Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ : https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/garmentspace
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01 https://www.facebook.com/thuvienluanvan01 tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
Sử dụng khuê tảo đáy trong đánh giá ô nhiễm môi trường nước ở thành phố Bến Tre.pdf
1. ĐINH
LÊ
MAI
PHƯƠNG
CÔNG
NGHỆ
SINH
HỌC
2021 BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đinh Lê Mai Phương
SỬ DỤNG KHUÊ TẢO ĐÁY TRONG ĐÁNH GIÁ Ô
NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ
BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Sinh học thực nghiệm
TP. HCM - Năm 2021
2. BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đinh Lê Mai Phương
SỬ DỤNG KHUÊ TẢO ĐÁY TRONG ĐÁNH GIÁ Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ BẾN TRE
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 8420114
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Phạm Thanh Lưu
TP. HCM – Năm 2021
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu trong luận văn này là công trình nghiên cứu của
tôi dựa trên những tài liệu, số liệu do chính tôi tự tìm hiểu và nghiên cứu. Chính vì
vậy, các kết quả nghiên cứu đảm bảo trung thực và khách quan nhất. Đồng thời, kết
quả này chưa từng xuất hiện trong bất cứ một nghiên cứu nào. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực nếu sai tôi hoàn chịu trách nhiệm.
TP. HCM, ngày 10 tháng 10 năm 2021
Người cam đoan
Đinh Lê Mai Phương
4. ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thanh Lưu –
Viện Sinh học nhiệt đới – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã giúp
tôi định hướng nội dung, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Nhân dịp này tôi cũng xin tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy cô, giảng
viên Khoa Sinh học thực nghiệm Học viện Khoa học và Công nghệ đã chỉ dạy tận
tình, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể phòng Công nghệ và Quản lý Môi trường,
Viện Sinh học Nhiệt đới– Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tạo
điều kiện cơ sở vật chất và giúp đỡ tôi thực hiện nội dung nghiên cứu của luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và những người
thân đã ở bên tôi, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
5. iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ......................................................................................................... i
Lời cảm ơn ............................................................................................................. ii
Mục lục................................................................................................................... iii
Danh mục các ký hiệu, các chữ cái viết tắt ........................................................... v
Danh mục các bảng ............................................................................................... vi
Danh mục các hình vẽ, đồ thị ................................................................................ vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........................................................... 4
1.1. Đặc điểm chung của khuê tảo đáy............................................................... 4
1.2. Phân loại khuê tảo đáy ................................................................................ 9
1.3. Sinh thái của khuê tảo đáy .......................................................................... 10
1.4. Lược sử nghiên cứu .................................................................................... 11
1.4.1. Trên thế giới ......................................................................................... 11
1.4.2. Ở Việt Nam ........................................................................................... 13
1.5. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu .......................................................... 15
1.5.1. Đặc điểm địa lý tỉnh Bến Tre ............................................................... 15
1.5.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết ................................................................... 17
1.5.3. Hiện trạng chất lượng môi trường thủy vực tỉnh Bến Tre..................... 18
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................ 19
2.1. Nội dung nghiên cứu ...................................................................................... 19
2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 19
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................... 19
2.2.2. Đo đạc các thông số hóa lý ..................................................................... 21
2.2.3. Thu mẫu khuê tảo đáy ............................................................................. 22
2.2.4. Phương pháp xử lý mẫu trong phòng thí nghiệm ................................... 23
2.2.5. Phương pháp định lượng khuê tảo .......................................................... 23
6. iv
2.2.6. Tính sinh khối khuê tảo ........................................................................... 23
2.2.7. Phân tích hàm lượng chlorophyll-a ......................................................... 26
2.2.8. Chỉ số chất lượng nước WQI................................................................... 26
2.2.9. Phương pháp phân tích số liệu ................................................................ 27
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 33
3.1. Kết quả đo các chỉ tiêu hóa lý ........................................................................ 33
3.2. Chỉ số chất lượng nước WQI .......................................................................... 36
3.3. Thành phần các loài khuê tảo đáy .................................................................. 37
3.4. Mật độ tế bào và loài ưu thế ........................................................................... 39
3.5. Các chỉ số sinh học và hiện trạng môi trường ................................................ 45
3.6.Phân tích mối liên hệ giữa khu hệ khuê tảo và các thông số môi trường hóa
lý ............................................................................................................................ 48
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 52
4.1. Kết luận .......................................................................................................... 52
4.2. Kiến nghị ........................................................................................................ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 53
PHỤ LỤC............................................................................................................... 59
DANH MỤC BÀI BÁO CÔNG BỐ ..................................................................... 68
7. v
DANH MỤC VIẾT TẮT
ANOVA Phương pháp phân tích phương sai (analysis of varance)
BOD5 Nhu cầu oxy hóa sinh học 5 ngày (Biochemical oxygen Demand)
BT1- BT11 Ký hiệu các điểm thu mẫu ở thành phố Bến Tre
CCA Phương pháp phân tích tương quan chính tắc (Canonical
corespondence analysis)
COD Nhu cầu oxy hóa học (Chemical Oxygen Demand)
DO Oxy hòa tan (Desolved Oxygen)
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
SD Thông số đĩa Secchi (Secchi disk)
TDI Chỉ số phú dưỡng của quần xã khuê tảo (Trophic Diatom Index)
TDS Tổng chất rắn hòa tan (Total Dissolved Solids)
TSI Chỉ số trạng thái phú dưỡng (Trophic State Index)
TSS Tổng chất rắn lơ lửng (Total Suspended Solids)
8. vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
2.1. Tọa độ và vị trí các điểm thu mẫu ................................................................20
2.2. Công thức tính sinh khối tế bào ...................................................................23
2.3. Bảng đánh giá chất lượng nước theo giá trị WQI (Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Quyết định Số: 1460/QĐ-TCMT Về việc ban hành Hướng dẫn kỹ thuật
tính toán và công bố chỉ số chất lượng nước Việt Nam (VN_WQI). ..................27
2.4. So sánh giái trị của chỉ số Margalef với mức độ đa dạng sinh học .............28
2.5. Giá trị chỉ số H’ và chất lượng nước ............................................................29
2.6. Thang điểm đánh giá mức độ bền vững của quần xã khuê tảo đáy tương ứng
với mức độ nhiễm bẩn..........................................................................................30
2.7. Trạng thái dinh dưỡng và chất lượng nước theo chỉ số BDI, TSI và TDI....32
3.1. Bảng đánh giá chất lượng nước theo giá trị WQI và theo QCVN08-
MT:2015/BTNMT ở các điểm thủy vực thành phố Bến Tre...............................36
3.2. Thành phần loài loài chiếm ưu thế trong mỗi điểm thu mẫu tại thủy vực thành
phố Bến Tre..........................................................................................................41
3.3. Kết quả đánh giá các chỉ số TDI, BDI và phân loại chất lượng nước vào mùa
mưa ......................................................................................................................46
3.4. Kết quả đánh giá các chỉ số TDI, BDI và phân loại chất lượng nước vào mùa
khô .......................................................................................................................47
3.5. Hệ số p giữa độ đa dạng, sinh khối, các chỉ tiêu sinh học và các biến số môi
trường trong mùa mưa. ........................................................................................49
3.6. Hệ số p giữa độ đa dạng, sinh khối, các chỉ tiêu sinh học và các biến số môi
trường trong mùa khô ..........................................................................................49
3.7. Các nhóm vi tảo có tiềm năng sử dụng làm chỉ thị môi trường....................51
9. vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
1.1.Bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre ....................................................................... 16
2.1. Vị trí các điểm thu mẫu tại thành phố Bến Tre ............................................... 20
3.1. Các thông số hóa lý tại 11 điểm khảo sát ở thủy vực thành phố Bến Tre ........ 35
3.2. Cấu trúc thành phần loài khuê tảo đáy tại thành phố Bến Tre ở mùa mưa và mùa
khô............................................................................................................................38
3.3. Đồ thị biểu diễn sinh khối và mật độ tế bào khuê tảo đáy ở thành phố Bến Tre
.................................................................................................................................. 40
3.4. Thành phần loài khuê tảo đáy ở thành phố Bến Tre trong 2 mùa .................... 43
3.5. So sánh các chỉ số sinh học ở vùng đô thị và ngoài đô thị của thành phố Bến
Tre ........................................................................................................................... 44
3.6. Chỉ số đa dạng Shannon – Weiner (H’) và chỉ số ưu thế Simpson’s (D’) ở các
điểm khảo sát trong 2 mùa. ..................................................................................... 46
3.7. Sự chi phối của môi trường hóa lý và quần xã khuê tảo đáy trong mùa khô (A)
và mùa mưa (B) ....................................................................................................... 50
10. 1
MỞ ĐẦU
Phát triển đô thị là một xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới
trong kỷ nguyên hiện đại hóa, khoa học – kĩ thuật tiên tiến. Hiện nay các đô thị tại
đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước,
đặc biệt là trong giai đoạn nước ta đang phấn đấu để trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Trong số các đô thị lớn ở đồng bằng sông Cửu Long không thể không
kể đến thành phố Bến Tre, một trong những đô thị phát triển nhanh ở khu vực.
Bến Tre là một tỉnh châu thổ nằm sát biển, Bến Tre có địa hình bằng phẳng,
không có rừng nguyên sinh, chỉ có một số rừng thứ sinh và những dải rừng ngập mặn
ven biển và ở các cửa sông. Bốn bề đều có sông nước bao bọc, Bến Tre có một hệ
thống đường thủy chằng chịt gồm những con sông lớn từ biển Đông qua các cửa sông
chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông và cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng
nguồn đến tận biên giới Campuchia. Do vậy, Bến Tre có vị trí đặc biệt trong thời
chiến cũng như thời bình [1].
Thành phố Bến Tre (trước đây là thị xã Bến Tre) nằm trên bờ sông cùng tên,
có diện tích 6.575 ha. Dân số của thành phố 124.499 người (2019). Phía bắc và đông
bắc giáp huyện Châu Thành, đông và đông nam giáp huyện Giồng Trôm, tây và tây
nam giáp huyện Giồng Trôm và giáp sông Hàm Luông.
Ngày 9 tháng 8 năm 2007, thị xã Bến Tre được công nhận là đô thị loại III,
chính thức trở thành thành phố thuộc tỉnh. Sau 12 năm, sự chuyển mình mạnh mẽ đã
giúp thành phố Bến Tre đạt chuẩn đô thị loại II năm 2019. Sự chuyển đổi cơ cấu nền
kinh tế theo xu hướng mới đã và đang làm cho quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh chóng. Các hoạt động công, nông, lâm, ngư nghiệp đã tác động không nhỏ đến
chất lượng nước ở các thuỷ vực trong thành phố Bến Tre. Cùng với sự đô thị hóa, các
hoạt động sản xuất công nghiệp, du lịch tạo ra một lượng nước thải lớn, ảnh hưởng
xấu đến chất lượng môi trường nước. Do vậy, ô nhiễm môi trường các thuỷ vực trong
thành phố Bến Tre đã trở thành vấn đề được quan tâm. Theo chương trình quan trắc
hằng năm của tỉnh Bến Tre, khu vực thành phố Bến Tre được xem là điểm nóng về
suy giảm chất lượng môi trường.
Trong chương trình quan trắc này, chất lượng nguồn nước mặt được đánh giá
qua các thông số, chỉ tiêu hóa - lý là chủ yếu. Các thông số này chỉ nói lên được hiện
trạng tức thời tại thời điểm khảo sát, khó có thể đánh giá sự biến động của môi trường
trong thời gian dài. Muốn đánh giá được tác động của con người lên hệ sinh thái trong
thời gian dài phải dựa vào chỉ tiêu sinh học để đánh giá. Tuy nhiên, việc sử dụng các
11. 2
chỉ tiêu sinh học để xem xét chất lượng nền đáy ở các thủy vực trong tỉnh chưa được
nghiên cứu đầy đủ trong các hoạt động đánh giá và quản lý chất lượng môi trường.
Có nhiều phương pháp được áp dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm môi
trường. Trong đó phương pháp sinh học nhờ sử dụng các thủy sinh vật để đánh giá
chất lượng môi trường, gần đây được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong hầu hết
các thủy vực, yếu tố môi trường có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên thủy sinh vật.
Vi tảo là nhóm sinh vật sản xuất trong thủy vực. Chúng có vai trò quan trọng trong
việc sản sinh ra nguồn năng lượng sơ cấp, tham gia vào các chu trình chuyển hóa vật
chất trong tự nhiên và cung cấp sinh khối sơ cấp cho những sinh vật kế tiếp trong
chuỗi thức ăn trong thủy vực. Trong đó, quần xã khuê tảo đáy có khả năng phản ánh
được các đặc điểm môi trường và sức khoẻ sinh thái, do đó có tiềm năng ứng dụng
làm chỉ thị sinh học trong các chương trình khảo sát, đánh giá hiện trạng, quan trắc
chất lượng môi trường các thuỷ vực [2].
Vi tảo phân bố rộng khắp trong các môi trường thủy sinh, chúng là cầu nối
giữa nhóm sinh vật sản xuất với các bậc dinh dưỡng cao. Chúng đóng vai trò quan
trọng trong mạng lưới thức ăn và chu trình sinh địa hóa của thủy vực và chúng chịu
sự chi phối của nhiều yếu tố môi trường như ánh sáng, pH, nhiệt độ và dinh dưỡng…
Khuê tảo (còn gọi là tảo silic) là loại tảo đơn bào có kích thước nhỏ (20 µm
– 100 µm), có vách silic và các hoa văn phức tạp trên bề mặt vỏ. Khuê tảo hiện diện
trong môi trường nước ngọt, nước lợ và nước mặn và ngay cả trên nền đất ẩm. Bởi vì
khuê tảo có tính ưu việt nổi trội và thường được sử dụng trong nhiều nghiên cứu đánh
giá chất lượng nước do chúng có thành phần loài rất đa dạng, có chu trình phát triển
ngắn, phân bố rộng, phản ứng nhanh với các thay đổi của các điều kiện môi trường,
trong đó có nhiều loại nhạy cảm với sự thay đổi các tính chất vật lý, hoá học của môi
trường nước, tài liệu phân loại phong phú.... Thêm vào đó quần xã khuê tảo thường
có chu kỳ sinh sản nhanh. Do vậy chúng thường được sử dụng làm chỉ thị sinh học
trong đánh giá chất lượng môi trường [3,4,5].
Chính vì vậy, đề tài “Sử dụng khuê tảo đáy trong đánh giá ô nhiễm môi
trường nước ở thành phố Bến Tre” được đề xuất thực hiện. Việc điều tra thành
phần loài khuê tảo đáy có ý nghĩa lớn, không chỉ phản ánh tính đa dạng sinh học tảo
silic tại thủy vực thành phố Bến Tre mà còn xác định các đặc trưng phân bố sinh thái,
mật độ và sinh khối của chúng nhằm tìm ra các loài, nhóm loài nhạy cảm có tiềm
năng sử dụng trong các nghiên cứu đánh giá chất lượng môi trường nước.
Mục tiêu của đề tài:
12. 3
- Sử dụng quần xã khuê tảo đáy trong đánh giá hiện trạng và phân loại
chất lượng môi trường nước trong khu vực thành phố Bến Tre.
- Đánh giá sự chi phối của các thông số môi trường nước lên quần xã
khuê tảo đáy, trên cơ sở đó xác định các loài/ nhóm loài có khả năng làm chỉ thị cho
ô nhiễm môi trường đô thị.
Nội dung nghiên cứu của đề tài:
- Khảo sát hiện trạng tính chất môi trường nước ở thủy vực thành phố
Bến Tre bằng các thông số hoá lý.
- Khảo sát thành phần loài, tính đa dạng, mật độ và sinh khối của quần
xã khuê tảo đáy cũng như cấu trúc phân bố quần xã khuê tảo đáy, biến động giữa mùa
khô và mùa mưa ở khu vực thành phố Bến Tre.
- Đánh giá hiện trạng môi trường đối với chất lượng nước thông qua sự
phản ánh của quần xã khuê tảo đáy.
- Phân tích các thông số môi trường chi phối đến tính đa dạng, mật độ,
sinh khối và phân bố của quần xã khuê tảo đáy.
Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài:
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học nhằm ứng dụng quần xã khuê tảo
đáy trong đánh giá và phân loại chất lượng môi trường sinh thái ở khu vực đô thị.
Trên cơ sở phân tích cấu trúc quần xã khuê tảo đáy sẽ giúp đánh giá các tác động của
quá trình đô thị hóa lên hệ sinh thái thủy vực, từ đó có những biện pháp quản lý, bảo
vệ môi trường.
Đóng góp của luận văn:
- Nghiên cứu có ý nghĩa trong việc dự đoán chất lượng nước, là tài liệu
tham khảo tốt cho các sinh viên ngành sinh học và môi trường.
13. 4
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm chung của khuê tảo đáy
a. Số lượng loài và nơi sống: Khuê tảo (tảo silic) có khoảng 10.000 đến
12.000 loài [6], khoảng 50.000 loài [7], khoảng 285 chi với hơn 100.000 loài [8].
Chúng có mặt ở hầu hết các môi trường sống ở nước ngọt, lợ, mặn dưới dạng phù du,
đáy, bì sinh thực vật, và nội cộng sinh động vật [9].
b. Đặc điểm hình thái:
Khuê tảo đáy có nhiều hình dạng khác nhau như hình que, hình nêm, hình
thuyền, hình đĩa, hình nhiều góc cạnh, hình ống,... với các dạng đơn bào hay tập đoàn
thường gặp trong tự nhiên ở nhiều hình dạng khác nhau [10]:
- Có thể tách rời (separable colonies): các tế bào nối với nhau bằng chất
silic hoặc gài móc vào nhau.
- Mặt vỏ phân cách (separable valve): các tế bào nối với nhau bằng cấu
trúc khác nhau giữa mặt vỏ của tế bào này với mặt vỏ của tế bào khác.
- Chuỗi (chain): các tế bào sắp xếp thành chuỗi dài với các kiểu nối thông
qua các sợi nối, tiếp giáp mặt vỏ, các lông gai, các gai đỉnh ở mép mặt vỏ.
- Dạng dải (ribbons): các tế bào nối với nhau bằng các mặt vỏ tiếp xúc
hoặc các gai ở viền mép mặt vỏ.
- Dạng bậc chồng lên nhau (stepped chains): các tế bào nối với nhau theo
cách một phần của tế bào này gối lên một phần của tế bào khác.
- Dạng zigzag hay hình sao: các tế bào nối với nhau bằng các tấm chất
nhầy.
c. Tổ chức cơ thể và kích thước tế bào:
Tảo đơn bào, thường sống thành tập đoàn. Tế bào có kích thước từ 2μm đến
khoảng 2 mm.
Vỏ: vỏ tế bào silic thường được tạo thành bởi các hợp chất silic và pectin. Tùy
theo mức độ nhiều ít của hợp chất silic mà vỏ tế bào dày cứng như ở những loài sống
sát đáy hoặc vỏ tế bào mỏng mảnh như ở các loài hoàn toàn sống phù du. Theo nghiên
cứu của Richter hợp chất silic có thể là Na2Si2O5, nhiều tác giả cho rằng đó là
SiO2H2O. Trong quá trình xử lí vật liệu mẫu nếu dùng acis fluohydric sẽ làm hợp chất
14. 5
silic bị hòa tan, nếu dùng acid vô cơ mạnh thì pectin sẽ bị mất, chỉ còn lại hợp chất
silic. Hầu như vỏ tế bào của tất cả các loài khuê tảo đều có cấu tạo vân hoa rất tinh
vi, dưới dạng lỗ nhỏ và những buồng nhỏ (areola) [9]. Nhìn chung có thể chia thành
các dạng sau:
- Dạng cấu tạo là lỗ nhỏ xuyên qua vỏ là dạng đơn giản nhất, đó là những
lỗ thông với bên ngoài, gồm có kiểu không chia nhánh và kiểu chia nhánh.
- Dạng cấu tạo thành buồng rất nhỏ xuyên qua vỏ, gần giống với dạng trên
nhưng phần giữa phình to ra thành buồng nhỏ như ở cấu tạo dạng vỏ của chi tảo
thuyền cong (Pleurosigma). Quan sát độ phóng đại lớn thấy các buồng nhỏ sắp xếp
thành ba đường thẳng giao chéo nhau.
- Dạng cấu tạo là buồng khá lớn, miệng hở thông với phía trong tế bào như
ở loài tảo đĩa Coscinodiscus asteromphalus. Cấu tạo những vân hoa này khá phức tạp
nên quan sát bằng kính hiển vi thường sẽ thấy những hình dạng khác nhau. Đầu tiên
tầng trên cùng thấy nhiều lỗ rất nhỏ có các màng phủ là lỗ rât (poroid), tầng giữa các
buồng có hình 6 cạnh rõ ràng, tầng dưới cùng có một lỗ tròn to thông với bên trong
tế bào và lỗ giữa (central pore). Các vân hoa xếp sít nhau tạo thành các tia thẳng hoặc
cong, ở góc của các vân hoa tiếp giáp nhau đôi khi có một lỗ rất nhỏ thông với bên
ngoài gọi là lỗ thông (pore)
- Dạng cấu tạo là buồng khá lớn, miệng hở thông với bên ngoài như loài tảo
Triceratium favus. Dạng này có cấu tạo giống như dạng trên, nhưng theo hướng
ngược lại, lỗ giữa ở vách vỏ phía ngoài thông với bên ngoài, lỗ rây ở vách vỏ phía
trong là đáy, ở các góc của vân hoa tiếp giáp nhau có những u lồi nhỏ nổi lên.
Những dạng vân hoa trên là những cấu tạo điển hình của vỏ tế bào các loài
trong bộ khuê tảo trung tâm (Centricae), thường sắp xếp theo dạng tỏa tia, tùy loại
và tùy theo các vị trí khác nhau mà chúng to nhỏ khác nhau. Cấu tạo vân hoa ở vỏ tế
bào của bộ khuê tảo lông chim (Pennatae) chủ yếu là những điểm vân tương đối đơn
giản, do vách vỏ phía trong hoặc phía ngoài dày lên, uốn lõm xuống tạo thành lỗ nhỏ,
không thông với bên ngoài, như ở chi tảo Diploneis. Điểm vân thường thấy hoặc rất
nhỏ, xếp sít với nhau thành hàng gọi là tuyến vân hay đường vân (costae, rib). Trong
bộ tảo này, vân hoa cũng biến dạng nhiều, có trường hợp cũng có lỗ thông qua vách
vỏ như ở chi tảo Pleurosigma. Một số loài có lỗ tiết chất keo hình tròn hoặc hình
trứng ở một đầu mặt vỏ như chi tảo Synedra, Grammatophora... nhờ đó các tế bào
liên kết với nhau thành chuỗi [11].
15. 6
Rãnh dài (raphe), rãnh giả (Pseudoraphe): Rãnh dài là cấu tạo đặc biệt trên
mặt vỏ tế bào của phần lớn các loài thuộc bộ khuê tảo lông chim, đó là cơ cấu để
chuyển dịch của tế bào. Mặt vỏ tế bào của bộ khuê tảo lông chim thường hình bầu
dục dài, hình thoi, chính giữa có một cấu tạo phản xạ ánh sáng khá mạnh là nốt giữa
(central module). Rãnh dài nằm theo hướng của trục dài, thường là một đường ở tuyến
giữa mặt vỏ nối liền hai nốt cực tới nốt giữa. Ở những loài trong bộ tảo lông chim
không có rãnh dài, thường thì tuyến giữa mặt vỏ chạy theo trục dài hoàn toàn trơn
nhẵn, không có các điểm vân được gọi là rãnh giả. Hai bên rãnh giả là các tuyến vân
sắp xếp đối xứng, như ở chi tảo Achnanthes [10].
Đai xen kẽ (Intercalary band): Ở bộ khuê tảo trung tâm thường có các đường
cong bao quan mặt vòng vỏ tế bào. Số lượng của chúng có thể tăng dần trong quá
trình sinh trưởng của tế bào, cũng có những loài số lượng đai xen kẽ không thay đổi.
Hình dạng của đai xen kẽ khác nhau ở mỗi loài, nhìn chung có thể chia ra thành hai
dạng chủ yếu:
- Dạng vảy cá thường thấy ở chi tảo Rhizosolenia, các gai xen kẽ ngắn,
uốn cong, sắp xếp thành hàng như vảy cá hoặc như mắt lưới.
- Dạng cổ áo thường thấy như ở chi tảo Guinardia, chi tảo
Coscinodiscus..., các đai xen kẽ bao vòng quanh mặt vòng vỏ tế bào, hai đầu uốn
cong lại và nối vào đai bên cạnh như hình cổ áo [11].
Roi: Các tế bào mang roi chuyển động xuất hiện trong vòng đời của một số
khuê tảo trung tâm và chỉ có ở giao tử đực. Giao tử hình trứng và có một roi phủ lông
cứng (Pleuronematic flagellum) [9].
Các chất trong tế bào: Thành phần các chất trong tế bào khuê tảo cũng giống
như các tế bào thực vật khác gồm có hạch (nucleus), nhân (nucleolus), chất nguyên
sinh (protoplasm), thể sắc tố (chromatophore), thể hạch (pyrenoid) và những hạt dầu
(oil)
- Hạch hình cầu, hình thấu kính hoặc hình thận, thường nằm ở trung tâm
tế bào, ở những tế bào cỡ lớn có khi hạch nằm trong khối chất nguyên sinh ở một bên
vỏ tế bào. Dùng thuốc nhuộm blue methylen hoặc blue nile hạch bắt màu rất rõ ràng
và có thể quan sát được một hoặc nhiều nhân trong hạch. Trong tế bào khuê tảo còn
có trung tâm thể (centrosome) do H. L. Smith quan sát thấy đầu tiên ở chi tảo Suriren
(Surirella) là một hạt nhỏ, đường kính khoảng 1,5 – 2 micron, nằm ở phần lõm của
hạch hình thận [11].
16. 7
- Sắc tố: Sắc tố của khuê tảo gồm chlorophyll a, c1, c2 và các carotenoid
(gồm β-caroten, fucoxanthin, diatoxanthin và diadinoxanthin), chủ đạo là
fucoxanthin, chính sắc tố này quyết định màu vàng nâu đặc trưng cho tảo. Tất cả các
sắc tố này đều nằm trong sắc thể. Sắc thể của tảo có một hoặc nhiều hạt tạo bột
(pyrenoid) (Van den Hoek và cs., 1995). Thể sắc tố thường phân bố ở sát mặt vỏ hoặc
mặt vòng vỏ tế bào, cũng có trường hợp chúng phân bố cả trong lông gai. Hình dáng
và số lượng của chúng khác nhau tùy từng loài, có thể dạng hạt, dạng tấm hoặc dạng
nhiều cạnh, có thể có một, hai hoặc nhiều sắc tố. Ở giữa hoặc lệch về một bên của thể
sắc tố có khi có thể hạch hình tấm hoặc hình cầu.
- Chất nguyên sinh của tế bào khuê tảo thường thành khối lớn ở giữa tế
bào, từ đó có các sợi nối với lớp chất nguyên sinh ở sát thành vỏ tế bào. Xen kẽ giữa
các sợi chất nguyên sinh có thể thấy những loại hạt dầu nhỏ và không bào [11].
- Chất dự trữ: Chất dự trữ quan trọng nhất của khuê tảo là chrysolaminarin
(một loại β-1,3- linked glucan) được dự trữ ở dạng dung dịch trong các túi chứa đặc
biệt. Ngoài ra khuê tảo cũng dự trữ các giọt lipid [9].
d. Hoạt động sống
Khả năng chuyển động: Chỉ có một số nhóm khuê tảo có khả năng này. Tốc
độ chuyển động của khuê tảo tối đa là 20 μm/s và sự di chuyển của tảo được xem là
kết quả của sự vận động chất nguyên sinh qua hệ thống rãnh và các lỗ ở vỏ khuê tảo
[10].
Sinh sản: Khuê tảo sinh sản vô tính bằng hình thức phân đôi tế bào, các cá thể
mới được hình thành trong vỏ tế bào mẹ. Mỗi tế bào con sẽ nhận một nắp của tế bào
mẹ làm nắp trên và hình thành nắp dưới lồng vào. Kết quả của một lần phân chia tế
bào sẽ tạo nên một tế bào con có kích thước bằng tế bào mẹ và một tế bào có kích
thước nhỏ hơn. Hình thức sinh sản này giúp tảo có thể gia tăng rất nhanh kích thước
của quần thể, ước tính quần thể tảo sẽ nhân đôi số lượng từ 0,5 đến 6 lần trong một
ngày tùy theo loài [12]. Do sẽ có một nửa số tế bào con giảm kích thước sau mỗi lần
phân chia nên trong quần thể khuê tảo sẽ có một số tảo giảm dần kích thước. Khi tế
bào giảm đến một kích thước tối thiểu nhất định, thường khoảng 1/3 kích thước lớn
nhất của tảo thì tế bào tiến hành quá trình khôi phục kích thước bằng cách hình thành
bảo tử sinh trưởng (auxospore) thông qua sinh sản hữu tính.
Sinh sản hữu tính để hình thành nên bào tử sinh trưởng được coi là một cơ chế
để khôi phục lại kích thước nguyên bản [9].
17. 8
Ở khuê tảo trung tâm diễn ra hiện tượng noãn giao. Tế bào mẹ sẽ cho ra 1 đến
2 giao tử cái (2 hoặc 3 tế bào con chết sau quá trình giảm nhiễm) và khoảng 4 -128
giao tử đực có roi được hình thành từ tế bào mẹ khác qua phân bào nguyên nhiễm sau
khi đã phân bào giảm nhiễm. Sự kết hợp giữa giao tử cái và giao tử đực sẽ tạo thành
hợp tử và phát triểm thành bào tử sinh trưởng lớn. Bào tử sinh trường sẽ tự hình thành
vỏ silic có kích thước lớn.
Ở khuê tảo Lông chim thường có hiện tượng đẳng giao, cả hai giao tử có hình
dạng, kích thước như nhau và đều không có roi (trong một số trường hợp đặc biệt
như ở chi Rahbdonema có dạng trung gian giữa noãn giao và đẳng giao: sự thụ tinh
được kết hợp giữa tế bào giao tử cái và giao tử đực không roi dạng amip). Hai tế bào
gần nhau, cùng được bao trong một bao nhầy. Sau khi phân bào giảm nhiễm có sự
phân bào không đều và phần nhỏ hơn của hai tế bào bị tiêu hủy. Thành tế bào tách ra,
một giao tử của tế bào thứ nhất sẽ di chuyển sang phối hợp với giao tử bị động của tế
bào thứ hai và giao tử còn lại sẽ bị động chờ giao tử của tế bào thứ hai sang phối hợp.
Kết quả của quá trình này cho ra một bào tử sinh trưởng ở mỗi tế bào. Bào tử sinh
trưởng sẽ lớn dần lên để cho ra một tế bào mới [13].
Bào tử nghỉ (resting spore) và tế bào nghỉ (resting cell): Bào tử và tế bào nghỉ
cho phép khuê tảo tồn tại trong một thời kì mà điều kiện bất thường bất lợi, suy kiệt
chất dinh dưỡng và hồi phục, phát triển trở lại khi điều kiện thuận lợi. Cả tế bào nghỉ
và bào tử chứa rất nhiều dưỡng chất. Ví dụ các chi tảo nước ngọt Stepahnodiscus,
Fragilaria, Asterionella, Tabellaria, Diatoma và Aulacoceria tế bào nghỉ và bào tử
tích nhiều giọt dầu lớn và hạt polyphosphate. Nhờ có dưỡng liệu mà các tế bào nghỉ
có thể tồn tại trong trầm tích nhiều năm, có thể đến cả thập kỷ. Một số tế bào nghỉ
cần phải trải qua một giai đoạn sống nghỉ mới nảy mầm. Tế bào nghỉ duy trì hình
dáng giống tế bào dinh dưỡng nhưng vỏ của bào tử rất dày, có thể hình tròn và cấu
trúc ít rõ hơn tế bào dinh dưỡng cùng loài. Vỏ của bào tử nghỉ gồm vỏ trên và vỏ dưới
lồng vào nhau thành hộp hình cầu hay hơi dẹt, bề mặt vỏ có thể nhẵn hoặc có gai,
hình dạng khác nhau tùy loài, đôi khi được làm tiêu chuẩn phân loại (ví dụ chi
Chaetoceros). Khuê tảo nước ngọt có khuynh hướng hình thành tế bào nghỉ trong khi
các khuê tảo ở vùng ven biển lại hình thành bào tử. Suy giảm nitơ là tác nhân thúc
đẩy tảo hình thành bào tử. Các bào tử có thể tồn tại nhiều năm trong trầm tích. Nếu
tảo được tách khỏi trầm tích và đưa lên tầng mặt nơi có đủ ánh sáng và chất dinh
dưỡng thì tế bào nghỉ và bào tử sẽ nảy mầm và phát triển trở lại [11].
18. 9
1.2. Phân loại khuê tảo đáy
Các nghiên cứu phân loại khuê tảo được tiến hành từ rất sớm, từ những năm
đầu thế kỉ XIX, trong quyển “Systema Algarum” của Agardh đã xây dựng hệ thống
phân loại tảo gồm 4 lớp: Hyalinae, Virides, Purpureae và Olivaceae. Khuê tảo đáy
được xếp vào bộ Diatomae trong lớp Hyalinae và gồm 9 chi với đặc điểm nhận dạng
là: có hình thể đặc biệt, phẳng và trong suốt [14]..
Từ năm 1938 trở đi, càng có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phân loại khuê
tảo như Ehrenberg, Kützing (1833, 1844), Smith (1853-1856), Ralfs (1861)... Nhìn
chung ở thời kì đầu, hệ thống phân loại còn rất đơn giản. Sau đó, đến năm 1896,
Schütt đề ra hệ thống phân loại khuê tảo với 2 bộ là Pennatae (gồm Rhaphideae và
Pseudoraphideae) có các cấu trức sắp xếp dạng lông chim đối xứng nhau qua đường
trung tuyến và Centricae (gồm Anaraphideae và Pleonemeae) có các cấu trúc sắp
xếp dạng phóng xạ hoặc đồng tâm ở mặt vỏ. Hệ thống phân loại này được xem là cơ
sở cho các nghiên cứu về sau [15,16,17]..
Đến đầu thế kỉ XX, Karsten (1928) đưa ra một hệ thống phân loại khuê tảo
đầy đủ hơn như sau [18].:
- Bộ Centridae có 4 bộ phụ là Discoideae, Solenoideae, Biddulphioideae,
Rutilaroideae
- Bộ Pennatae có 7 bộ phụ thuộc 4 nhóm:
+ Nhóm không rãnh Araphideae có Fragilarioideae
+ Nhóm rãnh ngắn Rhaphideae có Eunotioideae
+ Nhóm một rãnh Monoraphideae có Achnanthoideae
+ Nhóm hai rãnh Biraphideae có Naviculoidae, Epithemioideae,
Nithzschioidae và Surirelloideae.
Năm 1937, Hendey đưa ra hệ thống phân loại khuê tảo hoàn chỉnh hơn, ông
đã tìm ra nhiều đặc điểm khác nhau của khuê tảo trung tâm và khuê tảo lông chim.
Hệ thống phân loại của Hendey được hoàn thiện vào năm 1964. Theo đó, hệ thống
phân loại này gộp khuê tảo trung tâm và khuê tảo lông chim thành 1 bộ là Bacillariales
và chia các nhóm tảo thành 11 bộ phụ [19]..
Đầu thâp niên 90, hệ thống phân loại mới được Round và cs. (1990) công bố,
trong đó ngành tảo Bacillariphyta được chia thành 3 lớp (Lớp Coscinodiscophyceae,
Lớp Fragilariophyceae và Lớp Bacillariophyceae), 11 phân lớp với 45 bộ [8].. Đây
19. 10
được xem là hệ thống phân loại khuê tảo chi tiết nhất cho đến nay. Những mô tả, so
sánh đặc điểm hình thái, cấu trúc mặt vỏ là căn cứ chủ yếu cho việc sắp xếp các taxon
bậc chi và họ vào các bậc phân loại cao hơn.
Ở Việt Nam, một số tác giả nghiên cứu phân loại khuê tảo theo các hệ thống
khác nhau như: Hoàng Quốc Trương (1962) với công trình “Phiêu sinh vạt trong vịnh
Nha trang. 1- Khuê tảo – Bacillariales” và Trương Ngọc An (1993) với công trình
“Phân loại tảo silic phù du biển Việt Nam” cũng dựa trên nền tảng là hệ thống của
Karsten (1928) kết hợp với những bổ sung sắp xếp hợp lý của Kim Đức Tường (1965)
gồm 3 bộ lớn và 18 họ khuê tảo được phân loại tới chi. Nghiên cứu này đã mô tả
tương đối đầy đủ, chi tiết về hình dạng tế bào, các đặc điểm về sắc thể... ở mẫu sống,
đặc điểm hình thái, cấu trúc vỏ tảo quan sát dưới kính hiển vi quang học và kính hiển
vi điện tử của các loài khuê tảo ở Việt Nam. Đây là cơ sở để phân loại khuê tảo đáy
trong các nghiên cứu ở nước ta [8,9,20,21].
1.3. Sinh thái của khuê tảo đáy
Hầu hết các loại khuê tảo đáy đều sống lơ lửng trong nước hoặc bám, đó là
đặc điểm cơ bản khác với những thực vật khác. Tỷ trọng cơ thể của chúng hầu như
bằng nước biển, hơi cao hơn đôi chút. Các cá thể tảo có xu hướng lắng dần xuống, để
giữ cho cơ thể luôn lơ lửng trong tầng nước thích hợn đủ ánh sáng, đảm bảo cho sự
quang hợp thuận lợi, chúng phải tiến hình điều chỉnh tỷ trọng cơ thể.
Qua nghiên cứu quan sát của nhiều tác giả cho thấy trong tế bào khuê tảo đáy:
có thể hình thành những không bào hoặc những chất dịch có tỷ trọng nhẹ để tế bào
nổi lên. Ở một số loài, các tế bào tiết ra ra chất keo nhẹ, dạng sợi nối các tế bào với
nhau thành chuỗi dài. Rất nhiều loài tảo silic có tế bào dep, mỏng, rất dài và nối thành
chuỗi hoặc các tế bào có các phần phụ phức tạp, ở xung quanh mép hoặc vỏ hoặc các
cực của mặt vỏ hình thành những lông gai dài tỏa ra hoặc những u lồi để liên kết với
nhau thành chuỗi dài hoặc cong xoắn. Các lông gai ở các loài to nhỏ khác nhau, rất
nhiều trường hợp lông gai tất to và dài, đối với những loài này phần tế bào chính trở
thành rất nhỏ. Sự hình thành các phần phụ của tế bào, các tế bào nối thành chuỗi dài,
chính là làm tăng sự ma sát với nước, làm cho các cơ thể khó lắng chìm [11].
1.4. Lược sử nghiên cứu
1.4.1. Trên thế giới
Các nghiên cứu đầu tiên về tính đa dạng của các quần xã khuê tảo và sử dụng
chúng làm chỉ thị sinh trong đánh giá chất lượng môi trường nước bởi Patrick (1963),
sau đó là các nghiên cứu của Shirota (1968), Kelly và Whitton (1995), Lenoir và
20. 11
Coste (1996) được xem là nền tảng cho các nghiên cứu về khuê tảo và chỉ thị môi
trường[22,23,24].
Patrick (1963) đã chỉ rõ có thể dùng khuê tảo để xác định mức độ ô nhiễm
của nước. Vì quần xã khuê tảo có khả năng bị thay đổi khi môi trường thay đổi do
chúng rất nhạy cảm với các tính chất vật lý, hoá học của môi trường nước. Trong một
vài thập niên trở lại đây, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp tục sử dụng khuê tảo
đáy đáy để đánh giá chất lượng môi trường nước [22]..
Khi xem xét mối quan hệ giữa khuê tảo đáy trên nền đáy mềm với sự biến
đổi của các yếu tố môi trường, Jiang (1996) nhận thấy sự tác động của môi trường
lên phân bố của tảo rất khác nhau giữa các vùng [25].. Tác giả cho rằng ở khu vực
nghiên cứu (Skagerrak và Kattegat, thuộc thềm lục địa, hình thành từ cửa sông lớn
giữa biển Bắc và biển Baltic) với độ mặn thấp và nhiệt độ cao vào mùa hè đã ảnh
hưởng rõ nét tới tỉ lệ các nhóm tảo. Tuy nhiên kết quả thu được chỉ liên quan đến các
nhân tố sinh thái như độ mặn và nhiệt độ mà bỏ qua các yếu tố dinh dưỡng khác của
nước.
Walker và cộng sự (2001) nghiên cứu về mối quan hệ giữa thành phần các
loài động vật không xương sống và khuê tảo đáy với sự phú dưỡng nguồn nước ở
vùng Melbourne, Victoria, Australia. Kết quả cho thấy hai loài đều nhạy cảm với các
tác động của sự đô thị hóa nhưng các chỉ số về khuê tảo đáy phản ánh tốt hơn về sự
phú dưỡng [26].
Năm 2002, các tác giả Fore và Grafe ở Mỹ đã tiến hành nghiên cứu dùng
khuê tảo đáy để đánh giá môi trường sinh học của các con sông lớn ở Idaho. Khi xem
xét mối quan hệ giữa khuê tảo đáy và những ảnh hưởng tác động của con người, căn
cứ trên một số chỉ số như mật độ của các loài nhạy cảm với những tác động, tỉ lệ mật
độ các loài dị dưỡng nitơ, tỉ lệ mật độ của các loài sống ở môi trường nhiễm bẩn, độ
ưu thế của các loài ưa kiềm, tỉ lệ mật độ của các loài ưa Oxy, mật độ của các loài có
khả năng chuyển động tốt và tỉ lệ các loài bị biến dạng vỏ. Từ đó đề xuất dùng khuê
tảo đáy để chỉ thị môi trường. Cá, động vật không xương sống và khuê tảo đáy tương
ứng với những mức độ dinh dưỡng khác nhau nhưng các tác giả cho rằng khảo sát
quần xã khuê tảo đáy có thể thay thế cho khảo sát đánh giá về cá trong những trường
hợp nước quá sâu hay những khu vực bảo vệ nghiêm ngặt không cho phép lấy mẫu.
Khác với những loài có cuộc sống dài hơn, sự phản ứng nhanh của khuê tảo đối với
điều kiện môi trường ở thủy vực làm cho chúng trở thành một công cụ hiệu quả cho
việc đánh giá chất lượng nước theo mùa. Hơn nữa, trong trường hợp các thông số hóa
học hay sinh học khác không phản ảnh được tình trạng môi trường thì khuê tảo sẽ là
21. 12
những dấu hiệu quan trọng vì chúng là các cơ thể sống tự nhiên rất nhạy cảm với hóa
chất [27].
Soininen (2004) nghiên cứu cấu trúc quần xã khuê tảo đáy ở các sông suối
vùng Boreal, Finland, khi đánh giá sự hiện diện của loài trong những khảo sát kế tiếp
nhau về sự ổn định quần xã khuê tảo, tác giả đã có những đúc kết quan trọng về sự
phân bố của tảo trong sự biến động về không gian và môi trường, mở ra khả năng sử
dụng khuê tảo đáy như một yếu tố chỉ thị sinh học [28].
Từ tiền đề đó, Newall và Walker (2005) đã sử dụng phương pháp phân tích
đa biến và đơn biến để xác định mối liên hệ giữa các chỉ số môi trường và chỉ số quần
xã khuê tảo đáy; kết luận của nghiên cứu chỉ ra rằng “quá trình đô thị hóa có ảnh
hưởng trực tiếp đến quần xã khuê tảo đáy”. Tác giả cũng chỉ ra nhiều nhóm khuê tảo
có tiềm năng sử dụng trong nghiên cứu chất lượng nước ở những khu vực đô thị nằm
ở đông nam Australia. Một nghiên cứu tương tự cũng được thực hiện bởi Simkhada
(2006) [29,30].
Trong nghiên cứu của Barinova và cs (2010) , chỉ số sinh học tảo được sử
dụng để đánh giá sự ô nhiễm ở sông Jordan – một trong những khu vực ô nhiễm nhất
ở Israel. Tác giả đã sử dụng các chỉ số sinh học tảo để theo dõi mức độ ô nhiễm trong
mùa khô và mùa mưa để đánh giá khả năng tự lọc sạch của hệ sinh thái thủy sinh.
Các chỉ số Saprobity (S và EPI), ô nhiễm sông (RPI), và BI đã cho thấy các chất gây
ô nhiễm có nguồn gốc từ hoạt động của con người tích lũy nhiều ở phần đáy sông,
một phần là do dòng chất ô nhiễm bị rửa trôi với nước mưa trong mùa mưa. Sự kết
hợp của phương pháp sinh học bao gồm việc sử dụng các chỉ số, phân tích thống kê
và phương pháp luận sinh học đã cho thấy sự hiệu quả trong việc giám sát các hệ sinh
thái sông ở Israel [31].
Denisse và Gabriel (2014) sử dụng chỉ số khuê tảo đáy để đánh giá chất lượng
sinh thái của vùng đất ngập nước đô thị Andes ở Colombia. Việc thu mẫu được tiến
hành tại 5 vùng đất ngập nước ở các đô thị (Guaymaral, Jaboque, Juan Amarillo,
Santa María del Lago và Tibanica) và 1 vùng đất ngập nước ở nông thôn (Meridor).
Kết quả phân tích cho thấy Juan Amarillo là vùng đất ngập nước bị ô nhiễm nặng nề
nhất và đề xuất sử dụng khuê tảo đáy trong phân loại các vùng đất ngập nước vì chúng
thể hiện đầy đủ chất lượng sinh thái của vùng đất ngập nước [32].
Tại Trung Quốc, Yang và cộng sự (2015) khảo sát quần xã khuê tảo đáy tại
21 điểm của lưu vực sông Ganhe (Trung Quốc) vào 4 nùa trong năm. Tổng cộng có
487 taxa khuê tảo đáy từ 36 chi được ghi nhận, trong đó xác định được các loài đặc
22. 13
trưng cho từng môi trường đô thị và nông thôn, cho thấy đa dạng sinh học khuê tảo
đáy chịu ảnh hưởng bởi chỉ số phú dưỡng. Từ kết quả đó mở ra tiềm năng sử dụng
các chỉ số khuê tảo đáy để giám sát chất lượng nước trong các dòng đô thị và đề xuất
giải pháp quản lý và bảo tồn chất lượng nước đầu nguồn ở sông Ganhe, Trung Quốc
[33].
Gần đây, Chen và cộng sự (2016) đã nghiên cứu những biến đổi của quần xã
khuê tảo đáy ở các vùng từ đô thị tới nông thôn ở Beijing, Trung Quốc để xây dựng
thang chỉ số khuê tảo đáy trong phản ánh mức độ đô thị hóa. Trong nghiên cứu này,
nhóm tác giả đã chỉ ra các yếu tố môi trường chi phối đến quần xã khuê tảo gồm:
WT, TN, EC, K+
, F-
, Cl-
và pH. Các vị trí ở đô thị có nồng độ dinh dưỡng cao (đặc
biệt là vùng hạ lưu ở đô thị), nồng độ Chl a tương đối thấp, và EC, TN, TP, COD và
Chl a không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các điểm đô thị và ngoài đô thị. Tuy
nhiên, thành phần loài khuê tảo rất khác nhau giữa các địa điểm và có thể chỉ thị cho
các loại môi trường nước: Achnanthidium exiguum, Diadesmis confervacea, N.
umbonata, N. palea và S. Lpula chỉ thị cho môi trường dinh dưỡng cao, Cyclotella
ocellata và S. Construens chỉ thị cho môi trường dinh dưỡng thấp. Các chỉ số đa dạng
(S, H ', J', D) ở khu vực đô thị thấp hơn so với ngoài đô thị. Do đó nhóm tác giả đề
xuất sử dụng tính đa dạng của quần xã khuê tảo để đánh giá mức độ ô nhiễm của đô
thị [34].
1.4.2. Ở Việt Nam
Ở Viêt Nam, công bố đầu tiên về khuê tảo được thực hiện bởi Rose (1926)
với danh mục gồm 20 loài khuê tảo xuất hiện ở vịnh Nha Trang. Tuy nhiên, từ những
năm 1960 trở đi, các công trình nghiên cứu về khuê tảo mới được mở rộng. Số loài
khuê tảo được công bố rất khác nhau theo thời gian và vùng nghiên cứu. 153 loài
khuê tảo được công bố ở vịnh Nha Trang (Hoàng Quốc Trương, 1962). Năm 1968,
Shirota đã xuất bản cuốn “Sinh vật phù du biển ở miền Nam biển Việt Nam”, trong
phần tảo silic phù du biển đã trình bày 213 loài và dưới loài tảo silic biển ở 15 thủy
vực nước lợ, nước mặn ven biển từ Thừa Thiên Huế đến Kiên Giang và 109 loài tảo
silic nước ngọt [20,35].
Đối với khuê tảo biển, công trình của Trương Ngọc An (1993) về phân loại
khuê tảo phù du ở biển và công trình của Đặng Thị Sy (1999) về khuê tảo vùng cửa
sông ven biển là những công trình căn bản, đã tập hợp được danh mục 288 loài khuê
tảo, tuy nhiên chủ yếu đề cập đến khuê tảo phù du. Riêng nhóm khuê tảo đáy chưa
được quan tâm mặc dù chúng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái thủy vực
[11, 36].
23. 14
Năm 2002, Trần Triết và cs. trong nghiên cứu mối quan hệ giữa thành phần
thủy sinh vật với điều kiện môi trường ở vườn quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp
đã có báo cáo về nhóm khuê tảo đáy. Tổng cộng có 150 taxa khuê tảo đáy được phát
hiện và nhóm tác giả bước đầu mở ra khả năng sử dụng khuê tảo đáy làm chỉ thị cho
môi trường liên quan đến mức độ nhiễm phèn và nhiễm bẩn hữu cơ của thủy vực.
Nguyễn Văn Tuyên (2003) cũng có đề cập sơ bộ đến ứng dụng của khuê tảo đáy trong
lĩnh vực chỉ thị môi trường [37,38].
Nhóm tác giả Dương Thị Thủy và cộng sự (2003) đã nghiên cứu ảnh hưởng
của ô nhiễm đô thị tại thành phố Hà Nội thông qua quần xã khuê tảo đáy ở sông Hồng,
sông Nhuệ và sông Tô Lịch. Từ đó tìm ra mối quan hệ giữ chất lượng nước và quần
xã khuê tảo đáy và kết quả đánh giá được nước sông Tô Lịch bị ô nhiễm nặng nề. Tác
giả tiếp tục đề xuất sử dụng hai chỉ số ISP; DAIpo và phân tích CCA để đánh giá chất
lượng nước. Tuy nhiên để thực hiện được đánh giá này phải trải qua quá trình nuôi
khuê tảo đáy trên nền nhân tạo 4 tuần trước khi thực hiện phân tích. Đây là một điểm
hạn chế của đề tài [39].
Tiếp theo có công trình của Nguyễn Thị Ngọc Duyên và cộng sự (2008)
phân tích tính đa dạng quần xã khuê tảo vùng biển khơi Nam Việt Nam. Đa dạng sinh
học khuê tảo đáy ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, TP. HCM được báo cáo bởi
Nguyễn Thị Gia Hằng và cộng sự (2009). Báo cáo cho thấy không chỉ mật độ khuê
tảo đáy mà các chỉ số đa dạng cũng có sự khác biệt quan trọng giữa bốn kiểu sinh
cảnh rừng và theo mùa. Tuy nhiên, qua các chỉ số này chưa đánh giá được hiện trạng
môi trường nước ở thủy vực khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ [40,41].
Trong những năm gần đây, khuê tảo đáy được nhiều nhà khoa học trong nước
quan tâm nghiên cứu và sử dụng trong đánh giá hiện trạng môi trường và sức khoẻ
sinh thái các thuỷ vực.
Trong nghiên cứu của Phạm Thanh Lưu (2016), chỉ số chất lượng nước
(WQI) và chỉ số khuê tảo (BDI) cùng với phân tích CCA lần đầu tiên được sử dụng
để xác định chất lượng nước và điều kiện sinh thái của sông Đồng Nai. Kết quả chỉ
ra rằng các chất dinh dưỡng (PO4
3-
, NO3
-
, NH4
+
) và độ đục là những yếu tố quan trọng
nhất, điều chỉnh sự thay đổi cấu trúc của quần xã khuê tảo. Tác giả cũng chỉ ra độ
nhạy của chỉ số BDI so với chỉ số WQI trong phân loại chất lượng môi trường, từ đó
đề xuất việc sử dụng chỉ số này để theo dõi chất lượng môi trường sinh học nước mặt
ở các dòng sông [42].
24. 15
Để đánh giá hiện trạng sinh thái của cửa sông Thị Vải và rừng ngập mặn Cần
Giờ ở miền Nam Việt Nam, Sandra và cộng sự (2017) đã dựa vào thành phần quần
xã khuê tảo và mối liên hệ với các thông số vật lý và hóa học của nước. Tuy nhiên,
hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào mô tả tính đa dạng của quần xã thông qua
các chỉ số đa dạng, nhưng chưa đánh giá được tiềm năng làm chỉ thị cũng như hiện
trạng môi trường nước ở những khu vực nghiên cứu [43].
Gần đây nhất, ngoài chỉ số khuê tảo (BDI) thì chỉ số tảo cát Trophic (TDI)
được áp dụng trong tính toán để đánh giá hiện trạng sinh thái và chất lượng nước của
sông Sài Gòn so với các thông số hóa lý (Phạm Thanh Lưu, 2018). Các chỉ số BDI
và TDI cho thấy sự nhạy cảm với các yếu tố môi trường và là công cụ ứng dụng tiềm
năng cho việc theo dõi hiện trạng và đánh giá chất lượng nước mặt nước trong các
thuỷ vực Việt Nam [44].
Cùng trong khu vực tỉnh Bến Tre, Nghiên cứu của Phạm Thanh Lưu và cs.
(2017) khảo sát sự thay đổi của quần xã thực vật phù du và các yếu tố môi trường ở
sông Ba Lai, kết quả cho thấy rằng sự đa dạng ở sông Ba Lai bị chi phối bởi hàm
lượng chất rắn hòa tan (TDS), độ mặn và hàm lượng các chất dinh dưỡng nitơ và
phospho. Tác giả Trần Thị Hoàng Yến và cs. (2018) cũng đã sử dụng các chỉ số sinh
học H’, D’, mật độ và sinh khối của quần xã thực vật phù du để đánh giá khảo sát 8
vị trí trên sông Hàm Luông, kết quả cho thấy chất lượng nước ở sông Hàm Luông
được xếp ở mức ô nhiễm nhẹ đến sạch [45, 46].
Như vậy, việc sử dụng khuê tảo đáy và các chỉ số sinh học liên quan đã được
ứng dụng để đánh giá hiện trạng nước tại một vài khu vực ở Việt Nam. Tuy nhiên
vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác động của đô thị hóa đến chất lượng nguồn
nước, cũng như chưa có những nghiên cứu sử dụng nhóm khuê tảo đáy trong đánh
giá ôn nhiễm và chỉ thị môi trường ở khu vực đô thị, đặc biệt là ở khu vực thành phố
Bến Tre. Do đó, đề tài “Sử dụng khuê tảo đáy trong đánh giá ô nhiễm môi trường
nước ở thành phố Bến Tre” được đề xuất thực hiện.
1.5. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu
1.5.1. Đặc điểm địa lý tỉnh Bến Tre
Bến Tre là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nằm
ở hạ lưu hệ thống sông Cửu Long và tiếp giáo với Biển Đông (Hình 1.1) . Hệ thống
sông trên địa bàn tỉnh bao gồm: sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Ba Lai và sông
Cổ Chiên với tổng chiều dài 298 km; các con sông phân bố theo hình nan quạt xòe
rộng ra biển Đông chia địa hình của tỉnh thành 3 cù lao lớn: cù lao An Hóa, cù lao
25. 16
Bảo và cù lao Minh. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2.356,85 km2
, chiếm 5,84% diện
tích vùng ĐBSCL với đường bờ biển kéo dài trên 65km [1].
Tỉnh Bến Tre nằm trong giới hạn tọa độ địa lý từ 9o
48’ đến 11o
20’ vĩ độ Bắc
và từ 105o
57’ đến 106o
48’ kinh độ Đông, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và
phía Tây Nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía Đông giáp
biển Đông [1].
Đặc điểm địa hình, địa mạo:
Nhìn chung, địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng và có xu thế thấp dần từ
Tây Bắc xuống Đông Nam và nghiêng ra biển với độ cao bình quân 1 – 2 m (Sở Tài
nguyên và môi trường, 2010). Về cơ bản có thể phân biệt thành 3 dạng địa hình:
- Vùng hơi thấp có cao độ < 1 m bị ngập nước khi triều lên bao gồm một số
diện tích đất ruộng ở lòng chảo xa sông và khu rừng ngập mặn, các bãi bồi
ven biển bằng 6,7% diện tích.
- Vùng có địa hình trung bình có độ cao từ 1-2 m, chỉ ngập nước vào các đợt
triều cường ở các tháng 9 – 11, đã được nhân dân lên liếp lập vườn, đắp bờ
sản xuất lúa ... chiếm khoảng 5,8% diện tích.
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre (nguồn
https://bandohanhchinh.com/)
1.5.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết:
26. 17
Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại
nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm,
nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26o
C – 27o
C. Trong năm không có nhiệt độ tháng
nào trung bình dưới 20o
C. Tổng số giờ nắng trung bình từ 6 - 8 giờ/ngày còn mùa
mưa là 4-5 giờ/ngày. Với vị trí nằm tiếp giáp với biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu
ảnh hưởng của bão, vì nằm ngoài vĩ độ thấp (bão thường xảy ra từ vĩ độ 15o
bắc trở
lên). Ngoài ra, nhờ có gió đất liền, nên biên độ dao động ngày đêm giữa các khu vực
bị giảm bớt [1]
Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11, giữa 2 mùa gió tây nam và đông
bắc là 2 thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió thay đổi vào các tháng 11 và tháng 4 tạo
nên 2 mùa rõ rệt. Mùa gió đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ
mưa ẩm. Lượng mưa trung bình trong năm thấp và giảm dần về hướng đông, vào
khoảng 1.317 mm/năm. Trong mùa khô, lượng mưa vào khoảng 2 đến 6% tổng lượng
mưa cả năm [1].
Gió mùa Tây Nam thường xuất hiện trong mùa mưa, tốc độ trung bình 1,0 –
1,2 m/s, tốc độ tối đa 10 – 18 m/s và gió mùa Đông Bắc (gió chướng) xuất hiện vào
mùa khô, thổi theo hướng từ biển vào, có tác dụng làm dâng mực nước triều, đẩy mặn
xâm nhập sâu vào đất liền, tốc độ trung bình dưới 3 m/s.
Đặc điểm thủy văn và thủy triều:
Bến Tre có mạng lưới sông ngòi chằng chịt với tổng chiều dài xấp xỉ
4.600km, chế độ dòng chảy tương đối phức tạp. Vùng biển Bến Tre có chế độ bán
nhật triều và có biên độ triều khá lớn, vào kỳ triều cường độ lớn từ 3 – 4 m, triều
kém độ lớn từ 0,5 – 1 m. Vào kỳ nước lớn, dòng chảy ở vùng cửa sông đạt giá trị khá
lớn, tại khu vực trước cửa song tốc độ có thể đạt tới 5 – 7m/s, càng sâu vào trong tốc
độ càng giản và chỉ đạt từ 1,5 – 2,5m/s [1].
Hạn hán và xâm nhập mặn:
Hàng năm vào mùa khô, nước mặn theo dòng triều xâm nhập sâu vào các
sông chính trong tỉnh Bến Tre. Biến đổi khí hậu gây nên tình trạng khô hạn kéo dài,
mùa khô dài hơn mùa mưa, kết hợp với mực nước biển dâng là nguyên nhân mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn tại Bến Tre.
1.5.3. Hiện trạng chất lượng môi trường thủy vực tỉnh Bến Tre:
27. 18
Những nghiên cứu về chất lượng môi trường thủy vực tỉnh Bên Tre trong thời
gian vừa qua còn rất hạn chế và chưa đồng bộ. Gần đây nhất, trong công trình quan
trắc sinh học phục vụ quản lý môi trường nước ở tỉnh Bến Tre của tác giả Ngô Xuân
Quảng và cộng sự (2020) đã công bố một số số liệu liên quan đến môi trường nước
mặt tỉnh Bến Tre [47].
Trong công trình này, nghiên cứu thu mẫu tại 61 điểm thuộc thủy vực tỉnh Bến
Tre, kết quả các thông số hóa lý thu được ở các khu vực như sau: các điểm ở khu vực
Thị trấn và Thành phố Bến Tre có các thông số đều đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT,
cột A2. Riêng một số điểm có hàm lượng DO dưới mức cho phép của QCVN 08-
MT:2015/BTNMT, cột A2. Trong đó nhiều điểm có hàm lượng amoni cao hơn mức
cho phép cột A2. Theo kết quả quan trắc tháng 10/2017 của tỉnh Bến Tre ở khu vực
này các chỉ tiêu pH, N-NO3
-
, P-PO4
3-
đều có giá trị nằm trong giới hạn cho phép của
quy chuẩn. Số điểm quan trắc có hàm lượng đạt giá trị cho phép của quy chuẩn là:
TSS (10/15 mẫu), Amoni (8/15 mẫu), Coliform (10/15 mẫu). Các giá trị còn lại có
hàm lượng đa số không đạt so với quy chuẩn cho phép như: Fe (11/15 mẫu), DO
(11/15 mẫu), COD (10/15 mẫu). Riêng chỉ tiêu BOD5 tất cả các điểm quan trắc đều
vượt so với quy chuẩn cho phép.
28. 19
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Khảo sát hiện trạng tính chất môi trường nước ở thủy vực thành phố Bến Tre
bằng các thông số hoá lý (nhiệt độ, độ mặn, BOD, TDS, pH, độ đục, secchi, TSS,
TN, TP, NH4
+
, NO3
-
, PO4
3-
) vào mùa mưa năm 2017 (tháng 9/2017) và mùa khô năm
2018 (tháng 4/2018) tại 11 vị trí ở thành phố Bến Tre (Hình 2.1). Từ đó tính toán và
đánh giá chất lượng môi trường nước thông qua chỉ số Chất lượng nước Water qualtiy
index (WQI) của Tổng cục môi trường (Quyết định số 879 /QĐ-TCMT).
Khảo sát thành phần loài, tính đa dạng, mật độ và sinh khối của quần xã khuê
tảo đáy cũng như cấu trúc phân bố quần xã khuê tảo đáy, biến động giữa mùa khô và
mùa mưa ở khu vực thành phố Bến Tre.
Đánh giá hiện trạng môi trường đối với chất lượng nước thông qua sự phản
ánh của quần xã khuê tảo đáy: xác định chỉ số sinh học khuê tảo BDI, chỉ số chỉ số
dinh dưỡng TDI (Trophic Diatom Index), chỉ số phú dưỡng Carlson (Trophic State
Index), chỉ số ưu thế và chỉ số đa dạng để phân hạng chất lượng nước ở thành phố
Bến Tre. So sánh với chỉ số WQI.
Phân tích các thông số môi trường chi phối đến tính đa dạng, mật độ, sinh
khối và phân bố của quần xã khuê tảo đáy để đánh giá sự ảnh hưởng của ô nhiễm môi
trường ở thành phố Bến Tre lên quần xã khuê tảo đáy, và tìm ra các loài, nhóm loài
có khả năng làm chỉ thị cho môi trường ô nhiễm đô thị ở TP. Bến Tre.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Mẫu khuê tảo đáy được thu tại 11 vị trí ở khu vực thành phố Bến Tre vào
mùa mưa (tháng 9/2017) và mùa khô (tháng 4/2018). Vị trí và tọa độ các điểm thu
mẫu được trình bày hình 2.1 và bảng 2.1.
29. 20
Hình 2.1. Vị trí các điểm thu mẫu tại thành phố Bến Tre
Bảng 2.1. Tọa độ và vị trí các điểm thu mẫu
Kí hiệu Vị trí Tọa độ
Vĩ độ Kinh độ
BT1 Phà Hàm Luông, thành phố Bến Tre 48P0647813 1130188
BT2 Xã Phú Đức, huyện Châu Thành 48P0635297 1140343
BT3 Xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm 48P0672714 1126285
BT4 Cầu Sân Bay – Xã Sơn Đông, thành phố
Bến Tre
48P0648163 1134813
BT5 Cầu Kiến Vàng – Phường 7, thành phố
Bến Tre
48P0649619 1131406
BT6 Cầu Cái Cá – Phường 5, thành phố Bến
Tre
48P0650081 1131592
30. 21
BT7 Cầu Cá Lóc – Phường 1, thành phố Bến
Tre
48P0651383 1131858
BT8 Cầu Gò Đàng – Xã Phú Hưng, thành phố
Bến Tre
48P0652992 1131991
BT9 Cầu Bình Nguyên – Phường 6, thành
phố Bến Tre
48P0649259 1133266
BT10 Cầu Bà Mụ – Phường Phú Khương,
thành phố Bến Tre
48P 0651095 1132771
BT11 Xã Bình Phú, thành phố Bến Tre 48P 0647240 1131654
Trong đó ba điểm BT1, BT2, BT3 và B11 nằm cách xa khu vực thành phố Bên
Tre được xác định là các điểm ngoài đô thị. Còn lại các điểm từ BT4–BT10 được xác
định là các điểm trong đô thị.
2.2.2. Đo đạc các thông số hóa lý
Các thông số hoá lý như nhiệt độ (C), pH, DO, độ mặn, độ đục, TDS được
đo tại hiện trường bằng máy đo đa chỉ tiêu WTW 3320 (Weilheim, Đức). Độ đục
được đo bằng máy đo độ đục (Hach, 2100P)
Độ trong được đo bằng đĩa Secchi disk.
Mẫu phân tích chlorophyll-a được thu trong chai nhựa 0.5-L. Mẫu được bảo
quản lạnh ở 4C và được phân tích trong 48 h.
Mẫu để phân tích các chỉ số TSS, TN, TP, NH4
+
, NO3
-
, PO4
3-
được thu trong
can 2-L và được phân tích ở phòng phân tích hoá nước của Viện Sinh Học Nhiệt Đới
theo phương pháp chuẩn của APHA (2005) .
Các chỉ tiêu phân tích tại phòng thí nghiệm:
Ammonia:
Sử dụng phương pháp trắc quang 4500 NH3 – F (APHA, 2012) để phân
tích ammonia. Ammonia phản ứng với hypochlorite và phenol xúc tác bởi sodium
nitroprusside tạo thành hợp chất indophenol có màu xanh dương. So màu ở bước
sóng 640 nm [48].
Nitrite:
Sử dụng phương pháp trắc quang 4500 NO2 - B (APHA, 2012). Xác định
NO2- bằng cách tạo phản ứng diazo hóa với sulfanilamide và N - (1 - naphthyl) –
31. 22
ethylendiamine dihydrochloride ở môi trường pH = 2,0 – 2,5 tạo thành hợp chất
màu đỏ tím, so màu ở nước sóng 543 nm [49].
Nitrate:
Với sự hiện diện của Cadmium (Cd), NO3- bị khử thành NO2-. Sử dụng
phương pháp trắc quang 4500 NO2 - B (APHA, 2012). Xác định NO2- bằng cách tạo
phản ứng diazo hóa với sulfanilamide và N - (1 - naphthyl) – ethylendiamine
dihydrochloride ở môi trường pH = 2,0 – 2,5 tạo thành hợp chất màu đỏ tím, so màu
ở nước sóng 543 nm.
Nitơ tổng số:
Xác định Nitơ tổng số bằng phương pháp Kjeldahl 4500 Norg – B. Với sự
hiện diện của acid sulfuric kali sulfate và đồng sulfate làm xúc tác, 26 amino –
nitrogen của các hợp chất hữu cơ và ammonia tự do được biến đổi thành a mmonium
sulfate, trung hòa mẫu bằng dung dịch kiềm và chưng cất. Hàm lượng ammonia được
hấp thụ bởi dung dịch acid boric và chuẩn độ bằng dung dịch acid H2SO4 0,02N [49].
Phosphat và tổng phospho:
Xác định phospho hòa tan dựa vào phản ứng tạo phức ammonium molybdate
có màu xanh và được so màu tại bước sóng 889 nm [49]
Đối với phospho tổng số thì mẫu nước được công phá bằng H2SO4 và K2S2O8
để chuyển tất cả các dạng phosphate thành orthophosphate và sẽ phản ứng tạo phức
hợp ammonia mol bdate có màu xanh. Sau đó quy trình thực hiện giống như phospho
hòa tan và được so màu ở bước sóng 889 nm [49].
Các thông số BOD5, COD, tổng Coliform kế thừa từ kết quả quan trắc mùa
mưa năm 2017 và mùa khô năm 2018 của Trung tâm quan trắc tỉnh Bến Tre.
2.2.3. Thu mẫu khuê tảo đáy
Mẫu khuê tảo đáy được thu trên các giá thể (gạch, đá, bê tông, gỗ…có diện
tích bề mặt lớn hơn 10 cm2
) có dấu hiệu nhiều khuê tảo đáy. Tại mỗi vị trí 3 mẫu
được thu vào thời điểm nước ròng. Mẫu thu bằng cách đặt màng nilon đã cắt sẵn lỗ
10 cm2
lên bề mặt giá thể, tiếp theo dùng bàn chải nhỏ gạt nhẹ nhiều lần lớp bề mặt
có dấu hiệu của khuê tảo đáy đáy vào lọ cùng 50 mL nước cất, dán nhãn ghi thông
tin: Ngày thu mẫu, tên điểm, vị trí. Mẫu thu được cố định tại hiện trường bằng dung
dịch formaline đến 3%.
32. 23
2.2.4. Phương pháp xử lý mẫu trong phòng thí nghiệm
Mẫu sau khi thu được để lắng tự nhiên 48h trong phòng thí nghiệm. 5 mL
mẫu được xử lý với 5 mL dung dịch acid mạnh (H2SO4 và HNO3) ở 70–80C trong
khoảng 30–45 phút, sau đó cho vào vài hạt tinh thể NaNO3 và đun tiếp cho tới khi
dung dịch trở nên trong suốt, tất cả trầm tích trở thành màu trắng. Khuê tảo đáy được
thu bằng cách ly tâm mẫu ở 4000 rmp, 15 phút. Sau đó mẫu được rửa sạch bằng nước
cất 3–5 lần và lưu giữ trong lọ nhựa chuyên dụng. Mẫu khuê tảo được phân tích dưới
kính hiển vi có độ phóng đại 100–1000 lần. Các loài khuê tảo đáy được định danh
đến chi và loài dựa vào đặc điểm hình thái theo các tài liệu phân loại học Shirota
(1968), Trương Ngọc An (1993), Tomas (1997), Nguyễn Văn Tuyên (2003), Larsen
và Nguyen (2004), Tôn Thất Pháp (2009). Hệ thống phân loại PSTV được cập nhật
và sắp xếp theo hệ thống phân loại của AlgaeBase (Guiry và Guiry, 2018)
[50,51,52,53].
2.2.5. Phương pháp định lượng khuê tảo
Xác định mật độ (định lượng): Bằng phương pháp đếm bằng buồng đếm
Sedgewick – Rafter (Boyd và Tucker, 1992). Tổng số khuê tảo đáy được tính theo
công thức [54]:
N = (V2 x A)/ S
Trong đó:
N: là tổng số khuê tảo đáy có trong 1 cm2
mẫu (đơn vị là tế bào).
A: là số khuê tảo đáy đếm được trong 1 mL.
S: là diện tích mẫu thu ngoài hiện trường (10cm2
)
V2: là thể tích mẫu sau khi lắng.
2.2.6. Tính sinh khối khuê tảo:
Sinh khối khuê tảo đáy trên một đơn vị diện tích được tính bằng phương pháp
mô phỏng thể tích hình học theo các tài liệu của Jun và Dongyan (2003), Helmut và
cộng sự (1999) được trình bày ở bảng 2.2 [55,56].
Bảng 2.2. Công thức tính sinh khối tế bào
STT
Hình dạng mô
phỏng
Công thức tính
sinh khối
STT
Hình dạng mô
phỏng
Công thức tính
sinh khối
33. 24
1
Hình múi
(cymbelloid)
V =
𝟐
𝟑
× 𝐚 ×
𝐜𝟐
× 𝐚 ×
𝐬𝐢𝐧(
𝐛
𝟐𝐜
)
2
Hình trụ
(cylinder)
V =
𝛑
𝟒
× 𝐚𝟐
× 𝐜
3
Lăng trụ có đáy
tam giác (prism
on triangle -
base)
V =
𝟏
𝟔
× 𝐚𝟐
× 𝐜 4 Hình trụ + 2 nửa
hình cầu
(cylinder + 2
half spheres)
V = 𝛑 × 𝐛𝟐
×
(
𝐚
𝟒
−
𝐛
𝟏𝟐
)
5
Hình sao 4 cánh
(elliptic prism
with transapical
inflation)
V ≈
𝛑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛 ×
𝐜 6
Hình trụ + 2
hình nón
(cylinder + 2
cones)
Cho rằng số đo từ
đáy lên đỉnh của
hình nón là ½ của
b :
V =
𝛑
𝟒
× 𝐛𝟐
×
(𝐚 −
𝐛
𝟑
)
7
Hình thuyền
(gomphonemoi
d)
V ≈
𝐚×𝐛
𝟒
× [𝐚 +
(
𝛑
𝟒
− 𝟏) × 𝐛] ×
𝐚𝐬𝐢𝐧 (
𝐜
𝟐𝐚
)
8
Hai hình trụ+
lăn trụ ellip (2
cylinder +
elliptic prism)
V ≈
𝛑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛 ×
𝐜
34. 25
9 Hình hộp chữ
nhật
(rectangular
box)
V = a× 𝐛 × 𝐜
10
Lăng trụ có
đáy ellip
(prism on
elliptic base)
V =
𝛑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛 × 𝐜
11
Lăng trụ có đáy
là hình bình
hành (prism on
parallelogram-
base)
V =
𝟏
𝟐
× 𝐚 × 𝐛 ×
𝐜 12 Hình trụ dạng
hình vòng đai
(cylinder
girdle view)
V =
𝛑
𝟒
× 𝐛𝟐
× 𝐚
13
Nửa hình lăng
trụ ellip(half-
elliptic prism)
V =
𝛑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛 ×
𝐜 14
Lăng trụ có
đáy hình ellip
(prism on
elliptic base
girdle view)
V =
𝛑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛 × 𝐜
15
Lăng trụ hình
lưỡi liềm
(sickle-shaped
prism)
V≈
𝛑
𝟒
× 𝐚
16 Lăng trụ tam
giác + dáy có
dạng hình
vòng đai
(prism on
V =
√𝟑
𝟒
× 𝐚 × 𝐛𝟐
35. 26
triangle-base
girdle view)
17
Hình hộp + lăng
trụ ellip (box +
elliptic prism)
V ≈ 𝐜 × (𝐚𝟏 ×
𝐛𝟏 +
𝛑
𝟒
× 𝐚𝟐 ×
𝐛𝟐)
2.2.7. Phân tích hàm lượng chlorophyll-a:
Trong phòng thí nghiệm 200-300 mL mẫu được lọc qua giấy lọc GF/C. Hàm
lượng chlorophyll-a trong mẫu được tách chiết bằng aceton 90% ở nhiệt độ phòng
trong tối khoảng 24 h, sau đó mẫu được ly tâm ở 4000 rpm, 15 phút. Phần dịch nổi
được thu hồi để phân tích chlorophyll-a. Chlorophyll-a được đo bằng phương pháp
đo quang phổ (UV-VIS, Harch, 500) ở bước sóng 630 − 750 nm. Hàm lượng
chlorophyll-a trong mẫu được tính theo công thức:
Chlorophyll a = (11.85 (E664 − E750) − 1.54 (E647 − E750) − 0.08
(E630−E750)) Ve/(LVf)
Trong đó:
Ve: Thể tích aceton (mL)
L: Đường kính cuvette
Vf: Thể tích lọc
2.2.8. Chỉ số chất lượng nước WQI
Chỉ số chất lượng nước WQI được tính theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên
và Môi trường, (Quyết định Số: 1460/QĐ-TCMT ngày 12/11/2019), như sau:
Trong đó:
+ WQII: Giá trị WQI tính toán với 5 thông số pH
36. 27
+ WQIII: Giá trị WQI tính toán với các thông số Aldrin, BHC, Dieldrin, DDTS (p, p’
– DDT, p, p’-DDD, p, p’-DDE), Heptachlor & Heptachlorepoxide.
+ WQIIII: Giá trị WQI tính toán với thông số As, Cd, Pb, Cr6+
, Cu, Zn, Hg
+ WQIIV: Giá trị WQI tính toán với thông số DO, BOD5, COD, TOC, N-NH4, N-
NO2, P-PO4
+ WQIV: Giá trị WQI tính toán với thông số Coliform, E. coli.
Bảng 2.3. Bảng đánh giá chất lượng nước theo giá trị WQI (Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Quyết định Số: 1460/QĐ-TCMT Về việc ban hành Hướng dẫn kỹ thuật tính
toán và công bố chỉ số chất lượng nước Việt Nam (VN_WQI)
Giá trị WQI Mức đánh giá chất lượng nước
Rất tốt 91 - 100 Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt
Tốt 76 - 90 Sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần các biện
pháp xử lý phù hợp
Trung bình 51 - 75 Sử dụng cho mục đích tưới tiêu và các mục đích tương đương
khác
Kém 26 – 50 Sử dụng cho giao thông thủy và các mục đích tương đương
khác
Ô nhiễm nặng 10 - 25 Nước ô nhiễm nặng, cần các biện pháp xử lý trong tương lai.
Rất kém 0 - 10 Nước nhiễm độc, cần các biện pháp khắc phục, xử lý.
2.2.9. Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp phân tích phương sai một và hai chiều ANOVA (one-way và
two-way analysis of varance) được sử dụng để xem xét sự khác biệt giữa các điểm và
giữa các đợt khảo sát (Điều kiện để phân tích phương sai một yếu tố ANOVA là
phương sai phải đồng nhất, p<0,05. Nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì sử dụng
phương pháp phân tích phi tham số)
Cấu trúc thành phần loài, mật độ, sinh khối tế bào và các chỉ số sinh học của
quần xã khuê tảo đáy được nhập liệu bằng phần mềm Microsoft excel 2010. Các chỉ
số sinh học gồm chỉ số Margalef (D), chỉ số đa dạng Shannon–Wienner (H’), Chỉ số
37. 28
đồng đều Pielou (J’) được tính toán bằng phần mềm Primer VI (Plymouth Marine).
Chỉ số Trophic Diatom Index (TDI) được tính toán theo phương pháp của Kelly và
Whitton (1995) [57].
Phương pháp phân tích tương quan đa biến Canonical Correspondence
Analysis (CCA) được sử dụng để phân tích mối liên hệ giữa các thông số sinh học và
các chỉ tiêu hoá lý nhờ sử dụng phần mềm PAST V3.11 (Hammer and Harper, 2001)
và phần mềm Canoco V4.5 (Leps và Smilauer, 2003) [58,59].
❖ Chỉ số Margalef D: là chỉ số được sử dụng rộng rãi để xác định đa
dạng của quần xã sinh vật thông qua đó xác định tính đa dạng sinh học
của hệ sinh thái (Margalef, 1958). Giá trị chỉ số D và mức độ đa dạng
sinh học được trình bày ở bảng 2.3 [60].
D =
𝐒−𝟏
𝐥𝐧 𝐍
Trong đó:
D: là chỉ số đa dạng Margalef.
S: là tổng số loài trong mẫu.
N: là tổng số lượng cá thể trong mẫu
Bảng 2.4. So sánh giái trị của chỉ số Margalef với mức độ đa dạng sinh học
Giá trị D Mức đa dạng sinh học
>3,5 Tính đa dạng rất phong phú
2,6 – 3,5 Tính đa dạng phong phú
1,6 – 2,5 Tính đa dạng tương đối tốt
0,6 – 1,5 Tính đa dạng bình thường
< 0,6 Tính đa dạng kém
❖ Chỉ số Shannon – Wiener: Đa dạng về loài được thể hiện bằng
độ giàu loài hoặc độ phong phú của loài. Chỉ số đa dạng Shannon – Wiener (H’) được
tính dựa trên sự phân bố ngẫu nhiên về số lượng cá thể của các giống với công thức
sau:
38. 29
𝐇′
= − ∑
𝐍𝐢
𝐍
× 𝐥𝐨𝐠𝟐
𝐍𝐢
𝐍
𝐬
𝐢=𝟏
Trong đó:
Ni: số cá thể của giống i trong mẫu thu
N: tổng số cá thể trong mẫu
S: tổng số giống trong một mẫu thu
i: giống thứ i (Shannon và Weaver, 1949)
Chỉ số H’ càng lớn khi số lượng loài càng lớn và số lượng cá thể của mỗi loài
càng nhỏ và ngược lại. Giá trị chỉ số H’ và chất lượng nước được trình bày ở bảng
2.5.
Bảng 2.5. Giá trị chỉ số H’ và chất lượng nước
Chỉ số đa dạng H’ Chất lượng nước
<1 Ô nhiễm nặng (Polysaprrobic)
1 – 2 Khá ô nhiễm (α-polysaprrobic)
>2 – 3 Ô nhiễm vừa (β- polysaprrobic)
>3 – 4,5 Tương đối sạch (Oligosaprrobic)
>4 – 5 Nước sạch
❖ Chỉ số ưu thế Simpson’s D’ (Simpson’s diversity index) là một
công thức được sử dụng để đo lường sự đa dạng của một quần xã
D’ = 𝟏 − ∑ 𝐩𝐢
𝟐
𝐒
𝐢=𝟏
Trong đó:
S: Tổng số loài
pi: Tỷ lệ của loài i so với tổng số loài (S); được tính bằng số cá thể của
loài i (s) chia tổng số cá thể của S loài (s/S)
39. 30
❖ Chỉ số cân bằng Pielou (J’): nhằm xác định mức độ tương đồng
và tính chất gần gũi giữa các hệ sinh thái môi trường của những điểm thu mẫu.
𝐉′
=
𝐇′
𝐥𝐨𝐠𝟐𝐒
Trong đó:
H’ là chỉ số đa dạng sinh học Shannon – Wiener
S: tổng số loài trong mẫu thu Pielous (1949) [60]
Thang điểm đánh giá mức độ bền vững của quần xã khuê tảo đáy theo chỉ số
J’ tương ứng với mức độ nhiễm bẩn được trình bày ở bảng 2.6.
Bảng 2.6. Thang điểm đánh giá mức độ bền vững của quần xã khuê tảo đáy
tương ứng với mức độ nhiễm bẩn.
Chỉ số J’ Độ bền vững – Nhiễm bẩn
J’ > 0,8 Quần xã bền vững – Nhiễm bẩn nhẹ
0,6 < J’ < 0,8 Quần xã kém bền vững – Nhiễm bẩn vừa ở mức β
0,4 < J’ < 0,6 Quần xã rất kém bền vững – Nhiễm bẩn vừa ở mức α
J’ < 0,4 Quần xã mất bền vững – Rất nhiễm bẩn
❖ Chỉ số sinh học khuê tảo BDI:
Chỉ số sinh học khuê tảo BDI (Lenoir và Coste, 1996) được tính toán bằng
công cụ tính toán chỉ số BDI và phần mềm Excel [24].
𝐅(𝐱) =
∑ 𝐀𝐱 × 𝐏𝐱(𝐢) × 𝐕𝐱
𝐧
𝐱=𝟏
∑ 𝐀𝐱 × 𝐕𝐱
𝐧
𝐱=𝟏
Trong đó:
F(x) là giá trị xác xuất hiện diện của loài x
Ax là mật độ của loài x, đơn vị %
Px(i) là xác suất xuất hiện loài x trong trạng thái chất lượng i.
Vx là giá trị biên độ sinh thái của loài x.
40. 31
Chỉ số BDI được tính bằng công thức:
BDI= 𝟏 × 𝐅(1) + 2 × 𝐅(2) + 𝟑 × 𝐅(3) + 𝟒 × 𝐅(4) + ... + 𝐱 × 𝐅(x)
Chỉ số BDI dao động từ 1 – 20 tương ứng với chất lượng môi trường từ kém
đến rất tốt.
❖ Chỉ số dinh dưỡng khuê tảo TDI (Trophic Diatom Index)
Chỉ số TDI được sử dụng để đánh giá mức độ phú dưỡng ở các thủy vực
(Kelley và Whitton, 1995) [23]
TDI = (WMS × 𝟐𝟓) − 𝟐𝟓
WMS là độ nhạy trung bình của từng loài và được tính như sau:
WMS =
∑ 𝐚𝐣
𝐧
𝐣=𝟏 𝐯𝐣𝐢𝐣
∑ 𝐚𝐣
𝐧
𝐣=𝟏 𝐯𝐣
Trong đó:
aj: mật độ của loài j trong mẫu
vj: mức chỉ thị của loài j (1-3)
ij: độ nhạy ô nhiễm (1-5) của loài j
TDI dao động từu 0 tương ứng với mức dinh dưỡng rất thấp và 100 ứng với
mức dinh dưỡng rất cao.
❖ Chỉ số phú dưỡng Carlson (Trophic State Index)
Chỉ số phú dưỡng TSI được phát triển bởi Calson (1977) và cải tiến bởi Gupta
(2014) dùng để đánh giá hiện trạng dinh dưỡng của thủy vực. Chỉ số TSI được tính
toán nhờ kết hợp giữa các thông số hóa lý như nitơ, phospho, thông số đĩa Secchi với
hàm lượng chlorophyl-a và được tính như sau [61]:
TSI = 0.54*TSI(Chl-a) + 0.297*TSI(Tran) + 0.163*TSI(TP)
Trong đó:
TSI(Chl-a) =9.81*Ln(Chl − a) + 30.6 (µg/L)
TSI(SD) = 60 – 14.41*Ln(SD) (m)
TSI(TP) = 14.42*Ln(TP) + 4.15 (µg/L)
Trạng thái dinh dưỡng và các nhóm chất lượng nước theo chỉ số BDI, TSI và
TDI được trình bày ở bảng 2.7 (Rimet,2012) [62].
41. 32
Bảng 2.7. Trạng thái dinh dưỡng và chất lượng nước theo chỉ số BDI, TSI và
TDI.
BDI TSI TDI Chất lượng nước Trạng thái dinh dưỡng
17-20 <30 0-19 Chất lượng rất tốt Nghèo dinh dưỡng
13-17 30-40 20-39 Chất lượng tốt Ít dinh dưỡng
9-13 40-50 40-59 Chất lượng trung Dinh dưỡng trung bình
5-9 50-70 60-79 Chất lượng thấp Phú dưỡng
1-5 70-100 80-100 Chất lượng rất kém Siêu phú dưỡng
42. 33
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả đo các chỉ tiêu hoá lý
Kết quả đo các thông số hóa lý trong đợt khảo sát vào mùa mưa (tháng
9/2017) và mùa khô (tháng 4/2018) được biểu diễn ở Hình 3.1.
Vào mùa mưa (tháng 9/2017) ghi nhận được:
- Các điểm trên các nhánh sông, kênh rạch chính của TP. Bến Tre (BT1-
BT3): pH dao động 7.2 – 8; DO dao động từ 6.1 – 7.7 mg/L; nhiệt độ dao động từ
29.1 – 30.1o
C; độ đục dao động 116 – 195 NTU; thông số đĩa Secchi dao động từ 20
– 26 cm; TDS dao động từ 116 – 899 mg/L; một điểm BT3 ghi nhận có sự nhiễm
mặn với hàm lượng thấp (0.40
/00); hàm lượng nitrate dao động 0.02 – 0.2 mg/L; hàm
lượng NH4
+
ở mức 0.01 mg/L; và phosphate ở mức 0.01 mg/L. Hầu hết các thông số
đều đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột A2. Theo kết quả quan trắc tháng 10/2017
của tình Bến Tre ở khu vực này các chỉ tiêu phân tích như: pH, N-NO3, P-PO4
3-
ở 3
điểm quan trắc đều có hàm lượng đạt như: COD, TSS, Fe, DO so với quy chuẩn.
- Các điểm ở khu vực thành phố Bến Tre (Từ BT4 đến BT10): pH dao động
6.7 - 7; DO dao động từ 1,5 – 7.3 mg/L; nhiệt độ dao động từ 28.4 – 30.6o
C; độ đục
dao động 30 – 325 NTU; thông số đĩa Secchi dao động từ 15 – 62 cm; TDS dao động
từ 138– 704 mg/L; 5 điểm ghi nhận có sự nhiễm mặn với hàm lượng thấp dưới 10
/00;
hàm lượng nitrate dao động 0.02 – 0.24 mg/L; hàm lượng NH4
+
dao động từ 0.11-
3.7 mg/L; và phosphate dao động từ 0.01- 0.41 mg/L. Ghi nhận được 3 điểm BT5,
BT6, BT9 có các thông số đều đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột A2. 4 điểm còn
lại BT4, BT7, BT8, BT10 có hàm lượng DO dưới mức cho phép của QCVN 08-
MT:2015/BTNMT, cột A2. Có 5 điểm hàm lượng Amoni cao hơn mức cho phép gồm
có các điểm BT4, BT5, BT6, BT7, BT9, BT10. Theo kết quả quan trắc tháng 10/2017
ở khu vực này các chỉ tiêu pH, N-NO3, P-PO4
3-
đều có giá trị nằm trong khoảng cho
phép của quy chuẩn. Riêng chỉ tiêu BOD5 tất cả 7 điểm quan trắc đều vượt so với quy
chuẩn cho phép.
- 1 điểm ở vùng kênh rạch nội đồng BT11 có pH=7, DO = 3,2 mg/L, nhiệt
độ 29,30
C, độ đục dao động 45 NTU; thông số đĩa Secchi là 45 cm; TDS = 529 mg/L;
độ mặn 0.2 mg/L; hàm lượng nitrate là 0.19 mg/L; NH4
+
ở mức 2.8 mg/L; hàm lượng
PO4
3-
là 0.01 mg/L. Ngoại trừ hàm lượng amoni thì các thông số trên đều đạt QCVN
08-MT:2015/BTNMT, cột A2.
43. 34
Kết quả đo các thông số hóa lý trong đợt khảo sát mùa khô (tháng 4/2918)
như sau:
- Các điểm trên các nhánh sông, kênh rạch chính của thành phố Bến Tre
(BT1- BT3): pH dao động 6.7 – 7.6; DO dao động từ 5.3 – 6.3 mg/L; nhiệt độ dao
động từ 29.2 – 31.4o
C; độ đục dao động 54 – 255 NTU; thông số đĩa Secchi dao động
từ 25 – 65 cm; TDS dao động từ 155 – 255 mg/L; 2 điểm BT1 và BT3 ghi nhận có
sự nhiễm mặn với hàm lượng thấp 0.9 – 1.10
/00; hàm lượng nitrate dao động 0.02 –
0.37 mg/L; hàm lượng NH4
+
ở mức 0.01 mg/L; và phosphate dao động từ 0.02 – 0.22
mg/L. Hầu hết các thông số đều đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột A2.
- Các điểm ở khu vực thành phố Bến Tre (Từ BT4 đến BT10): pH dao động
7.1 – 7.9; DO dao động từ 3.9 – 6.6 mg/L; nhiệt độ dao động từ 28 – 29.1o
C; độ đục
dao động 54 – 179 NTU; thông số đĩa Secchi dao động từ 25 – 65 cm; TDS dao động
từ 212– 2260 mg/L; 7 điểm đều ghi nhận có sự nhiễm mặn với hàm lượng dao động
từ 0.3 – 1 0
/00; hàm lượng nitrate dao động 0.02 – 0.2 mg/L; hàm lượng NH4
+
dao
động từ 0.01- 0.19 mg/L; và phosphate dao động từ 0.02- 0.67 mg/L. Hầu hết các
thông số đều đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột A2. Tuy nhiên 3 điểm BT7, BT8,
BT9 có hàm lượng DO dưới mức cho phép của QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột
A2. Điểm BT9 có hàm lượng Amoni cao hơn mức cho phép của cột A2. Theo kết
quả quan trắc tháng 10/2017 ở khu vực này các chỉ tiêu pH, N-NO3, P-PO4
3-
đều có
giá trị nằm trong khoảng cho phép của quy chuẩn.
- 1 điểm ở vùng kênh rạch nội đồng BT11 có pH=7.7, DO = 5.4 mg/L, nhiệt
độ 27,70
C, độ đục dao động 157 NTU; thông số đĩa Secchi là 48 cm; TDS = 1208
mg/L; độ mặn 0.6 mg/L; hàm lượng nitrate là 0.08 mg/L; NH4
+
ở mức 0.25 mg/L;
hàm lượng PO4
3-
là 0.02 mg/L. Các thông số trên đều đạt QCVN 08-
MT:2015/BTNMT, cột A2.
44. 35
Hình 3.1. Các thông số hóa lý tại 11 điểm khảo sát ở thủy vực thành phố Bến Tre.
45. 36
3.2. Chỉ số chất lượng nước WQI
Mùa mưa, chỉ số chất lượng nước WQI dao động từ 14 – 89, đa số các
điểm có chất lượng nước tốt từ điểm BT1 đến BT8, điểm BT11 có chất lượng nước
trung bình, BT9 có chất lượng nước xấu và BT10 có chất lượng nước kém.
Mùa khô, chỉ số chất lượng nước WQI dao động từ 16 – 91, đa số các
điểm có chất lượng nước tốt đến rất tốt từ điểm BT1 đến BT4, BT6, BT8, các điểm
BT5, BT7, Bt10, BT11 có chất lượng nước trung bình, BT9 có chất lượng nước kém.
Các điểm có chỉ số WQI thấp bất thường gồm BT9, BT10 (mùa mưa)
và BT9 (mùa khô), nguyên nhân có thể lí giải được là do BT9 và BT10 là các kênh
rạch bị ô nhiễm do nguồn nước thải từ khu dân cư (cầu Bình Nguyên) và rác thải (chợ
Bà Mụ) chặn bớt dòng chảy và sự phát triển của các cây thủy sinh kém dẫn đến lượng
khí Oxy hòa tan rất ít, dưới mức cho phép.
Các điểm từ BT1 đến BT4, BT5, BT8 có chất lượng nước tốt đến rất
tốt và tương đồng ở cả 2 mùa, điểm BT5, BT7 và BT9 có chất lượng nước mùa khô
thấp hơn mùa mưa 1 bậc, điểm BT10 có chất lượng nước được cải thiện ở mùa khô
so với mùa mưa, riêng điểm BT11 có chất lượng nước ở mức trung bình ở cả 2 mùa.
Như vậy từ chỉ số chất lượng nước trung bình mùa mưa là 71 và mùa
khô là 70, xếp ở mức Trung bình, có thể lí giải vào mùa mưa lưu lượng nước từ
thượng nguồn đổ về nhiều, rửa trôi các chất ra biển nên chất lượng nước tốt hơn. Kết
quả này tương tự với kết quả của các nghiên cứu ở thủy vực tỉnh Kiên Giang ( Tran
và Pham, 2020), tỉnh An Giang (Trinh và Nguyen, 2011), cao hơn so với chất lượng
nước sông Đồng Nai (Phạm Thanh Lưu, 2017), thủy vực nước ở Đồng Tháp (Nguyen
và cs., 2021) [63,64,65]
Bảng 3.1. Bảng đánh giá chất lượng nước theo giá trị WQI và theo QCVN08-
MT:2015/BTNMT ở các điểm thủy vực thành phố Bến Tre
Vị trí Mùa mưa Mùa khô
WQI Đánh giá QCVN WQI Đánh giá QCVN
BT1 88 Tốt A2 91 Rất tốt A2
BT2 84 Tốt A2 82 Tốt A2
BT3 82 Tốt A2 79 Tốt A2
BT4 74 Trung bình A2 85 Tốt A2
BT5 83 Tốt A2 72 Trung bình A2
46. 37
BT6 84 Tốt A2 89 Tốt A2
BT7 83 Tốt A2 68 Trung bình A2
BT8 78 Tốt A2 78 Tốt A2
BT9 45 Xấu A2 16 Kém A2
BT10 14 Kém A2 58 Trung bình A2
BT11 59 Trung bình A2 57 Trung bình A2
3.3. Thành phần loài khuê tảo đáy
Thành phần loài khuê tảo đáy ở khu vực thành phố Bến Tre trong mùa mưa
và mùa khô được trình bày ở bảng thành phần loài phần phụ lục và hình 3.2. Bảng
biểu thị tổng số loài khuê tảo đáy ghi nhận được ở thủy vực thành phố Bến Tre là 89
loài thuộc 16 bộ và 27 họ và 36 chi khác nhau, trong đó mùa mưa là 69 loài, mùa khô
là 75 loài. 5 chi có sự đa dạng về loài nhất là Nitzschia (21 loài) và Surirella (5 loài),
Gyrosigma (4 loài), Diatoma (4 loài), Coscinodiscus (4 loài). Hầu hết các loài trong
nghiên cứu này là những loài có phân bố rộng, bắt gặp ở hầu hết các thuỷ vực nước
chảy giàu hữu cơ [39].
Trong số 36 chi ghi nhận được, hầu hết các loài có sự hiện diện cao ở các điểm
thuộc các chi: Nitzschia, Navicula, Lyrella, Pinnularia... Trong đó tần xuất hiện diện
cao nhất trong cả hai mùa là Nitzchia claussi, Nitzchia sigma var., Navicula
placentula,...
So với thành phần khuê tảo đáy nghiên cứu ở các khu vực khác, quần xã khuê
tảo đáy ở khu vực thành phố Bến Tre cao hơn so với khu vực Hồ Tây (64 loài) (Dương
Thị Thủy và Lê Thị Phương Quỳnh, 2012), sông Sài Gòn (79 loài) (Phạm Thanh Lưu
và Nguyễn Tấn Đức, 2018), nhưng thấp hơn vùng ven biển Sóc Trăng – Bạc Liêu
(173 loài) (Mai Viết Văn và cs., 2012); thấp hơn vùng ven biển Cần Giờ (248 loài)
(Nguyễn Thị Gia Hằng và cs., 2009), thấp hơn vùng sông Hồng, sông Nhuệ và sông
Tô Lịch Hà Nội (291 loài) [39,41,66,67]
Nhìn chung, số lượng loài giữa 2 mùa không có sự khác biệt đáng kể (Anova,
p=0.065), tuy nhiên xuất hiện nhiều loài khuê tảo đáy có nguồn gốc lợ mặn vào mùa
khô (Coscinodiscus, Nitzschia), kết quả này tương đồng với kết quả của các nghiên
cứu ở cùng khu vực tỉnh Bến Tre như: thủy vực sông Hàm Luông (Trần Thị Hoàng
Yến, 2017), sông Ba Lai (Phạm Thanh Lưu, 2017), điều này chứng tỏ rằng thủy vực
ở thành phố Bến Tre cũng có dấu hiệu nhiễm mặn. Ngoài ra còn xuất hiện một số loài
47. 38
khuê tảo đáy chỉ thị cho môi trường ô nhiễm thấp (Coscinodiscus) và ô nhiễm cao
(Aulacoseira granulata, Nitzschia linearis, Cyclotella meneghiniana) chứng tỏ thủy
vực thành phố Bến Tre có dấu hiệu ô nhiễm [39,64].
Hình 3.2. Cấu trúc thành phần loài khuê tảo đáy tại thành phố Bến Tre ở mùa
mưa và mùa khô
Số lượng loài hiện diện tại các điểm khảo sát dao động từ 17- 34 vào mùa mưa
và từ 22- 43 loài vào mùa khô. Có thể lí giải rằng vào mùa khô lượng nước ít đã làm
cho nồng độ các chất dinh dưỡng tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho khuê tảo đáy
phát triển. Đặc biệt các loài thuộc chi Coscinodiscus chỉ xuất hiện trong mùa mưa có
thể cho kết quả dự đoán rằng vào mùa mưa thủy vực có chỉ số ô nhiễm cao hơn mùa
39.2586331
31.30693331
4.991010379
4.743241152
4.513502691
2.994602379
2.301814089
1.548726535
1.46996908
1.361928406
5.509638885
Mùa mưa Nitzschia
Navicula
Pinnularia
Pleurosigma
Fragilaria
Gyrosigma
Melosira
Grammatophora
Diatoma
Tryblionella
Other
77.21803663
6.665226187
5.091646797
1.606074493
0.98929898
0.835953104
0.811196321
0.771855862
0.747511356
0.572093568
4.691106699
Mùa khô Nitzschia
Navicula
Neidium
Melosira
Thalassiosira
Pleurosigma
Cocconeis
Encyonema
Licmophora
Grammatophora
Other