vệ vốn đất đai như ngày nay”. Nhìn nhận được vai trò vô
cùng quan trọng của đất đai trong đời sống kinh tế- xã hội, chúng ta cần có những
biện pháp khai thác hợp lý đồng thời giữ gìn vẻ đẹp sinh thái hoàn chỉnh của đất.