2. I. ĐỐI TƯỢNG CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
1. Triết học là gì.
• Xã hội loài người xuất hiện cách đây khoảng
gần 4 triệu năm, nhưng triết học mới xuất hiện
cách đây vào khoảng hơn hai nghìn năm, vào thời
kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Ðông và
phương Tây.
3. • Triết học xuất hiện đầu tiên ở một số trung tâm
văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,
Ấn Ðộ, Hy Lạp. Vì vậy, theo người Trung Quốc,
triết học có ý nghĩa là Trí bao hàm sự hiểu biết,
sự nhận thức sâu sắc của con người về thế giới.
• Theo tiếng Hy Lạp, thuật ngữ triết học được cấu
tạo bởi hai từ là Philos và Sophia. Philos có
nghĩa là tình bạn, tình yêu, là khát vọng để vươn
tới. Còn Sophia là sự khôn ngoan, hiểu biết, là
sự thông thái. Như vậy theo người Hy Lạp thì
triết học là Philosophia nghĩa là yêu mến sự
thông thái.
4. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
“Triết học là một hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí vai trò
của con người trong thế giới ấy.”
5. 2. Vấn đề cơ bản của triết học, các
trường phái triết học và các
phương pháp triết học.
2.1 Vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức (hay tồn
tại và tư duy). Ph.Ăngghen định nghĩa:
“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học; đặc
biệt là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ
giữa tư duy và tồn tại”.
6. Như vậy, vấn đề cơ bản của triết
học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời
cho một câu hỏi lớn.
-Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức thì cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào ?
-Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không ?
Hai mặt nói trên trong vấn đề cơ bản của triết
học có mối liên hệ chặt chẽ thống nhất với
nhau.
Việc giải quyết vần đề cơ bản của triết học là
cơ sở để xác định tính chất của các trường phái
triết học xem đó là duy vật hay duy tâm.
7. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIÊT HỌC
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA
VC & Ý THỨC
2. CON NGƯỜI NHẬN THỨC ĐƯỢC
THẾ GIỚI HAY KHÔNG
8. 2.2 Các trường phái triết học
+ Ðối với mặt thứ nhất vần đề cơ bản của
triết học:
– Trường phái triết học nào cho rằng vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức thì được gọi chung là chủ nghĩa duy vật.
CNDV chất phác
• CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CNDV siêu hình
CNDV biện chứng
9. -Trường phái triết học nào cho rằng ý thức
có trước, vật chất có sau, ý thức quyết
định vật chất thì được gọi chung là chủ
nghĩa duy tâm. Trong chủ nghĩa duy tâm
được chia thành hai phái là: Chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan.
10. Ngoài chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm nói trên gọi là các trường phái
nhất nguyên luận, còn có một trào lưu
khác gọi là trường phái nhị nguyên luận.
Tiêu biểu là Ðềcác (1596-1650). Trường
phái này cho rằng: Vật chất và ý thức là
hai thực thể đầu tiên song song tồn tại,
không cái nào quyết định cái nào.
11. +Ðối với mặt thứ hai trong vần đề
cơ bản của triết học: Con người có
thể nhận thức được thế giới hay
không?
Trả lời câu hỏi nói trên tuyệt đại đa số các
nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) đều
thừa nhận khả năng nhận thức của con
người
12. Bên cạnh quan điểm của chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm nói trên, chủ
nghĩa hoài nghi lại nghi ngờ khả năng
nhận thức của con người về thế giới.
Họ cho rằng : muốn biết sự vật có tồn
tại hay không là vấn đề nan giải, về
nguyên tắc thì không thể nhận thức được
bản chất của sự vật.
13. Tóm lại: Việc giải quyết vần đề cơ bản
của triết học đã hình thành các trường
phái khác nhau, đó là chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Trong đó chủ nghĩa
duy vật, nhất là chủ nghĩa duy vật biện
chứng là thế giới quan khoa học, nó đem
lại cho con người sự nhận thức ngày càng
đúng đắn về thế giới.
14. 2.2 phương pháp triết học.
Trong lịch sử Triết học đã hình
thành hai phương pháp nhận
thức đối lập nhau đó là phương
pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình.
15. + Phương pháp siêu hình
Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận
thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời không liên
hệ, vận động, phát triển.
Phương pháp siêu hình được hình thành từ thời kì
cổ đại nhưng biểu hiện rõ nét nhất là ở thế kỉ 1718.Vì vậy chủ nghĩa duy vật thời kì này được gọi là
chủ nghĩa siêu hình.
Phương pháp siêu hình làm cho con người chỉ
nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy. Do đó,
phương pháp siêu hình phản ánh không đúng bức
tranh sinh động của thế giới khách quan.
16. + Phương pháp biện chứng.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận
thức đối tượng trong mối liên hệ vận động phát triển
không ngừng.
Phương pháp biện chứng được hình thành từ thời
cổ đại mà người khởi xướng là nhà triết học duy vật
có tên là Hêraclit.
Ông cho rằng :Các sự vật hiện tượng của thế giới
nằm trong quá trình vận động biến đổi như dòng chảy
của con sông.ông nêu lên luận điểm nổi tiêng:Người
ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông.
17. -> Cùng với sự phát triển của tư duy
con người, phương pháp biện chứng đã
thể hiện dưới ba hình thức lịch sử:
PHÉP BC CHẤT PHÁC (TK CỔ ĐẠI)
PHÉP BIỆN CHỨNG
PHÉP BC DUY TÂM (TH HÊ-GHEN)
PHÉP BC DUY VẬT(MÁC- A- LÊNIN)
18. Như vậy, phương pháp biện
chứng thể hiện tư duy mềm dẻo
linh hoạt về hiện thực. Nhờ vậy
nó trở thành công cụ hữu hiệu
giúp con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
19. 3. Đối tượng của lịch sử triết học.
Đối tượng của lịch sử triết học là
nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh
và phát triển của các học thuyết triết học
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình.
20. Với tư cách là một khoa học, lịch sử triết
học không dừng lại ở mô tả nội dung các
học thuyết các phương pháp mà nhiệm vụ
của nó là :
“Thông qua di sản của các nhà tư
tưởng,lịch sử triết học tìm ra bản chất của
các học thuyết và xác định chỗ đứng của
nó trong các trường phái triết học. Đánh giá
được những cống hiến, những hạn chế của
các học thuyết, các phương pháp triết học
trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể.”
21. II.PHÂN KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
(Giáo trình tr5).
1. Những nguyên tắc phương
pháp luận của sự phân chia các
thời kỳ lịch sử triết học.
22. 2.Những thời kỳ lớn của lịch sử
triết học
–Triết học thời kỳ cổ đại.
–Triết học thời trung đại.
–Triết học thời phục hưng.
–Triết học thời cận đại.
–Triết học thời cổ điển Đức.
–Triết học thời Mác-Lênin.
–Những trào lưu triết học tư sản thời
hiện đại.
23. III. Những nguyên tắc cơ bản của
việc nghiên cứu lịch sử triết học.
1. Nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc biện chứng
3. Nguyên tắc tính đảng, tính giai cấp.
24. CHƯƠNG II
TRIẾT HỌC ẤN ÐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm
của triết học Ấn Độ cổ, trung đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học
Ấn Độ cổ, trung đại.
25. * Điều kiện tự nhiên
Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya
hùng vĩ, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh
mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có
sông Hằng chảy về phía Đông tạo nên những
vùng đồng bằng trù phú màu mỡ.
Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc
nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư
tưởng tôn giáo triết học.
26. * Điều kiện kinh tế - xã hội.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội của xã
hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo
dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “công xã
nông thôn” mà đặc trưng của nó là:
- Ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước.
- Gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân
trong công xã.
- Quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ
cơ bản.
- Xã hội được phân chia thành các đẳng cấp.
27. Xã hội được phân chia thành 4
đẳng cấp lớn là:
• Tăng lữ: những người làm công việc
tôn giáo.
• Quý tộc: gồm vương công, tướng
lĩnh, võ sĩ.
• Bình dân tự do: gồm thương nhân,
thợ thủ công và dân chúng của công
xã.
• Nô lệ cùng đinh.
28. Sự phân chia đẳng cấp đó đã
làm phức tạp thêm các quan hệ
xã hội, tạo ra những mâu thuẫn
gay gắt giữa nông dân, thợ thủ
công, nô lệ với các đẳng cấp khác
trong xã hội.
29. *Điều kiện về khoa học và văn hoá.
+ Về khoa học: ngay từ thời kỳ cổ
đại, người Ấn Độ đã đạt được
những thành tựu về KHTN. Đặc biệt
là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y
học…
30. +Văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại:
được chia làm ba giai đoạn:
– Giai đoạn thứ nhất: Khoảng thế kỷ
XXV-XV tr.CN gọi là nền văn minh sông
Ấn.
– Giai đoạn thứ hai: Từ thế kỷ XV – VII
tr.CN gọi là nền văn minh Vê đa.
31. – Giai đoạn thứ ba: Từ thế kỷ VI – I tr.CN.
Đây là thời kỳ hình thành các trường
phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ
thống đối lập nhau là chính thống và
không chính thống. trong đó có 6 trường
phái triết học chính thống và 3 trường phái
triết học không chính thống. Tiêu chuẩn
của chính thống và không chính thống là
có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo
Bàlamôn hay không.
32. Tóm lại: Tất cả những đặc
điểm kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội nói trên là cơ sở cho sự
nảy sinh và phát triển những tư
tưởng triết học của Ấn Độ thời
cổ, trung đại với các hình thức
phong phú đa dạng.
33. 2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ
cổ, trung đại
-Triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo rất khó
phân biệt. Trong các quan niệm triết học, kể cả
các quan niệm duy vật đều ẩn sau các lễ nghi
tôn giáo huyền bí, và các nhà triết học cũng là
những người làm công việc tôn giáo.
-Triết học Ấn Độ ít có những cuộc cách
mạng lớn, chủ yếu có tính cải cách; các trường
phái triết học đi sau thường không đặc ra mục
đích tạo ra một thứ triết học mới mà thường là
kế thừa, bảo vệ, làm rõ quan điểm của các
trường phái đi trước.
34. -Trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại,
quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm
thường đan xen vào nhau trong quá trình
vận động phát triển.
-Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đặc biệt
chú ý đến vấn đề con người. Hầu hết các
trường phái triết học đều tập trung giải
quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con
đường “giải thoát” cho con người khỏi nỗi
khổ đau trong đời sống trần tục.
35. II.
SỰ PHÁT SINH PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Triết học Vê đa.
36. Vêđa theo nghĩa đen của từ này là tri thức, là
sự hiêu biết, tương tự như Philosophia tức là yêu
mến sự thông thái của Hy lạp.
Trong nghĩa cụ thể, Vêđa là những tác phẩm
văn học tập hợp những câu ca dao, vịnh phú, thần
thoại, diễn ca, những tư tưởng quan điểm về tập tục
lễ nghi được sáng tác bằng phương thức truyền
miệng trong một thời gian khá dài.
Đến khoảng thế kỷ thứ X tr.CN, các tác phẩm
đó mới được ghi lại bằng tiếng Phạn (Sancrit) thành
bộ sách gọi là thánh kinh Vêđa làm cơ sở giáo lý cho
đạo Bàlamôn và chế độ phân chia đẳng cấp. Các tác
phẩm này còn lại tới ngày nay dưới dạng 4 tập chính
là: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda
37. • Rigveda: Là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ bao
gồm 1028 khúc hát dùng để ca ngợi công đức
của các vị thánh thần và cầu nguyện cho con
người co sức khoẻ, có thức ăn, có gia súc, có
mưa thuận gió hoà.
• Samaveda: Là tuyển tập các đoạn trong
Rigveda, dùng để ca chầu trong khi tiến hành
nghi lễ.
• Atharvaveda: Là bộ kinh gồm 731 bài văn vần
có tính chất huyền bí dùng để khẩn cầu những
điều tốt đẹp cho con người.
38. Yajurveda:
Là bộ kinh gồm hai bộ phận là
Yajurveda trắng và Yajurveda đen.
Yajurveda trắng gồm các câu thần
chú để sử dụng trong nghi lễ, còn
Yajurveda đen nêu lên các ý kiến về
nghi lễ và thảo luận các ý kiến đó.
39. Tóm lại: Triết học Vêđa là hình thức
tôn giáo cổ nhất Ấn Độ, nó thể hiện thế
giới quan của người Ấn Độ lúc bấy giờ
đang tự nhận thức mình và nhận thức giới
tự nhiên. Nhưng họ chưa phân biệt được
sự khác nhau căn bản giữa mình với tự
nhiên. Chính vì vậy, đối với họ các hiện
tượng tự nhiên đều có linh hồn và được
nhân cách hoá thành các vị thần.
40. 2. Sáu trường phái triết học
chínhthống.
2.1. Trường phái Samkhya.
Trường phái Samkhya lúc đầu là duy
vật họ không thừa nhận thần Brahman
sáng tạo ra thế giới. Họ cho rằng thế giới
vật chất do một dạng vật chất đầu tiên cấu
tạo nên là Prakriti. Prakriti là một loại vật
chất đặc biệt tiềm ẩn không thể nhận thức
được bằng giác quan.
41. Nhưng về sau, trường phái này
cũng rơi vào QĐ duy tâm thừa
nhận có linh hồn (Purusa) tồn tại
song song bên cạnh bản nguyên
vật chất (Prakriti).
42. 2.2. Trường phái Mimansa.
Trường phái này lúc đầu là duy vật họ
không thừa nhận sự tồn tại của thần linh.
Họ cho rằng không chứng minh được sự
tồn tại của thần, cảm giác không nhận ra
thần.
Nhưng về sau họ lại rơi vào quan điểm
duy tâm thừa nhận có thần và bảo vệ uy
tín của kinh Vêđa và triết lý của đạo
Bàlamôn.
43. 2.3. Trường phái Vedanta.
Vedanta là một trường phái hoàn
toàn duy tâm, họ không thừa nhận sự
tồn tại của thế giới vật chất, theo họ
vật chất là không chân thực.
44. Họ thừa nhận Brahman là tinh
thần vũ trụ sáng tạo ra muôn loài.
Atman là linh hồn cá biệt, là một bộ
phận của Brahman, nhưng nó có thể
nhập vào hết người này đến người
khác theo luật luân hồi. Chỉ khi nào
con người khổ công tu luyện đạt đến
sự giác ngộ thì khi đó linh hồn được
giải phóng nó bay trở về đồng nhất
với Brahman
45. 2.4. Trường phái Yoga.
Yoga là một trường phái triết học
chính thống do đạo sĩ Patanjali sáng
lập. Nội dung cơ bản của học thuyết
triết học Yoga là đề cập đến những
phương pháp tu luyện nhằm giải
thoát linh hồn khỏi sự ràng buộc của
thể xác và đạt đến sức mạnh siêu
nhiên.
46. •
•
•
•
•
•
•
•
Để đạt được đều đó, trường phái này đưa
ra tám phương pháp (bát bảo tu pháp) tu luyện
sau đây:
1) Chế giới: Phải có tình thương yêu rộng rãi.
2) Nội chế: Phải tự kiềm chế (tự ức chế).
3) Tọa pháp: Giữ thân thể ở vị trí nhất định.
4) Điều tức pháp: Điều khiển sự thở cho hợp lý.
5) Chế cảm pháp: Điều khiển cảm giác tư duy.
6) Tổng trì pháp: Chú ý vào một điểm.
7) Tĩnh lự pháp: Giữ tâm thống nhất (thiền
định).
8) Tam muội pháp: Thiền cao độ khi đó hoàn
toàn làm chủ được tâm, sẽ đạt tới tuệ bằng sự
bừng sáng tư duy.
47. • Tóm lại: Trường phái Yoga là một tôn
giáo còn có quan điểm duy tâm là
thừa nhận có thần hay thượng đế,
thừa nhận con người có linh hồn và
thể xác. Tuy nhiên trường phái này
đã đưa ra được các phương pháp
rèn luyện sức khoẻ cho con người
mà hiện nay vẫn được nhiều nước sử
dụng.
48. 2.5. Trường phái Nyaya và
Vaisesika.
Đây là hai trường phái độc lập
nhau nhưng về sau thống nhất thành
một trường phái, có những quan
điểm giống nhau và có đóng góp trên
ba phương diện: thuyết nguyên tử, lý
luận nhận thức và logic học.
49. * Về nguyên tử luận:
Hai trường phái này đều thừa
nhận sự tồn tại của thế giới vật chất,
thế giới ấy được tạo nên bởi nguyên
tử. Nguyên tử là những hạt vật chất
vô cùng nhỏ bé, không phân chia
được và tồn tại vĩnh viễn.
Họ còn cho rằng, sự kết hợp khác
nhau của các nguyên tử tạo nên sự
phong phú và đa dạng của các vật
thể.
50. * Về lý luận nhận thức:
Hai trường phái này đều thừa
nhận khả năng nhận thức của con
người về thế giới. Họ thừa nhận tính
khách quan của khách thể nhận thức.
Họ cho rằng, nhận thức có thể tin cậy
được. Tiêu chuẩn của sự tin cây là
sự phản ánh trung thành với đối
tượng.
51. *Về logic học:
Trường phái này cho rằng, để đi
đến kết luận một vấn đề cần phải trải
qua 5 bước suy luận gồm có: luận đề,
nguyên nhân, chứng minh bằng ví dụ,
suy đoán, kết luận.
52. Ví dụ:
•
•
•
•
•
1.Trên đồi có lửa
2. Vì trên đồi có khói.
3. Ở đâu có khói là ở đó có lửa, như ở
trong bếp lò.
4. Trên đồi đang bốc khói.
5. Do đó, trên đồi có lửa.
53. Nhưng về sau hai trường phái này
lại rơi vào quan điểm duy tâm họ
thừa nhận có thần, có linh hồn. Họ
cho rằng thầndùng nguyên tử để cấu
tạo nên thế giới.
54. 3. Ba trường phái triết học
không chính thống.
*Trường phái Jaina.
Jaina là một trường phái tôn giáo
nhưng có quan điểm duy vật và tư tưởng
biện chứng về thế giới. Họ thừa nhận thế
giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn các dạng
cụ thể của TG nằm trong quá trình vận động
biến đổi không ngừng.
Nhưng hạn chế của họ là ở chỗ họ thừa
nhận có linh hồn
55. 3.2 Trường phái Lokayata
Đây là trường phái duy vật tương đối triệt để
trong triết học Ấn Độ cổ trung đại. Trường phái
này cho rằng thế giới xung quanh ta là thế giới
vật chất. Thế giới vật chất là do 4 yếu tố đầu tiên
là: địa, phong, thủy, hỏa tạo thành.
Cả con người và sinh vật cũng do 4 yếu tố
vật chất nói trên tạo nên.
Họ không thừa nhận thần Brahman
tạo ra con người và thế giới.
sáng
56. Về năm sinh của phật hiện nay
có nhiều tài liệu khác nhau nhưng
nhìn chung nhiều ý kiến cho rằng
phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông
sinh ngày 8/4 năm 563 tr.CN nhưng
theo truyền thống phật lịch thì tính
là ngày 15/4 ( rằm tháng tư )gọi là
ngày phật đản
57. Mặc dù sinh ra trong gia đình qúy tộc dòng
dõi Đế Vương, nhưng trước bối cảnh xã hội
phân chia đẳng cấp khắc nghiệt,với sự bất lực
của con người trước những khó khăn của cuộc
đời và xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ
cuộc đời giàu sang phú quý để đi tìm đạo lí cứu
đời.
Vì vậy năm 29 tuỏi người đã rời bỏ hoàng
cung xuất gia tu đạo ,đến năm 35 tuổi người đã
đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở thành người sáng
lập ra tôn giáo mới gọi là phật giáo.
58. Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá
đạo lí của mình, sau này ông được suy tôn
với nhiều danh hiệu khác nhau: đức phật
(Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca mâu ni (sakyamuni),Thánh thích ca (vị
thánh dòng họ thích ca )
59. Xét về mặt triết học, phật giáo được coi là triết lí
thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi
mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con
người,phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm
và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.nó
đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong
đạo đức truyền thống của cácdân tộc Châu Á.
Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ
phận gọi là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh,
Tạng luật,Tạng luận.
60. * Quan điểm về thế giới quan của
phật giáo.
Quan điểm về thế giới quan
của phật giáo được thể hiện tập
trung ở nội dung của ba phạm
trù là: vô ngã, vô thường, và
duyên.
61. Vô ngã (không có cái tôi)
Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh tavà cả
con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra
mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố là
vật chất và tinh thần. Trong đó vật chất gọi là sắc,
tinh thần gọi là danh.
Sắc (v.chất) + danh (thụ, tưởng, hành, thức)
= 5 yếu tố (ngũ uẩn)
Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên sự vật và con
người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời,
thoáng qua không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi
mãi. Do đó không có cái tôi chân thực.
62. Vô thường
(vận động biến đổi không ngừng).
Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện
tượng đều nằm trong quá trình vận động
biến đổi không ngừng theo chu trình bất
tận là sinh, trụ, dị, diệt. Do đó không có cái
gì là trường tồn bất định, chỉ có sự vận
động biến đổi không ngừng. Đó là quan
điểm DVBC về thế giới.
63. Duyên
(Điều kiện giúp nguyên nhân thành KQ).
Phật giáo cho rằng mọi sự vật,hiện tượng trong
quá trình vận động đều chịu sự chi phối của luật
nhân duyên.
Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên
nhân trở thành kết quả. Kết quả lại trở thành nguyên
nhân cho một quá trình mới tạo thành kết quả
mớicũng cần phải có điều kiện.Cứ như vậy tạo nên
sự vận động biến đổi không ngừng của các sự vật.
VD:
duyên( đất, nước,ánh sáng…)
hạt lúa
cây lúa
(nguyên nhân)
(kết quả)
duyên
cây lúa
những hạt lúa…
(nguyên nhân)
(kết quả)
64. Như vậy, thông qua các phạm trù vô
ngã, vô thường, duyên, triết học phật giáo
đã bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng
thần Brahman sáng tạo ra con người và
thế giới.
Phật giáo cho rằng con người và sự
vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất
và tinh thần, các sự vật của thế giới nằm
trong quá trình biến đổi không ngừng.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng về
thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc
nhưng rất đáng trân trọng.
65. *Về triết lý nhân sinh của phật
giáo.
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được
thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” tức
là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người
phải nhận thức được.
Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con
người là bể khổ.
Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên
nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của
con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra
12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị
nhân duyên”.
66. 1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật
chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác
(mắt, tai , mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của
thế giới xung quanh vào các giác quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung
quanh sinh ra cảm giác.
67. 7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự
tác động của thế giới bên ngoài.
8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn
dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài.
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ
lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã
chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn
tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
68. – Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng
mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái niết bàn.
– Bốn là đạo đế: Là con đường tu
đạo để hoàn thiện đạo đức cá
nhân, đó cũng là con đường giải
thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh
phúc.
69. Phật giáo đưa ra ra tám con đường
chân chính gọi là (bát chính đạo).
• 1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ
diệu đế.
• 2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
• 3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
• 4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách
đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm
việc thiện.
70. • 5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng
đắn.
• 6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng
hướng, không biết mệt mỏi.
• 7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng
vững chắc vào sự giải thoát.
• 8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư
tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế,
về vô ngã, vô thường.
71. * Ngoài tám con đường chính để diệt
khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều răn để
mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem
lại lợi ích cho mình và cho mọi người.
Đó là: bất sát (không được sát sinh);
bất dâm (không được dâm dục); bất vọng
ngữ (không được nói năng thô tục, bậy bạ);
bất ẩm tửu (không được rượu trà); bất đạo
(không được trộm cướp).
72. Liên hệ vai trò Phật giáo ở nước ta.
Phật giáo truyền vào nước ta từ những
năm đầu công nguyên, với bản chất từ bi,
bác ái, phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ
đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên
mảnh đất này.
Từ khi vào Việt Nam đến nay phật giáo
tồn tại và phát triển phù hợp với truyền
thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc
giáo ở các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần, góp
phần bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam
giữ vững nền độc lập dân tộc.
73. Phật giáo có công đào tạo tầng lớp trí thức
cho dân tộc trong đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư
đức độ tài cao giúp nước an dân như: Ngô Chân
Lưu, Vạn Hạnh,Pháp Nhuận…
Vào các thời kì hưng thịnh, phật giáo là nền
tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế
,chính trị ,văn hóa ,giáo dục, kiến trúc,hội họa…Và
đã để lại những giá trị mang đậm đà bản sắc dân
tộc.Từ cuối thế kỉ XIII đến nay phật giáo không phải
là quốc giáo nữa. Nhưng tư tưởng tích cực của nó
vẫn là nhu cầu, là sức mạnh tinh thần của nhân dân
ta.
75. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết
học Trung Hoa cổ, trung đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung
Hoa cổ, trung đại.
1.1 Sự hình thành các quốc gia chiếm
hữu nô lệ Trung Hoa.
+ Quá trình chuyển hóa của XH công xã
nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các
quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa kéo dài
khỏang vài ba ngàn năm trước công
nguyên. Thời kỳ này có ba sự kiện quan
trọng dẫn đến sự ra đời của XH chiếm hữu
nô lệ.
76. – Toại nhân phát minh ra lửa để nấu chín thức
ăn và rèn ra công cụ sản xuất.
– Phục Hy phát minh ra lưới để săn thú, bắt cá và
thuần dưỡng gia súc.
– Thần Nông phát minh ra cách trồng lúa nước
và làm ra lưỡi cày đặt nền móng cho sự ra đời
của nghề nông.
Những phát hiện nói trên làm cho LLSX phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự ra của chế độ chiếm
hữu tư nhân về TLSX, phân hóa xã hội thành
những giai cấp dẫn đến sự ra đời của chế độ
chiếm hữu nô lệ Trung Hoa.
77. XH chiếm hữu nô lệ Trung Hoa phát triển qua
các triều đại Nhà Hạ, Nhà Ân ( Thương) và đạt đến
sự phát triển hòan thiện ở triều đại Nhà Chu.
+ Đặc điểm thời kỳ Nhà Chu:
Do kế thừa được kinh nghiệm SX của lịch sử để
lại, do thiên nhiên thuận lợi cùng với sự quản lý xã
hội chặt chẽ làm cho XH Nhà Chu phát triển mạnh
mẽ.
-Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà Chu quản lý ruộng đất
theo phương pháp tĩnh điền.
-Trong lĩnh vực XH: Nhà Chu tổ chức theo các quy
tắc chặt chẽ ( vua, chư hầu...); xã hội phân chia
thành các đẳng cấp.
78. 1.2.Thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc (770 – 221 TCN).
Thời kỳ này có những đặc điểm như sau:
- Do sự phát triển của SX mà đặc biệt là SX
nông nghiệp tạo điều kiện cho sự chuyên môn hóa
ngày càng sâu sắc các ngành thủ công nghiệp dịch
vụ dẫn đến sự hình thành các đô thị PK.
- Phân hóa XH diễn ra sâu sắc dẫn đến chiến
tranh liên miên giữa bảy nước (Tề, Tần, Sở, Hàn,
Ngụy, Triệu,Yên) làm cho thời đại Xuân Thu chuyển
thành thời đại Chiến Quốc.
Trong sự chuyển mình dữ dội của lịch sử,nhiều
trường phái triết học ra đã đời tạo thành hệ thống
triết học khá hòan chỉnh.
79. 2. Đặc điểm của triết học Trung
Hoa cổ, trung đại.
Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần
nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa
cổ, trung đại, tư tưởng liên quan đến con người
như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết
học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết
học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là các triết gia Trung Hoa đều tập trung
vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực
hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn
bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ
nhất của sinh hoạt xã hội.
80. Thứ ba là triết học Trung Hoa ít có những
cuộc cách mạng lớn, chủ yếu là có tính
cải cách; các trường phát triết
học đi
sau thường kế thừa và phát triển tư tưởng
của các trường phái đi trước.
Thứ tư là trong lịch sử triết học Trung Hoa,
tư tưởng duy vật và tư tưởng duy tâm
thường đan xen vào nhau trong quan
điểm của một trường phái triết học.
81. II. Các trường phái triết học
Trung Hoa cổ, trung đại
1. Thuyết Âm- Dương , Ngũ Hành.
1.1. Tư tưởng triết học về Âm- Dương.
Theo quan niệm của Triết học Trung Hoa cổ
đại: âm và dương là khái niệm chỉ hai khuynh
hướng đối lập nhau, nhưng lại liên hệ tác động lẫn
nhau, thống nhất với nhau tạo nên sự vận động
phát triển của sự vật.
VD:
Dương: mặt trời (nóng), sáng , cao, giai
cấp thống trị,Quân tử, giống đực,chồng…
Âm: trái đất (lạnh), tối , thấp, giai cấp bị
trị, Tiểu nhân, giống cái, vợ…
82. Tóm lại, bằng quan niệm âm dương
triết học Trung Hoa cổ đại đã thừa nhận
các mặt đối lập tồn tại khách quan.Chính
sự liên hệ tác động của các mặt đối lập đã
thúc đẩy sự vận động phát triển của sự
vật. Đó là quan điểm duy vật biện chứng
sơ khai về thế giới.
83. 1.2. Tư tưởng triết học về Ngũ
hành.
Thuyết ngũ hành cho rằng thế giới vật chất
là do kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo thành.
84. Kim (kim loại) tượng trưng cho tính
chất: trắng, khô, cay, phía Tây.
Thuỷ (nước) tượng trưng cho tính
chất: đen, mặn, phía Bắc.
Mộc (gỗ) tượng trưng cho tính chất:
xanh, chua, phía Đông.
Hoả (lửa) tượng trưng cho tính chất:
đỏ, đắng, phía Nam.
Thổ (đất) tượng trưng cho tính chất:
vàng, ngọt, ở giữa.
85. • Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt
đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh
- khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau:
•
+ Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc,
Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ,...
•
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ
khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim,
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ...
86. Tóm lại: bằng quan niệm ngũ hành, triết
học Trung Hoa cổ đại thừa nhận thế giới
xung quanh ta là thế giới vật chất, các sự
vât, hiện tượng của thế giới có sự liên hệ
tác động lẫn nhau tuân theo quy luật. Quan
điểm nói trên về thế giới tuy còn mộc mạc
chất phác nhưng rất đáng trân trọng.
87. 2. Trường phái triết học Nho Gia.
2.1. Khổng Tử (551- 479 tr.CN).
*Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử là người mở đầu khai sinh
ra trường phái Nho gia. Ông tên thật là
Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra tại
nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông Trung
Quốc.
88. Ông sinh ra trong gia đình quý tộc
nhưng đã bị sa sút. Cha Khổng Tử đã
từng làm quan võ của nước Lỗ, có lúc
làm quan đại phu của nước Lỗ.
Nhưng khi Khổng Tử ra đời cha đã
về hưu (cha có ba vợ: vợ đầu có chín
con gái, vợ hai có một con trai nhưng
bị bệnh. Năm 70 tuổi cha cưới vợ ba
sinh ra Khổng Tử,đến năm 73 tuổi thì
cha mất).
89. Khổng Tử là người thông minh, ôn
hòa,nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu học.
Với ông (học không biết chán, dạy không
biết mỏi). Ông là người đầu tiên mở
trường học ở Trung Quốc.
Khổng Tử từng làm quan nhưng
không được trọng dụng.Cuộc đời ông
không thành đạt trong quan trường
nhưng lại rực rỡ trong lĩnh vực triết học
nhân sinh. Khổng Tử mất vào năm 73 tuổi.
90. Khổng Tử viết nhiều tác phẩm (8 tác phẩm)
* Quan điểm triết học của Khổng Tử về chính
trị xã hội
+ Quan niệm về đức nhân
Theo Khổng Tử, đức nhân có nhiều nghĩa,
nhưng nghĩa chính là thương người, là nhân
đạo đối với con người. Nhân cũng là đức hạnh
của người Quân tử.
91. Theo Khổng Tử, đức nhân dựa trên hai
nguyên tắc:
- Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.
- Mình muốn đứng vững thì giúp người khác
đứng vững, mình muốn lập thân thì giúp người
khác lập thân “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt
nhi đạt nhân”.
Trên cơ sở hai nguyên tắc này ông cụ thể hóa
thành các tiêu chuân đạo đức đối với các tầng lớp
xã hội
92. Đặc biệt là đối với tầng lớp Quân tử. Ông
cho rằng, đối với người làm chính trị quản
lý xã hội, muốn có đức nhân phải có năm
điều:
Một là kính trọng dân.
Hai là khoan dung độ lượng với dân
Ba là giữ lòng tin với dân
Bốn là mẫn cán (tận tụy trong công việc.)
Năm là đem lòng nhân ái đối sử với dân.
93. + Quan niệm về lễ:
Khổng Tử cho rằng để đạt được đức nhân
phải chủ trương dùng lễ để duy trì xã hội.
Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng,
tế, lễ; lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là những
quy định có tính pháp luật đòi hỏi mọi người
phải chấp hành. Ai làm trái những điều quy
định đó là trái với đạo đức. Như vậy lễ là
biện pháp để đạt đến đức nhân.
94. + Quan niệm về chính danh
Quy định rõ danh phận của mỗi người
trong xã hội.
Khổng Tử cũng như các nhà nho đều
có hoài bão về một xã hội có kỷ cương.
Thời đại Không Tử là thời đại xã hội rối
loạn vì vậy điều căn bản của việc làm
chính trị là xây dựng xã hội chính danh để
mỗi người, mỗi đẳng cấp xác định rõ danh
phận của mình mà thực hiện.
95. - Chính danh gồm có hai bộ phận danh
và thực:
* Danh là tên gọi, là địa vị, là thứ bậc
của con người.
* Thực là quyền lợi mà con người
được hưởng phù hợp với danh. Khổng Tử
cho rằng danh và thực phải thống nhất với
nhau.
96. Từ đó ông chia xã hội thành năm mối quan hệ gọi
là ngũ luân:
• Vua – tôi (Quân thần): vua nhân – tôi trung
• Chồng – Vợ (phu phụ): chồng biết điều – vợ
nghe lẽ phải
• Cha – Con (phụ tử): Cha hiền – con thảo
• Anh – em (huynh đệ): anh tốt – em ngoan
• Bạn – bè (bằng hữu): chung thủy.
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người, mỗi đẳng
cấp thực hiện đúng danh phận của mình thì xã
hội có chính danh và xã hội có chính danh là xã
hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.
97. * Quan điểm triết học của Khổng
Tử về thế giới:
- Trong quan điểm về thế giới thì Khổng Tử có
sự giao động giữa lập trường duy vật và lập trường
duy tâm. Bởi vì khi thì ông tin có mệnh trời, ông cho
rằng; tử sinh có mệnh, sống chết tại trời, không thể
cải được mệnh trời.
- Không Tử cho rằng người Quân tử có ba điều
sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh
nhân. Trong đó sợ nhất là sợ mệnh trời. Nhưng có
khi Khổng Tử lại không tin có mệnh trời, ông cho
rằng: trời chỉ là lực lượng tự nhiên không có ý trí,
không can thiệp vào công việc của con người.
98. Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường
thế giới quan duy tâm bảo thủ nhằm bảo
vệ trật tự xã hội nhà Chu suy tàn, nhưng
triết học của Khổng Tử có nhiều yếu tố
tiến bộ ở chỗ đề cao vai trò đạo đức kỷ
cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục
đào tạo con người, trọng người hiền tài,
nhân đạo đối với con người và những
quan điểm tiến bộ của ông nhằm xây
dựng xã hội thái bình thịnh trị.
99. 2.2. Mạnh Tử (327 – 289 tr.CN)
Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự là
Dư,sinh tại nước Lỗ , nay thuộc tỉnh Sơn
Đông Trung Quốc. Ông là người kế thừa
và phát triển tư tưởng của trường phái
Nho Gia . Quan điểm triết học của Mạnh
tử thể hiện ở 3 nội dung :
100. * Quan điểm của Mạnh Tử về thế
giới :
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh”
của khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh
cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng
không có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời ,
mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính
đáng ấy . Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học thuyết “
vạn vật đều có đủ trong ta , nên chỉ cần tự tĩnh
nội tâm là biết được tất cả ”nghĩa là không phải
tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu
dưỡng nội tâm là biết được tất cả .
101. * Quan điểm về bản chất con
người :
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là
thiện , tính thiện đó là do thiên phú chứ không phải
là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ
gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm,
nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng
mai một đi thì con người càng thêm nhỏ nhen, ti
tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó Mạnh Tử kết luận : bản chất con người
là thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác.
Đó là do xh rối loạn , luân thường đạo lí bị đảo lộn.
Cho nên để thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì
phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường
lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
102. * Quan điểm về chính trị xã hội :
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng
của ông về “Dân quyền”, tức đề cao vai trò của quần
chúng nhân dân .
Ông cho rằng trong một QG quí nhất là dân rồi
mới tới vua , đến của cải xã tắc “ dân vi quí ,quân vi
khinh, xã tắc thứ chi ”.
Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng
một chế độ bảo dân , dưỡng dân tức là phải chăm lo
, bảo vệ nhân dân, ông yêu cầu người trị vì đất nước
phải quan tâm đến dân , phải tạo cho dân có nhà
cửa , ruộng vườn , tài sản bởi vì họ “ hằng sản mới
hằng tâm”.
103. Ông là người chủ trương khôi phục chế
độ tĩnh điền để cấp đất cho dân .
Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm
chi tiêu , thu thuế của dân có chừng mực.
Đó là những quan điểm hết sức mới mẻ
và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa
vào đường lối chính trị của trường phái Nho
Gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh
thần nhân bản theo con đường lấy dân làm
gốc .
104. CHƯƠNG IV
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học
Hy Lạp cổ đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp
cổ đại.
- Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao
gồm miền nam bán đảo Ban Căng thuộc Châu
Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê và cả miền ven
biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa lý thuận
lợi cho nên từ rất sớm các ngành nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại
đã phát triển.
105. - Về mặt xã hội, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp thịnh hành một cách phổ biến vào khoảng từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIII tr.CN. Đây là thời kỳ xã hội đã
phân chia thành hai giai cấp cơ bản: chủ nô và nô lệ.
- Thời kỳ này cũng diễn ra mâu thuẫn gay gắt
giữa tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
Trong đó chủ nô dân chủ là phái chủ nô tiến bộ,
đứng về phía NDLĐ, còn chủ nô quý tộc đại biểu cho
xu hướng phản động muốn duy trì một xã hội độc tài.
Cuộc đấu tranh đó có tác động tích cực tới việc phát
triển LLSX.
106. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động
xã hội. Do đó, thời kỳ này lao động trí óc
đã tách khỏi lao động chân tay, xã hội đã
hình thành một bộ phận trí thức chuyên
nghiên cứu triết học và khoa học. Điều
này góp phần vào việc phát sinh các
ngành khoa học, trong đó có triết học.
107. Do nhu cầu của hoạt động thực tiễn, nhất là nhu
cầu phát triển thương mại và hàng hải ở Hy Lạp đã
quyết định sự phát sinh và phát triển của những tri
thức về thiên văn, khí tượng, toán học, vật lý, ...
Vì vậy thời kỳ này ở Hy Lạp đã xuất hiện sớm một
số ngành khoa học tự nhiên, nhưng các ngành khoa
học này chưa đủ sức để trở thành những ngành khoa
học độc lập. Lúc này tất cả các khoa học tự nhiên
nằm chung trong triết học.
Do đó, triết học lúc đó gọi là triết học tự nhiên và
các nhà triết học thời kỳ này cũng là những nhà khoa
học tự nhiên.
Qua đó thấy triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi
mới ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của thực tiễn, gắn
liền với những thành tựu của khoa học tự nhiên.
108. 2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp
cổ đại.
-Triết học Hy lạp cổ đại có đặc điểm
riêng độc đáo của nó. Đó là nền triết học
phong phú rực rỡ, nhiều màu sắc, nhiều
trường phái với nhiều triết gia tiêu biểu.
Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “ Từ các
hình thức muôn hình muôn vẻ của tư
tưởng triết học cổ Hy Lạp đã có mầm
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các
loại thế giới quan sau này”.
109. - Triết học Hy Lạp cổ đại hình thành phát
triển gắn liền với sự phát triển của khoa
học tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ
này đồng thời cũng là những nhà khoa
học tự nhiên.
- Trong lịch sử triết học Hy lạp cổ đại, chủ
nghĩa duy vật có đặc điểm là mộc mạc,
chất phác, gắn liền với phép biện chứng
sơ khai, tự phát.
110. II. Một số triết gia tiêu biểu.
1. Hêraclit (520 – 460 tr.CN).
Hêraclit vừa là nhà triết học vừa là nhà vật lý. Ông là
nhà triết học duy có tư tưởng biện chứng về thế giới.
Quan điểm triết học của ông thể hiện ở những nội
dung sau đây.
* Quan điểm về thế giới: Hêraclit thừa nhận thế
giới là vật chất mà cơ sở đầu tiên, duy nhất của nó là
Lửa. lửa là nguồn gốc, là cái có trước, là bản chất của
mọi sự vật và là cơ sở của mọi sự biến đổi.
Ông cho rằng, dưới tác động của lửa, đất biến thành
nước, nước biến thành không khí và ngược lại giống
như hàng hoá trao đổi thành vàng và vàng thành hàng
hoá.
111. Theo Hêraclit, mọi sự vật luôn ở trạnh thái vận
động biến đổi chuyển hoá không ngừng giống như
dòng chảy của con sông.
Ông nêu lên luận điểm bất hủ rằng: “Người ta
không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Nguồn gốc của sự vận động biến đổi của sự vật,
theo ông là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong bản thân sự vật. Thông qua “đấu tranh”
bản chất sự vật bộc lộ ra và nhờ đó con người nhận
thức đúng về sự vật.
Theo Hêraclit Sự vận động và phát triển của sự
vật tuân theo quy luật (ông gọi là Logos). Người nào
thấu hiểu được Logos và làm đúng theo Logos thì
người đó là người có trí tuệ.
112. * Quan điểm về lý luận nhận thức.
Hêraclit cho rằng, nhiêm vụ của nhận
thức là phải hiểu biết sâu sắc về tự nhiên.
Con người nhận thức tự nhiên bằng cả
cảm giác và tư duy. Trong đó tư duy có
vai trò cực kỳ quan trọng. Nhận thức chân
thực là nhận thức Logos của sự vật, song
chân lý phải là cụ thể.
113. Quan điểm về chính trị- xã hội.
Hêraclit đứng trên lập trường của chủ nô
quý tộc chống lại phái chủ nô dân chủ. Ông đề
cao vai trò của những cá nhân “ưu tú” và tỏ ra
khinh miệt quần chúng nhân dân lao động. Ông
coi một người ưu tú sánh với hàng vạn người
khác.
Tóm lại: Hêraclit có rất nhiều đóng góp về
mặt triết học cả vấn đề thế giới quan cũng như
nhận thức luận, đặc biệt là phép biện chứng.
Tuy còn mộc mạc, chất phác, nhưng về cơ bản
những quan niệm đó là đúng đắn.
114. 2. Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN).
Đêmôcrit là nhà triết học duy vật vĩ đại
trong thế giới cổ đại.
Ông là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực và nắm được hầu hết những kiến thức
đương thời: triết học, logic học, toán học, vũ
trụ học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học,
giáo dục học, đạo đức học, mỹ học, ngôn
ngữ học.
Vì vậy, ông được coi là người có bộ óc
bách khoa đầu tiên trong người Hy Lạp.
quan điểm duy vật của ông được thể hiện ở
những nội dung sau.
115. *Quan điểm về thế giới:
Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu
tạo nên mọi sự vật là nguyên tử. Nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia
được nữa, không nhìn thấy được, không âm
thanh, không màu sắc, không mùi vị và tồn
tại vĩnh viễn.
116. Theo quan điểm của Đêmôcrit, các sự vật là do
các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên. Tính đa
dạng của nguyên tử làm nên tính đa đạng của thế
giới các sự vật. Nguyên tử tự thân vận động nhưng
khi kết hợp với nhau thành vật thể làm cho vật thể và
thế giới vận động không ngừng.
Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên khái
niệm không gian, theo ông không gian là khoảng
trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với
nhau. Ông là người đã thấy được mối liên hệ giữa
vật chất, vận động và không gian. Ở đây Đêmôcrit đã
thể hiện lập trường duy vật về tự nhiên.
117. *Quan điểmvề lý luận nhận thức:
Đêmôcrit là người có công lớn trong
việc xây dựng lý luận nhận thức của chủ
nghĩa duy vật thời cổ đại. Ông cho rằng
đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế
giới xung quanh con người và nhờ vào sự
tác động của đối tượng nhận thức vào
giác quan nên con người mới nhận thức
được sự vật.
118. Đêmôcrit chia nhận thức thành 2 dạng là: nhận
thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối là
nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý
là nhận thức do sự phân tích sâu sắc sự vật để nắm
bản chất bên trong của nó. Hai dạng nhận thức trên có
mối liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó nhận thức
chân lý sâu sắc hơn vì nó phản ánh được bản chất
bên trong của sự vật.
Đêmôcrit còn là người đặt nền móng cho sự ra
đời của logic học với tư cách là khoa học của tư duy.
Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “
Bàn về logic học” ông coi logic học là một công cụ để
nhận thức các hiện tượng của tự nhiên. Ông là người
nhấn mạnh phương pháp quy nạp. Tức là phương
pháp đi từ cái riêng đến cái chung nhằm vạch ra bản
chất của sự vật.
119. * Quan điểm về chính trị xã hội:
Đêmôcrit là người phê phán mạnh mẽ tôn giáo.
Ông cho rằng những thần thánh của tôn giáo Hi Lạp
chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự
nhiên hay thuộc tính của con người.
Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng
lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn chủ nô quý tộc,bảo
vệ chế độ dân chủ nô, ông coi chế độ Nô Lệ là hợp
lý .
120. Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ
về mặt đạo đức. Theo ông phẩm chất con
người không phải ở lời nói mà ở việc
làm.Con người cần hành động có đạo đức,
còn hạnh phúc của con người là ở khả năng
trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói chung,và
đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành nhà
thông thái.
Tóm lại những quan điẻm triết học của
Đêmôcrit tuy còn mộc mạc chất phác, song
đã đưa triết học duy vật Hi Lạp cổ đại lên
bước tiến mới,đóng góp cho kho tàng triết
học của nhân loại những thành quả vô giá.
121. 3. Platon (427 – 347 tr.CN).
Platon là nhà triết học duy tâm khách
quan, quan điểm triết học của ông đối lập
với triết học duy vật của Đêmôcrit.
Quan điểm triết học của ông được thể
hiện ở những nội dung sau đây
122. * Quan điểm về thế giới:
Platon coi ý niệm là thế giới chân thực,
có trướcvà sinh ra thế giới các sự vật. Còn
thế giới các sự vật là không chân thực. Bởi
vì ở đó các sự vật không ngừng biến đổi.
Do đó, không có cái gì là ổn định vĩnh viễn.
Như vậy, khi giải quyết vấn đé cơ bản
của triết học Platon đã đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy tâm khách quan.
123. *Quan điểm về lý luận nhận thức
Platon cũng có tính chất duy tâm. Theo ông,
nhận thức của con người không phải là phản ánh
các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là quá
trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn về thế giới ý
niệm, về những điều mà linh hồn đã bắt gặp khi còn
ở thế giới ý niệm, khi chưa trú ngụ vào thể xác con
người.
Trên cơ sở đó, Platon phân hai loại tri thức: tri
thức hoàn toàn đúng đắn tin cậy và tri thức mờ nhạt.
Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn
trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ hồi
tưởng. Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, là tri thức nhận
được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó không có
chân lý.
124. * Quan điểm về chính trị xã hội
Platon chủ trương cần phải duy trì các
hạng người trong xã hội, cũng có nghĩa là
duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người.
Theo ông Nhà nước ra đời cũng là để đáp
ứng những nhu cầu đó. Ông đưa ra mô
hình “Nhà nước lý tưởng”.
125. Trên cơ sở phê phán các hình thức nhà
nước đã có trong lịch sử Platon đưa ra mô
hình Nhà nước lý tưởng dựa trên cơ sở phân
chia xã hội thành ba đẳng cấp dựa vào đặc
trưng đạo đức:
-Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học,
các nhà thông thái giữ vị trí lãnh đạo xã hội.
- Đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách
nhiệm bảo vệ Nhà nước lý tưởng.
- Đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do,
thợ thủ công có nhiệm vụ sản xuất ra của cải
vật chất để đảm bảo cuộc sống cho nhà nước.
126. Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước lý tưởng
dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân
công các ngành nghề và giải quyết mâu thuẩn giữa
các nhu cầu xã hội. Sự vinh quang của nhà nước phụ
thuộc vào các phẩm chất: Sự thông thái, sự dũng
cảm, sự chính nghĩa và phong độ duy trì chuẩn mực
xã hội. Trong đó sự thông thái là tri thức cao nhất và
là niềm vinh quang của riêng nhà triết học.
Tóm lại: Platon là nhà triết học duy tâm khách
quan đã đề cập một cách có hệ thống nhiều vấn đề
của triết học. Tuy còn nhiều hạn chế, song Platon đã
đóng góp công lao to lớn vào việc nghiên cứu những
vấn đề về hình thái ý thức xã hội, về tư duy lý luận.
127. CHƯƠNG V
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC
HƯNG (THẾ KỶ XV – XVI)
Hoàn cảnh ra đời của triết học Tây Âu thời kỳ
Phục hưng.
Thời kỳ Phục hưng ở các nước Tây Âu là từ thế kỷ
XV đến XVI. Gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là
thời kỳ này có sự khôi phục (làm sống lại) và phát
triển những giá trị văn hoá thời cổ đại.
Xét về mặt hình thái kinh tế - xã hội, đây là thời kỳ
các nước Tây Âu đang chuỷên dần từ XHPK lên
XHTB. Trong thời kỳ này, nhiều công cụ lao động đã
được cải tiến và hoàn thiện, đã tạo ra điều kiện cho
các công trường thủ công tư bản từng bước nâng cao
năng suất lao động.
I.
128. Những phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ
và đường hàng hải sang Ấn Độ và Trung
Quốc qua châu Phi, đã mở rộng giao lưu hàng
hoá giữa các nước, giữa Đông và Tây. Nhờ
đó, sản xuất và thương nghiệp phát triển,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình
thành, phát triển nhanh chóng.
Giai cấp tư sản mới hình thành là giai cấp
tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự
nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển sản xuất
và cần có CNDV làm vũ khí tư tưởng để
chống lại thế giới quan DT của GCPK.
129. Từ những đặc điểm KT,CTXH nói trên
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tư
tưởng triết học. Do đó triết học thời kỳ này
có đặc điểm là gắn bó chăt chẽ với
KHTN; các nhà KHTN thời kỳ này không
những là những người khổng lồ về mặt trí
tuệ mà còn là những người có bản lĩnh
dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống
CNDT tôn giáo để bảo vệ chân lý khoa
học.
130. II. Một số triết gia tiêu biểu.
1.Nicôlai Côpécnic (1473 – 1543).
Nicôlai Côpécnic là nhà thiên văn học và triết
học người Ba Lan. Ông là người đầu tiên đã đưa ra
thuyết Nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm, trái đất và
các hành tinh khác đều quay quanh mặt trời.
Thuyết “Nhật tâm” của ông có ý nghĩa rất lớn
về triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Nó bác
bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê và do đó đã giáng
một đòn quyết định vào chính nền tảng của thế giới
quan tôn giáo và đánh dấu sự giải phóng khoa học
tự nhiên khỏi thần học và tôn giáo.
Phát minh của Côpécníc là “một cuộc cách
mạng trên trời”, báo trước một cuộc cách mạng trong
các quan hệ xã hội.
131. 2. Gióocđanô Brunô
(1548 – 1600).
Brunô là nhà triết học đồng thời là một nhà
khoa học tự nhiên vĩ đại, ông cũng là tu sĩ
nghiên cứu thần học ở Italia.
Brunô là người kế thừa và phát triển thuyết
“Nhật tâm” của Côpécníc. Ông cho rằng: xung
quanh trái đất có một bầu không khí và nó cùng
xoay với trái đất. Theo ông có vô vàn thế giới
giống như thái dương hệ của chúng ta, thế giới
chúng ta đang sống cũng như thế giới “nhà
trời” đều do vật chất tạo nên.
132. Brunô cũng có đóng góp quan trọng trong
sự phát triển phép biện chứng. Ông đã có tư
tưởng biện chứng “về sự phù hợp của các
mặt đối lập”.
Theo ông, trong tự nhiên, mọi cái đều liên
hệ với nhau và đều vận động, cái này mất đi
thì cái khác ra đời. Các mặt đối lập cũng
chuyển hóa lẫn nhau: tình yêu chuyển thành
căm thù và ngược lại; chất độc có thể trở
thành bài thuốc tốt nhất và ngược lại…
Tư tưởng biện chứng của ông đã vượt xa
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vì ông đã dựa
trên thành tựu của toán học và cơ học thời đại
của mình.
133. Về mặt nhận thức luận, khi xây dựng
phương pháp mới của khoa học, Brunô đòi hỏi
khoa học tự nhiên phải dựa trên thực nghiệm.
Đồng thời, khi đề cao vai trò của thực nghiệm
và kinh nghiệm, ông cũng hết sức coi trọng tư
duy lý tính trong quá trình nhận thức.
Ông cho rằng, mục đích cao nhất của tư
duy là nắm bắt quy luật của tự nhiên. Theo
ông, con đường nhận thức là từ cảm giác đến
lý trí và cuối cùng là trí tuệ.
Với những tư tưởng tiến bộ nói trên,
Brunô đã bị toà án tôn giáo kết án tử hình và
thiêu sống tại La Mã.
134. 3. Galilêô Galilê (1564 – 1642).
Galilê là nhà toán học, nhà thiên văn học,
nhà vật lý và là nhà triết học cuối thời Phục
hưng ở Italia, là người mở đầu cho sự phát
triển của khoa học thực nghiệm.
Galilê đã có nhiều đóng góp cho cơ học,
đặc biệt là quy luật quán tính, lực rơi và gia
tốc trọng trường. Ông cũng đã chế ra kính
viễn vọng để quan sát bầu trời, phát hiện ra
các vệ tinh, quan sát mặt trời, mặt trăng…
135. Các phát minh khoa học của ông có ý
nghĩa triết học sâu sắc. Nó giúp cho ông có cơ
sở để khẳng định tính thống nhất vật chất của
toàn bộ vũ trụ và chứng minh thuyết “nhật tâm”
của Côpécnic.
Do ảnh hưởng của các quan niệm “hai
chân lý” đang thịnh hành thời đó, ông cho rằng
kinh thánh và khoa học đều cần cho con
người. Kinh thánh gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của con người, dạy cho con người điều
hay lẽ phải; còn khoa học giúp cho con người
khám phá được các quy luật của giới tự nhiên,
nhận thức được bản chất đích thực của
136. Đề cao nhận thức trí tuệ của con người
trong việc nhận thức thế giới. Ông cho rằng
khả năng nhận thức của con người là vô hạn,
cảm giác là bước đầu của nhận thức còn
bước cuối là hoạt động của lý trí, ở bước này
kinh nghiệm được kiểm tra lại và những yếu tố
rời rạc của tri thức được liên kết lại. Không có
chân lý cuối cùng.
Galilê có nhiều phát minh vĩ đại, có vai trò lớn
cho sự phát triển của khoa học và triết học. Nhưng
nó lại là mối nguy hiểm cho chủ nghĩa kinh viện và
giáo hội La Mã lúc bấy giờ. Vì vậy Giáo hoàng La Mã
ra lệnh truy tố và bỏ tù ông, tòa án tôn giáo đã quản
thúc một cách nghiêm ngặt cho tới khi ông qua đời.
137. Triết học vào thời kỳ Phục hưng
đã tạo ra một bước ngoặt trong sự
phát triển của triết học sau đêm
trường Trung cổ. Nó tạo tiền đề
cho triết học tiếp tục phát triển vào
thời kỳ cận đại.
139. I. Hoàn cảnh lịch sử của triết
học Tây Âu thời kỳ cận đại.
Từ cuối thế kỷ XVI–XVIII ở các nước Tây
Âu là TK nổ ra các cuộc CMTS. Đầu tiên là
CMTS Hà Lan (1560–1570), sau đó là CMTS
Anh (1642–1648), rồi đến CMTS Pháp
(1789–1794). Trong đó CMTS Pháp là triệt
để nhất.
Đây là thời kỳ PTSX tư bản được xác lập
và trở thành PTSX thống trị, nó tạo ra những
vận hội mới cho KHKT phát triển mà trước
hết là KHTN.
140. Do đó thời kỳ này các ngành khoa học
đã dần tách ra khỏi triết học để trở thành
khoa học độc lập .Đặc biệt là các ngành
cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế
học ra đời và phát triển. Từ những thay
đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và
những thành tựu mới trong KHTN, triết
học thời kỳ này đã có một bước phát triển
mới. Trong đó nổi bật là CNDV Anh TK
XVII và CNDV Pháp TK XVIII.
141. II.Những nền triết học với những
triết gia tiêu biểu.
1. Triết học Anh thế kỷ XVII.
1.1. Phranxi Bêcơn (1561 - 1626).
Bêcơn sinh ra trong một gia đình quý tộc,
là con một quan chức cao cấp nước Anh.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm nhiều
công việc khác nhau: ngoại giao, tư pháp,
thượng thư báo chí, bầu vào nghị viện, thủ
tướng Anh, được phong bá tước.
Bêcơn là người sáng lập chủ nghĩa duy
vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại.
Bắt đầu từ Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu
bước sang một giai đoạn mới.
142. *Quan điểm của Bêcơn về vai trò,
nhiệm vụ của triết học và khoa học.
Theo Bêcơn thì nhiệm vụ của triết học là cải
tạo lại toàn bộ các tri thức mà con người đã đạt
được ở thời đại đó, nhằm “nắm bắt trật tự của
giới tự nhiên”.Theo ông, tri thức là sức mạnh
để con người chinh phục tự nhiên. Muốn chinh
phục tự nhiên thì con người phải nhận thức các
quy luật của nó và vận dụng các quy luật ấy vào
trong đời sống. Từ đó, Bêcơn cho rằng sự phát
triển của triết học và khoa học là nền tảng canh
tân đất nước.
143. *Quan điểm về thế giới
Bêcơn đứng trên lập trường DV trên cơ sở kế
thừa, phát triển quan điểm DV thời kỳ cổ đại. Đặc biệt
là quan điểm của Đêmôcrit về nguyên tử.
Theo Bêcơn, sự tồn tại của thế giới vật chất khách
quan là không thể tranh cãi được, khoa học không thể
biết cái gì ngoài thế giới vật chất cả. Và ông khẳng
định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản
chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng.
Bêcơn đã tiến hành phân loại các hình thức vận động.
Ông nêu ra 19 hình thức vận động của vật chất. Ở
đây ông đã thấy được mối quan hệ vật chất và vận
động.
144. *Quan điểm về lý luận nhận thức
Lý luận nhận thức của Bêcơn nêu lên và
giải quyết những vấn đề dưới đây:
Theo Bêcơn, không có tri thức bẩm sinh,
mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và
thực hiện sự “chế biến” những kinh nghiệm
đó thành một hệ thống, nhờ đó ta biết được
bản chất, của sự vật.
145. Từ đó, Bêcơn phê phán những người
kinh nghiệm luận máy móc giống như Con
Kiến chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn vặt
và sử dụng chứ không biết chế biến chúng.
Còn những người giáo điều thì giống như
Con Nhện dùng lý trí của mình giăng những
cái mạng vô hình, vô nghĩa.
Đối với những nhà khoa học chân chính,
theo ông phải như Con Ong, vừa biết góp
nhặt nhụy hoa vừa biết tạo ra “Mật khoa học”
cho đời.
146. Trên cơ sở đó, Bêcơn cho rằng phương
pháp tốt nhất để nhận thức bản chất của sự
vật là phương pháp quy nạp. Tức là trên cơ
sở những kinh nghiệm do nhận thức cảm
tính mang lại, phải biết phân tích, tổng hợp,
chế biến thông tin để rút ra kết luận về bản
chất của sự vật
147. Tuy nhiên, trong lý luận nhận thức,
Bêcơn không đứng vững trên lập trường
vô thần, khi thừa nhận chân lý có tính hai
mặt: khoa học và thần học. Ông cho rằng
khoa học và thần học không nên can thiệp
vào công việc của nhau. Khoa học nghiên
cứu cái mà thần học không thể có được.
Thần học nghiên cứu cái mà khoa học
không thể vươn tới.
148. *Quan điểm chính trị xã hội
Bêcơn chủ trương xây dựng nhà nước tập
quyền mạnh, bảo vệ lợi ích xã hội tư bản,
chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Ông
khẳng định sự phát triển công nghiệp và
thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất
trong đời sống xã hội. Bêcơn mơ ước xây
dựng một xã hội phồn vinh bằng con đường
giáo dục và bằng các phát minh kỹ thuật.
Tất cả những tư tưởng đó phù hợp với lợi
ích và nguyện vọng của giai cấp tư sản đang
lên và tầng lớp quý tộc mới ở nước Anh vào
thế kỷ thứ XVII
149. Tóm lại: Bêcơn là người sáng tạo
ra CNDV Anh, mang trong mình mầm
mống của sự phát triển tòan diện.
Mặc dù còn dưới hình thức mộc mạc,
song những quan điểm DV đó có tác
dụng tích cực đối với sự phát triển
của triết học và khoa học
150. 1.2. Tômát Hốpxơ (1588 -1679).
Hốpxơ là một triết gia nổi tiếng, đại
biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật Anh
thế kỷ XVII. Ông là người hệ thống hoá
chủ nghĩa duy vật của Bêcơn.
Quan điểm duy vật của ông được thể
hiện những nội dung sau đây:
151. *Quan điểm về thế giới
Hôpxơ đứng trên lập trường duy vật. Ông
cho rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan,
không do thần thánh sáng tạo ra và cũng
không phụ thuộc vào ý thức con người .
Theo ông, thế giới vật chất là thế giới của
các vật thể, cùng với những quan hệ số
lượng cơ học, toán học của nó. Quan niệm
của Hốpxơ về thế giới vật chất là quan niệm
duy vật siêu hình. Tất cả đều được quy về
quan hệ số lượng, quan hệ toán học và vận
động theo quy luật cơ học. Cả con người
cũng được ông giải thích như một cổ máy.
152. *Quan điểm về lý luận nhận thức
Về cơ bản lý luận nhận thức của Hôpxơ
thuộc về phái cảm giác luận. Ông coi cảm
giác là cơ sở của nhận thức. Nhưng ông chưa
giải quyết được mối quan hệ giữa nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính, giữa cái chung
và cái riêng. Do đó, ông cho rằng chỉ có
những sự vật cảm tính mới tồn tại khách
quan, còn các khái niệm chỉ là những cái tên,
những ký hiệu do con người tùy tiện đặt ra.
Như vậy, lý luận nhận thức của ông bị chủ
nghĩa duy danh chi phối.
153. *Quan điểm về nhà nước và xã hội.
Vấn đề nhà nước là một phần quan trọng trong
học thuyết của Hốpxơ. Lý luận này được ông trình
bày trong tác phẩm “về công dân”.
Ông cho rằng, con người là một thực thể thống
nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Về bản tính tự
nhiên, mọi người sinh ra đều như nhau. Nhưng con
người ai cũng có khát vọng, nhu cầu riêng của mình.
Đó là những tiền đề cho con người làm điều ác.
Để khắc phục tình trạng trên, cần phải xây dựng
“một khế ước xã hội” như bản hợp đồng, giao kèo
giữa nhà nước và công dân. Trên cơ sở đó, hình
thành những đạo luật để mọi công dân có nghĩa vụ
tuân theo và nhà nước dựa vào đó để quản lý XH.
154. 1.3. Gióocgiơ Béccli (1684 - 1753).
Béccli sinh ra trong một gia đình quí
tộc ở miền Nam Ailen; học ở Trường
Tổng hợp Đublin. Ông say mê nghiên cứu
thần học, toán học và triết học. Béccli là
nhà triết học duy tâm, vị linh mục. Quan
điểm triết học của ông thể hiện nội dung
sau:
155. *Quan điểm về thế giới
Ông phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật
chất. Ông cho rằng khái niệm vật chất chỉ là sự trừu tượng
trống rỗng.
Theo ông, “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp
của cảm giác”. Ví dụ, cái bàn, đó không phải là một vật thể
hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu
sắc. Hương vị của hoa quả cũng chỉ do cảm giác của con
người nhận biết, chúng không tồn tại thật.
Ông giải thích: “Tôi nhìn thấy quả anh đào này, sờ thấy
nó, nếm nó... nó có thật. Gạt bỏ cảm giác mềm dịu, mát,
đắng, màu đỏ... đi tức là tiêu diệt quả anh đào”. Tóm lại, theo
Béccli, mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm
biết được chúng. Tồn tại có nghĩa là được cảm biết.
156. *Quan điểm về lý luận nhận thức
Beccli cũng đứng trên lập trường duy tâm.Từ
chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới
vật chất, Béccli đã đi tới phủ nhận chân lý
khách quan. Ông cho rằng: tìm chân lý không
phải là trong sự phù hợp của tri thức với sự
vật bên ngoài, mà là sự so sánh các quan niệm
trong ý thức con người, là tính rõ ràng các tri
giác cảm tính, là sự đơn giản và dễ hiểu của
các quan niệm, là sự phù hợp với ý chúa.
157. 2. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII.
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
Xã hội Pháp vào nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu
thuẫn sâu sắc. Giai cấp phong kiến Pháp đứng đầu là vua Lu-i
XVI đã thâu tóm vào tay mình những quyền lực vô hạn. Chỗ
dựa xã hội của nhà vua là các đẳng cấp đặc quyền và chiếm số
ít trong dân cư: quí tộc và tăng lữ. Đời sống của đại đa số nhân
dân lao động, trước hết là nông dân hết sức khốn khổ, nạn đói
do mất mùa hoành hành, những cuộc nổi dậy của nông dân
chống chế độ phong kiến xảy ra thường xuyên. Tất cả cái đó là
nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng tư sản Pháp
(1789 – 1794). Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những
người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng về chính
trị sôi động đó.
158. Thế kỷ XVIII ở Pháp, với những đặc
điểm kinh tế - xã hội, chính trị của nó cũng
đồng thời tạo những tiền đề cho sự ra đời
của những tư tưởng triết học và tư tưởng
văn hoá nói chung.
Triết học thời kỳ này được gọi là triết
học khai sáng (ánh sáng) nghĩa là coi
trọng trí tuệ, đề cao trí tuệ của con người.
159. 2.2. Một số triết gia tiêu biểu.
a). Giulen Ôphrơ La Mettri (1709 – 1751).
La Mettri sinh ra trong một gia đình
thương nhân giàu có. Sau khi tốt nghiệp
trung học, ông nghiên cứu y học và trở thành
bác sĩ, đồng thời say mê nghiên cứu triết học
và khoa học. La Mettri là một trong những
nhà triết học duy vật điển hình của triết học
khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông cùng với
các nhà Bách khoa toàn thư Pháp chuẩn bị
về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản
Pháp năm 1789.
160. *Quan điểm về thế giới.
La Mettri đã có những bước tiến quan trọng trong
quan điểm về bản chất thế giới so với những nhà triết
học khác cùng thời đại. Theo ông, thực thể vật chất là
thống nhất ba hình thức của nó trong giới tự nhiên như:
giới vô cơ, thực vật, động vật (bao gồm con người).
Ông cho rằng, trong thế giới chúng ta không có gì
khác ngoài vật chất đang vận động vĩnh viễn. Nguyên
nhân sự vận động của vật chất không phải do lực lượng
bên ngoài mà “Vật chất chứa đựng một lực lượng làm
nó sống động, và là nguyên nhân trực tiếp của mọi qui
luật vận động”.
161. Theo La Mettri, vật chất không chỉ có
thuộc tính không gian và vận động mà còn
có năng lực cảm giác. Nhưng năng lực
cảm giác không phải xuất hiện ở bất cứ
dạng vật chất nào, mà chỉ xuất hiện ở các
“vật thể có tổ chức đặc biệt” đó là giới sinh
vật. Cơ thể con người là khí quan vật chất
của tư duy và ý thức của anh ta. Mọi tư
tưởng, suy nghĩ của con người đều bị qui
định bởi cấu trúc cơ thể của anh ta và
chịu sự tác động của môi trường và các
điều kiện sống.
162. *Quan điểm về lý luận nhận thức.
La Mettri có những đóng góp có giá trị cho lý luận
nhận thức duy vật. Ông cho rằng mọi nhận thức đều
bắt đầu từ cảm giác, tiến lên tư duy trừu tượng - đó là
phán đoán và suy lý. Phán đoán là so sánh, kết hợp
các biểu tượng có được nhờ trí nhớ ghi lại các cảm
giác của con người trong đời sống hàng ngày. Còn
suy lý là sự so sánh, kết hợp các phán đoán với nhau
nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó.
Quan niệm của La Mettri về quá trình nhận thức,
không chỉ là quan điểm duy vật mà còn có những yếu
tố biện chứng. Tuy nhiên lý luận nhận thức của ông
vẫn mang tính trực quan, siêu hình, quá nhấn mạnh
vai trò cơ chế tâm sinh lý trong nhận thức...
163. *Quan điểm về xã hội.
La Mettri chủ trương thực hiện quyền sở
hữu tài sản. Chủ trương một xã hội được quản
lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính
trị, quyền công dân, tự do buôn bán...
Là người có tư tưởng khai sáng, La Mettri
cho rằng, thông qua giáo dục, truyền bá tư
tưởng tiên tiến cho mọi người thì sẽ giải quyết
được mọi sự tiến bộ xã hội.
Ông cho rằng đối với người làm khoa học
thì không cần đến tôn giáo. Nhưng đối với đại
đa số nhân dân không có học, nghèo khổ thì họ
lại cần tôn giáo.
164. b). Đêni Điđrô (1713 - 1784).
Điđrô là nhà triết học duy vật điển hình
ở Pháp thế kỷ XVIII, là nhà văn, nhà lý
luận nghệ thuật, đại biểu phái khai sáng,
người chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư”,
của Pháp- một trong những di sản văn
hóa vĩ đại của nước Pháp và Châu Âu thế
kỷ XVIII.
165. *Quan điểm về thế giới
Điđrô đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Béccơli và tính không triệt để của chủ nghĩa
duy vật Anh.
Theo ông, trong vũ trụ chỉ có một thực thể
duy nhất, đó là vật chất; nó là cơ sở của mọi
sự vật, hiện tượng.
Vật chất là toàn bộ các vật thể có quảng
tính, có hình thức và luôn luôn vận động. Vận
động là một thuộc tính của vật chất. Nguyên
nhân của sự vận động là sự tự thân vận động
của vật chất.
166. Điđrô cho rằng, chính trong quá trình
vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ
loại bỏ những cái không thích nghi và
chọn lọc những gì giúp cho nó ngày càng
hoàn thiện.
Do vậy, kết cấu và trạng thái của sinh
vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu
dài của giới tự nhiên. Với quan niệm này,
Điđrô là bậc tiền bối của học thuyết
Đácuyn về chọn lọc tự nhiên.
Những quan niệm về bản thể luận trên
đây của Điđrô rất gần với quan điểm duy
vật hiện đại.
167. *Quan điểm về lý luận nhận thức.
Điđrô xây dựng lý luận nhận thức trên
lập trường duy vật.
Theo ông, cảm giác là nguồn gốc của
mọi sự hiểu biết, là giai đoạn thứ nhất trong
nhận thức; còn lý trí, tư duy là giai đoạn thứ
hai.
Trên cơ sở cảm giác mà xuất hiện tư
duy; cảm giác là bằng chứng, lý trí là quan
tòa, dùng lý trí để kiểm soát cảm giác. Dùng
thí nghiệm và quan sát để kiểm tra những
luận điểm về lý luận.
168. Đề cao vai trò đặc biệt của quá trình
nhận thức đối với sự phát triển của xã hội,
Điđrô đưa ra tư tưởng biện chứng khẳng
định tính vô cùng tận trong sự phát triển
của tự nhiên, cũng như quá trình nhận
thức của con người.
Mặc dù khả năng nhận thức của mỗi
cá nhân là hữu hạn, nhưng nhân loại về
nguyên tắc có thể nhận thức toàn bộ thế
giới, mặc dù quá trình đó là vô cùng tận.
Có thể nói, nhận thức luận của Điđrô đã
tiến đến gần nhận thức luận duy vật biện
chứng.
169. *Quan điểm về chính trị - xã hội.
Trên cơ sở khẳng định vật chất là thực thể duy
nhất của mọi vật, Điđrô phủ nhận sự tồn tại của
Thượng đế, coi đó chỉ là sự thần thánh hóa các điều
kiện sống hiện thực của con người. Vì thế, không
phải tôn giáo sáng tạo ra con người, mà chính con
người sáng tạo ra tôn giáo.
Khoa học thì hướng tới vũ trang cho chúng ta
quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn
mạnh thêm, còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều
ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi.
Tuy nhiên, ông chỉ nhìn nguồn gốc của tôn giáo
ở yếu tố tâm lý sợ chết của con người chứ chưa
nhìn thấy cơ sở kinh tế - xã hội của sự tồn tại tôn
giáo.
170. c). Pôn Hăngri Điđrich Hônbách
(1729 – 1789).
Hônbách là đại biểu xuất sắc của chủ
nghĩa duy vật và vô thần thế kỷ XVIII, nhà
tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng
Pháp, là cộng tác viên tham gia soạn thảo
“Bách khoa toàn thư” do Điđrô đứng đầu.
171. *Quan điểm về thế giới .
Hônbách đã đứng trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật và dựa vào các thành tựu của khoa
học tự nhiên khẳng định tính vật chất của thế giới.
Theo ông: “vật chất là tất cả những gì tác
động bằng một cách nào đó vào các giác quan của
chúng ta, còn các đặc tính mà chúng ta gán cho các
chất khác nhau thì dựa trên những cảm giác khác
nhau hay những biến đổi khác nhau do chúng gây
ra trong chúng ta”.
Những đặc tính chủ yếu của vật chất là:
quảng tính (độ dài - khoảng cách), vận động, tính có
thể phân chia, tính chắc chắn, trọng lực...
172. Theo Hônbách, vật chất tồn tại vĩnh
viễn, không ai sáng tạo ra và cũng không
mất đi. Vật chất hoạt động là do sức mạnh
của tự bản thân nó và không cần có sự
thúc đẩy bên ngoài.
Công lao lớn nhất của Hônbách thể
hiện ở chỗ ông thừa nhận vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất.
Nhưng vì là nhà duy vật siêu hình và
do hạn chế của điều kiện lịch sử, nên ông
quan niệm vận động chỉ là vận động cơ
giới, là sự đổi chỗ giản đơn của các vật
thể trong không gian.
173. *Quan điểm Về nhận thức luận .
Lý luận nhận thức của Hônbách dựa trên cảm
giác luận duy vật.
Theo ông, vật chất là tính thứ nhất, các hình thức
ý thức là tính thứ hai. Khi giải quyết mặt thứ hai vấn
đề cơ bản của triết học, Hônbách cho rằng trí tuệ
con người có khả năng nhận biết được thế giới và
các quy luật của nó.
Song lý luận nhận thức của Hônbách còn hạn
chế là chưa thấy được quan hệ biện chứng giữa
nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, chưa vạch
ra được tính tích cực của ý thức và vai trò của thực
tiễn xã hội trong nhận thức.
174. *Quan điểm về xã hội.
Quan điểm xã hội của Hônbách mang tính chất
duy tâm, ông coi sự phát triển xã hội như một quá
trình định mệnh chi phối.
Là nhà triết học trong phái khai sáng, ông quả
quyết rằng loài người có thể thoát khỏi ách phong
kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý tính
thắng chủ nghĩa ngu dân thời Trung cổ.
Hônbách mong muốn có sự quá độ hòa bình từ
chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con
đường lập pháp “hoàn thiện”. Ông sợ phong trào
cách mạng của quần chúng, mà muốn có “cách
mạng từ trên xuống”.
176. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết
học cổ điển Đức.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển
Đức.
-Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia,...
đã hoàn thành cuộc cách mạng tư sản và
thiết lập chủ nghĩa tư bản.
Tình hình đó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ.
177. -Trong khi đó nước Đức vẫn còn là một
quốc gia phong kiến lạc hậu cả về kinh tế
lẫn chính trị.
Nông nghiệp bị đình đốn, công nghiệp
không phát triển (năm 1822, cả nước Đức
mới chỉ có 2 máy hơi nước).
Vào đầu thế kỷ XIX nước Đức có
khoảng 300 công quốc khác nhau. Mỗi
công quốc giống như tiểu vương quốc tách
biệt gây trở ngại cho sự phát triển đất
nước.
178. - Đặc biệt, triều đình vua Phổ vẫn ngoan
cố tăng cường quyền lực để duy trì chế độ
phong kiến thối nát cản trở đất nước phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
- Mặc dù lạc hậu về kinh tế và chính trị,
nhưng nước Đức lại có những bước phát
triển mới về triết học, văn hóa, nghệ thuật.
Điều này thể hiện sự phát triển của ý thức
tư tưởng có lúc không hoàn toàn phụ thuộc
một chiều vào điều kiện về kinh tế.
179. - Do ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp
cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật của
thế giới lúc bấy giờ tác động làm cho giai cấp tư sản
Đức và những nhà tư tưởng thấy được những hạn
chế của phương pháp tư duy siêu hình.
Vì vậy, cần phải có sự cải cách, cần phải thay
thế bằng phương pháp tư duy biện chứng.
Do đó, ở nước Đức thời kỳ này có sự phát triển
mạnh mẽ về mặt triết học. Sự phát triển đó trở thành
màn giáo đầu cho cuộc cách mạng về chính trị sau
này.
180. 2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
- Một là, triết học cổ điển Đức thời kỳ này biểu hiện
khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng về tư tưởng với
sự bảo thủ cải lương về lập trường chính trị xã hội của
các nhà triết học.
- Hai là, trước đây triết học phương Tây chủ yếu bàn
về những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhận thức luận,
thì triết học cổ điển Đức bàn đến con người, coi con
người vừa là kết quả của quá trình hành động của mình
vừa là chủ thể của quá trình ấy. Đó là một thành tựu mới
đáng được khẳng định.
- Ba là, triết học cổ điển Đức có một cách nhìn mới,
biện chứng về thế giới hiện thực. Nếu gạt bỏ những yếu
tố duy tâm thì cách nhìn này là một đóng góp lớn cho tri
thức nhân loại.
181. Với những lý do nói trên triết học cổ
điển Đức được coi là giai đoạn phát
triển rực rỡ nhất của triết học phương
Tây cận đại và là nguồn gốc lý luận trực
tiếp cho sự ra đời của triết học Mác sau
này.
182. II. Một số triết gia tiêu biểu.
1. Cantơ ( 1724-1804).
• Cantơ là nhà triết học mở đầu cho nền triết
học cổ điển Đức, ông sinh ra trong một gia
đình quý tộc Phổ ở Kennixbec, và học ở
trường đại học tổng hợp Kennixbec. Sau đó
giảng dạy môn triết học và các môn khoa
học tự nhiên ở đây.
• Cantơ là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực: toán học, logíc học, mỹ học, triết
học.Triết học của Cantơ được chia làm hai
thời kỳ gắn liền với sự chuyển biến tư
tưởng của ông.
183. *Thời kỳ trước phê phán (1746-1770).
Thời kỳ này Cantơ chú trọng nghiên cứu các vấn đề
khoa học tự nhiên với những phát minh nổi tiếng:
- Cantơ là người đầu tiên đã khám phá ra ảnh
hưởng, của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng
đối với các hiện tượng thuỷ triều. Ông cho rằng, do
sức hút của mặt trăng và trái đất đưa tới hiện tượng
nước thuỷ triều lên xuống và đã ảnh hưởng tới tốc
độ xoay vòng của trái đất. Cantơ cho rằng vòng xoay
của trái đất sẽ bị chậm lại là do sự ma sát khi nước
thuỷ triều lên gây ra.
184. • Trong tác phẩm “ lịch sử tự nhiên phổ thông
và lý thuyết bầu trời” viết năm 1775, Cantơ đã
nêu lên giả thuyết có giá trị về sự hình thành
vũ trụ bằng các cơn lốc và kết tụ của các khối
tinh vân.
Như vậy ông thừa nhận các hiện tượng
trong thế giới có mối liên hệ vận động phát
triển. Trái đất, bầu trời cũng như toàn vũ trụ
có quá trình sinh thành, biến đổi.
Những phát minh về KHTN nói trên chứng
tỏ rằng Cantơ là người có quan điểm duy vật
biên chứng về thế giới.
185. *Thời kỳ phê phán (1770 trở đi).
-Nếu thời kỳ trước phê phán, triết học của
Căntơ thể hiện tính chất duy vật biện chứng
về thế giới thì thời kỳ phê phán triết học của
ông lại mang tính chất duy tâm, bất khả tri về
thế giới.
-Trước hết Cantơ thừa nhận sự tồn tại của
thế giới vật chất ở bên ngòai con người, thế
giới đó có thể nhận thức được bằng cảm giác.
Về điểm này ông là nhà duy vật.
186. Nhưng ông lại cho rằng nhận thức của con
người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài , không
xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật
thì khi đó ông lại là người duy tâm bất khả tri.
Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ
còn thể hiện ở chỗ ông coi không gian, thời gian,
các quy luật của tự nhiên không phải Là sản phẩm
của giới tự nhiên mà là sản phẩm của lý trí tiên
nghiệm
Tóm lại triết học của Cantơ là sự dung hòa
giữa CNDV Và CNDT và sự kết hợp hai khuynh
hướng đó trong một hệ thống triết học.
187. 2. Hêghen (1770-1831).
2.1. Tóm tắt tiểu sử và tác phẩm.
Hêghen sinh ra trong một gia đình quan chức
cao cấp ở Đức. Thời trẻ ông học khoa học triết học
và thần học ở trường Đại học Tubingen.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Hêghen làm giáo sư
dạy tư trong các gia đình, về sau ông được bổ
nhiệm làm giáo sư hiệu trưởng trường trung học và
sau đó làm giáo sư ở trường Đại học Hayđenbéc;
cuối đời ông là giáo sư ở trường Đại học Béclinh.