SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 36
1 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Giao thoa Luật tục của các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và
La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào
Cai trong quản trị đất-rừng
Tổng hợp: Đàm Trọng Tuấn
"Giá trị, chuẩn mực nào của các cộng đồng dân tộc thiểu số liên quan tới đất-rừng? Ai, yếu tố
nào nào quyết định hệ thống quản trị đất-rừng của các cộng đồng? Ai và loại hình sở hữu đất
rừng nào đã và đang tồn tại? Những giao thoa nào về chuẩn mực giá trị, luật tục của các cộng
đồng dân tộc thiểu số sinh sống trong một vùng địa lý ảnh hưởng tới quá trình quản trị đất-
rừng? Những thách thức nào ảnh hưởng tới các giao thoa trong hệ thống quản trị đất-rừng tại
các cộng đồng? Giải pháp nào để giúp các cộng đồng dân tộc duy trì hệ thống giá trị và luật tục
của mình trong quản trị và phát triển hài hòa các dạng tài nguyên đất-rừng? Đây là những câu
hỏi xuyên suốt quá trình tìm hiểu sự giao thoa luật tục giữa các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và
La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.
Hai giả định được đặt ra đối với nghiên cứu này, gồm: a) Niềm tin, chuẩn mực giá trị và luật tục
của các dân tộc đang đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành và duy trì cách mà các cộng
đồng đang quản trị nguồn tài nguyên đất và rừng, b) Sự giao thoa về niềm tin, chuẩn mực giá trị,
hệ thống luật tục của các nhóm dân tộc thiểu số tại các bản nghiên cứu là kết quả của quá trình
tương tác văn hóa, hỗ trợ nhau và thích nghi với những thay đổi trong và ngoài đời sống cộng
đồng".
2 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
1. Giới thiệu
Con người và thiên nhiên, núi rừng nằm trong mối quan hệ hữu cơ, cùng hỗ trợ và nuôi dưỡng
lẫn nhau trong quá trình sinh tồn và phát triển. Quan niệm và thực tiễn này được duy trì và phát
triển thông qua những qui định bất thành văn gọi là luật tục cùng với kho tàng tri thức địa
phương của các cộng đồng dân tộc thiểu số được hình thành, thích nghi và kế thừa qua các thế
hệ. Hệ thống luật tục này ra đời như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống và được thực hiện một
cách tự nguyện và trách nhiệm bởi các thành viên trong các cộng đồng. Kể cả khi pháp luật có
những thay đổi đáng kể theo những biến động trong đời sống chính trị của xã hội, thì luật tục vẫn
tồn tại để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong mỗi cộng đồng. Hơn nữa, các thói quen xã hội do
luật tục tạo nên có ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức pháp luật của mỗi thành viên trong cộng
đồng.
Luật tục không phải là sự bất biến của những giá trị, nguyên tắc, quy tắc, thói quen và tập tục.
Đặt trong bối cảnh phát triển thì luật tục rất đa dạng trong cách hiểu và cũng rất sống động trong
đời sống thường nhật. Luật tục là sự kết tinh của các hành vi ứng xử và lao động của con người
trong quá trình vận động qua một hay nhiều thế hệ để thích ứng và thích nghi với sự thay đổi nội
tại và ngoại tại. Luật tục được hình thành là để điều hòa, điều tiết các hành vi văn hóa ứng xử
trong đời sống hàng ngày giữa con người với con người và giữa con người với thế giới tự nhiên.
Vì vậy, có thể xem luật tục là cơ sở, nền tảng sống để giúp cho luật pháp nhìn nhận, soi chiếu và
thay đổi để hoàn thiện hơn về mặt tư duy và thực hành trong quá trình vận động đa chiều không
ngừng của dòng chảy đa chiều của xã hội.
Tùy thuộc vào các điều kiện của từng vùng địa lý khác nhau cũng như đặc thù văn hóa của mỗi
tộc người mà những quy định trong chuẩn mực ứng xử của các nhóm người đó cũng khác nhau.
Song, nội dung chủ đạo của những hệ thống qui định này thường không khác nhau nhiều về các
giá trị và chuẩn mực giá trị. Cũng chính điều này mà đã xuất hiện giao thoa và kế thừa các qui
định, kiến thức lẫn nhau giữa nhiều nhóm dân tộc sống trên cùng một vùng địa lý nhất định. Có
thể nói đây là kết quả của của quá trình tiếp biến văn hóa và thích nghi của các cộng đồng dân cư
để có được những giải pháp nhằm điều chỉnh các mối quan hệ mới do sự giao thoa cũng như yếu
tố ngoại cảnh tạo thành.
Thực tế cho cho thấy, các cộng đồng dân tộc sống gắn với rừng bằng các tập tục, qui định của
mình đang bị chi phối bởi những tác động nhiều chiều từ bên ngoài, trước hết là từ sự điều tiết
của các chính sách của Nhà nước, đến sự xuất hiện của cơ chế thị trường, nhu cầu hội nhập và
ngay cả từ việc cải thiện của hệ thống thông tin truyền thông. Những tác động này đã có những
ảnh hưởng nhất định, và ở một mức độ nào đó tham gia vào quá trình tiếp biến và thay đổi không
ít các tập quán truyền thống quý báu, các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Nghiên cứu "Giao thoa luật tục giữa dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và
Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai trong quản trị đất-rừng" được thực hiện trong khuôn
khổ hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội (SPERI) và thành viên thuộc
3 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Liên Minh Chủ quyền Sinh kế (LISO) gồm Viện Tư vấn Phát triển (CODE) và Trung tâm Tư
vấn Quản lý Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á (CIRUM) và
các đối tác địa phương như UBND huyện Si Ma Cai và Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai.
Chương trình hợp tác này được triển khai thông qua Dự án giao đất giao rừng nhằm hỗ trợ phát
triển sinh kế bền vững cho người dân và cộng đồng người dân các thôn, bản tại xã Nàn Sán và
Bản Mế, huyện Si Ma Cai trong năm 20141
. Nghiên cứu này là sự kế thừa những phát hiện trong
trong quá trình nghiên cứu trước đây của Viện SPERI, đặc biệt đối với cộng đồng người Mông -
được thực hiện liên tục tại một số địa bàn thuộc huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai từ cuối năm 1999
đến nay.
Mục tiêu của nghiên cứu:
- Có được các thông tin liên quan tới hệ thống luật tục và những yếu tố giao thoa trong các hệ
thống này của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán,
huyện Si Ma Cai trong quản trị đất và rừng.
- Có được các kiến nghị liên quan tới việc lồng ghép, phát huy các giá trị, tập quán truyền thống
tốt đẹp và kiến thức địa phương của các nhóm dân tộc trên trong chương trình giao rừng, gắn với
đất lâm nghiệp cho cộng đồng tại các thôn bản xã Nàn Sán và Bản Mế trên cơ sở Thông tư liên
tịch 07/2011/TTLT-BNNPTNT&BTN-MT.
Các thông tin trong báo cáo này là những câu chuyện kể, chia sẻ bởi các già làng, trưởng họ,
người có uy tín trong cộng đồng dân tộc, trưởng bản, các cán bộ là người dân tộc thiểu số tại các
điểm nghiên cứu. Các câu chuyện này được ghi chép ngay trên thực địa. Đặc biệt, các thông tin
này được ghi chép, ghi âm, chụp ảnh và ghi hình (quay video) tại Lễ cúng rừng thiêng, nơi các
giá trị, chuẩn mực và qui định của cộng đồng được thể hiện một cách sống động nhất. Cán bộ
của Liên minh Chủ quyền Sinh kế (LISO) và học sinh thiểu số đang theo học tại các Trường đào
tạo Nông nghiệp Sinh thái (FFS) của SPERI tại Hà Tĩnh và Lào Cai đóng vai trò thúc đẩy và ghi
chép lại những câu chuyện kể trên. Bên cạnh đó, các thông tin trong báo cáo này cũng được kế
thừa từ những nghiên cứu trước đây thực hiện bởi Viện SPERI, đặc biệt với các cộng đồng người
Mông tại huyện Si Ma Cai tỉnh Lào Cai cũng như các nghiên cứu có liên quan trước đây của
người dân và cán bộ địa phương.
1
Thỏa thuận hợp tác kí ngày 13/2/2014 giữa UBND Si Ma Cai, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai, Viện
Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội (SPERI) về thực hiện Chương trình phối hợp thực hiện dự án
giao đất giao rừng nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững cho người dân và cộng đồng người dân các
thôn, bản tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai trong năm 2014. Thỏa thuận này được xây dựng
trên cơ sở kết quả giao rừng gắn với đất lâm nghiệp cho 8 cộng đồng và gia đình người Mông tại xã
Lùng Sui, huyện Si Ma Cai thực hiện từ năm 2011 đến 2013.
4 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
2. Điều kiện tự nhiên-xã hội-kinh tế của xã Nàn Sán và Bản Mế
2.1. Xã Nàn Sán2
Nàn Sán nằm ở phía Bắc huyện Si Ma Cai khoảng 4 km, có tổng diện tích tự nhiên là 2.249 ha.
Diện tích đất quy hoạch cho Lâm nghiệp là 1.047 ha, trong đó Ban quản lý rừng phòng hộ Si Ma
Cai quản lý 666,5 ha; UBND xã quản lý 1.401,1 ha; hộ gia đình quản lý 181,4 ha. Tỷ lệ che phủ
rừng của xã Nàn Sán đạt 34,2%.
Nàn Sán giáp với Trung Quốc và huyện Mường Khương (Lào Cai) về phía Bắc; phía Đông giáp
với xã Si Ma Cai (huyện Si Ma Cai); phía Nam giáp với xã Mản Thẩn (huyện Si Ma Cai); phía
Tây giáp với xã Bản Mế (huyện Si Ma Cai) và huyện Mường Khương.
Nàn Sán là xã vùng cao đặc biệt khó khăn của huyện Si Ma Cai, có độ cao từ 700 - 1.500m, được
tạo bởi nhiều dãy núi chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và thấp dần về phía Bắc, mức độ
chia cắt mạnh xen kẽ những dãy núi cao là các thung lũng sâu và nhỏ, nhiều nơi tạo thành vách
đứng. Mặt khác do có độ che phủ rừng thấp nên trong mùa mưa rất dễ xảy ra quá trình rửa trôi,
bào mòn tầng đất mặt và sạt lở diễn ra khá phổ biến.
Nàn Sán có 3 km của con Sông Chảy chạy qua. Phần chảy qua xã có lòng sông hẹp, sâu, nhiều
thác ghềnh, ít có tác dụng trong giao thông vận tải, trong sản xuất và dân sinh do lượng phù sa
thấp, tốc độ dòng chảy lớn. Do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ cao lớn nên xã có khá nhiều
các con suối nhỏ chảy qua. Tất cả các con suối đều bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống
thung lũng. Đây là nguồn nước chính để phục vụ dân sinh và canh tác sản xuất của nhân dân các
dân tộc trong xã. Tuy nhiên về mùa mưa, hệ thống khe, suối thường gây trở ngại cho sản xuất và
đi lại của người dân.
Toàn xã có 667 hộ với 3.496 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mông có 1.549 nhân khẩu (44,3%),
dân tộc Nùng có 1.124 nhân khẩu (32,1%), dân tộc Thu Lao có 550 nhân khẩu (15,7%), dân tộc
La Chí có 165 nhân khẩu (4,7%), còn lại thuộc các nhóm dân tộc khác. Dân số của toàn xã được
phân bố trên địa bàn 13 bản, gồm: Thôn Đội 1, Thôn Đội 2, Thôn Đội 3, Thôn Đội 4, Thôn Nàn
Vái, Thôn Sản Chải 1, Thôn Sản Chải 2, Thôn Sản Chải 3, Thôn Sản Chải 4, Thôn Sản Chải 5,
Thôn Quan Thần Súng, Thôn Lúng Choáng và Thôn Hóa Chu Phùng. Kinh tế của các nhóm cư
dân trên mang tính tự cung, tự cấp là chủ yếu. Đời sống của các gia đình xã Nàn Sán chủ yếu phụ
thuộc vào nghề trồng trọt (ngô và lúa nương một vụ) và chăn nuôi. Tổng sản lượng lương thực
có hạt năm 2009 đạt 1.237 tấn. Bình quân lương thực/người/năm đạt 382,85 kg. Tỉ lệ đói nghèo
của xã chiếm 45,58%.
2
Báo cáo của UBND xã Nàn Sán (tháng 2/2014) về đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng rừng, đất
lâm nghiệp chuẩn bị triển khai kế hoạch GĐGR tại xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai; Đề án xây dựng qui
hoạch nông thôn mới xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai giai đoạn 2013-2020.
5 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
2.2. Xã Bản Mế3
Xã Bản Mế nằm ở phía Tây-Bắc huyện Si Ma Cai, có tổng diện tích tự nhiên 1.954,0 ha; Trong
đó diện tích đất quy hoạch cho Lâm nghiệp là 807,3 ha. Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Si Ma
Cai quản lý 369,8 ha; UBND xã quản lý 1.192,4 ha; hộ gia đình quản lý 391,8 ha. Tỷ lệ che phủ
rừng của xã Bản Mế đạt 31,4%.
Bản Mế giáp với huyện Mường Khương (Lào Cai) về phía Bắc; phía Đông giáp với xã Nàn Sán
và Mản Thẩn (huyện Si Ma Cai); phía Nam giáp với xã Sín Chéng (huyện Si Ma Cai); phía Tây
giáp với xã Thào Chư Phìn (huyện Si Ma Cai).
Bản Mế là một xã miền núi, có địa hình phức tạp, có độ cao từ 700-1.500m, được kiến tạo bởi
nhiều dãy núi chạy dọc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam thấp dần về phía Bắc. Mức độ chia cắt
mạnh xen kẽ những dãy núi cao là các thung lũng sâu và nhỏ, nhiều nơi tạo thành vách đứng.
Giống như Nàn Sán, do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ cao lớn, xã Bản Mế có khá nhiều các
con suối nhỏ chảy qua. Tất cả các con suối đều bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống thung
lũng. Đây là nguồn nước chính để phục vụ dân sinh cũng như mở rộng đất canh tác sản xuất của
nhân dân các dân tộc trong xã. Ngoài ra, xã Bản Mế cũng có khoảng 4 km của con Sông Chảy
chạy qua.
Toàn xã có 455 hộ với 2.309 nhân khẩu, trong đó dân tộc Nùng có 1.363 nhân khẩu (59,0%), dân
tộc Mông có 725 nhân khẩu (31,4%), dân tộc Thu Lao có 152 nhân khẩu (6,6%), còn lại thuộc
các dân tộc khác. Dân cư toàn xã phân bố trên 7 thôn, gồm: Cốc Cù, Cố Dế, Cốc Nghê, Khuấn
Púng, Nà Pá, Sín Chải, Bản Mế. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu của người dân là trồng trọt
(ngô, lúa nương) và chăn nuôi mang tính tự sản tự tiêu. Tỷ lệ đói nghèo của xã chiếm 30,65%.
3. Lịch sử di chuyển của các dân tộc Nùng, Mông, Thu Lao và La Chí tại xã
Bản Mế và Nàn Sán
Theo một số người già kể lại, các gia đình người Mông, Nùng và Thu Lao hiện nay tại các thôn
bản của xã Bản Mế và Nàn Sán có lịch sử di chuyển chủ yếu từ Trung Quốc đến. Bên cạnh đó
nhóm dân tộc Thu Lao còn được cho là di chuyển từ huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Người
La Chí thì di chuyển từ Hoàng Su Phì của tỉnh Hà Giang. Một số người Nùng ở xã Nàn Sán cho
rằng họ có nguồn gốc là người Giáy. Người Giáy ở đây được di chuyển từ Mường Khương, cùng
sinh sống lâu đời với người Nùng nên dần dần hầu hết phong tục tập quán (ngoại trừ tục cúng tổ
tiên và ma chay) của họ nay được hòa hợp vào dân tộc Nùng. Các dân tộc hiện nay đến định cư
tại hai xã khác nhau về mốc thời gian, khoảng từ 3-7 đời người. Trong đó nhóm dân tộc Mông và
3
Báo cáo của UBND xã Bản Mế (tháng 2/2014) về đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng rừng, đất lâm
nghiệp chuẩn bị triển khai kế hoạch GĐGR tại xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai; Đề án xây dựng qui hoạch
nông thôn mới xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai giai đoạn 2013-2020.
6 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Nùng đến sớm hơn cả, khoảng 6-7 đời người, tiếp theo là người Thu Lao (khoảng 4 - 5 đời) và
đến muộn nhất là người La Chí (khoảng 3 đời người)4
.
Việc di chuyển, khai phá và định cư của các nhóm dân tộc này diễn ra do nhiều lý do khác nhau.
Ví dụ người Mông di cư đến Việt Nam là do việc truy đuổi của người Hán; những nhóm khác lại
là do đặc điểm canh tác - du canh du cư nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực và thực phẩm. Với
phương thức này thì các diện tích nương, rẫy luôn được quay vòng, thay đổi để có được đất đai
màu mỡ, phong phú về tài nguyên (rừng, nước) nhằm đảm bảo sản lượng cây trồng và những
nhu cầu khác về thực phẩm, thuốc men...cho các gia đình. Việc di chuyển hoạt động canh tác đến
các địa điểm mới thường kéo theo sự thay đổi về vị trí định cư của họ để đảm bảo sự thuận tiện
cho các hoạt động sản xuất và an toàn về không gian sống cũng như các nhu cầu văn hóa, tinh
thần khác5
.
Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, việc di chuyển và định cư của các nhóm dân tộc tại xã Bản
Mế và Nàn Sán cũng khác nhau về hình thức tổ chức. Người Mông thường di chuyển theo dòng
tộc hoặc dòng họ nhằm duy trì kết cấu của dòng tộc và hỗ trợ nhau trong quá trình di chuyển,
làm nhà và lập bản. Người Thu Lao, Nùng và La Chí thì thường di chuyển theo gia đình hoặc
nhóm gia đình để thuận tiện cho việc hỗ trợ nhau trong quá trình vận chuyển, canh tác, bảo vệ
thú rừng và những biến cố khác.
4. Cấu trúc làng bản
Cấu trúc làng bản của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn
Sán là quá trình sắp xếp tầng lớp, đan xen theo không gian và thời gian, theo các mối quan hệ đa
chiều giữa các gia đình, dòng tộc và thành phần dân tộc, theo tính đặc thù về mối tương tác hữu
cơ giữa các hệ sinh thái-nhân văn trong cùng một vùng địa cảnh quan nhất định. Sự sắp xếp này
là để đảm bảo tối đa sự hài hòa và an toàn về không gian sinh hoạt, không gian văn hóa - tín
ngưỡng và không gian sinh kế của các thế hệ và thành phần dân tộc trong cùng một cộng đồng
làng bản.
Theo đó, các nhóm dân tộc trên đây tại xã Bản Mế và Nàn Sán thường sinh sống thành từng bản
riêng biệt hoặc đan xen giữa các nhóm dân tộc trong cùng một đơn vị bản. Bản theo tiếng Mông
là 'Zo', Nùng là 'Đi Lủng', Thu Lao là 'Lũng'. Có thể nói bản là một đơn vị cư trú, một đơn vị xã
hội và không gian sinh tồn của một hoặc nhiều gia đình, dòng họ có nguồn gốc khác nhau về
thành phần dân tộc. Không gian này chứa đựng các mối tương tác, đan xen chặt chẽ về huyết
thống, dòng tộc, văn hóa và kinh tế của một hoặc nhiều dân tộc khác nhau.
Do đã định cư lâu đời nên bản của các nhóm dân tộc tại hai xã Nàn Sán và Bản Mế tương đối ổn
định. Ngoại trừ một số bản của xã Nàn Sán mới được lập cách đây một vài đời người do chính
4
"Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam" của Gs. Ts Hoàng Nam xuất bản tháng 4 năm
2013.
5
Các báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI về tộc người Mông tại Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai từ năm 2009
đến nay.
7 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
sách giãn dân của địa phương. Số hộ gia đình cấu thành lên các bản tại Bản Mế và Nàn Sán rất
khác nhau. Trung bình khoảng 51 hộ / bản tại xã Nàn Sán và 67 hộ / bản tại xã Bản Mế. Nhiều
nhất là 99 nóc nhà (bản Bản Mế xã Bản Mế) và ít nhất là 24 nóc nhà (bản Sảng Chái 4 xã Nàn
Sán).
Bảng 1: Thành phần các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao tại bản xã Bản Mế
Bản Thành phần dân tộc
Sín Chải Nùng, Mông
Na Pá Mông, Nùng
Bản Mế Nùng
Khoán Púng Nùng, Thu Lao
Cốc Nghế Mông
Cốc Cù Nùng
Cốc Rế Mông, Nùng
Những gia đình trong bản thường thuộc về nhiều dòng họ khác nhau trong một dân tộc. Việc
sinh sống đan xen giữa các dân tộc với nhau trong cùng một bản là hiện tượng tương đối phổ
biến. Tại xã Bản Mế có tới 4/7 bản có sự chung sống giữa các gia đình thuộc các nhóm dân tộc
với nhau. Trong đó, có tới 3 bản có người Mông và Nùng, 1 bản có người Nùng và Thu Lao. Còn
lại 2 bản là của người Nùng, 1 bản là của người Mông (bảng 1).
Bảng 2: Thành phần các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán
Bản Thành phần dân tộc
Thôn Đội 1 Nùng, Thu Lao
Thôn Đội 2
Thôn Đội 3
Nàn Vái
Thôn Đội 4 Thu Lao, Nùng, Mông
Sảng Chải 1 Mông
Sảng Chải 2
Sảng Chải 3
Sảng Chải 4
Sảng Chải 5
Quan Thần Súng
Lũng Choáng La Chí, Nùng
Hóa Chư Phùng La Chí, Nùng
Tại xã Nàn Sán có tới 7/13 bản có sự đan xen về thành phần dân tộc; trong đó có 2 bản là cộng
đồng của người La Chí và Nùng, 1 bản là địa bàn cư trú của người Nùng và Thu Lao. Đặc biệt có
1 bản (thôn Đội 4) có người Thu Lao, Nùng và Mông cùng chung sống (bảng 2).
8 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Hình 1: Cụm hộ gia đình người Thù Lao (trên), Nùng (dưới) tại bản Khuan Ung, xã Bản Mế
Bên cạnh thành phần dân tộc, nhân khẩu thì các hộ gia đình thì cấu trúc làng bản của các nhóm
dân tộc còn được cấu thành trên cơ sở những mối quan hệ về lãnh thổ, không gian sinh hoạt,
không gian văn hóa và không gian sản xuất. Các nhóm dân tộc ở hai xã đều lập bản của mình ở
chân núi, phía trước là không gian thoáng đãng, thường được các gia đình khai phá, cải tạo thành
ruộng bậc thang cấy lúa nước. Bản thường được dựa lưng vào sườn núi, phía sau được khai phá
thành những mảnh nương để trồng các loại cây hoa màu.
Ở những nơi có từ hai nhóm dân tộc trở lên thì Bản được bố trí theo từng cụm - nơi các gia đình
có cùng chung một nguồn gốc dòng tộc và thành phần dân tộc. Thông thường, ở trung tâm của
bản là cụm các gia đình của nhóm dân tộc đến trước tiên. Các nhóm đến sau chọn những vùng
đất còn lại ở gần hoặc xa trung tâm bản để làm nhà và tổ chức trồng trọt, chăn nuôi. Rất ít thấy
có trường hợp gia đình của các nhóm dân tộc khác nhau sống xen kẽ trong cùng một địa điểm.
Nếu nhóm dân tộc đến trước có ít hộ gia đình, nơi đó vẫn còn đất làm nhà và canh tác thì các gia
đình dân tộc khác vẫn có thể đến để lập cư. Ví trụ trường hợp bản Hoa Chư Phùng của xã Nàn
Sán - nơi nhóm các hộ dân tộc La Chí đến sau đã chọn đất để làm nhà, sản xuất xen kẽ với các
hộ gia đình người Nùng. Mặc dù vậy những nhóm gia đình đến sau này vẫn sống co cụm theo
dân tộc mình.
9 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Hình 2: Vị trí nhà ở, ruộng bậc thang và nương rẫy của người Nùng tại xã Bản Mế
Những thửa ruộng bậc thang cấy lúa nước của các hộ gia đình cũng được bố trí theo từng cụm
theo từng nhóm dân tộc. Điều này là do truyền thống của các dân tộc luôn bố trí nơi cư trú và nơi
canh tác lúa nước gần nhau để thuận tiện cho quá trình sản xuất, canh tác. Đồng thời những diện
tích này thường được cố định và kế thừa cho con cháu qua nhiều thế hệ trong cùng một dòng tộc,
dân tộc. Ngược lại thì những diện tích canh tác nương rẫy lại có sự đan xen tương đối cao giữa
các gia đình thuộc các dân tộc khác nhau. Điều này là do trước đây các nhóm dân tộc đều có
chung một phương thức canh tác luân phiên, phát nương làm rẫy. Với phương thức này, sau một
hoặc vài chu kì canh tác thì chủ cũ của một nhóm dân tộc đi nơi khác tìm chỗ mới phù hợp, có
đất tốt hơn thì những gia đình khác - có thể là cùng hoặc khác nhóm dân tộc đến để tiếp tục khai
hoang, trồng trọt. Cứ như vậy, qua nhiều thế hệ sự đan xen về thành phần dân tộc cũng như
những thiết chế, tập tục kèm theo trong cùng một vùng canh tác nương rẫy trở lên đa dạng và
phức tạp hơn. Những vùng này không chỉ đơn thuần của một nhóm dân tộc như trước đây mà
còn của nhiều nhóm dân tộc khác. Dần dà, khi dân số tăng lên, đất đai trở lên chật hẹp và cho
đến nay thì những diện tích đất nương rẫy đan xen của các hộ gia đình từ các dân tộc khác nhau
trở thành cố định.
Hầu hết tại các chỏm núi và các dông, khe là những cánh rừng, gọi là rừng sử dụng chung của cả
cộng đồng để duy trì nguồn nước sinh hoạt, sản xuất, thu hái thực phẩm thiết yếu, củi đốt và gỗ
làm nhà của các hộ gia đình. Hiện nay, những khu rừng này có diện tích không lớn, khoảng một
vài hecta do việc mở rộng diện tích canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực. Vì vậy, chức năng
chính của những khu rừng này hiện nay là để duy trì nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu, củi đốt cho
các hộ trong bản.
Đặc biệt là trong tất cả các bản của các nhóm dân tộc tại hai xã đều có những khu rừng để người
dân thực hành các nghi lễ tâm linh cúng các vị thần tự nhiên, như rừng 'Đổng Chứ', 'Đông Hầu'
10 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
của người Nùng, 'Táng Đẩng Mây" của người Thu Lao và 'Nào Lồng' của người Mông. Những
cánh rừng này thường là các khu rừng già, nguyên sinh và có các cây to, cổ thụ. Theo quan niệm
của người Nùng thì những cây to, cây cổ thụ này là những 'Pù Bố' (cây bố) và 'Pù Mẹ' (cây mẹ),
cây 'Tong Xenh' của người Mông - tức là cây thiêng, nơi trú ngụ của các vị thần linh như thần
đất, thần rừng và thần rồng. Những khu rừng này được duy trì và lưu truyền qua nhiều đời người
thông qua những thiết chế truyền thống của các dòng họ, cộng đồng và dân tộc. Rừng cấm của
bản thường nằm xen lẫn trong các làng bản, có thể ở giữa làng, bên cạnh hoặc đầu làng để thuận
lợi cho hoạt động thờ cúng của các gia đình vào dịp lễ tết hàng năm.
Ngoài ra, các bản tại Nàn Sán và Bản Mế còn có những vùng để làm lễ cúng 'Thứ Tỉ', 'Thổ Ti' -
tức là thần đất, tùy theo phát âm của từng nhóm dân tộc. Đây là nơi để người dân thực hiện các
nghi lễ cúng thần đất để bảo vệ cho hoa màu, cây cối, vật nuôi và cây trồng. Thông thường thì
những vùng này được bố trí ở gần các khu ruộng, nương rẫy, nơi có những hòn đá to, cố định,
chắc chắn và ít bị con người, động vật tác động. Mỗi bản có từ 1 đến 5 điểm cúng 'Thứ Tỉ', tùy
thuộc vào qui ước của từng nhóm hộ gia đình (không kể thành phần dân tộc) có cùng chung một
vùng đất canh tác nhất định mà nơi đó họ quan niệm là đang được thần đất bảo vệ và che chở.
Đơn vị Bản tại Bản Mế và Nàn Sán còn được cấu thành bởi sự đan xen giữa những không gian
của cá thể và của cộng đồng. Những không gian đó thường là các diện tích đất canh tác và khu
rừng riêng của từng gia đình, dòng họ và của chung cả cộng đồng. Đất riêng của gia đình là do tự
khai phá thành ruộng, nương, rừng cây, ao, đất làm nhà, làm các công trình chuồng trại, gia
súc...Rừng riêng của các gia đình thường nhỏ lẻ, thường được nằm gần các khu ruộng, nương.
Đôi khi cũng là những mảnh nương lâu ngày không canh tác nên cây mọc thành rừng. Còn đất
của chung cả cộng đồng là những vùng vẫn chưa được khai phá, là những khu rừng sử dụng
chung và những khu rừng 'Nào Lồng' của người Mông, và 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' của người
Nùng, Thù Lao và La Chí.
5. Giao thoa về tên bản
Như nhiều dân tộc khác, tên gọi của các bản của các nhóm dân tộc tại Nàn Sán và Bản Mế phản
ánh những đặc điểm đặc thù của cảnh quan, tự nhiên xung quanh. Tên bản thường được gọi theo
tên núi, tên sông, tên thung lũng, tên gốc cây cổ thụ, tên cánh đồng, hoặc theo một đặc điểm địa
lý nào đó. Ví dụ, theo cách đặt tên của người Nùng, Bản Mế tức là Bản Rộng - nơi có những
vùng đất canh tác bằng và rộng; 'Cốc Rế' - tức là 'gốc Nứa', có nghĩa là nơi đây trước đây có
nhiều cây nứa; 'Cù', có nghĩa là tiếng chim kêu, do đó 'Cốc Cù' là nơi mà có nhiều tiếng chim
mỗi độ hoa gạo nở; 'Mế' nghĩa là rộng lớn; 'Na Pa' là nơi từng có nhiều cá trạch hay còn gọi là
ruộng cá trạch. Ngoài ra, tên bản cũng được người dân đặt theo những truyền thuyết kể lại ví dụ
'Sín Chải', có nghĩa là nguồn nước - nơi có vị thần rồng luôn bảo vệ con người, hoa màu và ban
tặng nguồn nước cho muôn loài.
Thông thường các tên địa danh trên được đặt bởi nhóm dân tộc có lịch sử đặt chân đến trước.
Các dân tộc đến sau sẽ lấy những tên của địa danh này trở thành tên gọi chung. Người Nùng đặt
chân và định cư đầu tiên tại xã Bản Mế nên hầu hết các tên bản như 'Cốc Rế', 'Cốc Cooc', 'Cốc
11 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Cù', 'Khuấn Púng', 'Bản Mế', 'Sín Chải' được đặt theo tiếng của người Nùng. Những dân tộc đến
muộn hơn như Thu Lao hoặc Mông lấy những tên này như là tên gọi địa danh của dân tộc mình.
Tại xã Nàn Sán, một số bản hiện nay, theo người dân kể lại có nguồn gốc khai phá và định cư
của người Tày. Do đó, các địa danh như Nàn Vái6
, tức là đồi có nhiều cây mây là được đặt tên
bởi người Tày. Một số bản khác được đặt tên bởi tiếng Mông như Sáng Chải 1, 2, 3, 4. Tên bản
Lũng Choáng và Hóa Chư Phùng - nơi có người Nùng và La Chí sinh sống thì được đặt tên theo
tiếng Nùng.
6. Giao thoa về quan niệm giá trị đất và rừng
Các dân tộc Nùng, Mông, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sín đều quan niệm đất, rừng
không chỉ để duy trì không gian sinh kế thông qua việc tổ chức canh tác, trồng trọt, chăn nuôi mà
còn là không gian văn hóa, tín ngưỡng quyết định trực tiếp đến quá trình nuôi dưỡng, bảo vệ sự
sinh tồn và phát triển các giá trị tinh thần và cấu kết giữa các gia đình, dòng họ và cả cộng đồng.
Họ cho rằng tự nhiên (đất, rừng, nước) là của các vị thần. Các vị thần đã ban tặng cho họ đất,
nước, rừng... để sinh tồn. Do đó, mỗi khu rừng đều có một vị thần cai quản. Các vị thần đó với
quyền lực vô song, có thể điều khiển được mọi tà ma, ác thú, dịch bệnh để bảo vệ cho dân làng,
đem lại cuộc sống bình yên, ấm no cho cộng đồng.
Các dân tộc đều quan niệm rằng giữa con người với thiên nhiên, đặc biệt với rừng luôn có mối
quan hệ khăng khít, hoà quyện với nhau và thường được thể hiện trong cách hành xử của con
người với rừng và đất cũng như sự nuôi dưỡng, che chở của rừng, đất đối với con người. Hòa
đồng cùng thiên nhiên, tôn trọng, bảo vệ thiên nhiên, coi rừng là cuộc sống, gắn bó với rừng, bảo
vệ rừng đã trở thành ý thức chung ẩn chứa sâu trong các ứng xử và hành vi của từng thành viên
trong cộng đồng. Vì vậy, mỗi cộng đồng của các nhóm dân tộc ở đây thường thiết lập những
không gian thiêng - rừng cấm như rừng 'Đổng Chứ' hay 'Đông Hầu' của người Nùng, hay 'Táng
Đẩng Mây" của người Thu Lao hoặc 'Nào Lồng' của người Mông để thể hiện sự tôn sùng và
thành kính đối với những vị thần đã ban tặng họ nguồn sống. Mỗi khu rừng thiêng được người
dân nơi đây bảo vệ chăm sóc không những mang lại giá trị vật chất, tinh thần cho cộng đồng làng
bản mà còn góp phần bảo vệ, phát triển môi trường sinh thái chung. Bên cạnh đó trên những
vùng đất canh tác của mình người dân cũng lập các bàn thờ để cúng các vị 'Thu Tỷ' (tiếng Nùng,
Mông), 'Táng Thứ Tỳ' (tiếng Thu Lao) hay 'Thổ Ty' (tiếng Quan Hỏa-Trung Quốc), tức là thần
đất để cầu mong và cảm ơn thần đất đã cai quản, bảo vệ tài sản, cây trồng, vật nuôi, mang lại sự
no đủ, bình yên, hạnh phúc cho mọi thành viên trong cộng đồng. Người Nùng ở xã Nàn Sán còn
tổ chức lễ hội 'Lồng Tồng' để tạ ơn các vị thần nông và cầu mong bội thu cho một vụ trồng trọt
mới.
7. Giao thoa về quan niệm thần đất, thần rừng và thần nước
Các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế theo tín ngưỡng
đa thần. Biểu hiện về điều này là họ tin vạn vật hữu linh. Mọi vật hiện hữu như cây cối, hòn đá,
quả đồi, mỏm núi, các đồ dùng phục vụ sinh hoạt của con người đều có linh hồn, gọi chung là
6
Xã Nàn Sán ngày nay là do việc sáp nhập giữa hai vùng đất có tên là Dào Sán và Nàn Vài.
12 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
thần linh. Mỗi vùng trời, vùng đất đều có các vị thần cai quản, trên trời là các vị thần tiên, dưới
đất có thần đất; ở sông có thần sông, thần rồng, suối có thần suối; rừng có thần rừng.
Trong các thần đó thì thần Rừng là một trong những thần quan trọng của nhân dân các dân tộc
huyện Si Ma Cai Nói chung, người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán
nói riêng. Vì vậy, thờ cúng thần Rừng là việc không thể thiếu đối với họ. Nơi để thờ phụng thần
Rừng là nơi linh thiêng, yên tĩnh và nằm ở vị trí quan trọng của cộng đồng - nơi đó có thể là giữa
bản hoặc đầu nguồn của mạch nước cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho cả cộng đồng.
Những nơi thờ Thần Rừng là rừng cấm, rừng thiêng, có khi là một mảnh hay khu rừng nguyên
sinh, nơi con người không chặt phá và không bao giờ chăn thả gia súc, hoặc làm những chuyện ô
uế động đến thần linh. Những khu rừng nơi thờ Thần rừng là những tài sản chung vô giá của toàn
cộng đồng và được gìn giữ qua bao thế hệ.
7.1. Quan niệm thần rừng và thần nước
7.1.1. Tín ngưỡng 'thần cây to' của người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí
Trong các khu rừng cấm, các dân tộc Mông, Nùng và La Chí đều chọn một cây to làm cây thiêng
để lập bàn thờ. Theo tiếng Mông cây thiêng này gọi là 'Tông Xênh', người Nùng thì gọi là 'Pù
Bố' (cây bố) và 'Pù Me' (cây mẹ). Họ cho rằng các vị thần rừng thường trú ngụ ở gốc cây to, đây
cũng là nơi để các vị thần linh tụ họp, bàn bạc công việc. Tuỳ thuộc vào từng dân tộc mà cách
chọn cây thiêng có sự khác nhau. Với người Nùng thì họ thường chọn cây to như Nghiến hoặc
Sấu. Cây thiêng phải là những cây có thân to, tán rộng, cành lá sum xuê, thể hiện sức sống mạnh
mẽ, không chọn những cây có tán bé, cây cụt ngọn hoặc là cây đã quá già cỗi làm cây để thờ.
Người dân cho rằng các cây thiêng này ở những khu rừng cấm là cây bố, cây mẹ, rừng cội nguồn
để sản sinh, che chở, bảo vệ cho toàn bộ các loài cây và khu rừng khác trong một vùng địa lý
nhất định. Khác với dân tộc Mông, Nùng và La Chí, người Thu Lao lại chọn những cây nhỏ để
đặt lễ cúng tế.
Dưới gốc cây, họ dựng một bàn thờ, được ví như một ngôi nhà cho các vị thần linh trú ngụ. Các
bàn thờ này có bản thì làm cố định, khi đến ngày cúng rừng thì người dân cùng nhau tu sửa lại.
Có bản thì làm mới mỗi khi diễn ra lễ cúng rừng. Các bàn thờ thường được làm đơn giản bằng
việc ghép những thân cây nhỏ lấy từ trong khu rừng thiêng. Thường trên các gốc cây thiêng,
người dân treo một số vật tượng trưng cho sự sung túc, trang nghiêm và tôn sùng như xương
quai hàm của lợn, trâu và lông gà. Những vật tượng trưng này được bổ sung sau mỗi đợt cúng
rừng. Trong những khu rừng này mọi người dân trong bản đều ý thức được những điều cấm kỵ
như: Không được chặt cây, lấy củi, nói bậy, săn bắt thú, làm việc xấu, hoặc làm những điều ô uế
trong rừng…Nhân dân địa phương vẫn còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện về những cá nhân đã
vi phạm vào điều cấm kỵ bị thần rừng trừng phạt. Những điều cấm kỵ đó cho dù được hay không
được quy định trong các qui định của thôn bản nhưng mọi người đều biết rất rõ và có ý thức tuân
thủ. Đôi khi trong nhà có người bị ốm, gia đình đó phải chuẩn bị một mâm cúng tại gia đình và
mời thần rừng, thần cây thiêng đến chứng giám, phù hộ cho người thân của họ mau chóng khỏi
bệnh.
13 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
7.1.2. Tín ngưỡng 'Nào Lồng' của người Mông7
‘Nào Lồng’ còn được biết đến là ‘Nò Sồng’ tuỳ theo phát âm của từng vùng. Đây là lễ hội để giữ
gìn luật tục, quy ước của người Mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai nói riêng và người Mông
nói chung ở rất nhiều nơi khác. ‘Nào Lồng’ có nguồn gốc từ lâu đời, được người Mông duy trì
liên tục qua nhiều đời người nên trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần
của cộng đồng. Lễ hội này giúp người Mông duy trì và phát triển các chuẩn mực ứng xử giữa
người với người và giữa người với thiên nhiên. ‘Nào Lồng’, nghĩa đen là “ăn rồng” được tổ chức
lễ vào ngày Thìn cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Do đó, 'Nào Lồng' cũng có
nghĩa rừng rồng, rừng thiêng, nơi diễn ra lễ cam kết ăn thề giữa các gia đình, dòng họ, dân tộc để
bảo vệ đất, rừng, bảo vệ tính cấu kết của cộng đồng trước sự chứng kiến của thần rồng.
Với những ý nghĩa trên, người Mông quan niệm có 'thần rừng', 'thần rồng' trong khu rừng 'Nào
Lồng'; nên họ đã thiết lập miếu thờ và tổ chức lễ tạ ơn tại những cây to, gọi là 'Tồng Xênh' trong
những khu rừng “Nào Lồng". Theo quan niệm của người Mông thì những cây 'Tồng Xênh' chính
là cây chủ, cây thiêng, cây bố, cây mẹ sinh ra muôn loài trên thế gian. Lễ cúng này có ý nghĩa
tinh thần lớn lao, đó là việc cầu mong bình an, cảm ơn thần rừng, thần rồng đã che chở, nuôi
dưỡng người dân qua bao thế hệ.
Lễ vật để chuẩn bị cho lễ 'Nào Lồng' ở từng bản có khác nhau. Thông thường, lễ vật bắt buộc là
gồm 1 con gà trống, hương, 1 con lợn hoặc 1 con trâu, cơm, rượu và những lễ vật nhỏ khác. Gà
trống tượng trưng cho Trời, gà mái tượng trưng cho Đất. Theo phong tục quy định trong lễ 'Nào
Lồng', hai năm cúng lợn, một năm cúng trâu. Hai người quản lý rừng, gọi là 'Lông Thoz' có trách
nhiệm tổ chức họp toàn dân để thống nhất mức đóng góp, sau đó sẽ phân công những ai tham gia
vào tổ chức lễ cúng. Họ sẽ mời người già nhất trong thôn bản biết phong tục và các bài cúng để
đứng ra cúng trong lễ 'Nào Lồng'. Trong lễ cúng, thầy cúng sẽ cầu mưa thuận gió hoà, gia súc gia
cầm không dịch bệnh, con người khoẻ mạnh, ruộng đồng tốt tươi. Sau đó, thầy cúng sẽ dùng một
nhánh củi nhỏ chẻ làm đôi (để làm quẻ) và hỏi bằng tiếng Quan Hỏa rằng "ông có bảo vệ được
dòng họ .....không?". Tên từng dòng họ sẽ được hỏi, và gieo quẻ. Nếu cả hai mảnh đều nằm úp
thì thần báo tin dòng họ đó sẽ không được bảo vệ. Nếu một mảnh úp và một mảnh nằm ngửa thì
cho thấy thần 'Nào Lồng' vẫn đang xem xét đối với dòng họ đó. Nếu cả hai mảnh đều nằm ngửa
thì chứng tỏ dòng họ đó sẽ được bảo vệ tốt. Nếu dòng họ nào có quẻ rơi vào hai trường hợp đầu,
thì dòng họ đó sẽ phải tổ chức mời thầy cúng đến cúng trong gia đình để xin thần linh che chở
khỏi các tai hoạ.
7
Báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI về bản sắc văn hóa người Mông tại huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai
từ 2009-2013 và Báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI, Viện CODE năm 2011 về 'Vai trò của Luật tục
trong phát triển cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam'.
14 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Hình 3: Khu rừng 'Nào Lồng' của người Mông tại xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai
Sau lễ cúng, thầy cúng sẽ làm lễ xem chân gà, trường hợp chân gà tốt thì cộng đồng sẽ được
thông báo là nghỉ ngơi trong vòng 3 ngày; nếu chân gà không tốt thì cộng đồng phải nghỉ 5 ngày.
Trong thời gian nghỉ này, tất cả các gia đình kiêng không đi cày, bừa, sản xuất, phát nương rẫy.
Tất cả chỉ được phép ăn uống và hội hè với nhau mà thôi. Nếu ai vi phạm thì bị xem là vi phạm
điều kiêng kị của cộng đồng và sẽ bị phạt bằng cách bồi thường bằng việc phải tổ chức cúng lại
lễ 'Nào Lồng'.
Sau khi thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng, đại diện các gia đình trong vùng thường tận dụng một
khoảng thời gian nhỏ để kết hợp đưa ra các vấn đề như bảo vệ rừng, hoa màu, cách ứng xử trong
gia đình, dòng họ, cộng đồng ra bàn luận, rồi xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy chế của cộng
đồng. ‘Nào Lồng’ và các quy định của ‘Nào Lồng’ không chỉ thay đổi theo thời gian, mà còn
được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với đặc thù của từng xã, từng thôn.
7.1.3. Tín ngưỡng 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' của người Nùng và La Chí
Người Nùng cũng tin rằng tại những khu rừng này có vị thần 'Chứ' (thần rừng) và 'Hầu' (thần
Rồng) trú ngụ. Do quá trình tiếp biến về văn hóa, hiện tại người La Chí cũng đang thực hành tín
ngưỡng này của người Nùng. Với quan niệm đó, người dân đã thiết lập lên những khu rừng cấm
hay rừng thiêng gọi là 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' (tiếng Nùng). 'Đổng' - theo tiếng Nùng là Rừng;
vì vậy, 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu' là rừng thiêng, rừng rồng đôi khi được gọi là là 'cấm'. Theo đó
những khu rừng thiêng này được cai quản của thần rồng và thần rừng - tượng trưng cho vị thần
bảo vệ và ban nguồn nước cho vạn vật trên trái đất.
15 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Lễ cúng 'Đổng Chứ'
Thời gian tổ chức lễ cúng 'Đổng Chứ' rất linh hoạt và phụ thuộc vào qui định của từng bản, cụm
gia đình và cụm cộng đồng. Thông thường, 'Đổng Chứ' được tổ chức vào ngày rồng cuối tháng
hai (âm lịch). Có bản thì tổ chức cúng 'Đổng Chứ' và 'Đông Hầu' một lần vào ngày rồng tháng
hai hoặc tháng 6 (âm lịch). Một số bản như thôn Đội 1, Đội 2, Đội 3, Đội 4 và Nàn Vái - nơi mà
những khu rừng cấm được thừa kế lại từ người Tày8
trước đây thì lại tổ chức vào ngày rồng
tháng 6. Một điểm chung về quan niệm với người Mông, người Nùng và La Chí đều cho rằng ở
những khu rừng thiêng này có thần rồng (gọi là 'Lồng' hoặc 'Lùng') trú ngụ. Đây là con vật linh
thiêng, được dân bản tôn làm vị thần giúp đỡ dân làng bảo vệ nguồn nước, bảo vệ mùa màng,
giúp dân làng tránh được hạn hán, bão lũ. Thần rồng có thể bay, đưa những nguyện vọng của
người dân lên với trời. Do đó người Nùng tổ chức 'Đổng Chứ' là để cúng thần rồng cai quản
nguồn nước.
Tại các gốc 'Pù Bố' và 'Pù Mẹ', trong lễ cúng rừng, người dân thường đặt 02 mâm lớn gồm 01
chính (bên phải) và 01 phụ (bên trái). Mỗi mâm đều có 5 con ngựa giấy và 5 chén rượu nhỏ.
Khác với mâm phụ có 05 con ngựa trắng thì mâm chính có 01 con ngựa đỏ ở chính giữa. Ngoài
ra còn 01 mâm nhỏ ở dưới 02 mâm lớn là mâm của thầy cúng thờ 'Tổ Tồn' – thờ người thầy đã
truyền nghề cho thầy cúng. Khi thầy cúng tiến hành các lễ cúng ở bất cử đâu đều phải lập một
bàn thờ này, điều này cũng có nghĩa là thầy cúng có luôn được vị thầy hỗ trợ trong khi hành
nghề. Ngoài ra, lễ cúng còn có 3 con gà trống (2 con màu đỏ, 1 con màu trắng). 2 con gà trống
đỏ được đặt ở 2 mâm lớn; 1 con gà trống trắng để làm lễ và bầu 2 người trông coi rừng (gọi là
'Hooc Can') trong năm tiếp theo. 02 bát tiết lợn và gà cũng được đặt lên bàn thờ chính và phụ. Có
những bản, ngoài bàn thờ 'Tổ Tồn', người dân chỉ chuẩn bị 1 mâm cúng với các lễ vật như 5
ngựa giấy, 5 chén rượu, 1 gà trống đỏ.
Nghi Lễ được thực hiện khá công phu và nghiên túc. Đầu tiên thầy cúng phụ rót rượu nếp cẩm
vào các chén và khấn, việc khấn có ý nghĩa thông báo cho thần rừng biết lễ cúng gồm những gì
và xin quẻ âm dương xem thần rừng có đồng ý nhận những lễ vật đó không. Quẻ âm dương được
làm bằng hai miếng gỗ nhỏ lấy ngay trong rừng. Nếu như thần rừng không nhận thì thầy cúng
phải cúng lại và gieo quẻ âm dương lại. Khi thần rừng đồng ý nhóm thanh niên giúp việc bắt đầu
rửa chân gà, cắt tiết ngay trước ban thờ. Tiếp đó 02 bát tiết tươi của Lợn và Gà được chuyển lên
bàn thờ chính và phụ để Thầy cúng tiếp tục các nghi lễ tâm linh.
Sau khi hoàn thành các thủ tục cúng thần rừng, thầy cúng sẽ làm thủ tục cúng "Tổ Tồn", lễ vật
được cùng tổ tồn chỉ đơn thuần là 01 bộ nội tạng gà. Thầy cúng phải là người ăn hết phần thức
ăn này, đây được coi là sự kính trọng người thầy đã truyền dạy nghề cho mình.
8
Theo người dân kể lại thì những bản này là do người Tày đến đầu tiên để khai phái và dựng làng. Sau
đó họ chuyển đi đâu không biết và người Nùng, Thù Lao và Mông lần lượt đến để định cư.
16 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Sau khi hoàn tất các thủ tục cúng tâm linh, người dân bắt đầu chuẩn bị chế biến thức ăn để mời
cả làng đến ăn. Mâm thầy cúng và các già làng được ăn trước tại vị trí cúng dưới gốc cây to. Các
mâm thức ăn khác được nhóm thanh niên giúp việc chuyển tới một chỗ riêng để mời cả làng đến
cùng ăn chung. Một điều đặc biệt là tất cả các loại thức ăn đều phải được luộc chín, không được
xào, rán vì người dân quan niệm nếu làm như vậy thì năm tới sẽ thiếu nước, cây trồng sẽ bị cháy
và không cho thu hoạch; nếu được luộc chín thì năm mới dân bản sẽ có nguồn nước dồi dào, cây
trồng tươi xanh và cho thu hoạch tốt.
Giống như người Mông, sau lễ cúng 'Đổng Chứ', thầy cúng sẽ xem chân gà. Xem chân gà để biết
xem năm nay sẽ cấm rừng bao nhiêu ngày. Trong thời gian nghỉ này, tất cả các gia đình kiêng
không đi cày, bừa, sản xuất, phát nương rẫy, ngắt lá tươi, đặc biệt là đội nón đi qua bản. Tất cả
chỉ được phép ăn uống và hội hè với nhau mà thôi. Nếu ai vi phạm thì bị xem là vi phạm điều
kiêng kị của cộng đồng và sẽ bị phạt bằng cách bồi thường cho việc phải tổ chức cúng lại lễ
'Đổng Chứ'.
Lễ cúng 'Đổng Hầu'
Lễ này chủ yếu diễn ra ở một số bản ở xã Bản Mế. Lễ được tổ chức vào ngày 2 tháng 02 (âm
lịch) hàng năm để cúng cả thần rừng và thần thiên nhiên với ước nguyện cho mỗi người dân
cũng như cộng đồng được phù hộ khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt mang lại
cuộc sống ấm no. Lễ vật cúng 'Đổng Hầu' cũng giống như "Đổng Chứ', nhưng cộng đồng phải
làm thêm 02 bàn thờ cho các vị thần coi miếu.
Lễ 'Đổng Hầu' được tổ chức to hơn 'Đổng Chứ', linh vật hiến tế gồm: 1 con trâu (cứ 3 năm thì
thịt Trâu một lần cúng tại miếu), gà, lợn, cá và cơm. Việc tổ chức cúng lễ được thực hiện bởi
những người đàn ông trong làng một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ hơn lý 'Đổng Chứ'. Tất cả
phụ nữ không ai được lai vãng tới khu vực miếu mà chỉ hỗ trợ các việc phụ ở bìa rừng.
Trình tự cúng "Đổng Hầu' cơ bản không khác với "Đổng Chứ'. Sau khi làm lễ báo cáo thần linh,
những lễ vật là những con vật hiến sinh được giao lại cho nhóm thanh niên để làm thịt. Tất cả
các con vật được lấy tiết sống để cúng. Riêng đối với vật lễ là trâu, ngoài việc lấy tiết thì các bộ
phận như đầu, đuôi, 04 chân và 02 xương sườn đều phải đặt trước bàn thờ để cúng (đây cũng
được gọi là thủ tục cúng sống). Sau khi các phần thức ăn khác được nấu chín thì lại được mang
lên cúng.
Cuối cùng thầy cúng sẽ làm tục xem xương đùi gà để biết “thần rừng năm nay sẽ cấm rừng bào
nhiêu ngày” và thông báo lại số ngày cấm rừng. Ví dụ như năm nay (2014) tại bản Nà Pá xã Bản
Mế, cả cộng đồng và các bản lân cận bị cấm 4 ngày không được lên rừng (bất kể rừng nào) bẻ
cây, chặt cây, săn bắn, không được làm nương rẫy. Thậm chí cấm không cho xe máy, ô tô chở
hàng đi qua bản.
17 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
7.1.4. Lễ cúng 'Táng Đẩng Mây' của người Thu Lao9
Việc thờ cúng thần rừng của người Thu Lao, gọi là 'Táng Đẩng Mây' ở một khu rừng cấm, diễn
ra vào ngày Thìn cuối cùng của tháng Giêng hàng năm. Nếu tháng đủ cúng vào ngày 30 tháng
giêng, nếu tháng thiếu cúng vào ngày 29.
Nơi cúng thần rừng không phải là gốc cây to nhất rừng như của người Mông và Nùng, mà là hai
gốc cây nho nhỏ. Nếu như người Mông chỉ có một chiếc bàn thờ đặt ở gốc cây to nhất rừng, thì
người Thu Lao quan niệm đi đâu cũng phải có đôi có lứa, vì vậy họ làm hai bàn thờ gần nhau,
một bàn thờ thờ thần nữ, một thờ thần nam. Bàn thờ vị thần nam có 7 chiếc chén, 7 đôi đũa và có
7 hình người bằng giấy cắt dán lên một thanh tre hoặc nứa. Tương tự như vậy bàn thờ vị thần nữ
có 5 chiếc chén, 5 đôi đũa, và có 5 hình nhân cắt bằng giấy bản dán lên thanh cây tre. Bàn thờ
thường được làm bằng những cây quanh rừng, loại lá rừng to được lấy và trải lên bàn thờ để đặt
đồ ăn. Sau đó, thầy cúng lấy 1 mảnh giấy bản màu vàng cắt dài khoảng 50 đến 70 cm trải lên 2
bàn thờ và đặt những chiếc chén lên đó. Nếu là bàn thờ vị thần nam thì chiếc chén ở vị trí số 4 sẽ
phải được đặt trên một chiếc chén to hơn lật úp. Thầy cúng gọi đó là chén cái. Tương tự ở bàn
thờ thần nữ, ở ví trí số 3 là chiếc chén cái. Sau đó, lấy 7 hình nhân dán lên thanh tre treo lên bàn
thờ. Thầy cúng lấy 2 chiếc vòng bạc đặt vào 2 chiếc bát để trên 2 bàn thờ và khi làm lễ cúng thầy
cúng đổ nước vào đó, với ý nghĩa là thần rừng nhận được những lễ vật mà họ mang tế. Lễ vật
cúng rừng gồm có 2 con gà, 1 gà sống, 1 một gà mái, 1 con lợn khoảng trên 1 tạ, cơm, bát, chén,
rượu, vàng tiền và hương.
Người Thu Lao lấy lá của cây móc, hoặc cây sa nhân trên rừng buộc vào thân cây nơi làm bàn
thờ để giao cho cây đó chăm sóc sức khỏe, công việc làm ăn cho cả thôn bản năm đó. Cuối cùng
thầy cúng lấy 2 bát mỡ để lên 2 bàn thờ và cho giấy vào trong đó để đốt với ý nghĩa là thắp sáng
đường đi cho các vị thần linh.
Khi công việc chuẩn bị đã hoàn tất, thầy cúng bắt đầu tiến hành các nghi lễ cúng. Công việc cúng
tế thần Rừng của người Thu Lao có 2 thầy cúng, 1 thầy cúng chính và 1 thầy giúp việc.
Trước ngày cử hành cúng tế khoảng hai đến ba ngày người chủ trì có trách nhiệm đi mời thầy
cúng về cúng rừng và chuẩn bị tiền giấy, vàng, hương và tất cả những thứ khác để phục vụ cho
cúng rừng.
Lễ cúng rừng của người Thu Lao có 2 phần, cúng lễ sống và cúng lễ chín. Thường thì lễ cúng
sống được tổ chức buổi sáng; chiều dành cho lễ cúng chín. Cúng lễ sống và chín thì bài cúng
giống nhau chỉ khác tên là chín và sống. Nội dung của lần cúng thứ nhất là báo cáo thần Rừng
hôm nay dân bản tổ chức lễ cúng tế thần, thầy cúng kể tên các lễ vật năm nay chuẩn bị cúng tế.
Sau khi khấn xong lần 1 thầy cúng rót rượu vào từng chén và quỳ lạy bàn thờ 2 lần, sau đó tiếp
9 Báo cáo thực tập tốt nghiệp của Bùi Thị Chung Trường Đại Học Xã hội về Tìm hiểu một số đặc trưng
văn hóa của đồng bào Thu Lao xã Thào Chư Phìn - huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai (2011)
18 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
tục đứng lên khấn tiếp. Nội dung bài cúng lần 2 là mong thần rừng che chở cho dân bản, mạnh
khỏe, an cư lạc nghiệp, mọi sự bình yên, hoa màu tươi tốt, mưa thuận gió hoà, mùa màng bội
thu. Cuối cùng tiếp tục rót rượu vào chén lần 2 và lấy 2 miếng gỗ của 1 thân cây đã chẻ làm 2 để
gieo quẻ xem thần đồng ý hay không.
Thầy cúng tiến thành thủ tục cúng bàn thờ thần nam trước sau đó sang cúng bàn thờ thần nữ. Bàn
thờ thần nam lễ vật gồm có 1 con gà trống và 1 con lợn, còn bàn thờ thần nữ chỉ có 1 con gà mái.
Đối với lễ cúng sống, không giống như người Mông là phải đem con vật tế đó đến trước ban thờ,
mà chỉ cần cắt tiết con vật, sau đó lấy giấy vàng quệt vào bát tiết đặt lên bàn thờ hoặc dưới bàn
thờ coi như là đã mang đem dâng cả con vật tế đó cho thần linh rồi.
Lễ vật trong thủ tục cúng chín cũng là gà trống và lợn ở bàn thờ thần nam, và gà mái ở bàn thờ
thần nữ. Tuy nhiên, trước đi đặt lên cúng thì con gà phải được chần qua. Gọi là chín nhưng chỉ
hơi tái da không chín hẳn như người Mông đã làm. Tất cả các lễ vật này được làm thành 7 xâu
thịt. Xâu thịt nào cũng có một ít lòng già, dạ dầy, gan, tim, phổi và thịt mỡ lẫn nạc. Ngoài ra trên
bàn thờ thần nam người ta còn đặt cả đầu con lợn. Cả hai bàn thờ, người ta đều đặt các nắm cơm
nhỏ. Khi đặt đủ lễ vật chín lên cả hai bàn thờ thầy cúng tiếp tục hành lễ với lời khấn tương tự
như lần cúng sống.
Sau khi mọi việc hoàn tất, thầy cúng sẽ tổ chức xem xương gà và cho biết ngày kiêng cấm. Nếu
thầy cúng thấy xương chân gà tốt thì tất cả các gia đình trong cộng đồng và những người ngoài
cộng đồng có đất canh tác tại bản đều bị cấm 3 ngày không được đi làm. Nếu xương gà xấu thì
phải kiêng từ 5 đến 7 ngày. Theo quan niệm của người Thu Lao thì sau ngày cúng rừng thần
rừng sẽ đi từng ngóc ngách của thôn bản để tẩy đi những gì dơ bẩn còn sót lại trong năm và bắt
đi những hồn ma làm hại cho dân bản. Vì vậy, nếu ai đi làm trong thời gian này thì sẽ bị thần
rừng bắt mất vía; người đó sẽ bị ốm đau, bệnh tật hoặc và toàn bộ thôn bản sẽ gặp những điều
không tốt.
7.2. Quan niệm về thần đất
Nếu tại các khu rừng thiêng là nơi trú ngụ của thần rừng, thần rồng thì ở những vùng canh tác
trồng trọt nương rẫy, chăn nuôi, người dân lại quan niệm ở đó có các vị 'Thu Tỷ' (thần đất). Cho
đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào làm rõ nguồn gốc lễ cúng 'Thu Tỷ' này bắt nguồn từ dân tộc
nào. Tuy nhiên như đã được nêu ở phần trên, 'Thu Tỷ' là tập quán lâu đời, không chỉ riêng một
nhóm dân tộc mà là tín ngưỡng chung của nhiều dân tộc khác tại xã Nàn Sán và Bản Mế nói
riêng, 96 thôn bản của huyện Si Ma Cai nói chung. 'Thu Tỷ' là vị thần cai quản, bảo vệ tài sản,
cây trồng, vật nuôi, mang lại sự no đủ, bình yên, hạnh phúc cho mọi thành viên trong cộng đồng
không kể thành phần dân tộc. Vì vậy, hàng năm các gia đình trong thôn phải tổ chức lễ cúng để
tạ ơn cùng với các lễ vật qui định dâng lên các vị thần này. Lễ vật thường là 1 con gà trống đỏ,
miếng thịt lợn chín, rượu, hương. Nếu tại các khu rừng thiêng, người dân thường chọn các cây to
làm nơi để bàn thờ và dâng lễ cúng thần thì tại những vùng canh tác, người dân chọn những hòn
đá to, đẹp, vững chãi, ít bị tác động bởi con người và động vật để làm các lễ cúng 'Thu Tỷ'. Tại
đây, người dân thường đặt các miếu nhỏ được làm bởi các hòn đá nhỏ ghép lại với nhau.
19 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Thời gian lễ cúng 'Thu Tỷ' thường được tổ chức vào ngày rồng của tháng 2 và tháng 6 (âm lịch)
hàng năm. Ngày cụ thể thì tùy thuộc vào qui định của từng bản, từng cụm gia đình canh tác trên
một vùng đất nhất định. Có những bản tổ chức cả hai lần/năm, như bản Khoán Púng xã Bản Mế.
Nhưng đa số các bản chỉ tổ chức một lần hoặc vào ngày rồng tháng 2 hoặc tháng 6.
Hình 4: Miếu thờ 'Thứ tỉ' của người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí xã Bản Mế và Nàn Sán
7.3. Quan niệm về thần nông
Qua tìm hiểu thấy rằng nếu những không gian cúng thần rừng và 'Thu Tỷ' mang đậm nét văn hóa
của những dân tộc có truyền thống canh tác nương rẫy như người Mông thì lễ 'Lồng Tồng', hay
còn gọi là lễ hội xuống đồng - là tín ngưỡng đặc trưng quan trọng và lâu đời của nhiều cư dân
nông nghiệp trồng cấy lúa nước như người Tày và Nùng. Do ảnh hưởng của quá trình di chư,
điều kiện nơi cư trú, tiếp biến văn hóa người Thu Lao và La Chí ở xã Nàn Sán và Bản Mế hiện
nay cũng đang thực hành tín ngưỡng này. Lễ hội 'Lồng Tồng' được tổ chức để cầu cúng thần
nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản cho mưa thuận gió hòa, cây cối
tốt tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người ấm no, bản làng yên lành cũng như xin
phép các vị thần được bắt đầu một mùa gieo trồng mới. Lễ này thường được tổ chức vào rồng
trong tháng giêng (âm lịch) hàng năm. Thời gian cụ thể trong tháng tùy thuộc vào qui định của
từng bản.
8. Giao thoa về ngôn ngữ tín ngưỡng
Hiện tại, các dân tộc Mông, Nùng và Thu Lao tại Nàn Sán và Bản Mế vẫn đang sử dụng ngôn
ngữ của dân tộc mình. Tuy vậy, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của người Thu Lao bị ảnh hưởng
nhiều từ người Nùng. Đặc biệt thì người La Chí tại hai bản Hóa Chư Phùng và Lũng Choáng thì
hầu như không thể nói được tiếng của dân tộc mình. Hiện tại người La Chí ở hai bản này giao
tiếp với nhau bằng tiếng Nùng. Đây có thể là kết quả của quá trình tương tác giữa các nhóm dân
tộc yếu thế hơn trong một cộng đồng mà ở đó họ bị ảnh hưởng bởi nhóm dân tộc có nền văn hóa
mạnh và chiếm đa số. Như một già làng bản Lũng Choáng, xã Nàn Sán cho biết, 'vì sống cùng
20 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
với người Nùng, là nhóm nhỏ nên phải nói theo người Nùng...hầu hết bây giờ chúng tôi đều theo
người Nùng...ngoại trừ các phong tục cúng tổ tiên và làm đám ma là còn giữ...'.
Một điểm tương đối thú vị đó là các nhóm dân tộc này đều sử dụng chung một ngôn ngữ 'Quan
Hỏa' khi hành lễ tín ngưỡng, thờ cúng. Ví dụ, tất cả các nhóm đều sử dụng từ 'Thu Tỷ' hoặc có
nơi gọi là 'Thổ Tì' hoặc 'Thổ Ty' và đều có ý nghĩa là Thần đất. Hoặc người Mông, Nùng và Thu
Lao đều cùng chung ý diễn đạt khi nói về thần rông, mặc dù có phần hơi khác về phát âm. Người
Mông nói rồng là 'Lồng', còn người Nùng thì lại nói là 'Lùng'. Việc có điểm chung về ngôn giữ
tín ngưỡng này có thể được giải thích bởi hai giả định. Thứ nhất, về nguồn gốc các nhóm dân tộc
này đều bắt nguồn từ Trung quốc; do đó trước đây họ có nói chung tiếng Quan Hỏa. Thứ hai,
người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí, việc thầy cúng đến từ dân tộc nào không quan trọng.
Thầy cúng của dân tộc Mông có thể đến cúng 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu' cho người Nùng và Thu
Lao. Ngược lại, thầy cúng người Thu Lao và Nùng có thể đến làm lễ cúng 'Nào Lồng' cho người
Mông. Tuy nhiên, một trong những điểm bắt buộc là người thầy cúng phải hành lễ bằng tiếng
Quan Hỏa, nếu không thì họ sẽ không thể trao đổi được các vị thần của dân tộc khác. Điều này
có nghĩa là thầy cúng có một vai trò hết sức quan trọng trong không gian tương tác, giao thoa
không chỉ về ngôn ngữ tín ngưỡng mà còn những giá trị khác về mặt văn hóa và tín ngưỡng của
các nhóm dân tộc tại xã Nàn Sán và Bản Mế nói riêng, huyện Si Ma Cai nói chung.
9. Giao thoa về không gian tín ngưỡng
9.1. Không gian rừng thiêng
Hình 5: Khu rừng thiêng chung của người Nùng và La Chí thôn Hoa Chư Phùng, xã Nàn Sán
Giao thoa về không gian văn hóa cúng rừng được hiểu là trong cùng một vùng (rừng thiêng/rừng
cấm) có ít nhất hai nhóm dân tộc khác nhau, cùng hoặc không cùng sinh sống trong một bản,
cùng nhau tổ chức chung lễ cúng rừng. Hoặc cũng có trường hợp, cùng một nhóm dân tộc hoặc
khác nhóm dân tộc sinh sống ở các làng bản khác nhau liền kề hoặc không liền kề về mặt địa lý,
cùng nhau tổ chức lễ cúng rừng. Tại Nàn Sán và Bản Mế sự giao thoa này diễn ra tương đối đa
21 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
dạng. Trong đó có tới 15/20 bản đang diễn ra sự giao thoa này. Còn lại 5 bản khác thì hàng năm
các gia đình cùng chung một dân tộc tổ chức riêng lễ cúng rừng theo phong tục của dân tộc
mình.
Các loại giao thoa này được diễn ra theo một số trường hợp như sau:
i) Các nhóm dân tộc khác nhau sinh sống trên cùng một bản cúng chung một khu rừng thiêng.
Bảng 3: Rừng thiêng của các dân tộc trong cùng một bản
Bản Khu rừng thiêng
Khoán Púng (xã
Bản Mế)
1khu rừng thiêng được cúng chung bởi nhóm gia đình
người Nùng và Thu Lao
Cốc Dếế (xã Bản
Mế)
1khu rừng thiêng cúng bởi các gia đình người Mông và
Nùng
Thôn Đội 4 (xã Nàn
Sán)
1 khu rừng thiêng được tổ chức cúng chung bởi các gia
đình người Nùng, Thu Lao và Mông
Lũng Choáng (xã
Nàn Sán)
1 khu rừng thiêng được cúng bởi các hộ gia đình người
Nùng và La Chí
Hóa Chư Phùng (xã
Nàn Sán)
1 khu rừng thiêng được cúng bởi các hộ gia đình người
Nùng và La Chí
Tại xã Bản Mế và Nàn Sán có 5/20 bản có từ 2 đến 3 nhóm các hộ gia đình thuộc các dân tộc
Nùng, Mông, Thu Lao, La Chí hàng năm cùng nhau tổ chức cúng 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu'
trong cùng một khu rừng thiêng (bảng 3).
ii) Cùng một nhóm dân tộc sinh sống tại các bản khác nhau cúng chung một khu rừng thiêng.
Trường hợp này chủ yếu được diễn ra bởi các nhóm hộ gia đình người Mông tại 6 bản của xã
Nàn Sán, gồm: Sảng Chải 1, 2, 3, 4, 5 và Quan Thần Súng. Các bản này có ranh giới địa lý liền
kề. Về nguồn gốc thì bản Sáng Chải 2, 3, 4, 5 được mở rộng từ bản Sáng Chải 1. Khu rừng cấm
được nằm trong địa giới của bản Sáng Chải 4. Hàng năm vào ngày rồng tháng 2 hoặc tháng 6
(âm lịch) người dân tại các bản này tổ chức lễ cúng 'Nào Lồng' theo truyền thống của dân tộc
mình.
iii) Các nhóm dân tộc khác nhau sinh sống tại các làng bản khác nhau cúng cùng một khu rừng
thiêng. Trường hợp này chủ yếu diễn ra bởi các nhóm hộ gia đình người Nùng và Thu Lao tại 4
bản của xã Nàn Sán, gồm: thôn Đội 1, thôn Đội 2, thôn Đội 3 và Nàn Vái. Các bản này cũng có
ranh giới địa lý liền kề nhau. Thôn Đội 1, thôn Đội 2, thôn Đội 3 là những bản mới thành lập do
chương trình dãn dân của địa phương. Về nguồn gốc thì các bản này nằm trong vùng quản lý
của bản Nàn Vái. Theo người dân kể lại thì Nàn Vái là thôn có nguồn gốc lâu đời được hình
thành bở nhóm cư dân là người Tày. Khu rừng cấm hiện nay của 4 thôn trên đã từng là nơi cúng
thần rừng của người Tày vào ngày rồng tháng 6 âm lịch hàng năm. Theo đó, hàng năm, người
dân trong các bản này tổ chức cúng 'Đổng Chứ' tại khu rừng thiêng này (nay thuộc thôn Đội 1)
cũng vào thời gian trên.
iv) Các dân tộc khác nhau sống chung một bản tổ chức cúng rừng riêng. Trường hợp này xảy ra
đối với bản Na Pá, nơi có nhóm các hộ gia đình người Nùng và Mông. Hàng năm, hai nhóm dân
tộc này tổ chức cúng rừng riêng tại 2 khu rừng thiêng trong một chỏm đồi. Trước đây hai nhóm
22 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
người Nùng và Mông tổ chức cúng chung. Hiện nay thì hai nhóm đã tổ chức cúng riêng vào hai
thời điểm khác nhau. Người Nùng thì tổ chức cúng 'Đổng Chứ' vào ngày 28/2 (âm lịch) và 'Đổng
Hầu' vào ngày 2/2 (âm lịch). Nhóm hộ người Mông lại tổ chức cúng 'Nào Lồng' vào ngày rồng
tháng 6 (âm lịch).
Trong các trường hợp giao thoa trên chủ yếu xảy ra đối với các nhóm người Nùng, Thu Lao và
La Chí. Cá biệt ở một số bản như thôn Đội 4 xã Nàn Sán và Cốc Rế xã Bản Mế thì người Mông
và người Nùng cùng tổ chức cúng chung tại một khu rừng thiêng. Ở những bản này số hộ gia
đình của người Mông chỉ có một vài hộ, chiếm tỷ lệ nhỏ so với những dân tộc còn lại như người
Nùng và Thu Lao. Hơn nữa, những gia đình này thường đến sống sau cùng, khi đất rừng không
còn nhiều để họ lập riêng cho mình một khu rừng để cúng. Điều này có thể lý giải cho việc tại
sao họ phải tham gia cúng chung với dân tộc khác trong một khu rừng thiêng để duy trì tín
ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên của dân tộc mình. Còn ở những bản khác như Sín Chải, Na Pá,
Bản Mễ (xã Bản Mế) và Sảng Chải 1, 2, 3, 4, 5 và Quan Thần Súng (xã Nàn Sán) với dân số
chiếm đa số thì người Mông đã thiết lập riêng cho mình những khu rừng 'Nào Lồng' để tổ chức
cúng riêng. Nhìn chung qua quan sát thấy rằng người Mông có xu hướng thiết lập riêng cho mình
những không gian cúng rừng riêng.
9.2. Không gian 'Thu Tỷ'
Giao thoa về không gian văn hóa 'Thu Tỷ' hay được gọi là thần đất. Cúng "Thu Tỷ" được hiểu
trong cùng một vùng canh tác trồng trọt có các hộ gia đình đến từ ít nhất hai nhóm dân tộc khác
nhau, cùng hoặc không sống trong một cộng đồng, hàng năm cùng nhau tổ chức cúng chung một
khu rừng.
Hình 6: Các gia đình đang chuẩn bị lễ vật cúng 'Thu Tỷ'
Nếu những không gian cúng rừng thiêng được dành cho các cả cộng đồng hoặc những gia đình
cùng chia sẻ một vùng đất rừng nhất định nào đó thì những không gian cúng 'Thu Tỷ' là nơi mà ở
đó một nhóm các hộ gia đình có những mảnh đất canh các (nương rẫy, ruộng bậc thang) liền kề.
23 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Các gia đình này không nhất thiết cùng dòng tộc, dân tộc, mà có thể đến từ các nhóm dân tộc
khác nhau. Họ cũng không nhất thiết phải đến từ một bản mà có thể đến từ các bản khác. Việc
đan xen các thửa ruộng, nương của các gia đình có thành phần dân tộc khác nhau này là kết quả
của của một thời gian dài, qua nhiều thế hệ của tập quán canh tác nương rẫy, du canh trước đây
để lại. Cho dù là vậy, nhưng một điểm chung đó là các gia đình này đều tin rằng, những vùng đất
này là của thần đất ban tặng. Họ đã 'canh tác nhờ' trên đất của thần 'Thu Tỷ' nên họ phải làm lễ tạ
ơn và cầu mong cho một vụ tốt tươi, con người và động vật khỏe mạnh và bình an.
Trung bình mỗi bản ở xã Nàn Sán và Bản Mế có từ 3-5 vùng, nơi đó người dân lập miếu thờ
cúng 'Thu Tỷ'. Số miếu thờ 'Thu Tỷ' tương ứng với số cụm hộ gia đình có đất canh tác, trồng trọt
chăn nuôi liền kề, cùng chia sẻ sự bảo vệ và che chở của một vị thần đất trong vùng sản xuất
chung đó. Miếu thờ 'Thu Tỷ' không nhất thiết là ở trung tâm các mảnh ruộng, nương của các hộ
gia đình. Miếu thờ này thiết lập ở những nơi mà ở đó người ta quan niệm có thần đất trú ngụ. Đó
là những nơi có hòn đá to, đẹp, vững trãi, ít bị tác động bởi con người và động vật.
Qua quan sát thấy rằng sự giao thoa, tương tác về không gian văn hóa - nơi các gia đình, dòng
họ, dân tộc cùng chia sẻ các giá trị tín ngưỡng về đất thông qua lễ cúng 'Thu Tỷ' tương đối đa
dạng. Sự đa dạng này không những thể hiện ở thành phần dân tộc và số nhóm hộ gia đình tham
gia lễ cúng mà còn ở phạm vi, qui mô của vùng đất - nơi mà người dân tin có vị thần 'Thu Tỷ' cai
quản. Đồng thời sự giao thoa này không chỉ giới hạn trong thời gian diễn ra lễ cúng 'Thu Tỷ' mà
còn được duy trì và thực hành hàng ngày thông qua các tương tác trong sinh hoạt, chăn nuôi,
trồng trọt của các gia đình trong và ngoài cộng đồng.
9.3. Không gian 'Lồng Tồng'
Hình 7: Lễ cúng 'Lồng Tồng' của người Nùng, Thu Lao tại xã bản Mế
Qua tìm hiểu thấy rằng nếu những không gian cúng thần rừng và 'Thu Tỷ' mang đậm nét văn hóa
của những dân tộc có truyền thống canh tác nương rẫy như người Mông thì lễ 'Lồng Tồng' là tín
ngưỡng đặc trưng lâu đời của nhiều cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước như người Tày và
Nùng. Với những giao lưu tương tác gần gũi trong sinh hoạt hàng ngày và sản xuất, cũng như
chia sẻ và đan xen về diện tích đất trồng trọt thì văn hóa 'Lồng Tồng' cũng đang được người Thu
Lao và La Chí ở một số bản ở xã Nàn Sán và Bản Mế Bên thực hành.
24 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Lễ hội 'Lồng Tồng' thường gọi là Hội xuống đồng với nhiều nghi lễ tín ngưỡng và thành phần
tham gia đa dạng. Hội xuống đồng là hoạt động tín ngưỡng quan trọng để cầu cúng thần nông -
vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản; cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối
tốt tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người ấm no, bản làng yên lành. Đồng thời, qua
lễ hội này người dân xin phép các vị thần linh được bắt đầu một mùa trồng trọt mới. Do đó, các
gia đình sẽ phải chuẩn bị những sản vật (thóc, hoa, quả, măng,...) của địa phương cũng như một
số vật dụng dùng trong quá trình trồng trọt để dâng tế các vị thần nông.
Lễ cúng 'Lồng Tồng' thường được tổ chức tại thửa ruộng mà năm trước đó đã cho vụ mùa tốt
tươi. Theo quan niệm của người dân, nếu làm như vậy thì vụ mùa mới sẽ có nhiều thuận lợi, cây
trồng phát triển không bị sâu bọ phá hoại và cho năng suất. Đồng thời đây cũng là dịp để người
dân thể hiện sự biết ơn đối với các vị thần đã bảo vệ mùa màng của năm cũ. Tại Lễ cúng thường
có sự tham gia của hầu hết các thành phần trong các gia đình và cộng đồng. Một số cư dân ở
vùng khác cũng được tham gia nếu họ có đất ruộng và canh tác ở trong địa phận của bản chủ trì
tổ chức Lễ hội.
10. Giao thoa về thiết chế quản trị đất - rừng
Như đã phân tích ở các phần trên, bên cạnh ý nghĩa tâm linh, cầu, thờ các vị thần đất và thần
nông, lễ 'Thu Tỷ' chủ yếu để duy trì và tăng cường cấu kết và sự chia sẻ giúp đỡ nhau giữa các
gia đình có cùng nguồn gốc dòng tộc và các dân tộc khác nhau trong quá trình trồng trọt, canh
tác - những gia đình có cùng chia sẻ đất đai trong một vùng địa lý nhất định. Bên cạnh đó thì lễ
hội 'Lồng Tồng' thể hiện tính đặc sắc về những biểu hiện văn hóa riêng của người Nùng, những
cư dân trồng lúa nước. Trong khi đó thì lễ cúng rừng thiêng của các nhóm dân tộc Mông, Nùng,
Thu Lao và La Chí được thực hành ở cấp cộng đồng và liên cộng đồng, nơi có các thành viên từ
nhiều dân tộc khác nhau cùng tham gia. Lễ cúng rừng thiêng được xem như là 'quốc hội' của một
nhóm gia đình và cộng đồng có cùng chung các giá trị chuẩn mực và tín ngưỡng đối với đất và
rừng. Không gian văn hóa tâm linh này có vai trò lớn trong việc hình thành cấu trúc và thiết chế
của cộng đồng và liên cộng đồng trong quá trình đồng quản trị các dạng tài nguyên, cũng như
điều chỉnh các mối quan hệ giữa các gia đình, dân tộc.
Sau các nghi lễ tâm linh Cúng 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu', 'Nào Lồng' và 'Táng Đẩng Mây'- do các
thầy cúng, già làng thực hiện, là phần Hội - nơi có mặt của tất cả các đại diện các gia đình trong
và ngoài cộng đồng có liên quan. Trong phần hội này, bên cạnh việc ăn uống vui vẻ, người dân
thảo luận các ác qui ước, cam kết, qui định, chuẩn mực và thiết chế không chỉ liên quan tới quản
trị đất rừng mà còn duy trì tính cấu kết và bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc. Đây là một
hoạt động biểu hiện sự sinh động của tinh thần dân chủ hết sức đặc trưng trong đời sống của các
cộng đồng ở xã Bản Mế và Nàn Sán nói riêng, toàn huyện Si Ma Cai nói chung. Các qui định
này được hình thành nhằm điều chỉnh mọi mối quan hệ giữa các gia đình, dân tộc và trong quá
trình tương tác với nguồn tài nguyên đất và rừng. Tại những thời điểm này, tất cả mọi người đều
được tự do tham gia bàn bạc một cách dân chủ để cùng xây dựng nên những quy ước về các
hành vi ứng xử, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, để rồi sau đó sẽ tự
nguyện chấp hành một cách triệt để, cả bằng niềm tin thành kính lẫn tinh thần tự giác tuyệt
25 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
đối...Do đó, trong phần này báo cáo sẽ tập trung miêu tả một số qui định trong quản trị đất-rừng
của các dân tộc có sự giao thoa về tín ngưỡng đất rừng thông qua lễ cúng rừng thiêng.
10.1. Tổ chức thiết chế quản trị đất-rừng
Có thể nói tổ chức lễ cúng thần rừng là một sinh hoạt xã hội dân gian của các nhóm dân tộc
Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế; thông qua đó thiết chế quản lý, vận
hành và giám sát trước, trong và sau hoạt động tín ngưỡng này được hình thành. Thiết chế này có
đặc điểm là tự hình thành, tự suy tôn theo những giá trị và qui định nhất định trên cơ sở đặc thù
về văn hóa, kinh tế và điều kiện tự nhiên của từng vùng. Nguyên tắc này có tính chất tổng thể,
bao hàm cả việc quản lý việc đời thường, quản lý việc tâm linh và quản lý tài nguyên thiên nhiên
(tác động của con người với đất, rừng, nước...). Để đảm đương được nhiệm vụ trên, cũng như
đảm bảo chỗ dựa đời thường, sản xuất và đời sống tâm linh của dân bản, một bộ máy thiết chế
luôn luôn song hành vai trò của ba đối tượng đó là trưởng bản, thầy cúng và người trông coi
quản lý đất - rừng được hình thành.
Trưởng bản là người có vài trò chăm lo đời sống vật chất của các thành viên trong cộng đồng.
Đồng thời trưởng bản cũng có vai trò quản lý việc đời thường - điều hòa và điều chỉnh các mối
quan hệ giữa các gia đình, dòng tộc và dân tộc trong cộng đồng. Đôi khi trưởng bản cũng là
người có vai trò 'đối ngoại', duy trì và mở rộng mối quan hệ với các cộng đồng khác trong vùng.
Trước đây, trưởng bản thường là những người có uy tín, kinh nghiệm, hiểu biết về các phong tục
tập quán của dân tộc mình. Đối với người Mông và người Nùng thì trưởng bản thường là trưởng
họ của dòng họ đầu tiên đặt chân đến khai phá và lập bản. Trưởng bản còn đóng vai trò điều phối
cuộc họp đại diện các gia đình tham gia cúng rừng để thảo luận và điều chỉnh các qui ước chung
liên quan tới cấm rừng, bảo vệ rừng, việc chăn thả trâu bò...Hiện nay, một số qui định luật pháp
còn được lồng ghép vào những qui ước thôn bản này. Nếu lễ cúng rừng mà có nhiều bản cùng
tham gia thì cấu trúc thiết chế cúng rừng thiêng sẽ có mặt trưởng bản của các bản đó để cùng
điều hành các nghi lễ hội và tín ngưỡng.
Thầy cúng - tiếng Nùng là 'Hai Dê', tiếng Thu Lao là 'Bu Mủ', tiếng Mông là -'Chí Nênh' - là
người có vai trò quản lý đời sống tâm linh của người dân, đặc biệt là duy trì ứng xử của các
thành viên trong cộng đồng đối với các đấng thần linh. Thông thường thầy cúng là người được
truyền từ đời cha ông với sự mách bảo và chỉ dẫn của các thần linh để có thể nói chuyện, liên hệ
được với thế giới tâm linh thông qua các bài cúng. Theo qui định thì chỉ có Thầy cúng ở trong
bản-nơi diễn ra lễ cúng rừng thiêng thì mới được mời chủ trì nghi lễ tâm linh. Tuy nhiên, nếu lễ
cúng rừng thiêng được tổ chức chung bởi các bản thì thầy cúng sẽ được lựa chọn trong số các
thầy cũng của các bản đó. Để hỗ trợ thầy cúng trong lễ cúng thần rừng còn có 2 người trợ giúp
chuẩn bị các lễ vật cũng như sắp đặt trình tự tín ngưỡng. Bên cạnh đó, hàng tháng vào ngày rằm,
mùng một thầy cúng lên rừng thiêng để thắp hương cúng thần rừng. Thầy cúng cũng tham gia
vào quá trình đưa ra hạn ngày thực hiện hình phạt và định ngày cúng lại thầy rừng đối với ai vi
phạm các qui định chung đối với rừng thiêng.
26 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Người trông coi đất-rừng, theo người Mông gọi là 'Long Thoz', người Nùng gọi là 'Hooc Can'
hoặc 'Hooc Thầu', người Thu Lao gọi là 'Hạc Thừ'. Mỗi năm, sau khi kết thúc cúng rừng, trước
khi tổ chức liên hoan chung ngay tại rừng thiêng, đại diện các gia đình cùng nhau bầu 2 người
trông coi đất-rừng của năm mới. Hai người này được bầu luân phiên giữa các gia đình và thành
phần dân tộc tham gia lễ cúng. Sau khi được lựa chọn, trách nhiệm của hai người trông coi đất
rừng năm trước sẽ được bàn giao cho hai người được chọn của năm mới bằng tục ăn thề. Hai
người năm trước sẽ giao hai đùi gà từ con gà cúng thần rừng cho hai người của năm mới. Hai đùi
gà tượng trưng cho trọng trách cũng như niềm tin gửi gắm cho người được chọn trong việc thực
hiện một cách trách nhiệm, công minh và minh bạch qui chế của cộng đồng đối với đất và rừng.
Trách nhiệm của người coi đất-rừng khác nhau tùy theo qui định và đặc thù của từng cộng đồng.
Nhìn chung, trách nhiệm của hai người này là đôn đốc người dân đóng góp tiền để mua lễ vật
cúng rừng. Họ có trách nhiệm mua sắm các lễ vật theo đúng qui định cúng rừng. Họ có trách
nhiệm nhắc nhở, đôn đốc các thành viên trong cộng đồng thực hiện quy chế bảo vệ rừng, cũng
như thường xuyên tổ chức tuần tra bảo vệ rừng. Nếu phát hiện vi phạm thì báo ngay cho thầy
cúng và trưởng bản để tiến hành họp toàn bản để thống nhất cách xử lý vi phạm và định ngày
cúng lại thần rừng. Tiếp đó, hai người này sẽ đốc thúc việc thực hiện nộp phạt của những người
vi phạm qui định của cộng đồng trong bảo vệ rừng. Nếu người vi phạm không chấp hành thì hai
vị này phải nộp phạt thay. Do việc bầu người trông coi đất-rừng được xoay vòng hàng năm giữa
các gia đình cùng tham gia lễ cúng rừng nên các qui định về đất rừng của cộng đồng thường
được người dân ủng hộ, tuân thủ một cách tự giác, tự nguyện và trách nhiệm. Ở một số bản như
Lũng Choáng và Hóa Chư Phùng (xã Nàn Sán), ngoài những trách nhiệm trên thì người trông coi
đất-rừng còn trợ giúp thầy cúng tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng trong lễ cúng rừng.
Bên cạnh vai trò của các trưởng bản, già làng và trưởng họ có uy tín, hai người trông coi đất-
rừng cũng tham gia hỗ trợ giải quyết các vướng mắc về đất đai cũng như xử lý các vụ vi phạm
khác theo quy định đã được thống nhất trong lễ cúng rừng như gia súc phá hoại hoa màu, tranh
chấp về nguồn nước tưới tiêu (bảng 4). Việc xử lý các vi phạm qui chế của cộng đồng được dựa
trên các giá trị tương trợ và khoan dung, duy trì cấu kết xã hội, cũng như củng cố các qui định,
cam kết trong đời sống cộng đồng. Nhưng những biện pháp này thường rất nghiêm minh. Thông
thường, các nghi lễ tín ngưỡng vừa thể hiện tính giáo dục, hối lỗi, răn đe để cầu xin các vị thần
bỏ qua và mong cho cuộc sống của cả cộng đồng bình yên được áp dụng đối với những trường
hợp vi phạm các điều cấm kị đối với những khu rừng thiêng.
Bảng 4: Giải quyết các vi phạm qui định của cộng đồng đối với đất-rừng
Các vi phạm Hình thức xử lý Chịu trách nhiệm xử lý
Trong thời gian cấm rừng, như:
- Đội nón trong và sau thời gian
diễn ra cúng rừng
- Phụ nữ đang mang thai tham gia
lễ cúng rừng
- Làm nương, cày cấy, gắt lá tươi,
lấy củi, chặt cây...trong thời gian
Mua sắm các lễ vật và mời thầy
cúng và cả cộng đồng để làm lễ
cúng rừng
"Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay
'Long Thoz' và thầy cúng
27 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t
r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4
Các vi phạm Hình thức xử lý Chịu trách nhiệm xử lý
cấm rừng
Chặt cây, lấy củi hoặc làm ô uế
khu rừng thiêng
Mua lễ vật và mời thầy cúng để
đến tạ lỗi với thần rừng; mời cả
bản đến cùng đến ăn và chứng
kiến
"Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay
'Long Thoz' và thầy cúng
Chặt cây, lấy củi, phát nương làm
rẫy trong khu rừng sử dụng chung
của cộng đồng
Tùy vào kích cỡ của cây bị chặt
mà sẽ bị phạt theo từng mức
tiền. Ví dụ, cây có đường kính
trên 20cm thì bị phạt từ 500 đến
1 triệu đồng
"Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay
'Long Thoz' và trưởng bản
Tranh chấp ranh giới đất rừng
giữa các gia đình
Thương thảo, hòa giải giữa các
gia đình
"Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay
'Long Thoz', trưởng bản và
người có uy tín (già làng,
trưởng họ)
Trâu bò phá hoại hoa màu Tùy theo mức độ bị hại các gia
đình sẽ tự thương thảo mức đền
bù
"Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay
'Long Thoz', trưởng bản công
an viên
Trộm cắp tài sản Bị phạt nặng tùy theo từng mức
độ
Trưởng bản, công ăn viên
Nhiều nghiên cứu trước đây cho rằng luật tục chỉ có thể có hiệu lực đối với các thành viên trong
cộng đồng hoặc nhóm dân tộc nhất định, rất khó áp dụng được với người bên ngoài do sự khác
nhau về quan niệm giá trị và các đặc điểm đặc thù khác. Tuy nhiên, một điểm thú vi ghi nhận
được tại nghiên cứu này đó là chính sự giao thoa về giá trị và hệ thống quản trị giữa các cộng
đồng và dân tộc đã làm cho tính hiệu lực của các qui định bởi các nhóm người này có phạm vi
ảnh hưởng lớn hơn, rộng hơn. Những qui định này không những chỉ có hiệu lực đối với thành
viên của một cộng đồng hay một dân tộc mà còn được người dân ở các làng bản liền kề trong
một vùng địa lý nhất định tôn trọng.
Bảng 5: Cách thức và phạm vi ảnh hưởng của sự giao thoa luật tục
Cách thức Đối tượng áp dụng Phạm vi ảnh hưởng
Tín ngưỡng cúng rừng thiêng /
rừng cấm
Toàn bộ đại diện gia đình trong
và giữa các cộng đồng dân tộc
cùng chung lễ cúng rừng
Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng
và liên cộng đồng
Thảo luận, 'ăn thề' để điều chỉnh
luật tục hàng năm
Toàn bộ đại diện gia đình trong
và giữa các cộng đồng dân tộc
cùng chung lễ cúng rừng
Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng
và liên cộng đồng
Bầu người trông coi đất-rừng
quay vòng
Đại diện các gia đình trong và
giữa các cộng đồng dân tộc cùng
chung lễ cúng rừng
Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng
và liên cộng đồng
Chia sẻ trong quá trình sản xuất Đại diện các gia đình trong và
ngoài cộng đồng cùng chung lễ
'Thu Tỷ'
Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng
và liên cộng đồng
Xử phạt các trường hợp vi phạm
bằng hình thức giáo dục và tổ
chức cúng rừng
Toàn bộ các gia đình trong và
ngoài cộng đồng
Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng
và liên cộng đồng
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam
Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam

Weitere ähnliche Inhalte

Ähnlich wie Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam

Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015
Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015
Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015cirumvn
 
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...DV Viết Luận văn luanvanmaster.com ZALO 0973287149
 
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm Luanvantot.com 0934.573.149
 
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linhDung Pham Van
 
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptx
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptxMỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptx
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptxPhương Uyên Chung
 
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồngđồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồngtungtung95
 
Hương ước sơn tùng
Hương ước sơn tùngHương ước sơn tùng
Hương ước sơn tùnglangsontung
 
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu số
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu sốCông tác xã hội với các dân tộc thiểu số
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu sốTrường Bảo
 
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...Man_Ebook
 
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...PinkHandmade
 

Ähnlich wie Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam (20)

Luận văn: Đánh giá chính sách giao đất giao rừng huyện Hòa Vang
Luận văn: Đánh giá chính sách giao đất giao rừng huyện Hòa VangLuận văn: Đánh giá chính sách giao đất giao rừng huyện Hòa Vang
Luận văn: Đánh giá chính sách giao đất giao rừng huyện Hòa Vang
 
Luận Văn Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Của Ubnd Cao Phạ.docx
Luận Văn Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Của Ubnd Cao Phạ.docxLuận Văn Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Của Ubnd Cao Phạ.docx
Luận Văn Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Của Ubnd Cao Phạ.docx
 
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOTLuận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
 
Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015
Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015
Kết quả tổng kết Tọa đàm Lào Cai tháng 10/2015
 
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...
Đánh Giá Hiện Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Rừng Tự Nhiên Hiệu Quả Ở Huy...
 
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm
Khoá luận kiểm tra bảo vệ và phát triển rừng,9 điểm
 
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh
2016.10. pvdung trinh bay nc rung cd son linh
 
Tập quán tiêu dùng thường nhật trong gia đình người katu ở tỉnh thừa thiên hu...
Tập quán tiêu dùng thường nhật trong gia đình người katu ở tỉnh thừa thiên hu...Tập quán tiêu dùng thường nhật trong gia đình người katu ở tỉnh thừa thiên hu...
Tập quán tiêu dùng thường nhật trong gia đình người katu ở tỉnh thừa thiên hu...
 
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptx
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptxMỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptx
MỤC MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP.pptx
 
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đLuận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
 
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...
đáNh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển ...
 
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ rừng, HAY
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ rừng, HAYQuyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ rừng, HAY
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ rừng, HAY
 
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồngđồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng
đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng
 
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAYLuận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
 
Hương ước sơn tùng
Hương ước sơn tùngHương ước sơn tùng
Hương ước sơn tùng
 
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu số
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu sốCông tác xã hội với các dân tộc thiểu số
Công tác xã hội với các dân tộc thiểu số
 
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rừng tự nhiên hiệu quả ở huy...
 
Luận văn: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật, 9đLuận văn: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào ở Kon Tum
Luận văn: Phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào ở Kon TumLuận văn: Phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào ở Kon Tum
Luận văn: Phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào ở Kon Tum
 
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...
Nghiên Cứu Cơ Sở Khoa Học Và Thực Tiễn Cho Quản Lý Rừng Cộng Đồng Tại Xã Tú N...
 

Mehr von SPERI

Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...
Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...
Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...SPERI
 
Livelihood Sovereignty Alliance Structure
Livelihood Sovereignty Alliance StructureLivelihood Sovereignty Alliance Structure
Livelihood Sovereignty Alliance StructureSPERI
 
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong River
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong RiverDams and Disease Triggers on the Lower Mekong River
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong RiverSPERI
 
4 forestland allocation quephong 3 5 2013
4 forestland allocation quephong 3 5 20134 forestland allocation quephong 3 5 2013
4 forestland allocation quephong 3 5 2013SPERI
 
Cultural Identity, Network Action, and Customary Law
Cultural Identity, Network Action, and Customary LawCultural Identity, Network Action, and Customary Law
Cultural Identity, Network Action, and Customary LawSPERI
 
Learning from Nature
Learning from NatureLearning from Nature
Learning from NatureSPERI
 
Mekong youth alliance
Mekong youth allianceMekong youth alliance
Mekong youth allianceSPERI
 
Research paper: Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...
Research paper:  	Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...Research paper:  	Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...
Research paper: Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...SPERI
 
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...SPERI
 
Research paper: Community Based Natural Resources Management in Vietnam
Research paper: Community Based Natural Resources Management in VietnamResearch paper: Community Based Natural Resources Management in Vietnam
Research paper: Community Based Natural Resources Management in VietnamSPERI
 
SPERI's Organization Structure
SPERI's Organization StructureSPERI's Organization Structure
SPERI's Organization StructureSPERI
 
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in Vietnam
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in VietnamCase study_Existence: Culture, ecology and community development in Vietnam
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in VietnamSPERI
 
SPERI's definition of terms
SPERI's definition of termsSPERI's definition of terms
SPERI's definition of termsSPERI
 
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...SPERI
 
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...SPERI
 

Mehr von SPERI (15)

Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...
Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...
Assessing the bio-diverse and carbon forest plantings as one of the land-base...
 
Livelihood Sovereignty Alliance Structure
Livelihood Sovereignty Alliance StructureLivelihood Sovereignty Alliance Structure
Livelihood Sovereignty Alliance Structure
 
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong River
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong RiverDams and Disease Triggers on the Lower Mekong River
Dams and Disease Triggers on the Lower Mekong River
 
4 forestland allocation quephong 3 5 2013
4 forestland allocation quephong 3 5 20134 forestland allocation quephong 3 5 2013
4 forestland allocation quephong 3 5 2013
 
Cultural Identity, Network Action, and Customary Law
Cultural Identity, Network Action, and Customary LawCultural Identity, Network Action, and Customary Law
Cultural Identity, Network Action, and Customary Law
 
Learning from Nature
Learning from NatureLearning from Nature
Learning from Nature
 
Mekong youth alliance
Mekong youth allianceMekong youth alliance
Mekong youth alliance
 
Research paper: Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...
Research paper:  	Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...Research paper:  	Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...
Research paper: Reducing REDD: Implementation issues for lower Mekong subre...
 
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...
Bất cập trong giao đất giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miê...
 
Research paper: Community Based Natural Resources Management in Vietnam
Research paper: Community Based Natural Resources Management in VietnamResearch paper: Community Based Natural Resources Management in Vietnam
Research paper: Community Based Natural Resources Management in Vietnam
 
SPERI's Organization Structure
SPERI's Organization StructureSPERI's Organization Structure
SPERI's Organization Structure
 
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in Vietnam
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in VietnamCase study_Existence: Culture, ecology and community development in Vietnam
Case study_Existence: Culture, ecology and community development in Vietnam
 
SPERI's definition of terms
SPERI's definition of termsSPERI's definition of terms
SPERI's definition of terms
 
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...
Case study: Customary law and Gender in Resettlement program for Ma Lieng eth...
 
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...
Case study: Community-based natural resource management: Case of Thai ethnic ...
 

Giao thoa luật tục trong quản lý đất rừng tại Lào Cai, Việt Nam

  • 1. 1 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Giao thoa Luật tục của các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai trong quản trị đất-rừng Tổng hợp: Đàm Trọng Tuấn "Giá trị, chuẩn mực nào của các cộng đồng dân tộc thiểu số liên quan tới đất-rừng? Ai, yếu tố nào nào quyết định hệ thống quản trị đất-rừng của các cộng đồng? Ai và loại hình sở hữu đất rừng nào đã và đang tồn tại? Những giao thoa nào về chuẩn mực giá trị, luật tục của các cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống trong một vùng địa lý ảnh hưởng tới quá trình quản trị đất- rừng? Những thách thức nào ảnh hưởng tới các giao thoa trong hệ thống quản trị đất-rừng tại các cộng đồng? Giải pháp nào để giúp các cộng đồng dân tộc duy trì hệ thống giá trị và luật tục của mình trong quản trị và phát triển hài hòa các dạng tài nguyên đất-rừng? Đây là những câu hỏi xuyên suốt quá trình tìm hiểu sự giao thoa luật tục giữa các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Hai giả định được đặt ra đối với nghiên cứu này, gồm: a) Niềm tin, chuẩn mực giá trị và luật tục của các dân tộc đang đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành và duy trì cách mà các cộng đồng đang quản trị nguồn tài nguyên đất và rừng, b) Sự giao thoa về niềm tin, chuẩn mực giá trị, hệ thống luật tục của các nhóm dân tộc thiểu số tại các bản nghiên cứu là kết quả của quá trình tương tác văn hóa, hỗ trợ nhau và thích nghi với những thay đổi trong và ngoài đời sống cộng đồng".
  • 2. 2 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 1. Giới thiệu Con người và thiên nhiên, núi rừng nằm trong mối quan hệ hữu cơ, cùng hỗ trợ và nuôi dưỡng lẫn nhau trong quá trình sinh tồn và phát triển. Quan niệm và thực tiễn này được duy trì và phát triển thông qua những qui định bất thành văn gọi là luật tục cùng với kho tàng tri thức địa phương của các cộng đồng dân tộc thiểu số được hình thành, thích nghi và kế thừa qua các thế hệ. Hệ thống luật tục này ra đời như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống và được thực hiện một cách tự nguyện và trách nhiệm bởi các thành viên trong các cộng đồng. Kể cả khi pháp luật có những thay đổi đáng kể theo những biến động trong đời sống chính trị của xã hội, thì luật tục vẫn tồn tại để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong mỗi cộng đồng. Hơn nữa, các thói quen xã hội do luật tục tạo nên có ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức pháp luật của mỗi thành viên trong cộng đồng. Luật tục không phải là sự bất biến của những giá trị, nguyên tắc, quy tắc, thói quen và tập tục. Đặt trong bối cảnh phát triển thì luật tục rất đa dạng trong cách hiểu và cũng rất sống động trong đời sống thường nhật. Luật tục là sự kết tinh của các hành vi ứng xử và lao động của con người trong quá trình vận động qua một hay nhiều thế hệ để thích ứng và thích nghi với sự thay đổi nội tại và ngoại tại. Luật tục được hình thành là để điều hòa, điều tiết các hành vi văn hóa ứng xử trong đời sống hàng ngày giữa con người với con người và giữa con người với thế giới tự nhiên. Vì vậy, có thể xem luật tục là cơ sở, nền tảng sống để giúp cho luật pháp nhìn nhận, soi chiếu và thay đổi để hoàn thiện hơn về mặt tư duy và thực hành trong quá trình vận động đa chiều không ngừng của dòng chảy đa chiều của xã hội. Tùy thuộc vào các điều kiện của từng vùng địa lý khác nhau cũng như đặc thù văn hóa của mỗi tộc người mà những quy định trong chuẩn mực ứng xử của các nhóm người đó cũng khác nhau. Song, nội dung chủ đạo của những hệ thống qui định này thường không khác nhau nhiều về các giá trị và chuẩn mực giá trị. Cũng chính điều này mà đã xuất hiện giao thoa và kế thừa các qui định, kiến thức lẫn nhau giữa nhiều nhóm dân tộc sống trên cùng một vùng địa lý nhất định. Có thể nói đây là kết quả của của quá trình tiếp biến văn hóa và thích nghi của các cộng đồng dân cư để có được những giải pháp nhằm điều chỉnh các mối quan hệ mới do sự giao thoa cũng như yếu tố ngoại cảnh tạo thành. Thực tế cho cho thấy, các cộng đồng dân tộc sống gắn với rừng bằng các tập tục, qui định của mình đang bị chi phối bởi những tác động nhiều chiều từ bên ngoài, trước hết là từ sự điều tiết của các chính sách của Nhà nước, đến sự xuất hiện của cơ chế thị trường, nhu cầu hội nhập và ngay cả từ việc cải thiện của hệ thống thông tin truyền thông. Những tác động này đã có những ảnh hưởng nhất định, và ở một mức độ nào đó tham gia vào quá trình tiếp biến và thay đổi không ít các tập quán truyền thống quý báu, các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số. Nghiên cứu "Giao thoa luật tục giữa dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai trong quản trị đất-rừng" được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội (SPERI) và thành viên thuộc
  • 3. 3 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Liên Minh Chủ quyền Sinh kế (LISO) gồm Viện Tư vấn Phát triển (CODE) và Trung tâm Tư vấn Quản lý Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á (CIRUM) và các đối tác địa phương như UBND huyện Si Ma Cai và Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai. Chương trình hợp tác này được triển khai thông qua Dự án giao đất giao rừng nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững cho người dân và cộng đồng người dân các thôn, bản tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai trong năm 20141 . Nghiên cứu này là sự kế thừa những phát hiện trong trong quá trình nghiên cứu trước đây của Viện SPERI, đặc biệt đối với cộng đồng người Mông - được thực hiện liên tục tại một số địa bàn thuộc huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai từ cuối năm 1999 đến nay. Mục tiêu của nghiên cứu: - Có được các thông tin liên quan tới hệ thống luật tục và những yếu tố giao thoa trong các hệ thống này của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán, huyện Si Ma Cai trong quản trị đất và rừng. - Có được các kiến nghị liên quan tới việc lồng ghép, phát huy các giá trị, tập quán truyền thống tốt đẹp và kiến thức địa phương của các nhóm dân tộc trên trong chương trình giao rừng, gắn với đất lâm nghiệp cho cộng đồng tại các thôn bản xã Nàn Sán và Bản Mế trên cơ sở Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-BNNPTNT&BTN-MT. Các thông tin trong báo cáo này là những câu chuyện kể, chia sẻ bởi các già làng, trưởng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc, trưởng bản, các cán bộ là người dân tộc thiểu số tại các điểm nghiên cứu. Các câu chuyện này được ghi chép ngay trên thực địa. Đặc biệt, các thông tin này được ghi chép, ghi âm, chụp ảnh và ghi hình (quay video) tại Lễ cúng rừng thiêng, nơi các giá trị, chuẩn mực và qui định của cộng đồng được thể hiện một cách sống động nhất. Cán bộ của Liên minh Chủ quyền Sinh kế (LISO) và học sinh thiểu số đang theo học tại các Trường đào tạo Nông nghiệp Sinh thái (FFS) của SPERI tại Hà Tĩnh và Lào Cai đóng vai trò thúc đẩy và ghi chép lại những câu chuyện kể trên. Bên cạnh đó, các thông tin trong báo cáo này cũng được kế thừa từ những nghiên cứu trước đây thực hiện bởi Viện SPERI, đặc biệt với các cộng đồng người Mông tại huyện Si Ma Cai tỉnh Lào Cai cũng như các nghiên cứu có liên quan trước đây của người dân và cán bộ địa phương. 1 Thỏa thuận hợp tác kí ngày 13/2/2014 giữa UBND Si Ma Cai, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai, Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội (SPERI) về thực hiện Chương trình phối hợp thực hiện dự án giao đất giao rừng nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững cho người dân và cộng đồng người dân các thôn, bản tại xã Nàn Sán và Bản Mế, huyện Si Ma Cai trong năm 2014. Thỏa thuận này được xây dựng trên cơ sở kết quả giao rừng gắn với đất lâm nghiệp cho 8 cộng đồng và gia đình người Mông tại xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai thực hiện từ năm 2011 đến 2013.
  • 4. 4 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 2. Điều kiện tự nhiên-xã hội-kinh tế của xã Nàn Sán và Bản Mế 2.1. Xã Nàn Sán2 Nàn Sán nằm ở phía Bắc huyện Si Ma Cai khoảng 4 km, có tổng diện tích tự nhiên là 2.249 ha. Diện tích đất quy hoạch cho Lâm nghiệp là 1.047 ha, trong đó Ban quản lý rừng phòng hộ Si Ma Cai quản lý 666,5 ha; UBND xã quản lý 1.401,1 ha; hộ gia đình quản lý 181,4 ha. Tỷ lệ che phủ rừng của xã Nàn Sán đạt 34,2%. Nàn Sán giáp với Trung Quốc và huyện Mường Khương (Lào Cai) về phía Bắc; phía Đông giáp với xã Si Ma Cai (huyện Si Ma Cai); phía Nam giáp với xã Mản Thẩn (huyện Si Ma Cai); phía Tây giáp với xã Bản Mế (huyện Si Ma Cai) và huyện Mường Khương. Nàn Sán là xã vùng cao đặc biệt khó khăn của huyện Si Ma Cai, có độ cao từ 700 - 1.500m, được tạo bởi nhiều dãy núi chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và thấp dần về phía Bắc, mức độ chia cắt mạnh xen kẽ những dãy núi cao là các thung lũng sâu và nhỏ, nhiều nơi tạo thành vách đứng. Mặt khác do có độ che phủ rừng thấp nên trong mùa mưa rất dễ xảy ra quá trình rửa trôi, bào mòn tầng đất mặt và sạt lở diễn ra khá phổ biến. Nàn Sán có 3 km của con Sông Chảy chạy qua. Phần chảy qua xã có lòng sông hẹp, sâu, nhiều thác ghềnh, ít có tác dụng trong giao thông vận tải, trong sản xuất và dân sinh do lượng phù sa thấp, tốc độ dòng chảy lớn. Do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ cao lớn nên xã có khá nhiều các con suối nhỏ chảy qua. Tất cả các con suối đều bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống thung lũng. Đây là nguồn nước chính để phục vụ dân sinh và canh tác sản xuất của nhân dân các dân tộc trong xã. Tuy nhiên về mùa mưa, hệ thống khe, suối thường gây trở ngại cho sản xuất và đi lại của người dân. Toàn xã có 667 hộ với 3.496 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mông có 1.549 nhân khẩu (44,3%), dân tộc Nùng có 1.124 nhân khẩu (32,1%), dân tộc Thu Lao có 550 nhân khẩu (15,7%), dân tộc La Chí có 165 nhân khẩu (4,7%), còn lại thuộc các nhóm dân tộc khác. Dân số của toàn xã được phân bố trên địa bàn 13 bản, gồm: Thôn Đội 1, Thôn Đội 2, Thôn Đội 3, Thôn Đội 4, Thôn Nàn Vái, Thôn Sản Chải 1, Thôn Sản Chải 2, Thôn Sản Chải 3, Thôn Sản Chải 4, Thôn Sản Chải 5, Thôn Quan Thần Súng, Thôn Lúng Choáng và Thôn Hóa Chu Phùng. Kinh tế của các nhóm cư dân trên mang tính tự cung, tự cấp là chủ yếu. Đời sống của các gia đình xã Nàn Sán chủ yếu phụ thuộc vào nghề trồng trọt (ngô và lúa nương một vụ) và chăn nuôi. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2009 đạt 1.237 tấn. Bình quân lương thực/người/năm đạt 382,85 kg. Tỉ lệ đói nghèo của xã chiếm 45,58%. 2 Báo cáo của UBND xã Nàn Sán (tháng 2/2014) về đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng rừng, đất lâm nghiệp chuẩn bị triển khai kế hoạch GĐGR tại xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai; Đề án xây dựng qui hoạch nông thôn mới xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai giai đoạn 2013-2020.
  • 5. 5 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 2.2. Xã Bản Mế3 Xã Bản Mế nằm ở phía Tây-Bắc huyện Si Ma Cai, có tổng diện tích tự nhiên 1.954,0 ha; Trong đó diện tích đất quy hoạch cho Lâm nghiệp là 807,3 ha. Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Si Ma Cai quản lý 369,8 ha; UBND xã quản lý 1.192,4 ha; hộ gia đình quản lý 391,8 ha. Tỷ lệ che phủ rừng của xã Bản Mế đạt 31,4%. Bản Mế giáp với huyện Mường Khương (Lào Cai) về phía Bắc; phía Đông giáp với xã Nàn Sán và Mản Thẩn (huyện Si Ma Cai); phía Nam giáp với xã Sín Chéng (huyện Si Ma Cai); phía Tây giáp với xã Thào Chư Phìn (huyện Si Ma Cai). Bản Mế là một xã miền núi, có địa hình phức tạp, có độ cao từ 700-1.500m, được kiến tạo bởi nhiều dãy núi chạy dọc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam thấp dần về phía Bắc. Mức độ chia cắt mạnh xen kẽ những dãy núi cao là các thung lũng sâu và nhỏ, nhiều nơi tạo thành vách đứng. Giống như Nàn Sán, do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ cao lớn, xã Bản Mế có khá nhiều các con suối nhỏ chảy qua. Tất cả các con suối đều bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống thung lũng. Đây là nguồn nước chính để phục vụ dân sinh cũng như mở rộng đất canh tác sản xuất của nhân dân các dân tộc trong xã. Ngoài ra, xã Bản Mế cũng có khoảng 4 km của con Sông Chảy chạy qua. Toàn xã có 455 hộ với 2.309 nhân khẩu, trong đó dân tộc Nùng có 1.363 nhân khẩu (59,0%), dân tộc Mông có 725 nhân khẩu (31,4%), dân tộc Thu Lao có 152 nhân khẩu (6,6%), còn lại thuộc các dân tộc khác. Dân cư toàn xã phân bố trên 7 thôn, gồm: Cốc Cù, Cố Dế, Cốc Nghê, Khuấn Púng, Nà Pá, Sín Chải, Bản Mế. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu của người dân là trồng trọt (ngô, lúa nương) và chăn nuôi mang tính tự sản tự tiêu. Tỷ lệ đói nghèo của xã chiếm 30,65%. 3. Lịch sử di chuyển của các dân tộc Nùng, Mông, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán Theo một số người già kể lại, các gia đình người Mông, Nùng và Thu Lao hiện nay tại các thôn bản của xã Bản Mế và Nàn Sán có lịch sử di chuyển chủ yếu từ Trung Quốc đến. Bên cạnh đó nhóm dân tộc Thu Lao còn được cho là di chuyển từ huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Người La Chí thì di chuyển từ Hoàng Su Phì của tỉnh Hà Giang. Một số người Nùng ở xã Nàn Sán cho rằng họ có nguồn gốc là người Giáy. Người Giáy ở đây được di chuyển từ Mường Khương, cùng sinh sống lâu đời với người Nùng nên dần dần hầu hết phong tục tập quán (ngoại trừ tục cúng tổ tiên và ma chay) của họ nay được hòa hợp vào dân tộc Nùng. Các dân tộc hiện nay đến định cư tại hai xã khác nhau về mốc thời gian, khoảng từ 3-7 đời người. Trong đó nhóm dân tộc Mông và 3 Báo cáo của UBND xã Bản Mế (tháng 2/2014) về đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng rừng, đất lâm nghiệp chuẩn bị triển khai kế hoạch GĐGR tại xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai; Đề án xây dựng qui hoạch nông thôn mới xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai giai đoạn 2013-2020.
  • 6. 6 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Nùng đến sớm hơn cả, khoảng 6-7 đời người, tiếp theo là người Thu Lao (khoảng 4 - 5 đời) và đến muộn nhất là người La Chí (khoảng 3 đời người)4 . Việc di chuyển, khai phá và định cư của các nhóm dân tộc này diễn ra do nhiều lý do khác nhau. Ví dụ người Mông di cư đến Việt Nam là do việc truy đuổi của người Hán; những nhóm khác lại là do đặc điểm canh tác - du canh du cư nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực và thực phẩm. Với phương thức này thì các diện tích nương, rẫy luôn được quay vòng, thay đổi để có được đất đai màu mỡ, phong phú về tài nguyên (rừng, nước) nhằm đảm bảo sản lượng cây trồng và những nhu cầu khác về thực phẩm, thuốc men...cho các gia đình. Việc di chuyển hoạt động canh tác đến các địa điểm mới thường kéo theo sự thay đổi về vị trí định cư của họ để đảm bảo sự thuận tiện cho các hoạt động sản xuất và an toàn về không gian sống cũng như các nhu cầu văn hóa, tinh thần khác5 . Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, việc di chuyển và định cư của các nhóm dân tộc tại xã Bản Mế và Nàn Sán cũng khác nhau về hình thức tổ chức. Người Mông thường di chuyển theo dòng tộc hoặc dòng họ nhằm duy trì kết cấu của dòng tộc và hỗ trợ nhau trong quá trình di chuyển, làm nhà và lập bản. Người Thu Lao, Nùng và La Chí thì thường di chuyển theo gia đình hoặc nhóm gia đình để thuận tiện cho việc hỗ trợ nhau trong quá trình vận chuyển, canh tác, bảo vệ thú rừng và những biến cố khác. 4. Cấu trúc làng bản Cấu trúc làng bản của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán là quá trình sắp xếp tầng lớp, đan xen theo không gian và thời gian, theo các mối quan hệ đa chiều giữa các gia đình, dòng tộc và thành phần dân tộc, theo tính đặc thù về mối tương tác hữu cơ giữa các hệ sinh thái-nhân văn trong cùng một vùng địa cảnh quan nhất định. Sự sắp xếp này là để đảm bảo tối đa sự hài hòa và an toàn về không gian sinh hoạt, không gian văn hóa - tín ngưỡng và không gian sinh kế của các thế hệ và thành phần dân tộc trong cùng một cộng đồng làng bản. Theo đó, các nhóm dân tộc trên đây tại xã Bản Mế và Nàn Sán thường sinh sống thành từng bản riêng biệt hoặc đan xen giữa các nhóm dân tộc trong cùng một đơn vị bản. Bản theo tiếng Mông là 'Zo', Nùng là 'Đi Lủng', Thu Lao là 'Lũng'. Có thể nói bản là một đơn vị cư trú, một đơn vị xã hội và không gian sinh tồn của một hoặc nhiều gia đình, dòng họ có nguồn gốc khác nhau về thành phần dân tộc. Không gian này chứa đựng các mối tương tác, đan xen chặt chẽ về huyết thống, dòng tộc, văn hóa và kinh tế của một hoặc nhiều dân tộc khác nhau. Do đã định cư lâu đời nên bản của các nhóm dân tộc tại hai xã Nàn Sán và Bản Mế tương đối ổn định. Ngoại trừ một số bản của xã Nàn Sán mới được lập cách đây một vài đời người do chính 4 "Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam" của Gs. Ts Hoàng Nam xuất bản tháng 4 năm 2013. 5 Các báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI về tộc người Mông tại Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai từ năm 2009 đến nay.
  • 7. 7 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 sách giãn dân của địa phương. Số hộ gia đình cấu thành lên các bản tại Bản Mế và Nàn Sán rất khác nhau. Trung bình khoảng 51 hộ / bản tại xã Nàn Sán và 67 hộ / bản tại xã Bản Mế. Nhiều nhất là 99 nóc nhà (bản Bản Mế xã Bản Mế) và ít nhất là 24 nóc nhà (bản Sảng Chái 4 xã Nàn Sán). Bảng 1: Thành phần các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao tại bản xã Bản Mế Bản Thành phần dân tộc Sín Chải Nùng, Mông Na Pá Mông, Nùng Bản Mế Nùng Khoán Púng Nùng, Thu Lao Cốc Nghế Mông Cốc Cù Nùng Cốc Rế Mông, Nùng Những gia đình trong bản thường thuộc về nhiều dòng họ khác nhau trong một dân tộc. Việc sinh sống đan xen giữa các dân tộc với nhau trong cùng một bản là hiện tượng tương đối phổ biến. Tại xã Bản Mế có tới 4/7 bản có sự chung sống giữa các gia đình thuộc các nhóm dân tộc với nhau. Trong đó, có tới 3 bản có người Mông và Nùng, 1 bản có người Nùng và Thu Lao. Còn lại 2 bản là của người Nùng, 1 bản là của người Mông (bảng 1). Bảng 2: Thành phần các dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán Bản Thành phần dân tộc Thôn Đội 1 Nùng, Thu Lao Thôn Đội 2 Thôn Đội 3 Nàn Vái Thôn Đội 4 Thu Lao, Nùng, Mông Sảng Chải 1 Mông Sảng Chải 2 Sảng Chải 3 Sảng Chải 4 Sảng Chải 5 Quan Thần Súng Lũng Choáng La Chí, Nùng Hóa Chư Phùng La Chí, Nùng Tại xã Nàn Sán có tới 7/13 bản có sự đan xen về thành phần dân tộc; trong đó có 2 bản là cộng đồng của người La Chí và Nùng, 1 bản là địa bàn cư trú của người Nùng và Thu Lao. Đặc biệt có 1 bản (thôn Đội 4) có người Thu Lao, Nùng và Mông cùng chung sống (bảng 2).
  • 8. 8 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Hình 1: Cụm hộ gia đình người Thù Lao (trên), Nùng (dưới) tại bản Khuan Ung, xã Bản Mế Bên cạnh thành phần dân tộc, nhân khẩu thì các hộ gia đình thì cấu trúc làng bản của các nhóm dân tộc còn được cấu thành trên cơ sở những mối quan hệ về lãnh thổ, không gian sinh hoạt, không gian văn hóa và không gian sản xuất. Các nhóm dân tộc ở hai xã đều lập bản của mình ở chân núi, phía trước là không gian thoáng đãng, thường được các gia đình khai phá, cải tạo thành ruộng bậc thang cấy lúa nước. Bản thường được dựa lưng vào sườn núi, phía sau được khai phá thành những mảnh nương để trồng các loại cây hoa màu. Ở những nơi có từ hai nhóm dân tộc trở lên thì Bản được bố trí theo từng cụm - nơi các gia đình có cùng chung một nguồn gốc dòng tộc và thành phần dân tộc. Thông thường, ở trung tâm của bản là cụm các gia đình của nhóm dân tộc đến trước tiên. Các nhóm đến sau chọn những vùng đất còn lại ở gần hoặc xa trung tâm bản để làm nhà và tổ chức trồng trọt, chăn nuôi. Rất ít thấy có trường hợp gia đình của các nhóm dân tộc khác nhau sống xen kẽ trong cùng một địa điểm. Nếu nhóm dân tộc đến trước có ít hộ gia đình, nơi đó vẫn còn đất làm nhà và canh tác thì các gia đình dân tộc khác vẫn có thể đến để lập cư. Ví trụ trường hợp bản Hoa Chư Phùng của xã Nàn Sán - nơi nhóm các hộ dân tộc La Chí đến sau đã chọn đất để làm nhà, sản xuất xen kẽ với các hộ gia đình người Nùng. Mặc dù vậy những nhóm gia đình đến sau này vẫn sống co cụm theo dân tộc mình.
  • 9. 9 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Hình 2: Vị trí nhà ở, ruộng bậc thang và nương rẫy của người Nùng tại xã Bản Mế Những thửa ruộng bậc thang cấy lúa nước của các hộ gia đình cũng được bố trí theo từng cụm theo từng nhóm dân tộc. Điều này là do truyền thống của các dân tộc luôn bố trí nơi cư trú và nơi canh tác lúa nước gần nhau để thuận tiện cho quá trình sản xuất, canh tác. Đồng thời những diện tích này thường được cố định và kế thừa cho con cháu qua nhiều thế hệ trong cùng một dòng tộc, dân tộc. Ngược lại thì những diện tích canh tác nương rẫy lại có sự đan xen tương đối cao giữa các gia đình thuộc các dân tộc khác nhau. Điều này là do trước đây các nhóm dân tộc đều có chung một phương thức canh tác luân phiên, phát nương làm rẫy. Với phương thức này, sau một hoặc vài chu kì canh tác thì chủ cũ của một nhóm dân tộc đi nơi khác tìm chỗ mới phù hợp, có đất tốt hơn thì những gia đình khác - có thể là cùng hoặc khác nhóm dân tộc đến để tiếp tục khai hoang, trồng trọt. Cứ như vậy, qua nhiều thế hệ sự đan xen về thành phần dân tộc cũng như những thiết chế, tập tục kèm theo trong cùng một vùng canh tác nương rẫy trở lên đa dạng và phức tạp hơn. Những vùng này không chỉ đơn thuần của một nhóm dân tộc như trước đây mà còn của nhiều nhóm dân tộc khác. Dần dà, khi dân số tăng lên, đất đai trở lên chật hẹp và cho đến nay thì những diện tích đất nương rẫy đan xen của các hộ gia đình từ các dân tộc khác nhau trở thành cố định. Hầu hết tại các chỏm núi và các dông, khe là những cánh rừng, gọi là rừng sử dụng chung của cả cộng đồng để duy trì nguồn nước sinh hoạt, sản xuất, thu hái thực phẩm thiết yếu, củi đốt và gỗ làm nhà của các hộ gia đình. Hiện nay, những khu rừng này có diện tích không lớn, khoảng một vài hecta do việc mở rộng diện tích canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực. Vì vậy, chức năng chính của những khu rừng này hiện nay là để duy trì nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu, củi đốt cho các hộ trong bản. Đặc biệt là trong tất cả các bản của các nhóm dân tộc tại hai xã đều có những khu rừng để người dân thực hành các nghi lễ tâm linh cúng các vị thần tự nhiên, như rừng 'Đổng Chứ', 'Đông Hầu'
  • 10. 10 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 của người Nùng, 'Táng Đẩng Mây" của người Thu Lao và 'Nào Lồng' của người Mông. Những cánh rừng này thường là các khu rừng già, nguyên sinh và có các cây to, cổ thụ. Theo quan niệm của người Nùng thì những cây to, cây cổ thụ này là những 'Pù Bố' (cây bố) và 'Pù Mẹ' (cây mẹ), cây 'Tong Xenh' của người Mông - tức là cây thiêng, nơi trú ngụ của các vị thần linh như thần đất, thần rừng và thần rồng. Những khu rừng này được duy trì và lưu truyền qua nhiều đời người thông qua những thiết chế truyền thống của các dòng họ, cộng đồng và dân tộc. Rừng cấm của bản thường nằm xen lẫn trong các làng bản, có thể ở giữa làng, bên cạnh hoặc đầu làng để thuận lợi cho hoạt động thờ cúng của các gia đình vào dịp lễ tết hàng năm. Ngoài ra, các bản tại Nàn Sán và Bản Mế còn có những vùng để làm lễ cúng 'Thứ Tỉ', 'Thổ Ti' - tức là thần đất, tùy theo phát âm của từng nhóm dân tộc. Đây là nơi để người dân thực hiện các nghi lễ cúng thần đất để bảo vệ cho hoa màu, cây cối, vật nuôi và cây trồng. Thông thường thì những vùng này được bố trí ở gần các khu ruộng, nương rẫy, nơi có những hòn đá to, cố định, chắc chắn và ít bị con người, động vật tác động. Mỗi bản có từ 1 đến 5 điểm cúng 'Thứ Tỉ', tùy thuộc vào qui ước của từng nhóm hộ gia đình (không kể thành phần dân tộc) có cùng chung một vùng đất canh tác nhất định mà nơi đó họ quan niệm là đang được thần đất bảo vệ và che chở. Đơn vị Bản tại Bản Mế và Nàn Sán còn được cấu thành bởi sự đan xen giữa những không gian của cá thể và của cộng đồng. Những không gian đó thường là các diện tích đất canh tác và khu rừng riêng của từng gia đình, dòng họ và của chung cả cộng đồng. Đất riêng của gia đình là do tự khai phá thành ruộng, nương, rừng cây, ao, đất làm nhà, làm các công trình chuồng trại, gia súc...Rừng riêng của các gia đình thường nhỏ lẻ, thường được nằm gần các khu ruộng, nương. Đôi khi cũng là những mảnh nương lâu ngày không canh tác nên cây mọc thành rừng. Còn đất của chung cả cộng đồng là những vùng vẫn chưa được khai phá, là những khu rừng sử dụng chung và những khu rừng 'Nào Lồng' của người Mông, và 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' của người Nùng, Thù Lao và La Chí. 5. Giao thoa về tên bản Như nhiều dân tộc khác, tên gọi của các bản của các nhóm dân tộc tại Nàn Sán và Bản Mế phản ánh những đặc điểm đặc thù của cảnh quan, tự nhiên xung quanh. Tên bản thường được gọi theo tên núi, tên sông, tên thung lũng, tên gốc cây cổ thụ, tên cánh đồng, hoặc theo một đặc điểm địa lý nào đó. Ví dụ, theo cách đặt tên của người Nùng, Bản Mế tức là Bản Rộng - nơi có những vùng đất canh tác bằng và rộng; 'Cốc Rế' - tức là 'gốc Nứa', có nghĩa là nơi đây trước đây có nhiều cây nứa; 'Cù', có nghĩa là tiếng chim kêu, do đó 'Cốc Cù' là nơi mà có nhiều tiếng chim mỗi độ hoa gạo nở; 'Mế' nghĩa là rộng lớn; 'Na Pa' là nơi từng có nhiều cá trạch hay còn gọi là ruộng cá trạch. Ngoài ra, tên bản cũng được người dân đặt theo những truyền thuyết kể lại ví dụ 'Sín Chải', có nghĩa là nguồn nước - nơi có vị thần rồng luôn bảo vệ con người, hoa màu và ban tặng nguồn nước cho muôn loài. Thông thường các tên địa danh trên được đặt bởi nhóm dân tộc có lịch sử đặt chân đến trước. Các dân tộc đến sau sẽ lấy những tên của địa danh này trở thành tên gọi chung. Người Nùng đặt chân và định cư đầu tiên tại xã Bản Mế nên hầu hết các tên bản như 'Cốc Rế', 'Cốc Cooc', 'Cốc
  • 11. 11 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Cù', 'Khuấn Púng', 'Bản Mế', 'Sín Chải' được đặt theo tiếng của người Nùng. Những dân tộc đến muộn hơn như Thu Lao hoặc Mông lấy những tên này như là tên gọi địa danh của dân tộc mình. Tại xã Nàn Sán, một số bản hiện nay, theo người dân kể lại có nguồn gốc khai phá và định cư của người Tày. Do đó, các địa danh như Nàn Vái6 , tức là đồi có nhiều cây mây là được đặt tên bởi người Tày. Một số bản khác được đặt tên bởi tiếng Mông như Sáng Chải 1, 2, 3, 4. Tên bản Lũng Choáng và Hóa Chư Phùng - nơi có người Nùng và La Chí sinh sống thì được đặt tên theo tiếng Nùng. 6. Giao thoa về quan niệm giá trị đất và rừng Các dân tộc Nùng, Mông, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sín đều quan niệm đất, rừng không chỉ để duy trì không gian sinh kế thông qua việc tổ chức canh tác, trồng trọt, chăn nuôi mà còn là không gian văn hóa, tín ngưỡng quyết định trực tiếp đến quá trình nuôi dưỡng, bảo vệ sự sinh tồn và phát triển các giá trị tinh thần và cấu kết giữa các gia đình, dòng họ và cả cộng đồng. Họ cho rằng tự nhiên (đất, rừng, nước) là của các vị thần. Các vị thần đã ban tặng cho họ đất, nước, rừng... để sinh tồn. Do đó, mỗi khu rừng đều có một vị thần cai quản. Các vị thần đó với quyền lực vô song, có thể điều khiển được mọi tà ma, ác thú, dịch bệnh để bảo vệ cho dân làng, đem lại cuộc sống bình yên, ấm no cho cộng đồng. Các dân tộc đều quan niệm rằng giữa con người với thiên nhiên, đặc biệt với rừng luôn có mối quan hệ khăng khít, hoà quyện với nhau và thường được thể hiện trong cách hành xử của con người với rừng và đất cũng như sự nuôi dưỡng, che chở của rừng, đất đối với con người. Hòa đồng cùng thiên nhiên, tôn trọng, bảo vệ thiên nhiên, coi rừng là cuộc sống, gắn bó với rừng, bảo vệ rừng đã trở thành ý thức chung ẩn chứa sâu trong các ứng xử và hành vi của từng thành viên trong cộng đồng. Vì vậy, mỗi cộng đồng của các nhóm dân tộc ở đây thường thiết lập những không gian thiêng - rừng cấm như rừng 'Đổng Chứ' hay 'Đông Hầu' của người Nùng, hay 'Táng Đẩng Mây" của người Thu Lao hoặc 'Nào Lồng' của người Mông để thể hiện sự tôn sùng và thành kính đối với những vị thần đã ban tặng họ nguồn sống. Mỗi khu rừng thiêng được người dân nơi đây bảo vệ chăm sóc không những mang lại giá trị vật chất, tinh thần cho cộng đồng làng bản mà còn góp phần bảo vệ, phát triển môi trường sinh thái chung. Bên cạnh đó trên những vùng đất canh tác của mình người dân cũng lập các bàn thờ để cúng các vị 'Thu Tỷ' (tiếng Nùng, Mông), 'Táng Thứ Tỳ' (tiếng Thu Lao) hay 'Thổ Ty' (tiếng Quan Hỏa-Trung Quốc), tức là thần đất để cầu mong và cảm ơn thần đất đã cai quản, bảo vệ tài sản, cây trồng, vật nuôi, mang lại sự no đủ, bình yên, hạnh phúc cho mọi thành viên trong cộng đồng. Người Nùng ở xã Nàn Sán còn tổ chức lễ hội 'Lồng Tồng' để tạ ơn các vị thần nông và cầu mong bội thu cho một vụ trồng trọt mới. 7. Giao thoa về quan niệm thần đất, thần rừng và thần nước Các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế theo tín ngưỡng đa thần. Biểu hiện về điều này là họ tin vạn vật hữu linh. Mọi vật hiện hữu như cây cối, hòn đá, quả đồi, mỏm núi, các đồ dùng phục vụ sinh hoạt của con người đều có linh hồn, gọi chung là 6 Xã Nàn Sán ngày nay là do việc sáp nhập giữa hai vùng đất có tên là Dào Sán và Nàn Vài.
  • 12. 12 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 thần linh. Mỗi vùng trời, vùng đất đều có các vị thần cai quản, trên trời là các vị thần tiên, dưới đất có thần đất; ở sông có thần sông, thần rồng, suối có thần suối; rừng có thần rừng. Trong các thần đó thì thần Rừng là một trong những thần quan trọng của nhân dân các dân tộc huyện Si Ma Cai Nói chung, người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Bản Mế và Nàn Sán nói riêng. Vì vậy, thờ cúng thần Rừng là việc không thể thiếu đối với họ. Nơi để thờ phụng thần Rừng là nơi linh thiêng, yên tĩnh và nằm ở vị trí quan trọng của cộng đồng - nơi đó có thể là giữa bản hoặc đầu nguồn của mạch nước cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho cả cộng đồng. Những nơi thờ Thần Rừng là rừng cấm, rừng thiêng, có khi là một mảnh hay khu rừng nguyên sinh, nơi con người không chặt phá và không bao giờ chăn thả gia súc, hoặc làm những chuyện ô uế động đến thần linh. Những khu rừng nơi thờ Thần rừng là những tài sản chung vô giá của toàn cộng đồng và được gìn giữ qua bao thế hệ. 7.1. Quan niệm thần rừng và thần nước 7.1.1. Tín ngưỡng 'thần cây to' của người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí Trong các khu rừng cấm, các dân tộc Mông, Nùng và La Chí đều chọn một cây to làm cây thiêng để lập bàn thờ. Theo tiếng Mông cây thiêng này gọi là 'Tông Xênh', người Nùng thì gọi là 'Pù Bố' (cây bố) và 'Pù Me' (cây mẹ). Họ cho rằng các vị thần rừng thường trú ngụ ở gốc cây to, đây cũng là nơi để các vị thần linh tụ họp, bàn bạc công việc. Tuỳ thuộc vào từng dân tộc mà cách chọn cây thiêng có sự khác nhau. Với người Nùng thì họ thường chọn cây to như Nghiến hoặc Sấu. Cây thiêng phải là những cây có thân to, tán rộng, cành lá sum xuê, thể hiện sức sống mạnh mẽ, không chọn những cây có tán bé, cây cụt ngọn hoặc là cây đã quá già cỗi làm cây để thờ. Người dân cho rằng các cây thiêng này ở những khu rừng cấm là cây bố, cây mẹ, rừng cội nguồn để sản sinh, che chở, bảo vệ cho toàn bộ các loài cây và khu rừng khác trong một vùng địa lý nhất định. Khác với dân tộc Mông, Nùng và La Chí, người Thu Lao lại chọn những cây nhỏ để đặt lễ cúng tế. Dưới gốc cây, họ dựng một bàn thờ, được ví như một ngôi nhà cho các vị thần linh trú ngụ. Các bàn thờ này có bản thì làm cố định, khi đến ngày cúng rừng thì người dân cùng nhau tu sửa lại. Có bản thì làm mới mỗi khi diễn ra lễ cúng rừng. Các bàn thờ thường được làm đơn giản bằng việc ghép những thân cây nhỏ lấy từ trong khu rừng thiêng. Thường trên các gốc cây thiêng, người dân treo một số vật tượng trưng cho sự sung túc, trang nghiêm và tôn sùng như xương quai hàm của lợn, trâu và lông gà. Những vật tượng trưng này được bổ sung sau mỗi đợt cúng rừng. Trong những khu rừng này mọi người dân trong bản đều ý thức được những điều cấm kỵ như: Không được chặt cây, lấy củi, nói bậy, săn bắt thú, làm việc xấu, hoặc làm những điều ô uế trong rừng…Nhân dân địa phương vẫn còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện về những cá nhân đã vi phạm vào điều cấm kỵ bị thần rừng trừng phạt. Những điều cấm kỵ đó cho dù được hay không được quy định trong các qui định của thôn bản nhưng mọi người đều biết rất rõ và có ý thức tuân thủ. Đôi khi trong nhà có người bị ốm, gia đình đó phải chuẩn bị một mâm cúng tại gia đình và mời thần rừng, thần cây thiêng đến chứng giám, phù hộ cho người thân của họ mau chóng khỏi bệnh.
  • 13. 13 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 7.1.2. Tín ngưỡng 'Nào Lồng' của người Mông7 ‘Nào Lồng’ còn được biết đến là ‘Nò Sồng’ tuỳ theo phát âm của từng vùng. Đây là lễ hội để giữ gìn luật tục, quy ước của người Mông ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai nói riêng và người Mông nói chung ở rất nhiều nơi khác. ‘Nào Lồng’ có nguồn gốc từ lâu đời, được người Mông duy trì liên tục qua nhiều đời người nên trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng. Lễ hội này giúp người Mông duy trì và phát triển các chuẩn mực ứng xử giữa người với người và giữa người với thiên nhiên. ‘Nào Lồng’, nghĩa đen là “ăn rồng” được tổ chức lễ vào ngày Thìn cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Do đó, 'Nào Lồng' cũng có nghĩa rừng rồng, rừng thiêng, nơi diễn ra lễ cam kết ăn thề giữa các gia đình, dòng họ, dân tộc để bảo vệ đất, rừng, bảo vệ tính cấu kết của cộng đồng trước sự chứng kiến của thần rồng. Với những ý nghĩa trên, người Mông quan niệm có 'thần rừng', 'thần rồng' trong khu rừng 'Nào Lồng'; nên họ đã thiết lập miếu thờ và tổ chức lễ tạ ơn tại những cây to, gọi là 'Tồng Xênh' trong những khu rừng “Nào Lồng". Theo quan niệm của người Mông thì những cây 'Tồng Xênh' chính là cây chủ, cây thiêng, cây bố, cây mẹ sinh ra muôn loài trên thế gian. Lễ cúng này có ý nghĩa tinh thần lớn lao, đó là việc cầu mong bình an, cảm ơn thần rừng, thần rồng đã che chở, nuôi dưỡng người dân qua bao thế hệ. Lễ vật để chuẩn bị cho lễ 'Nào Lồng' ở từng bản có khác nhau. Thông thường, lễ vật bắt buộc là gồm 1 con gà trống, hương, 1 con lợn hoặc 1 con trâu, cơm, rượu và những lễ vật nhỏ khác. Gà trống tượng trưng cho Trời, gà mái tượng trưng cho Đất. Theo phong tục quy định trong lễ 'Nào Lồng', hai năm cúng lợn, một năm cúng trâu. Hai người quản lý rừng, gọi là 'Lông Thoz' có trách nhiệm tổ chức họp toàn dân để thống nhất mức đóng góp, sau đó sẽ phân công những ai tham gia vào tổ chức lễ cúng. Họ sẽ mời người già nhất trong thôn bản biết phong tục và các bài cúng để đứng ra cúng trong lễ 'Nào Lồng'. Trong lễ cúng, thầy cúng sẽ cầu mưa thuận gió hoà, gia súc gia cầm không dịch bệnh, con người khoẻ mạnh, ruộng đồng tốt tươi. Sau đó, thầy cúng sẽ dùng một nhánh củi nhỏ chẻ làm đôi (để làm quẻ) và hỏi bằng tiếng Quan Hỏa rằng "ông có bảo vệ được dòng họ .....không?". Tên từng dòng họ sẽ được hỏi, và gieo quẻ. Nếu cả hai mảnh đều nằm úp thì thần báo tin dòng họ đó sẽ không được bảo vệ. Nếu một mảnh úp và một mảnh nằm ngửa thì cho thấy thần 'Nào Lồng' vẫn đang xem xét đối với dòng họ đó. Nếu cả hai mảnh đều nằm ngửa thì chứng tỏ dòng họ đó sẽ được bảo vệ tốt. Nếu dòng họ nào có quẻ rơi vào hai trường hợp đầu, thì dòng họ đó sẽ phải tổ chức mời thầy cúng đến cúng trong gia đình để xin thần linh che chở khỏi các tai hoạ. 7 Báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI về bản sắc văn hóa người Mông tại huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai từ 2009-2013 và Báo cáo nghiên cứu của Viện SPERI, Viện CODE năm 2011 về 'Vai trò của Luật tục trong phát triển cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam'.
  • 14. 14 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Hình 3: Khu rừng 'Nào Lồng' của người Mông tại xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai Sau lễ cúng, thầy cúng sẽ làm lễ xem chân gà, trường hợp chân gà tốt thì cộng đồng sẽ được thông báo là nghỉ ngơi trong vòng 3 ngày; nếu chân gà không tốt thì cộng đồng phải nghỉ 5 ngày. Trong thời gian nghỉ này, tất cả các gia đình kiêng không đi cày, bừa, sản xuất, phát nương rẫy. Tất cả chỉ được phép ăn uống và hội hè với nhau mà thôi. Nếu ai vi phạm thì bị xem là vi phạm điều kiêng kị của cộng đồng và sẽ bị phạt bằng cách bồi thường bằng việc phải tổ chức cúng lại lễ 'Nào Lồng'. Sau khi thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng, đại diện các gia đình trong vùng thường tận dụng một khoảng thời gian nhỏ để kết hợp đưa ra các vấn đề như bảo vệ rừng, hoa màu, cách ứng xử trong gia đình, dòng họ, cộng đồng ra bàn luận, rồi xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy chế của cộng đồng. ‘Nào Lồng’ và các quy định của ‘Nào Lồng’ không chỉ thay đổi theo thời gian, mà còn được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với đặc thù của từng xã, từng thôn. 7.1.3. Tín ngưỡng 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' của người Nùng và La Chí Người Nùng cũng tin rằng tại những khu rừng này có vị thần 'Chứ' (thần rừng) và 'Hầu' (thần Rồng) trú ngụ. Do quá trình tiếp biến về văn hóa, hiện tại người La Chí cũng đang thực hành tín ngưỡng này của người Nùng. Với quan niệm đó, người dân đã thiết lập lên những khu rừng cấm hay rừng thiêng gọi là 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu' (tiếng Nùng). 'Đổng' - theo tiếng Nùng là Rừng; vì vậy, 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu' là rừng thiêng, rừng rồng đôi khi được gọi là là 'cấm'. Theo đó những khu rừng thiêng này được cai quản của thần rồng và thần rừng - tượng trưng cho vị thần bảo vệ và ban nguồn nước cho vạn vật trên trái đất.
  • 15. 15 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Lễ cúng 'Đổng Chứ' Thời gian tổ chức lễ cúng 'Đổng Chứ' rất linh hoạt và phụ thuộc vào qui định của từng bản, cụm gia đình và cụm cộng đồng. Thông thường, 'Đổng Chứ' được tổ chức vào ngày rồng cuối tháng hai (âm lịch). Có bản thì tổ chức cúng 'Đổng Chứ' và 'Đông Hầu' một lần vào ngày rồng tháng hai hoặc tháng 6 (âm lịch). Một số bản như thôn Đội 1, Đội 2, Đội 3, Đội 4 và Nàn Vái - nơi mà những khu rừng cấm được thừa kế lại từ người Tày8 trước đây thì lại tổ chức vào ngày rồng tháng 6. Một điểm chung về quan niệm với người Mông, người Nùng và La Chí đều cho rằng ở những khu rừng thiêng này có thần rồng (gọi là 'Lồng' hoặc 'Lùng') trú ngụ. Đây là con vật linh thiêng, được dân bản tôn làm vị thần giúp đỡ dân làng bảo vệ nguồn nước, bảo vệ mùa màng, giúp dân làng tránh được hạn hán, bão lũ. Thần rồng có thể bay, đưa những nguyện vọng của người dân lên với trời. Do đó người Nùng tổ chức 'Đổng Chứ' là để cúng thần rồng cai quản nguồn nước. Tại các gốc 'Pù Bố' và 'Pù Mẹ', trong lễ cúng rừng, người dân thường đặt 02 mâm lớn gồm 01 chính (bên phải) và 01 phụ (bên trái). Mỗi mâm đều có 5 con ngựa giấy và 5 chén rượu nhỏ. Khác với mâm phụ có 05 con ngựa trắng thì mâm chính có 01 con ngựa đỏ ở chính giữa. Ngoài ra còn 01 mâm nhỏ ở dưới 02 mâm lớn là mâm của thầy cúng thờ 'Tổ Tồn' – thờ người thầy đã truyền nghề cho thầy cúng. Khi thầy cúng tiến hành các lễ cúng ở bất cử đâu đều phải lập một bàn thờ này, điều này cũng có nghĩa là thầy cúng có luôn được vị thầy hỗ trợ trong khi hành nghề. Ngoài ra, lễ cúng còn có 3 con gà trống (2 con màu đỏ, 1 con màu trắng). 2 con gà trống đỏ được đặt ở 2 mâm lớn; 1 con gà trống trắng để làm lễ và bầu 2 người trông coi rừng (gọi là 'Hooc Can') trong năm tiếp theo. 02 bát tiết lợn và gà cũng được đặt lên bàn thờ chính và phụ. Có những bản, ngoài bàn thờ 'Tổ Tồn', người dân chỉ chuẩn bị 1 mâm cúng với các lễ vật như 5 ngựa giấy, 5 chén rượu, 1 gà trống đỏ. Nghi Lễ được thực hiện khá công phu và nghiên túc. Đầu tiên thầy cúng phụ rót rượu nếp cẩm vào các chén và khấn, việc khấn có ý nghĩa thông báo cho thần rừng biết lễ cúng gồm những gì và xin quẻ âm dương xem thần rừng có đồng ý nhận những lễ vật đó không. Quẻ âm dương được làm bằng hai miếng gỗ nhỏ lấy ngay trong rừng. Nếu như thần rừng không nhận thì thầy cúng phải cúng lại và gieo quẻ âm dương lại. Khi thần rừng đồng ý nhóm thanh niên giúp việc bắt đầu rửa chân gà, cắt tiết ngay trước ban thờ. Tiếp đó 02 bát tiết tươi của Lợn và Gà được chuyển lên bàn thờ chính và phụ để Thầy cúng tiếp tục các nghi lễ tâm linh. Sau khi hoàn thành các thủ tục cúng thần rừng, thầy cúng sẽ làm thủ tục cúng "Tổ Tồn", lễ vật được cùng tổ tồn chỉ đơn thuần là 01 bộ nội tạng gà. Thầy cúng phải là người ăn hết phần thức ăn này, đây được coi là sự kính trọng người thầy đã truyền dạy nghề cho mình. 8 Theo người dân kể lại thì những bản này là do người Tày đến đầu tiên để khai phái và dựng làng. Sau đó họ chuyển đi đâu không biết và người Nùng, Thù Lao và Mông lần lượt đến để định cư.
  • 16. 16 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Sau khi hoàn tất các thủ tục cúng tâm linh, người dân bắt đầu chuẩn bị chế biến thức ăn để mời cả làng đến ăn. Mâm thầy cúng và các già làng được ăn trước tại vị trí cúng dưới gốc cây to. Các mâm thức ăn khác được nhóm thanh niên giúp việc chuyển tới một chỗ riêng để mời cả làng đến cùng ăn chung. Một điều đặc biệt là tất cả các loại thức ăn đều phải được luộc chín, không được xào, rán vì người dân quan niệm nếu làm như vậy thì năm tới sẽ thiếu nước, cây trồng sẽ bị cháy và không cho thu hoạch; nếu được luộc chín thì năm mới dân bản sẽ có nguồn nước dồi dào, cây trồng tươi xanh và cho thu hoạch tốt. Giống như người Mông, sau lễ cúng 'Đổng Chứ', thầy cúng sẽ xem chân gà. Xem chân gà để biết xem năm nay sẽ cấm rừng bao nhiêu ngày. Trong thời gian nghỉ này, tất cả các gia đình kiêng không đi cày, bừa, sản xuất, phát nương rẫy, ngắt lá tươi, đặc biệt là đội nón đi qua bản. Tất cả chỉ được phép ăn uống và hội hè với nhau mà thôi. Nếu ai vi phạm thì bị xem là vi phạm điều kiêng kị của cộng đồng và sẽ bị phạt bằng cách bồi thường cho việc phải tổ chức cúng lại lễ 'Đổng Chứ'. Lễ cúng 'Đổng Hầu' Lễ này chủ yếu diễn ra ở một số bản ở xã Bản Mế. Lễ được tổ chức vào ngày 2 tháng 02 (âm lịch) hàng năm để cúng cả thần rừng và thần thiên nhiên với ước nguyện cho mỗi người dân cũng như cộng đồng được phù hộ khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt mang lại cuộc sống ấm no. Lễ vật cúng 'Đổng Hầu' cũng giống như "Đổng Chứ', nhưng cộng đồng phải làm thêm 02 bàn thờ cho các vị thần coi miếu. Lễ 'Đổng Hầu' được tổ chức to hơn 'Đổng Chứ', linh vật hiến tế gồm: 1 con trâu (cứ 3 năm thì thịt Trâu một lần cúng tại miếu), gà, lợn, cá và cơm. Việc tổ chức cúng lễ được thực hiện bởi những người đàn ông trong làng một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ hơn lý 'Đổng Chứ'. Tất cả phụ nữ không ai được lai vãng tới khu vực miếu mà chỉ hỗ trợ các việc phụ ở bìa rừng. Trình tự cúng "Đổng Hầu' cơ bản không khác với "Đổng Chứ'. Sau khi làm lễ báo cáo thần linh, những lễ vật là những con vật hiến sinh được giao lại cho nhóm thanh niên để làm thịt. Tất cả các con vật được lấy tiết sống để cúng. Riêng đối với vật lễ là trâu, ngoài việc lấy tiết thì các bộ phận như đầu, đuôi, 04 chân và 02 xương sườn đều phải đặt trước bàn thờ để cúng (đây cũng được gọi là thủ tục cúng sống). Sau khi các phần thức ăn khác được nấu chín thì lại được mang lên cúng. Cuối cùng thầy cúng sẽ làm tục xem xương đùi gà để biết “thần rừng năm nay sẽ cấm rừng bào nhiêu ngày” và thông báo lại số ngày cấm rừng. Ví dụ như năm nay (2014) tại bản Nà Pá xã Bản Mế, cả cộng đồng và các bản lân cận bị cấm 4 ngày không được lên rừng (bất kể rừng nào) bẻ cây, chặt cây, săn bắn, không được làm nương rẫy. Thậm chí cấm không cho xe máy, ô tô chở hàng đi qua bản.
  • 17. 17 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 7.1.4. Lễ cúng 'Táng Đẩng Mây' của người Thu Lao9 Việc thờ cúng thần rừng của người Thu Lao, gọi là 'Táng Đẩng Mây' ở một khu rừng cấm, diễn ra vào ngày Thìn cuối cùng của tháng Giêng hàng năm. Nếu tháng đủ cúng vào ngày 30 tháng giêng, nếu tháng thiếu cúng vào ngày 29. Nơi cúng thần rừng không phải là gốc cây to nhất rừng như của người Mông và Nùng, mà là hai gốc cây nho nhỏ. Nếu như người Mông chỉ có một chiếc bàn thờ đặt ở gốc cây to nhất rừng, thì người Thu Lao quan niệm đi đâu cũng phải có đôi có lứa, vì vậy họ làm hai bàn thờ gần nhau, một bàn thờ thờ thần nữ, một thờ thần nam. Bàn thờ vị thần nam có 7 chiếc chén, 7 đôi đũa và có 7 hình người bằng giấy cắt dán lên một thanh tre hoặc nứa. Tương tự như vậy bàn thờ vị thần nữ có 5 chiếc chén, 5 đôi đũa, và có 5 hình nhân cắt bằng giấy bản dán lên thanh cây tre. Bàn thờ thường được làm bằng những cây quanh rừng, loại lá rừng to được lấy và trải lên bàn thờ để đặt đồ ăn. Sau đó, thầy cúng lấy 1 mảnh giấy bản màu vàng cắt dài khoảng 50 đến 70 cm trải lên 2 bàn thờ và đặt những chiếc chén lên đó. Nếu là bàn thờ vị thần nam thì chiếc chén ở vị trí số 4 sẽ phải được đặt trên một chiếc chén to hơn lật úp. Thầy cúng gọi đó là chén cái. Tương tự ở bàn thờ thần nữ, ở ví trí số 3 là chiếc chén cái. Sau đó, lấy 7 hình nhân dán lên thanh tre treo lên bàn thờ. Thầy cúng lấy 2 chiếc vòng bạc đặt vào 2 chiếc bát để trên 2 bàn thờ và khi làm lễ cúng thầy cúng đổ nước vào đó, với ý nghĩa là thần rừng nhận được những lễ vật mà họ mang tế. Lễ vật cúng rừng gồm có 2 con gà, 1 gà sống, 1 một gà mái, 1 con lợn khoảng trên 1 tạ, cơm, bát, chén, rượu, vàng tiền và hương. Người Thu Lao lấy lá của cây móc, hoặc cây sa nhân trên rừng buộc vào thân cây nơi làm bàn thờ để giao cho cây đó chăm sóc sức khỏe, công việc làm ăn cho cả thôn bản năm đó. Cuối cùng thầy cúng lấy 2 bát mỡ để lên 2 bàn thờ và cho giấy vào trong đó để đốt với ý nghĩa là thắp sáng đường đi cho các vị thần linh. Khi công việc chuẩn bị đã hoàn tất, thầy cúng bắt đầu tiến hành các nghi lễ cúng. Công việc cúng tế thần Rừng của người Thu Lao có 2 thầy cúng, 1 thầy cúng chính và 1 thầy giúp việc. Trước ngày cử hành cúng tế khoảng hai đến ba ngày người chủ trì có trách nhiệm đi mời thầy cúng về cúng rừng và chuẩn bị tiền giấy, vàng, hương và tất cả những thứ khác để phục vụ cho cúng rừng. Lễ cúng rừng của người Thu Lao có 2 phần, cúng lễ sống và cúng lễ chín. Thường thì lễ cúng sống được tổ chức buổi sáng; chiều dành cho lễ cúng chín. Cúng lễ sống và chín thì bài cúng giống nhau chỉ khác tên là chín và sống. Nội dung của lần cúng thứ nhất là báo cáo thần Rừng hôm nay dân bản tổ chức lễ cúng tế thần, thầy cúng kể tên các lễ vật năm nay chuẩn bị cúng tế. Sau khi khấn xong lần 1 thầy cúng rót rượu vào từng chén và quỳ lạy bàn thờ 2 lần, sau đó tiếp 9 Báo cáo thực tập tốt nghiệp của Bùi Thị Chung Trường Đại Học Xã hội về Tìm hiểu một số đặc trưng văn hóa của đồng bào Thu Lao xã Thào Chư Phìn - huyện Si Ma Cai - tỉnh Lào Cai (2011)
  • 18. 18 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 tục đứng lên khấn tiếp. Nội dung bài cúng lần 2 là mong thần rừng che chở cho dân bản, mạnh khỏe, an cư lạc nghiệp, mọi sự bình yên, hoa màu tươi tốt, mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Cuối cùng tiếp tục rót rượu vào chén lần 2 và lấy 2 miếng gỗ của 1 thân cây đã chẻ làm 2 để gieo quẻ xem thần đồng ý hay không. Thầy cúng tiến thành thủ tục cúng bàn thờ thần nam trước sau đó sang cúng bàn thờ thần nữ. Bàn thờ thần nam lễ vật gồm có 1 con gà trống và 1 con lợn, còn bàn thờ thần nữ chỉ có 1 con gà mái. Đối với lễ cúng sống, không giống như người Mông là phải đem con vật tế đó đến trước ban thờ, mà chỉ cần cắt tiết con vật, sau đó lấy giấy vàng quệt vào bát tiết đặt lên bàn thờ hoặc dưới bàn thờ coi như là đã mang đem dâng cả con vật tế đó cho thần linh rồi. Lễ vật trong thủ tục cúng chín cũng là gà trống và lợn ở bàn thờ thần nam, và gà mái ở bàn thờ thần nữ. Tuy nhiên, trước đi đặt lên cúng thì con gà phải được chần qua. Gọi là chín nhưng chỉ hơi tái da không chín hẳn như người Mông đã làm. Tất cả các lễ vật này được làm thành 7 xâu thịt. Xâu thịt nào cũng có một ít lòng già, dạ dầy, gan, tim, phổi và thịt mỡ lẫn nạc. Ngoài ra trên bàn thờ thần nam người ta còn đặt cả đầu con lợn. Cả hai bàn thờ, người ta đều đặt các nắm cơm nhỏ. Khi đặt đủ lễ vật chín lên cả hai bàn thờ thầy cúng tiếp tục hành lễ với lời khấn tương tự như lần cúng sống. Sau khi mọi việc hoàn tất, thầy cúng sẽ tổ chức xem xương gà và cho biết ngày kiêng cấm. Nếu thầy cúng thấy xương chân gà tốt thì tất cả các gia đình trong cộng đồng và những người ngoài cộng đồng có đất canh tác tại bản đều bị cấm 3 ngày không được đi làm. Nếu xương gà xấu thì phải kiêng từ 5 đến 7 ngày. Theo quan niệm của người Thu Lao thì sau ngày cúng rừng thần rừng sẽ đi từng ngóc ngách của thôn bản để tẩy đi những gì dơ bẩn còn sót lại trong năm và bắt đi những hồn ma làm hại cho dân bản. Vì vậy, nếu ai đi làm trong thời gian này thì sẽ bị thần rừng bắt mất vía; người đó sẽ bị ốm đau, bệnh tật hoặc và toàn bộ thôn bản sẽ gặp những điều không tốt. 7.2. Quan niệm về thần đất Nếu tại các khu rừng thiêng là nơi trú ngụ của thần rừng, thần rồng thì ở những vùng canh tác trồng trọt nương rẫy, chăn nuôi, người dân lại quan niệm ở đó có các vị 'Thu Tỷ' (thần đất). Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào làm rõ nguồn gốc lễ cúng 'Thu Tỷ' này bắt nguồn từ dân tộc nào. Tuy nhiên như đã được nêu ở phần trên, 'Thu Tỷ' là tập quán lâu đời, không chỉ riêng một nhóm dân tộc mà là tín ngưỡng chung của nhiều dân tộc khác tại xã Nàn Sán và Bản Mế nói riêng, 96 thôn bản của huyện Si Ma Cai nói chung. 'Thu Tỷ' là vị thần cai quản, bảo vệ tài sản, cây trồng, vật nuôi, mang lại sự no đủ, bình yên, hạnh phúc cho mọi thành viên trong cộng đồng không kể thành phần dân tộc. Vì vậy, hàng năm các gia đình trong thôn phải tổ chức lễ cúng để tạ ơn cùng với các lễ vật qui định dâng lên các vị thần này. Lễ vật thường là 1 con gà trống đỏ, miếng thịt lợn chín, rượu, hương. Nếu tại các khu rừng thiêng, người dân thường chọn các cây to làm nơi để bàn thờ và dâng lễ cúng thần thì tại những vùng canh tác, người dân chọn những hòn đá to, đẹp, vững chãi, ít bị tác động bởi con người và động vật để làm các lễ cúng 'Thu Tỷ'. Tại đây, người dân thường đặt các miếu nhỏ được làm bởi các hòn đá nhỏ ghép lại với nhau.
  • 19. 19 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Thời gian lễ cúng 'Thu Tỷ' thường được tổ chức vào ngày rồng của tháng 2 và tháng 6 (âm lịch) hàng năm. Ngày cụ thể thì tùy thuộc vào qui định của từng bản, từng cụm gia đình canh tác trên một vùng đất nhất định. Có những bản tổ chức cả hai lần/năm, như bản Khoán Púng xã Bản Mế. Nhưng đa số các bản chỉ tổ chức một lần hoặc vào ngày rồng tháng 2 hoặc tháng 6. Hình 4: Miếu thờ 'Thứ tỉ' của người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí xã Bản Mế và Nàn Sán 7.3. Quan niệm về thần nông Qua tìm hiểu thấy rằng nếu những không gian cúng thần rừng và 'Thu Tỷ' mang đậm nét văn hóa của những dân tộc có truyền thống canh tác nương rẫy như người Mông thì lễ 'Lồng Tồng', hay còn gọi là lễ hội xuống đồng - là tín ngưỡng đặc trưng quan trọng và lâu đời của nhiều cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước như người Tày và Nùng. Do ảnh hưởng của quá trình di chư, điều kiện nơi cư trú, tiếp biến văn hóa người Thu Lao và La Chí ở xã Nàn Sán và Bản Mế hiện nay cũng đang thực hành tín ngưỡng này. Lễ hội 'Lồng Tồng' được tổ chức để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người ấm no, bản làng yên lành cũng như xin phép các vị thần được bắt đầu một mùa gieo trồng mới. Lễ này thường được tổ chức vào rồng trong tháng giêng (âm lịch) hàng năm. Thời gian cụ thể trong tháng tùy thuộc vào qui định của từng bản. 8. Giao thoa về ngôn ngữ tín ngưỡng Hiện tại, các dân tộc Mông, Nùng và Thu Lao tại Nàn Sán và Bản Mế vẫn đang sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình. Tuy vậy, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của người Thu Lao bị ảnh hưởng nhiều từ người Nùng. Đặc biệt thì người La Chí tại hai bản Hóa Chư Phùng và Lũng Choáng thì hầu như không thể nói được tiếng của dân tộc mình. Hiện tại người La Chí ở hai bản này giao tiếp với nhau bằng tiếng Nùng. Đây có thể là kết quả của quá trình tương tác giữa các nhóm dân tộc yếu thế hơn trong một cộng đồng mà ở đó họ bị ảnh hưởng bởi nhóm dân tộc có nền văn hóa mạnh và chiếm đa số. Như một già làng bản Lũng Choáng, xã Nàn Sán cho biết, 'vì sống cùng
  • 20. 20 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 với người Nùng, là nhóm nhỏ nên phải nói theo người Nùng...hầu hết bây giờ chúng tôi đều theo người Nùng...ngoại trừ các phong tục cúng tổ tiên và làm đám ma là còn giữ...'. Một điểm tương đối thú vị đó là các nhóm dân tộc này đều sử dụng chung một ngôn ngữ 'Quan Hỏa' khi hành lễ tín ngưỡng, thờ cúng. Ví dụ, tất cả các nhóm đều sử dụng từ 'Thu Tỷ' hoặc có nơi gọi là 'Thổ Tì' hoặc 'Thổ Ty' và đều có ý nghĩa là Thần đất. Hoặc người Mông, Nùng và Thu Lao đều cùng chung ý diễn đạt khi nói về thần rông, mặc dù có phần hơi khác về phát âm. Người Mông nói rồng là 'Lồng', còn người Nùng thì lại nói là 'Lùng'. Việc có điểm chung về ngôn giữ tín ngưỡng này có thể được giải thích bởi hai giả định. Thứ nhất, về nguồn gốc các nhóm dân tộc này đều bắt nguồn từ Trung quốc; do đó trước đây họ có nói chung tiếng Quan Hỏa. Thứ hai, người Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí, việc thầy cúng đến từ dân tộc nào không quan trọng. Thầy cúng của dân tộc Mông có thể đến cúng 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu' cho người Nùng và Thu Lao. Ngược lại, thầy cúng người Thu Lao và Nùng có thể đến làm lễ cúng 'Nào Lồng' cho người Mông. Tuy nhiên, một trong những điểm bắt buộc là người thầy cúng phải hành lễ bằng tiếng Quan Hỏa, nếu không thì họ sẽ không thể trao đổi được các vị thần của dân tộc khác. Điều này có nghĩa là thầy cúng có một vai trò hết sức quan trọng trong không gian tương tác, giao thoa không chỉ về ngôn ngữ tín ngưỡng mà còn những giá trị khác về mặt văn hóa và tín ngưỡng của các nhóm dân tộc tại xã Nàn Sán và Bản Mế nói riêng, huyện Si Ma Cai nói chung. 9. Giao thoa về không gian tín ngưỡng 9.1. Không gian rừng thiêng Hình 5: Khu rừng thiêng chung của người Nùng và La Chí thôn Hoa Chư Phùng, xã Nàn Sán Giao thoa về không gian văn hóa cúng rừng được hiểu là trong cùng một vùng (rừng thiêng/rừng cấm) có ít nhất hai nhóm dân tộc khác nhau, cùng hoặc không cùng sinh sống trong một bản, cùng nhau tổ chức chung lễ cúng rừng. Hoặc cũng có trường hợp, cùng một nhóm dân tộc hoặc khác nhóm dân tộc sinh sống ở các làng bản khác nhau liền kề hoặc không liền kề về mặt địa lý, cùng nhau tổ chức lễ cúng rừng. Tại Nàn Sán và Bản Mế sự giao thoa này diễn ra tương đối đa
  • 21. 21 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 dạng. Trong đó có tới 15/20 bản đang diễn ra sự giao thoa này. Còn lại 5 bản khác thì hàng năm các gia đình cùng chung một dân tộc tổ chức riêng lễ cúng rừng theo phong tục của dân tộc mình. Các loại giao thoa này được diễn ra theo một số trường hợp như sau: i) Các nhóm dân tộc khác nhau sinh sống trên cùng một bản cúng chung một khu rừng thiêng. Bảng 3: Rừng thiêng của các dân tộc trong cùng một bản Bản Khu rừng thiêng Khoán Púng (xã Bản Mế) 1khu rừng thiêng được cúng chung bởi nhóm gia đình người Nùng và Thu Lao Cốc Dếế (xã Bản Mế) 1khu rừng thiêng cúng bởi các gia đình người Mông và Nùng Thôn Đội 4 (xã Nàn Sán) 1 khu rừng thiêng được tổ chức cúng chung bởi các gia đình người Nùng, Thu Lao và Mông Lũng Choáng (xã Nàn Sán) 1 khu rừng thiêng được cúng bởi các hộ gia đình người Nùng và La Chí Hóa Chư Phùng (xã Nàn Sán) 1 khu rừng thiêng được cúng bởi các hộ gia đình người Nùng và La Chí Tại xã Bản Mế và Nàn Sán có 5/20 bản có từ 2 đến 3 nhóm các hộ gia đình thuộc các dân tộc Nùng, Mông, Thu Lao, La Chí hàng năm cùng nhau tổ chức cúng 'Đổng Chứ' và 'Đổng Hầu' trong cùng một khu rừng thiêng (bảng 3). ii) Cùng một nhóm dân tộc sinh sống tại các bản khác nhau cúng chung một khu rừng thiêng. Trường hợp này chủ yếu được diễn ra bởi các nhóm hộ gia đình người Mông tại 6 bản của xã Nàn Sán, gồm: Sảng Chải 1, 2, 3, 4, 5 và Quan Thần Súng. Các bản này có ranh giới địa lý liền kề. Về nguồn gốc thì bản Sáng Chải 2, 3, 4, 5 được mở rộng từ bản Sáng Chải 1. Khu rừng cấm được nằm trong địa giới của bản Sáng Chải 4. Hàng năm vào ngày rồng tháng 2 hoặc tháng 6 (âm lịch) người dân tại các bản này tổ chức lễ cúng 'Nào Lồng' theo truyền thống của dân tộc mình. iii) Các nhóm dân tộc khác nhau sinh sống tại các làng bản khác nhau cúng cùng một khu rừng thiêng. Trường hợp này chủ yếu diễn ra bởi các nhóm hộ gia đình người Nùng và Thu Lao tại 4 bản của xã Nàn Sán, gồm: thôn Đội 1, thôn Đội 2, thôn Đội 3 và Nàn Vái. Các bản này cũng có ranh giới địa lý liền kề nhau. Thôn Đội 1, thôn Đội 2, thôn Đội 3 là những bản mới thành lập do chương trình dãn dân của địa phương. Về nguồn gốc thì các bản này nằm trong vùng quản lý của bản Nàn Vái. Theo người dân kể lại thì Nàn Vái là thôn có nguồn gốc lâu đời được hình thành bở nhóm cư dân là người Tày. Khu rừng cấm hiện nay của 4 thôn trên đã từng là nơi cúng thần rừng của người Tày vào ngày rồng tháng 6 âm lịch hàng năm. Theo đó, hàng năm, người dân trong các bản này tổ chức cúng 'Đổng Chứ' tại khu rừng thiêng này (nay thuộc thôn Đội 1) cũng vào thời gian trên. iv) Các dân tộc khác nhau sống chung một bản tổ chức cúng rừng riêng. Trường hợp này xảy ra đối với bản Na Pá, nơi có nhóm các hộ gia đình người Nùng và Mông. Hàng năm, hai nhóm dân tộc này tổ chức cúng rừng riêng tại 2 khu rừng thiêng trong một chỏm đồi. Trước đây hai nhóm
  • 22. 22 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 người Nùng và Mông tổ chức cúng chung. Hiện nay thì hai nhóm đã tổ chức cúng riêng vào hai thời điểm khác nhau. Người Nùng thì tổ chức cúng 'Đổng Chứ' vào ngày 28/2 (âm lịch) và 'Đổng Hầu' vào ngày 2/2 (âm lịch). Nhóm hộ người Mông lại tổ chức cúng 'Nào Lồng' vào ngày rồng tháng 6 (âm lịch). Trong các trường hợp giao thoa trên chủ yếu xảy ra đối với các nhóm người Nùng, Thu Lao và La Chí. Cá biệt ở một số bản như thôn Đội 4 xã Nàn Sán và Cốc Rế xã Bản Mế thì người Mông và người Nùng cùng tổ chức cúng chung tại một khu rừng thiêng. Ở những bản này số hộ gia đình của người Mông chỉ có một vài hộ, chiếm tỷ lệ nhỏ so với những dân tộc còn lại như người Nùng và Thu Lao. Hơn nữa, những gia đình này thường đến sống sau cùng, khi đất rừng không còn nhiều để họ lập riêng cho mình một khu rừng để cúng. Điều này có thể lý giải cho việc tại sao họ phải tham gia cúng chung với dân tộc khác trong một khu rừng thiêng để duy trì tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên của dân tộc mình. Còn ở những bản khác như Sín Chải, Na Pá, Bản Mễ (xã Bản Mế) và Sảng Chải 1, 2, 3, 4, 5 và Quan Thần Súng (xã Nàn Sán) với dân số chiếm đa số thì người Mông đã thiết lập riêng cho mình những khu rừng 'Nào Lồng' để tổ chức cúng riêng. Nhìn chung qua quan sát thấy rằng người Mông có xu hướng thiết lập riêng cho mình những không gian cúng rừng riêng. 9.2. Không gian 'Thu Tỷ' Giao thoa về không gian văn hóa 'Thu Tỷ' hay được gọi là thần đất. Cúng "Thu Tỷ" được hiểu trong cùng một vùng canh tác trồng trọt có các hộ gia đình đến từ ít nhất hai nhóm dân tộc khác nhau, cùng hoặc không sống trong một cộng đồng, hàng năm cùng nhau tổ chức cúng chung một khu rừng. Hình 6: Các gia đình đang chuẩn bị lễ vật cúng 'Thu Tỷ' Nếu những không gian cúng rừng thiêng được dành cho các cả cộng đồng hoặc những gia đình cùng chia sẻ một vùng đất rừng nhất định nào đó thì những không gian cúng 'Thu Tỷ' là nơi mà ở đó một nhóm các hộ gia đình có những mảnh đất canh các (nương rẫy, ruộng bậc thang) liền kề.
  • 23. 23 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Các gia đình này không nhất thiết cùng dòng tộc, dân tộc, mà có thể đến từ các nhóm dân tộc khác nhau. Họ cũng không nhất thiết phải đến từ một bản mà có thể đến từ các bản khác. Việc đan xen các thửa ruộng, nương của các gia đình có thành phần dân tộc khác nhau này là kết quả của của một thời gian dài, qua nhiều thế hệ của tập quán canh tác nương rẫy, du canh trước đây để lại. Cho dù là vậy, nhưng một điểm chung đó là các gia đình này đều tin rằng, những vùng đất này là của thần đất ban tặng. Họ đã 'canh tác nhờ' trên đất của thần 'Thu Tỷ' nên họ phải làm lễ tạ ơn và cầu mong cho một vụ tốt tươi, con người và động vật khỏe mạnh và bình an. Trung bình mỗi bản ở xã Nàn Sán và Bản Mế có từ 3-5 vùng, nơi đó người dân lập miếu thờ cúng 'Thu Tỷ'. Số miếu thờ 'Thu Tỷ' tương ứng với số cụm hộ gia đình có đất canh tác, trồng trọt chăn nuôi liền kề, cùng chia sẻ sự bảo vệ và che chở của một vị thần đất trong vùng sản xuất chung đó. Miếu thờ 'Thu Tỷ' không nhất thiết là ở trung tâm các mảnh ruộng, nương của các hộ gia đình. Miếu thờ này thiết lập ở những nơi mà ở đó người ta quan niệm có thần đất trú ngụ. Đó là những nơi có hòn đá to, đẹp, vững trãi, ít bị tác động bởi con người và động vật. Qua quan sát thấy rằng sự giao thoa, tương tác về không gian văn hóa - nơi các gia đình, dòng họ, dân tộc cùng chia sẻ các giá trị tín ngưỡng về đất thông qua lễ cúng 'Thu Tỷ' tương đối đa dạng. Sự đa dạng này không những thể hiện ở thành phần dân tộc và số nhóm hộ gia đình tham gia lễ cúng mà còn ở phạm vi, qui mô của vùng đất - nơi mà người dân tin có vị thần 'Thu Tỷ' cai quản. Đồng thời sự giao thoa này không chỉ giới hạn trong thời gian diễn ra lễ cúng 'Thu Tỷ' mà còn được duy trì và thực hành hàng ngày thông qua các tương tác trong sinh hoạt, chăn nuôi, trồng trọt của các gia đình trong và ngoài cộng đồng. 9.3. Không gian 'Lồng Tồng' Hình 7: Lễ cúng 'Lồng Tồng' của người Nùng, Thu Lao tại xã bản Mế Qua tìm hiểu thấy rằng nếu những không gian cúng thần rừng và 'Thu Tỷ' mang đậm nét văn hóa của những dân tộc có truyền thống canh tác nương rẫy như người Mông thì lễ 'Lồng Tồng' là tín ngưỡng đặc trưng lâu đời của nhiều cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước như người Tày và Nùng. Với những giao lưu tương tác gần gũi trong sinh hoạt hàng ngày và sản xuất, cũng như chia sẻ và đan xen về diện tích đất trồng trọt thì văn hóa 'Lồng Tồng' cũng đang được người Thu Lao và La Chí ở một số bản ở xã Nàn Sán và Bản Mế Bên thực hành.
  • 24. 24 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Lễ hội 'Lồng Tồng' thường gọi là Hội xuống đồng với nhiều nghi lễ tín ngưỡng và thành phần tham gia đa dạng. Hội xuống đồng là hoạt động tín ngưỡng quan trọng để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản; cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người ấm no, bản làng yên lành. Đồng thời, qua lễ hội này người dân xin phép các vị thần linh được bắt đầu một mùa trồng trọt mới. Do đó, các gia đình sẽ phải chuẩn bị những sản vật (thóc, hoa, quả, măng,...) của địa phương cũng như một số vật dụng dùng trong quá trình trồng trọt để dâng tế các vị thần nông. Lễ cúng 'Lồng Tồng' thường được tổ chức tại thửa ruộng mà năm trước đó đã cho vụ mùa tốt tươi. Theo quan niệm của người dân, nếu làm như vậy thì vụ mùa mới sẽ có nhiều thuận lợi, cây trồng phát triển không bị sâu bọ phá hoại và cho năng suất. Đồng thời đây cũng là dịp để người dân thể hiện sự biết ơn đối với các vị thần đã bảo vệ mùa màng của năm cũ. Tại Lễ cúng thường có sự tham gia của hầu hết các thành phần trong các gia đình và cộng đồng. Một số cư dân ở vùng khác cũng được tham gia nếu họ có đất ruộng và canh tác ở trong địa phận của bản chủ trì tổ chức Lễ hội. 10. Giao thoa về thiết chế quản trị đất - rừng Như đã phân tích ở các phần trên, bên cạnh ý nghĩa tâm linh, cầu, thờ các vị thần đất và thần nông, lễ 'Thu Tỷ' chủ yếu để duy trì và tăng cường cấu kết và sự chia sẻ giúp đỡ nhau giữa các gia đình có cùng nguồn gốc dòng tộc và các dân tộc khác nhau trong quá trình trồng trọt, canh tác - những gia đình có cùng chia sẻ đất đai trong một vùng địa lý nhất định. Bên cạnh đó thì lễ hội 'Lồng Tồng' thể hiện tính đặc sắc về những biểu hiện văn hóa riêng của người Nùng, những cư dân trồng lúa nước. Trong khi đó thì lễ cúng rừng thiêng của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí được thực hành ở cấp cộng đồng và liên cộng đồng, nơi có các thành viên từ nhiều dân tộc khác nhau cùng tham gia. Lễ cúng rừng thiêng được xem như là 'quốc hội' của một nhóm gia đình và cộng đồng có cùng chung các giá trị chuẩn mực và tín ngưỡng đối với đất và rừng. Không gian văn hóa tâm linh này có vai trò lớn trong việc hình thành cấu trúc và thiết chế của cộng đồng và liên cộng đồng trong quá trình đồng quản trị các dạng tài nguyên, cũng như điều chỉnh các mối quan hệ giữa các gia đình, dân tộc. Sau các nghi lễ tâm linh Cúng 'Đổng Chứ', 'Đổng Hầu', 'Nào Lồng' và 'Táng Đẩng Mây'- do các thầy cúng, già làng thực hiện, là phần Hội - nơi có mặt của tất cả các đại diện các gia đình trong và ngoài cộng đồng có liên quan. Trong phần hội này, bên cạnh việc ăn uống vui vẻ, người dân thảo luận các ác qui ước, cam kết, qui định, chuẩn mực và thiết chế không chỉ liên quan tới quản trị đất rừng mà còn duy trì tính cấu kết và bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc. Đây là một hoạt động biểu hiện sự sinh động của tinh thần dân chủ hết sức đặc trưng trong đời sống của các cộng đồng ở xã Bản Mế và Nàn Sán nói riêng, toàn huyện Si Ma Cai nói chung. Các qui định này được hình thành nhằm điều chỉnh mọi mối quan hệ giữa các gia đình, dân tộc và trong quá trình tương tác với nguồn tài nguyên đất và rừng. Tại những thời điểm này, tất cả mọi người đều được tự do tham gia bàn bạc một cách dân chủ để cùng xây dựng nên những quy ước về các hành vi ứng xử, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, để rồi sau đó sẽ tự nguyện chấp hành một cách triệt để, cả bằng niềm tin thành kính lẫn tinh thần tự giác tuyệt
  • 25. 25 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 đối...Do đó, trong phần này báo cáo sẽ tập trung miêu tả một số qui định trong quản trị đất-rừng của các dân tộc có sự giao thoa về tín ngưỡng đất rừng thông qua lễ cúng rừng thiêng. 10.1. Tổ chức thiết chế quản trị đất-rừng Có thể nói tổ chức lễ cúng thần rừng là một sinh hoạt xã hội dân gian của các nhóm dân tộc Mông, Nùng, Thu Lao và La Chí tại xã Nàn Sán và Bản Mế; thông qua đó thiết chế quản lý, vận hành và giám sát trước, trong và sau hoạt động tín ngưỡng này được hình thành. Thiết chế này có đặc điểm là tự hình thành, tự suy tôn theo những giá trị và qui định nhất định trên cơ sở đặc thù về văn hóa, kinh tế và điều kiện tự nhiên của từng vùng. Nguyên tắc này có tính chất tổng thể, bao hàm cả việc quản lý việc đời thường, quản lý việc tâm linh và quản lý tài nguyên thiên nhiên (tác động của con người với đất, rừng, nước...). Để đảm đương được nhiệm vụ trên, cũng như đảm bảo chỗ dựa đời thường, sản xuất và đời sống tâm linh của dân bản, một bộ máy thiết chế luôn luôn song hành vai trò của ba đối tượng đó là trưởng bản, thầy cúng và người trông coi quản lý đất - rừng được hình thành. Trưởng bản là người có vài trò chăm lo đời sống vật chất của các thành viên trong cộng đồng. Đồng thời trưởng bản cũng có vai trò quản lý việc đời thường - điều hòa và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các gia đình, dòng tộc và dân tộc trong cộng đồng. Đôi khi trưởng bản cũng là người có vai trò 'đối ngoại', duy trì và mở rộng mối quan hệ với các cộng đồng khác trong vùng. Trước đây, trưởng bản thường là những người có uy tín, kinh nghiệm, hiểu biết về các phong tục tập quán của dân tộc mình. Đối với người Mông và người Nùng thì trưởng bản thường là trưởng họ của dòng họ đầu tiên đặt chân đến khai phá và lập bản. Trưởng bản còn đóng vai trò điều phối cuộc họp đại diện các gia đình tham gia cúng rừng để thảo luận và điều chỉnh các qui ước chung liên quan tới cấm rừng, bảo vệ rừng, việc chăn thả trâu bò...Hiện nay, một số qui định luật pháp còn được lồng ghép vào những qui ước thôn bản này. Nếu lễ cúng rừng mà có nhiều bản cùng tham gia thì cấu trúc thiết chế cúng rừng thiêng sẽ có mặt trưởng bản của các bản đó để cùng điều hành các nghi lễ hội và tín ngưỡng. Thầy cúng - tiếng Nùng là 'Hai Dê', tiếng Thu Lao là 'Bu Mủ', tiếng Mông là -'Chí Nênh' - là người có vai trò quản lý đời sống tâm linh của người dân, đặc biệt là duy trì ứng xử của các thành viên trong cộng đồng đối với các đấng thần linh. Thông thường thầy cúng là người được truyền từ đời cha ông với sự mách bảo và chỉ dẫn của các thần linh để có thể nói chuyện, liên hệ được với thế giới tâm linh thông qua các bài cúng. Theo qui định thì chỉ có Thầy cúng ở trong bản-nơi diễn ra lễ cúng rừng thiêng thì mới được mời chủ trì nghi lễ tâm linh. Tuy nhiên, nếu lễ cúng rừng thiêng được tổ chức chung bởi các bản thì thầy cúng sẽ được lựa chọn trong số các thầy cũng của các bản đó. Để hỗ trợ thầy cúng trong lễ cúng thần rừng còn có 2 người trợ giúp chuẩn bị các lễ vật cũng như sắp đặt trình tự tín ngưỡng. Bên cạnh đó, hàng tháng vào ngày rằm, mùng một thầy cúng lên rừng thiêng để thắp hương cúng thần rừng. Thầy cúng cũng tham gia vào quá trình đưa ra hạn ngày thực hiện hình phạt và định ngày cúng lại thầy rừng đối với ai vi phạm các qui định chung đối với rừng thiêng.
  • 26. 26 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Người trông coi đất-rừng, theo người Mông gọi là 'Long Thoz', người Nùng gọi là 'Hooc Can' hoặc 'Hooc Thầu', người Thu Lao gọi là 'Hạc Thừ'. Mỗi năm, sau khi kết thúc cúng rừng, trước khi tổ chức liên hoan chung ngay tại rừng thiêng, đại diện các gia đình cùng nhau bầu 2 người trông coi đất-rừng của năm mới. Hai người này được bầu luân phiên giữa các gia đình và thành phần dân tộc tham gia lễ cúng. Sau khi được lựa chọn, trách nhiệm của hai người trông coi đất rừng năm trước sẽ được bàn giao cho hai người được chọn của năm mới bằng tục ăn thề. Hai người năm trước sẽ giao hai đùi gà từ con gà cúng thần rừng cho hai người của năm mới. Hai đùi gà tượng trưng cho trọng trách cũng như niềm tin gửi gắm cho người được chọn trong việc thực hiện một cách trách nhiệm, công minh và minh bạch qui chế của cộng đồng đối với đất và rừng. Trách nhiệm của người coi đất-rừng khác nhau tùy theo qui định và đặc thù của từng cộng đồng. Nhìn chung, trách nhiệm của hai người này là đôn đốc người dân đóng góp tiền để mua lễ vật cúng rừng. Họ có trách nhiệm mua sắm các lễ vật theo đúng qui định cúng rừng. Họ có trách nhiệm nhắc nhở, đôn đốc các thành viên trong cộng đồng thực hiện quy chế bảo vệ rừng, cũng như thường xuyên tổ chức tuần tra bảo vệ rừng. Nếu phát hiện vi phạm thì báo ngay cho thầy cúng và trưởng bản để tiến hành họp toàn bản để thống nhất cách xử lý vi phạm và định ngày cúng lại thần rừng. Tiếp đó, hai người này sẽ đốc thúc việc thực hiện nộp phạt của những người vi phạm qui định của cộng đồng trong bảo vệ rừng. Nếu người vi phạm không chấp hành thì hai vị này phải nộp phạt thay. Do việc bầu người trông coi đất-rừng được xoay vòng hàng năm giữa các gia đình cùng tham gia lễ cúng rừng nên các qui định về đất rừng của cộng đồng thường được người dân ủng hộ, tuân thủ một cách tự giác, tự nguyện và trách nhiệm. Ở một số bản như Lũng Choáng và Hóa Chư Phùng (xã Nàn Sán), ngoài những trách nhiệm trên thì người trông coi đất-rừng còn trợ giúp thầy cúng tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng trong lễ cúng rừng. Bên cạnh vai trò của các trưởng bản, già làng và trưởng họ có uy tín, hai người trông coi đất- rừng cũng tham gia hỗ trợ giải quyết các vướng mắc về đất đai cũng như xử lý các vụ vi phạm khác theo quy định đã được thống nhất trong lễ cúng rừng như gia súc phá hoại hoa màu, tranh chấp về nguồn nước tưới tiêu (bảng 4). Việc xử lý các vi phạm qui chế của cộng đồng được dựa trên các giá trị tương trợ và khoan dung, duy trì cấu kết xã hội, cũng như củng cố các qui định, cam kết trong đời sống cộng đồng. Nhưng những biện pháp này thường rất nghiêm minh. Thông thường, các nghi lễ tín ngưỡng vừa thể hiện tính giáo dục, hối lỗi, răn đe để cầu xin các vị thần bỏ qua và mong cho cuộc sống của cả cộng đồng bình yên được áp dụng đối với những trường hợp vi phạm các điều cấm kị đối với những khu rừng thiêng. Bảng 4: Giải quyết các vi phạm qui định của cộng đồng đối với đất-rừng Các vi phạm Hình thức xử lý Chịu trách nhiệm xử lý Trong thời gian cấm rừng, như: - Đội nón trong và sau thời gian diễn ra cúng rừng - Phụ nữ đang mang thai tham gia lễ cúng rừng - Làm nương, cày cấy, gắt lá tươi, lấy củi, chặt cây...trong thời gian Mua sắm các lễ vật và mời thầy cúng và cả cộng đồng để làm lễ cúng rừng "Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay 'Long Thoz' và thầy cúng
  • 27. 27 | L i ê n m i n h L I S O - L U P A P A - G i a o t h o a l u ậ t t ụ c t r o n g q u ả n t r ị đ ấ t r ừ n g - t h á n g 3 n ă m 2 0 1 4 Các vi phạm Hình thức xử lý Chịu trách nhiệm xử lý cấm rừng Chặt cây, lấy củi hoặc làm ô uế khu rừng thiêng Mua lễ vật và mời thầy cúng để đến tạ lỗi với thần rừng; mời cả bản đến cùng đến ăn và chứng kiến "Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay 'Long Thoz' và thầy cúng Chặt cây, lấy củi, phát nương làm rẫy trong khu rừng sử dụng chung của cộng đồng Tùy vào kích cỡ của cây bị chặt mà sẽ bị phạt theo từng mức tiền. Ví dụ, cây có đường kính trên 20cm thì bị phạt từ 500 đến 1 triệu đồng "Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay 'Long Thoz' và trưởng bản Tranh chấp ranh giới đất rừng giữa các gia đình Thương thảo, hòa giải giữa các gia đình "Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay 'Long Thoz', trưởng bản và người có uy tín (già làng, trưởng họ) Trâu bò phá hoại hoa màu Tùy theo mức độ bị hại các gia đình sẽ tự thương thảo mức đền bù "Hooc Càn', 'Hooc Thầu' hay 'Long Thoz', trưởng bản công an viên Trộm cắp tài sản Bị phạt nặng tùy theo từng mức độ Trưởng bản, công ăn viên Nhiều nghiên cứu trước đây cho rằng luật tục chỉ có thể có hiệu lực đối với các thành viên trong cộng đồng hoặc nhóm dân tộc nhất định, rất khó áp dụng được với người bên ngoài do sự khác nhau về quan niệm giá trị và các đặc điểm đặc thù khác. Tuy nhiên, một điểm thú vi ghi nhận được tại nghiên cứu này đó là chính sự giao thoa về giá trị và hệ thống quản trị giữa các cộng đồng và dân tộc đã làm cho tính hiệu lực của các qui định bởi các nhóm người này có phạm vi ảnh hưởng lớn hơn, rộng hơn. Những qui định này không những chỉ có hiệu lực đối với thành viên của một cộng đồng hay một dân tộc mà còn được người dân ở các làng bản liền kề trong một vùng địa lý nhất định tôn trọng. Bảng 5: Cách thức và phạm vi ảnh hưởng của sự giao thoa luật tục Cách thức Đối tượng áp dụng Phạm vi ảnh hưởng Tín ngưỡng cúng rừng thiêng / rừng cấm Toàn bộ đại diện gia đình trong và giữa các cộng đồng dân tộc cùng chung lễ cúng rừng Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng và liên cộng đồng Thảo luận, 'ăn thề' để điều chỉnh luật tục hàng năm Toàn bộ đại diện gia đình trong và giữa các cộng đồng dân tộc cùng chung lễ cúng rừng Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng và liên cộng đồng Bầu người trông coi đất-rừng quay vòng Đại diện các gia đình trong và giữa các cộng đồng dân tộc cùng chung lễ cúng rừng Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng và liên cộng đồng Chia sẻ trong quá trình sản xuất Đại diện các gia đình trong và ngoài cộng đồng cùng chung lễ 'Thu Tỷ' Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng và liên cộng đồng Xử phạt các trường hợp vi phạm bằng hình thức giáo dục và tổ chức cúng rừng Toàn bộ các gia đình trong và ngoài cộng đồng Nội tại nhóm dân tộc, cộng đồng và liên cộng đồng