26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
Tình huống thuyết minh về di tích lịch sử miếu bảo hà – ngôi miếu cổcủa xã đồng minh huyện vĩnh bảo thành phố hải phòng
1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI PHÒNG
PHÒNG GD- ĐT QUẬN HỒNG BÀNG
TRƯỜNG THCS HỒNG BÀNG
Thông tin học sinh:
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Trang Nhung Giới tính: Nữ
Ngày sinh: 16-12-2001 Lớp: 9A4
Điện thoại: 01288494397
2. Họ và tên : Phan Minh Đức Giới tính: Nam
Ngày sinh: 25-09-2002 Lớp: 8A5
Điện thoại: 0913243886
Thông tin về giáo viên hướng dẫn:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thư Giảng dạy môn: Ngữ văn, Lịch sử.
Ngày sinh: 05- 10 - 1978 Giới tính: Nữ
Điện thoại: 0944308066 Email: thubahp@gmail.com
Thông tin về đơn vị quản lý trực tiếp học sinh dự thi:
Trường: THCS Hồng Bàng
Địa chỉ : Số 4 Đinh Tiên Hoàng, Hồng Bàng, Hải Phòng
Số điện thoại: 0313 822606
Email: thcshongbang@hongbang.edu.vn
Hải Phòng, ngày 16 tháng 11 năm 2015
2. 1.TÊN TÌNH HUỐNG:
THUYẾT MINH VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ MIẾU BẢO HÀ – NGÔI MIẾU CỔ
CỦA XÃ ĐỒNG MINH HUYỆN VĨNH BẢO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG.
Kỳ nghỉ hè vừa qua, chúng em được bố mẹ cho về quê chơi với ông bà. Trong
kì nghỉ hè đó, em được ông ngoại dẫn đi thăm làng nghề tạc tượng và ngôi miếu cổ
của xã. Sau khi được trải nghiệm cùng ông về chúng em cứ bâng khuâng tự hỏi : Liệu
có bao nhiêu bạn học sinh như chúng em mà chưa biết về truyền thống của quê mình,
cũng như có bao nhiêu bạn đã từng đọc “Thần đồng đất Việt”, đã từng xem múa rối
cạn hay ngắm những pho tượng về các quan văn, quan võ, ông phỗng, về các pho
tượng biết chuyển động … trên khắp Việt Nam, có bao giờ tự hỏi nguồn gốc có từ
làng quê nào ? Chúng em thấy mình có trách nhiệm giới thiệu tới các bạn về ngôi
miếu cổ cũng như làng nghề tạc tượng của quê mình.
2. MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Thứ nhất: Cần tìm hiểu về vị trí địa lí, sự hình thành của xã Đồng Minh –
Vĩnh Bảo – Hải Phòng.
Thứ hai: Nguồn gốc, quá trình hình thành phát triển ngôi miếu cổ và làng nghề
tạc tượng Bảo Hà .
Thứ ba: Biết vận dụng kiến thức các môn Ngữ văn, Giáo dục công dân, Lịch
sử, Địa lí, Vật lí…. để tìm hiểu, thuyết minh đồng thời thể hiện sự tự hào về
di tích lịch sử và làng nghề tạc tượng của xã Đồng Minh .
Thứ tư: Có ý thức, trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, biết kế thừa và
phát huy được các truyền thống quí báu của dân tộc về lòng yêu nước và tinh
thần bất khuất trước kẻ thù xâm lược, các lễ hội truyền thống, với tài hoa của
các nghệ nhân tạc tượng.
3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT
TÌNH HUỐNG
3.1. Thành lập nhóm nghiên cứu:
Gồm hai thành viên: Nguyễn Thị Trang Nhung – Học sinh lớp 9A4, Phan Minh
Đức - Học sinh lớp 8A5 – Trường THCS Hồng Bàng.
2
3. 3.2. Tiến hành nghiên cứu:
Bằng các phương pháp:
- Tìm hiểu đối tượng: Quan sát, thu thập thông tin, tìm hiểu tư liệu liên quan qua
sách báo, mạng xã hội, phỏng vấn những gia đình có nhiều đời sống ở Đồng Minh.
- Phân tích,đánh giá: Phân tích cụ thể về nguồn gốc hình thành và phát triển
của làng nghề tạc tượng, ngôi miếu cổ ; lễ hội của thôn, bày tỏ quan điểm về vấn đề
nghiên cứu.
- Tích hợp: Tích hợp những điều đã biết, đã học, kiến thức liên môn với thực
tế đời sống.
3.3. Tổng hợp nghiên cứu và đề ra giải pháp :
- Vận dụng kiến thức liên môn để nghiên cứu và giải quyết tình huống:
+ Môn Ngữ Văn: Nắm các kĩ năng viết văn Thuyết minh, Nghị luận để viết
bài. Bài thuyết trình có bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, lập luận chặt chẽ …
+ Môn Lịch sử: Biết được nguồn gốc ra đời và phát triển của làng nghề tạc
tượng, lễ hội của thôn, ngôi miếu cổ Bảo Hà.
+ Môn Địa lí: Xác định được vị trí địa lí, địa hình, đặc điểm phát triển kinh tế
của thôn Bảo Hà xã Đồng Minh.
+ Môn Vật lí: Sử dụng cơ học để giải thích hiện tượng : Tượng Đức Lang đứng
lên ngồi xuống (chuyển động cơ học)
+ Môn Giáo dục công dân : Giữ gìn và phát huy những di tích lịch sử của dân
tộc. Bồi đắp tình yêu quê hương , đất nước.
+ Môn Âm nhạc : Biết được nguồn gốc nghệ thuật múa rối cạn. Âm nhạc trong
tế lễ.
+ Môn Tin học: Sử dụng mạng, soạn bài tuyên truyền bằng phần mềm
Microsoft PowerPoint
3.4. Nội dung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc giải quyết tình huống.
3.4.1. Miếu Bảo Hà.
3.4.1.1. Nguồn gốc hình thành, vị trí địa lí Miếu Bảo Hà xã Đồng Minh huyện Vĩnh
Bảo .
3
4. Đồng Minh là tên của một xã thuộc huyện Vĩnh Bảo, nằm ở vùng đất cực Nam
thành phố Hải Phòng. Đồng Minh thuộc địa bàn tổng An Lạc, huyện Vĩnh Lại, phủ
Hạ Hồng xưa. Tổng này thời nhà Nguyễn (1802 – 1945) gồm 7 xã: An Lạc, Linh
Đông, Linh Động, Thâm Động, Quán Khái, Phần Thượng, Hà Cầu. Đời Đồng Khánh,
xã Linh Động đổi là Bảo Động (tức Bảo Hà sau này). Thôn Từ Lâm trước đây là một
xã tên gọi là Từ Đường, thuộc tổng Kê Sơn, đời Đồng Khánh, xã Từ Đường đổi thành
Từ Lâm như ngày nay.
Vùng đất Đồng Minh do phù sa sông Hóa, một chi lưu của sông Thái Bình bồi
đắp không đều, một nửa là gò đống còn lại là ruộng trũng, đầm ao, kênh mương
chằng chịt. Nhân dân địa phương còn truyền tụng câu đối mô tả quê hương như sau:
"Hà Cầu đại bút lâm giang
Bảo Động quần ngư ẩm thủy”.
(Nghĩa là: thôn Hà Cầu có những gò đống nổi lên như cây bút lớn bên sông và địa
hình thôn Bảo Động giống như đàn cá đang uống nước).
Miếu Bảo Hà thuộc xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, cách trung tâm thành phố
Hải Phòng khoảng 40km theo quốc lộ 10. Miếu Bảo Hà còn gọi là miếu Ba Xã, bởi
xưa kia, nó là trung tâm tín ngưỡng chung cho cả 3 xã Linh Động, Hà Cầu và Mai
Yên. Miếu Bảo Hà còn có tên là miếu Linh Lang. Người địa phương quen gọi là miếu
4
5. Cả nhằm khẳng định vai trò đứng đầu của nó trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng.
Miếu Bảo Hà
3.4.1.2. Sự kiện nhân vật lịch sử
Miếu Bảo Hà thờ hai vị có công với dân làng là Linh Lang và Nguyễn Công Huệ.
Trước kia tượng Nguyễn Công Huệ thờ ở điện gần miếu Bảo Hà. Trong kháng chiến
chống Pháp điện bị dỡ bỏ, nhân dân địa phương chuyển tượng vào miếu phối thờ.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sán trong cuốn “Hà Nội
nghìn xưa” thì Linh Lang là hoàng tử Hoàng Châu, con vua Lý Thái Tông, sinh ra ở
trại Thủ Lệ (Cầu Giấy - Hà Nội). Ông còn là một vị tướng đã tham gia nhiều trận
đánh quân Tống xâm lược trên phòng tuyến sông Như Nguyệt và đã anh dũng hy
sinh. Sau khi hy sinh, ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, được triều đình
phong kiến nhà Nguyễn sau này phong Thượng đẳng thần.
Về Nguyễn Công Huệ, theo truyền thuyết dân gian, thuở giặc Minh đô hộ nước
ta (1407-1427), chúng đã bắt một số thanh niên trai tráng trong làng đi lao dịch và
đưa sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Công Huệ. Sống trong cảnh xa xứ, nhưng
5
6. Nguyễn Công Huệ là người có tấm lòng yêu nước, luôn đau đáu nhớ về quê hương,
mong một ngày được trở lại. Trong những ngày lưu lạc trên đất khách quê người, với
bao đắng cay và tủi nhục, ông đã học hỏi và trau dồi được một số nghề như: tạc
tượng, sơn mài...để kiếm sống. Sau này, khi trở về quê hương, ông đem những nghề
đã học được truyền lại cho dân làng, trong đó có nghề tạc tượng. Nguyễn Công Huệ
được dân làng tôn là ông tổ của nghề tạc tượng Đồng Minh,Vĩnh Bảo. Sau khi mất,
để tưởng nhớ công ơn truyền nghề của Nguyễn Công Huệ, bà con trong làng đã góp
công của xây dựng điện thờ Thánh sư.
Tượng Nguyễn Công Huệ Tượng Linh Lang Đại Vương
3.4.1.3. Khảo tả di tích
Qua những biến thiên của thời gian và lịch sử, miếu Bảo Hà không còn nguyên
vẹn mà chủ yếu là những giá trị về mặt kiến trúc còn tồn tại đến ngày nay mang đậm
phong cách Nguyễn. Theo ghi chép trên xà nóc thì lần trùng tu gần đây nhất là vào
năm 1989. Kiến trúc trước đây theo kiểu tiền nhất hậu đinh gồm 3 toà nhà, toà ngoài
gọi là tiền đường (hay cung nhất) 5 gian, toà trong gọi là đại bái (hay cung nhì) cũng
5 gian và hậu cung là 2 gian chuôi vồ phía sau. Nhưng trong kháng chiến chống Pháp
đã mất đi toà tiền đường và một số đồ tế tự. Kiến trúc hiện đại của miếu theo kiểu
chữ đinh (J), miếu quay về hướng tây nam, mái lợp ngói mũi hài, hồi đối xây tường
gạch theo kiểu bổ trụ, giật tam cấp tạo cho toà nhà có vẻ vững chắc. Nghệ thuật trang
trí ở đây rất tỷ mỉ, công phu, thể hiện chủ yếu ở các rường, đấu, kẻ bẩy, y môn. Ngoài
ra, ở bảy hiên phía trước toà tiền đường hai mặt khắc nổi hình rồng, hoa lá cách điệu.
6
7. Miếu Bảo Hà là di tích có nhiều di vật tiêu biểu cho từng thời kỳ lịch sử của
dân tộc, đặc biệt là hệ thống tượng bố trí như một triều đình thu nhỏ gồm vua, quan
tứ trụ, cung nữ và gia nô phục dịch. Đây là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá, tín
ngưỡng của nhân dân địa phương và các phường thợ điêu khắc. Hiện nay miếu Bảo
Hà còn giữ được 4 đạo sắc phong vào các thời Cảnh Thịnh (1796), Tự Đức (1850),
Duy Tân (1910) và Khải Định phong cho Linh Lang là Thượng đẳng thần.
7
8. Du khách thập phương sẽ không khỏi ngạc nhiên khi đến thăm ngôi miếu cổ này
bởi một pho tượng kỳ lạ có thể ngồi xuống đứng lên như người thật. Không giống
như các pho tượng tại nhiều đền đài, miếu mạo, bức tượng thờ Đức Linh Lang đại
vương ở miếu Bảo Hà trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự có thể chuyển động,
bỗng dưng đứng lên một cách nhẹ nhàng, khoan thai, rồi lại từ từ ngồi xuống. Tượng
Linh Lang đại vương trong hậu cung của Tam xã thượng đẳng từ là một bức tượng
độc đáo, hiếm gặp trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam. Cụ Nguyễn Văn
Nghĩa – Trưởng Ban quản lý di tích miếu Bảo Hà cho biết “Miếu Bảo Hà có không
8
9. gian kiến trúc không lớn nhưng ở đây, dân làng còn lưu giữ được nhiều di tích quý
tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc qua nhiều thế hệ của người Linh Động, Hà Cầu
xưa. Bức tượng gần 700 tuổi này là sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” của tổ tiên, là sự
kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối. Những nghệ nhân
xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để “thổi hồn” vào bức tượng để trở
nên kỳ lạ, huyền bí. Người dân ở vùng này coi đây là một báu vật, biểu tượng của
một ngôi làng truyền thống”. Bí mật về sự chuyển động của bức tượng Đức Linh
Lang đại vương nằm ở cánh cửa ngay điện thờ, khi mở dần cánh cửa thì bức tượng
dần đứng lên nhưng khi khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu. Sự
chuyển động của bức tượng đã khiến cho những người đến đây trầm trồ khen ngợi về
sự tài hoa của người thợ làng Bảo Hà và làm cho ngôi miếu này trở nên linh thiêng.
Nghề tạc tượng và múa rối là nghề truyền thống biểu hiện sinh động cho tinh thần
đoàn kết trong cộng đồng cư dân trồng lúa nước, là điển hình của một làng quê yêu
nghệ thuật của huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Trong miếu Bảo Hà không những có pho tượng Linh Lang đại vương độc đáo mà
còn có giếng bán nguyệt cũng rất thú vị. Giếng nằm trong miếu ngay phía trước của
pho tượng, điều thú vị của pho tượng là khi thả bưởi xuống, bưởi sẽ trôi ra con sông
Vĩnh Chinh (nay là sông Hóa) cách đấy 1km. Hiện nay con sông đã bị lấp đi nên bưởi
chỉ có thể trôi cách đấy khoảng 400 – 500m.Chú Vưng cho biết: “Không phải ai thả
bưởi mà bưởi cũng nổi (ra sông), còn tùy thuộc vào người thả bưởi, nếu người thả
không có tâm linh thì bưởi không thể nổi được và cũng cần phải đánh trống bưởi mới
trôi được ra sông”. Đánh trống không lâu, chỉ cần đánh 3 hồi trống khoảng tầm 5 phút
là bưởi sẽ trôi và nổi ra sông. Điều thú vị ở đây là bên dưới không có một đường ống
nào nhưng quả bưởi có thể trôi xa đến như vậy. Chưa ai hiểu được lý do tại sao.
Những bí ẩn của miếu làng Bảo Hà khiến ngôi miếu nhỏ và nằm trong một vùng quê
của Hải Phòng thu hút được rất nhiều khách du lịch cả trong nước và quốc tế. Khách
thập phương đến đây, ai cũng muốn thả bưởi để cầu nguyện cho mình; các quả bưởi
được thả phần lớn đều nổi nhờ vào sự linh thiêng của ngôi miếu.
9
10. Hoạt động thả bưởi trong miếu Bảo Hà
Được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991, miếu Bảo
Hà được coi là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề. Ngôi miếu do chính bàn tay của
những người thợ tài hoa thế kỷ XIII chạm trổ hoa văn tinh xảo, đẽo tạc những bức
tượng đẹp lưu giữ cho tới muôn đời sau đã trở thành một địa điểm thăm quan thú vị
trong tuyến du lịch du khảo đồng quê của Hải Phòng.
3.4.1.4. Hiện trạng di tích
10
11. Miếu Bảo Hà được xây dựng cách đây 700 năm nên không tránh khỏi sự hủy
hoại của năm tháng, của khí hậu ẩm ướt xứ nhiệt đới gió mùa đã gặm mòn và phá hủy
công trình quý báu của ông cha ta:
- Sự xâm thực của nước mưa đang phá hoại các cấu trúc bằng gỗ.
- Một số các cột trụ bằng gỗ, cánh cửa trong miếu bị mối mọt.
3.4.1.5. Trách nhiệm
Có ý thức, trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, biết kế thừa và phát huy
được các truyền thống quí báu của dân tộc về lòng yêu nước và tinh thần bất khuất
trước kẻ thù xâm lược, với tài hoa của các nghệ nhân tạc tượng.
- Tôn trọng và giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa.
- Không bẻ cây hay tô vẽ làm biến dạng miếu.
- Tôn trọng và thực hiện đúng nội quy khi tham quan: để rác đúng nơi quy
định, giữ trật tự khi hướng dẫn viên thuyết minh.
- Không chê bai, đùa cợt hay ăn nói thô lỗ khi đi tham quan.
- Giới thiệu cho bạn bè về hình ảnh miếu Bảo Hà của thành phố: ảnh chụp về
di tích lịch sử; giới thiệu trên mạng.
- Tổ chức cho bạn bè đến thăm Miếu Bảo Hà.
- Tỏ rõ thái độ không đồng tình, phê phán những hành vi xâm hại đến miếu và
những hành vi không có ý thức bảo vệ môi trường, không tuân theo những quy định
chung khi tham quan miếu của quê hương.
- Đồng tình, ủng hộ những việc làm góp phần gìn giữ di sản văn hóa ở địa
phương:
+ Ủng hộ những việc làm trùng tu, tôn tạo, mở rộng và làm đẹp khuôn viên các
khu di sản văn hóa của địa phương: ủng hộ tiền, ngày công, mua vé xổ số, …
+ Ủng hộ và học tập những tấm gương làm việc tốt góp phần bảo vệ và giữ gìn
di sản văn hóa ở địa phương.
- Áp dụng những kiến thức đã học của môn công nghệ, hóa học để chống mối
mọt cho các trụ gỗ, chống dột cho mái ngói.
- Áp dụng những kiến thức của môn hóa học, sinh học để làm trong sạch nước
hồ, giếng trong miếu: thả cá, sử dụng vôi bột, tạo ra hóa chất thân thiện với môi
trường để làm trong sạch nguồn nước.
11
12. - Áp dụng những kiến thức đã học của môn Vật lí, môn Hóa học để ủ những
rác hữu cơ làm phân bón cho cây trồng trong miếu.
- Trồng nhiều cây xanh, trồng hoa.
3.4.2. LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG THÔN BẢO HÀ.
3.4.2.1.Mục đích
Lễ hội là một hoạt động văn hóa nhằm tôn vinh, tưởng nhớ công ơn những người
có công với nước, đồng thời để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quê
hương. Là dịp để tuyên truyền, giáo dục động viên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thế hệ trẻ hướng về cội nguồn, hăng hái thi đua lao động sản xuất, học tập công tác,
thực hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và
các quy định của địa phương. Đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của mọi người
với việc gìn giữ, bảo vệ, tu tạo các di tích lịch sử văn hóa, góp phần động viên nhân
dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa xã hội và mục tiêu Quốc
gia xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn xã.
3.4.2.2.Nội dung
Lễ hội truyền thống Miếu - Chùa Bảo Hà được tổ chức gồm hai phần chính sau:
3.4.2.2.1. Phần lễ
3.4.2.2.1.1.Lễ cáo yết : (Trước ngày khai mạc lễ hội) Tại Miếu Bảo Hà và Chùa
Miễu
3.4.2.2.1.2. Lễ rước Thánh
Trong nghi lễ rước Thánh đó dân làng chuẩn bị hương hoa, tiền vàng để dâng
lên Thánh, và đặc biệt hơn cả là người dân làng chuẩn bị một con lợn để cúng tế.
Người dân làng gọi là tục rước “ lợn ông hỗng” vòng quanh làng. Sau đó tổ chức tế
cáo với trời đất, thành hoàng, cho mưa thuận gió hòa, con dân trong làng sức khỏe,
làm ăn phát đạt.
Lễ rước Thánh được tổ chức thành hai giai đoạn:
Giai đoạn một: Gồm ba đoàn rước.
Đoàn một: Gồm cán bộ và nhân dân 2 làng Quân Thiềng – Quyết Tiến và Phật
tử thôn Bảo Hà (Xuất phát từ Quân Thiềng lên nhập cùng đoàn Quyết Tiến rước
hương hoa ra chùa Miễu lễ phật và thắp hương Đô đốc Quận công tại Miếu thờ Đô
đốc Quận công Hoa Duy Thành).
12
Tải bản FULL (24 trang): https://bit.ly/31eK7PB
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
13. Đoàn hai: Gồm cán bộ và nhân dân hai làng Song Hùng và Hồng Thái (Xuất
phát từ Hồng Thái qua Song Hùng, rước hương hoa thắp hương tại Di tích tích lịch sử
Đình Từ lâm).
Đoàn ba: Gồm cán bộ và nhân dân hai làng Quyết Thắng và Đồng Tiến (Xuất
phát từ Miếu Bảo Hà, rước hương hoa ra viếng Nghĩa trang Liệt sỹ và nhận Chúc văn
tại UBND xã do Ông Chủ tịch UBND xã trao.
Giai đoạn hai:
Sau khi các đoàn rước thắp hương tại Chùa Miễu, miếu thờ Đô đốc quận công,
đình Từ Lâm và viếng Nghĩa trang Liệt sỹ xong thì nhập cùng đoàn nhận Chúc Văn
thành lập một đội hình rước Chúc văn về lễ hội. Đoàn rước gồm ba kiệu, các đoàn tế
Nam quan, Nữ quan Bảo Hà – Từ Lâm – Thâm Động các đồng chí lãnh đạo địa
phương, cán bộ và nhân dân trong xã, du khách thập phương và đội trống rước, kim
nhạc, đội múa Tứ linh đi trước mở đường.
3.4.2.2.1.3. Lễ khai mạc: Sau khi rước Chúc văn về Miếu Bảo Hà sẽ tổ chức lễ khai
mạc và là buổi lễ chính của Lễ hội tại địa điểm sân Miếu Bảo Hà.
3.4.2.2.1.4. Lễ tế (Tại địa điểm Miếu Bảo Hà).
Lễ tế của các đoàn Nam quan, Nữ quan trong và ngoài xã được bắt đầu sau khi
khai mạc đến hết Lễ hội. Trong đội tế thường có từ 15,17 hoặc 21 người : Đứng ở
chiếu giữa được gọi là mạnh bái hoặc gọi là người chủ tế. Sau đó là hai người bồi
đứng đằng sau. Bên cạnh là một người Đông Sướng, và một người là Tây Sướng, một
người đọc văn. Một người cầm trịch tức là người đánh trống cái điều hành đội tế. Còn
lại là quan tế viên từ 10 dến 12 hoặc 14 người đứng xếp hai hàng đối mặt vào nhau.
Trước khi vào khoa tế người cầm trịch đánh ba hồi chín tiếng vào khóa tế để ổn định
quan. Sau đó là ba tiếng trống để hát văn thông sướng. Người cầm trịch đánh hai
tiếng trống là lên ngạch, một tiếng trống là quan tế viên bước chân đi ngang một tuần
dâng hương, ba tuần dâng rượu sau đó là đọc chúc và ẩm phước, hóa chúc ( tức hóa
văn), kết thúc là lễ tạ.(Tài liệu sưu tầm từ ông Nguyễn Văn Nội – Trưởng Ban văn
hóa thôn Từ Lâm)
Trong khi tế có dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế đều có nhạc bát âm phụ họa cùng
với chiêng trống. Trong dàn nhạc bát âm phục vụ cho tế thần là tiếng kèn Dăm chủ
động dẫn nhịp có tác dụng khá lớn. Đội nhạc bát âm được xếp đội hình thành các chữ
13
6717273