SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 87
Downloaden Sie, um offline zu lesen
1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ XUÂN HIỀN

PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Chuyên ngành :

Kinh tế Tài chính Ngân hàng

Mã số

60.31.12

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người Hướng Dẫn Khoa Học
GS.TS Dương Thị Bình Minh

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................3
U

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG..................................................................6
1.1. Tổng quan về rửa tiền. ...................................................................................6
1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.................................................................16
1.3. Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng. .................................................................................................23
1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam..........................................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. ....................38
2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam................................................38
2.2. Tình hình rửa tiền tại Việt Nam...................................................................40
2.3. Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam...............................46
2.4. Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam........50
2.5. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam trong thời gian qua. ....................................................................60
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM......................................................................67
3.1. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng và định hướng phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..............................................................67
3.2. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ....................70
3.3. Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..71
KẾT LUẬN ...............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một mối nguy cơ lớn đối với nhiều
quốc gia trên thế giới. Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống
kê của Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), hàng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa
khoảng 400-500 tỷ USD, trong đó khoảng 60-70% là tiền mặt. Một trong những
thủ đoạn rửa tiền phổ biến là thông qua hệ thống ngân hàng, điều đó có nghĩa là
những quốc gia có hệ thống tài chính ngân hàng sơ khai, lỏng lẻo luôn là điểm đến
tiềm năng của bọn tội phạm rửa tiền. Tác hại của việc rửa tiền không chỉ làm mất
sự kiểm soát của các chính sách kinh tế, mà còn làm suy yếu khu vực kinh tế tư
nhân, lũng đoạn hệ thống tài chính, bóp méo hoạt động ngoại thương, ngăn cản
hội nhập quốc tế …. Chính tác hại to lớn của việc rửa tiền như trên, rất nhiều các
tổ chức chính phủ và phi chính phủ được phân công thực hiện công tác phòng,
chống rửa tiền như: Ngân Hàng Thế Giới (WB), Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ủy
Ban Giám Sát Ngân Hàng Basel, Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF),
v.v… Ở các nước phát triển như : Mỹ, Anh, Nga, Úc, Pháp, … Luật Phòng, chống
rửa tiền đã được hình thành và triển khai một cách hiệu qủa.
Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề
tương đối mới mẻ. Trước đây phòng, chống rửa tiền được đề cập đầu tiên thông
qua Công Ước Viên (Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp
pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988) mà Việt Nam tham gia. Và sau này
là Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 của Chính Phủ về
phòng, chống rửa tiền.
Nghị định 74/2005/NĐ-CP được ban hành năm 2005, tạo cơ sở pháp lý
ban đầu cho công tác phòng, chống rửa tiền. Đến nay, nghị định này đã ban hành
được hơn 5 năm, tuy nhiên hiệu quả của việc ngăn chặn rửa tiền nói chung và
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng nói riêng còn rất hạn chế. Trong thời gian tới
nếu chúng ta không có những giải pháp đúng đắn, Việt Nam sẽ trở thành điểm
4

đến của tội phạm rửa tiền, mà ngân hàng được xem như là công cụ để thực hiện
hành vi đó. Vì vậy, vấn đề phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ở Việt
Nam đang được đặt ra như một đòi hỏi bức xúc trong công tác quản lý hiện nay.
Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu: rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền

-

Phạm vi nghiên cứu: hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở dùng các phương pháp như:

-

Phương pháp mô tả nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình rửa tiền
tại các nước trên thế giới và Việt Nam.

-

Phương pháp thống kê nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng
rửa tiền.

-

Phương pháp lịch sử nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin trong quá khứ
để tìm hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp.
Nguồn dữ liệu của luận văn chủ yếu được lấy từ:

-

Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF).

-

Nhóm châu Á Thái Bình Dương về phống rửa tiền (APG).

-

Tổng cục thống kê.

-

Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.

-

Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu chủ yếu nhằm đạt được:

-

Thứ nhất: phản ánh trung thực những tác động của việc rửa tiền.

-

Thứ hai: nêu lên thực trạng rửa tiền tại Việt Nam và những ảnh hưởng của
nó đến kinh tế xã hội.
5

-

Thứ ba: trên cơ sở đó đưa ra một số đóng góp để đẩy lùi nạn rửa tiền đang
có nguy cơ phát triển mạnh tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân
hàng.
Kết cấu của luận văn.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG.

1.1.

Tổng quan về rửa tiền.

1.1.1. Khái niệm về rửa tiền.
Ở Châu Mỹ Latinh vào khoảng năm 1935, đã xuất hiện loại tội phạm mới,
mà theo tiếng Tây Ban Nha gọi là “blanqueo” được dịch ra tiếng anh là
“whitening” (tẩy trắng). Đây là hành vi nhằm chuyển tiền và tài sản bất hợp pháp
thành tiền và tài sản hợp pháp. Loại tội phạm này thường xảy ra trong các lĩnh
vực ngân hàng, thuế, hải quan và được các nhà làm luật gọi là “tẩy trắng các
đồng tiền bẩn thỉu”
Về sau loại tội phạm này đã xuất hiện ở nhiều nước và được gọi bằng
nhiều tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ như: “riciclaggio” (tiếng Italia, dịch
ra là “tái chế lại”), “blanchiment de fonds” (tiếng Pháp, dịch ra là “tẩy trắng
đồng tiền”). Đến năm 1970, loại tội phạm này xuất hiện tại Mỹ và được gọi là
“money laundering” (tẩy rửa tiền).
Có thể nói, định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền được nhắc đến
trong một văn bản pháp lý mang tính chất quốc tế là Công Ước Viên năm 1988.
Theo đó, rửa tiền là “hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài
sản đó có được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội,
với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội
phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi của
mình; hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm,
việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến
tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có; hành vi mua, tàng
7

trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có”[1 ]
Tuy nhiên, định nghĩa về rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất, đó
là định nghĩa rửa tiền theo Công ước Palermo (2000), rửa tiền được quy định là
hành vi: “(i) Chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do
phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài
sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc
để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại; (ii) Che dấu
hoặc ngụy trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận
chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên quan đến tài sản, dù biết tài sản đó do
phạm tội mà có; (iii) Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã
biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có; (iv) Tham gia, phối hợp hoặc có âm mưu
thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện
thuận lợi và lập kế hoạch để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với quy
định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có”[2 ].
Theo Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) thì: “rửa tiền là việc xử lý
thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của
chúng”[ 3 ].
Theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về
phòng, chống rửa tiền thì: “rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động: (i) tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội
mà có; (ii) thu nhận, chiếm dữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; (iii)
đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm

1

UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And Psychotropic Substances, p.p 3.

2

UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo.

3

FATF, What is Money Laundering?, http://www.fatf-gafi.org/document/29/0,3343,en_32250379_32235720
_33659613_1_1_1_1,00.html
8

cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất
thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do
phạm tội mà có”.
Tuy nhiên theo tác giả thì “rửa tiền là hành vi nhằm chuyển những tài sản
dễ bị nhận biết là có nguồn gốc bất hợp pháp thành những tài sản khó bị nhận
biết là có nguồn gốc bất hợp pháp”
1.1.2. Tác động của việc rửa tiền đối với nền kinh tế xã hội.
Rửa tiền gây ra những hậu quả kinh tế và xã hội nghiêm trọng cho các
nước đang phát triển đặc biệt là những nước có hệ thống tài chính yếu kém. Mặc
dù không thể lượng hóa hết tác động của việc rửa tiền, nhưng chúng ta có thể liệt
kê tương đối đầy đủ những tác động của rửa tiền đối với nền kinh tế như sau:
Làm mất sự kiểm soát các chính sách kinh tế
Tại một số nước mới nổi hay đang trong quá trình chuyển đổi, những
khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của chính phủ nhỏ lại do bị thất
thoát từ nguồn thu thuế. Kết quả là chính phủ rơi vào tình trạng mất kiểm soát
các chính sách kinh tế.
Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân.
Bọn tội phạm rửa tiền sử dụng những công ty ngụy trang để trộn lẫn những
khoản tiền bất hợp pháp với những khoản tiền hợp pháp. Với những khoản tiền
bất hợp pháp, công ty ngụy trang có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn
giá thành sản xuất. Điều này làm cho những doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn
trong việc cạnh tranh với công ty ngụy trang, và có thể dẫn đến phá sản.
Lũng đoạn hệ thống tài chính.
Hoạt động rửa tiền gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của các
ngành kinh tế tài chính vì hai lý do: (i) hoạt động rửa tiền làm gia tăng các hành
vi gian lận của các nhân viên trong định chế tài chính phục vụ cho mục đích rửa
tiền của bọn tội phạm. Hành vi thông đồng tiếp tay cho hoạt động rửa tiền của
9

nhân viên cũng là yếu tố đầu tiên của chu trình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng;
(ii) ở các nước đang phát triển, uy tín của định chế tài chính tác động tới tâm lý
khách hàng, đến lượt nó tác động trở lại tới sự phát triển và lớn mạnh của định
chế tài chính đó.
Nguy hại đến nền kinh tế vĩ mô.
Trong một nghiên cứu, tổ chức tư vấn dịch vụ John Walker đã sử dụng
mô hình I-O để phân tích những kịch bản của tác động rửa tiền. Trong một kịch
bản trung hòa nhất cho thấy tác động như sau: 1 tỷ USD rửa tiền làm giảm đi
1,13 tỷ USD giá trị sản lượng, 609 ngàn USD thu nhập và 25 việc làm[ 4 ].
Bóp méo hoạt động ngoại thương.
Hoạt động rửa tiền có liên hệ mật thiết tới việc làm biến tướng các hoạt
động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Trong lĩnh vực này, bọn tội phạm thường
sử dụng các khoản tiền bất hợp pháp đã được tẩy rửa để nhập khẩu các mặt hàng
sang trọng, đắt tiền, những mặt hàng này không hề sinh lợi cho nền kinh tế hay
tạo ra công ăn việc làm cho người dân thậm chí trong một số trường hợp còn tạo
ra một số cơn sụt giá giả tạo, điều đó dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp
sản xuất trong nước bị giảm sút.
Ngăn cản hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập, nhiều vấn đề đã trở thành thách thức toàn cầu
như bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phòng, chống dịch bệnh, chống
khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó có đấu
tranh phòng, chống rửa tiền luôn được quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để đánh giá
một quốc gia tích cực đấu tranh chống rửa tiền là quốc gia đó phải: (i) Công

4

TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát

triển, (số 186), TPHCM.
10

nhận và tham gia ký kết các công ước quốc tế về phòng, chống rửa tiền; (ii) Có
hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền được xây dựng trên cơ sở 40+9
khuyến nghị của FATF; (iii) Có tổ chức chuyên trách về đấu tranh phòng, chống
rửa tiền và tổ chức tốt cuộc đấu tranh này. Nếu không có những điều kiện trên và
để cho hoạt động rửa tiền phát triển thì quốc gia đó không phải là một đối tác tin
cậy và không thể tham gia thị trường tài chính thế giới một cách toàn diện.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, thì rửa tiền cũng có những tác động
tích cực đối với nền kinh tế như: cơ sở vật chất ở nước nhận đầu tư được cải
thiện, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn, thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn …
Tóm lại, những tích cực của rửa tiền mang lại là nhất thời, nhưng các tác
hại của nó gây ra là lâu dài. Do vậy, hoạt động chống tội phạm rửa tiền là một
hoạt động rất cần nhận được sự quan tâm của các nước trên thế giới.
1.1.3. Nguyên nhân và điều kiện phát triển nạn rửa tiền trên thế giới.
Nhu cầu hợp pháp hóa các tài sản bất hợp pháp.
Theo các chuyên gia IMF, nhu cầu tẩy rửa tiền hàng năm trên thế giới
khoảng 1040 tỷ USD đến 2600 tỷ USD, và con số này tăng khoảng 5% qua các
năm. Để xóa bỏ mọi dấu vết của tài sản bất hợp pháp, bọn tội phạm thường dấu
biệt danh tính của mình, tìm cách đầu tư vào các dự án hợp pháp và cố gắng thu
hồi trong thời gian nhanh nhất số tiền đầu tư đó.
Sự khiếm khuyết, chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Ngày 20/12/1988, lần đầu tiên tội phạm rửa tiền được định nghĩa trong
Công ước Viên của Liên Hiệp Quốc. Đến tháng 7/1989 nhóm hành động tài
chính (GAFI) được thành lập với sự tham gia của 130 chuyên gia đến từ 15 quốc
gia, và nhóm này đã đưa ra 14 nghị quyết về phòng, chống lạm dụng hệ thống
ngân hàng vào mục đích bất hợp pháp, củng cố hệ thống hình sự của các nước
thành viên và phát triển hợp tác quốc tế.
Ở góc độ quốc gia, mãi đến cuối những năm 80 và 90, hầu hết các quốc
11

gia trên thế giới mới quy định tội rửa tiền trong bộ luật hình sự. Một số nước
như: Trung Quốc, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Luxembourg quy định rửa tiền chỉ
liên quan tới ma túy. Trong khi đó các nước như: Đức, Tây Ban Nha, Hy Lạp
quy định rửa tiền nằm trong các tội phạm nghiêm trọng như: buôn bán ma túy,
vũ khí, mại dâm, buôn người. Và một số nước như: Mỹ, Thụy Điển, Pháp, Bỉ,
Áo … và Việt Nam lại quy định tội rửa tiền cho các loại tội phạm.
Chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại hối.
Kể từ đầu những năm 1990, hầu hết các quốc gia đều có chính sách nới
lỏng kiểm soát ngoại tệ. Lượng tiền trao đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD
(năm 1989) lên 1880 tỷ USD năm 2004. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã sử dụng
hoặc công nhận Đô La Mỹ hay Euro như là một nội tệ bán chính thức của họ.
Nhờ thế một lượng tiền khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước
khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan thẩm quyền.
Mức độ mở của nền kinh tế
Mức độ mở của nền kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là 10-15
năm gần đây. Đi liền với sự gia tăng độ mở của nền kinh tế là sự đa dạng hóa các
loại hình dịch vụ tài chính với độ phức tạp cũng tăng lên. Dĩ nhiên, càng nhiều
loại hình dịch vụ tài chính thì càng nhiều cơ hội để chuyển tiền phi pháp.
Cạnh tranh thu hút vốn ngày càng gia tăng giữa các ngân hàng. Đây là yếu
tố mà bọn rửa tiền rất quan tâm, vì chúng biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân
hàng sẵn sàng nhận tiền của chúng mà không cần biết nguồn tiền ấy có từ đâu.
Tác động của cuộc cách mạng thông tin.
Ở nhiều nước trên thế giới, các ngân hàng thương mại đã áp dụng những
tiến bộ của công nghệ thông tin sớm và nhanh nhất. Ngày nay, hầu hết dịch vụ
tài chính đều có thể thực hiện trong nháy mắt từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Phí
giao dịch cũng hạ thấp: phí ngân hàng có thể được giảm tới 40% khi khách hàng
giao dịch qua fax thay vì đích thân đến ngân hàng, và giảm tới 98% khi dịch vụ
12

ấy được thực hiện qua internet. Với những thành quả này đã được bọn tội phạm
rửa tiền lợi dụng triệt để. Trong khi đó, các cơ quan công quyền, đặc biệt là ngân
hàng trung ương tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi thực hiện sự phối hợp
với các ngân hàng thương mại hay với các nước khác.
Do vậy, để đảm bảo cho các nền kinh tế trên thế giới được phát triển một
cách bền vững, công tác phòng, chống rửa tiền phải đặt ra ở tất cả các nước trên
thế giới, không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển,
thông qua việc xây dựng luật phòng, chống rửa tiền và các văn bản quy phạm
pháp luật hướng tới kiểm soát chặt chẽ, hạn chế những điều kiện như trên. Qua
đó đẩy lùi nạn rửa tiền.
1.1.4. Quy trình và các phương thức rửa tiền.
1.1.4.1. Quy trình rửa tiền.
Về mặt quy trình, rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: đưa tiền bất hợp pháp vào hệ thống kinh tế tài chính, gọt tắt
là “gài đặt”, “gửi tiền”. Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất đối với bọn tội
phạm, vì tiền và tài sản bất hợp pháp đang được các cơ quan điều tra theo dõi.
Hơn thế nữa, nhà nước thường đặt ra nhiều quy chế để đón lõng bọn tội phạm
rửa tiền, ví dụ như: quy định lượng tiền mặt được đưa qua biên giới, được phép
thanh toán và thực hiện các quy định về khai báo ngân hàng.
Giai đoạn 2: tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã thâm
nhập hệ thống tài chính, gọi tắt là “chuyển dịch”, “sắp xếp”. Trong công đoạn
này, nhiều thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm cho đồng tiền chuyển dịch
khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xóa đi dấu vết tội phạm. Quốc gia nào có hệ
thống luật doanh nghiệp càng thông thoáng, thì càng dễ bị lợi dụng thông qua
việc thành lập công ty “ma”.
Giai đoạn 3: đầu tư hợp pháp, gọi tắt là “hòa nhập”. Đây là lúc bọn tội phạm
sử dụng tiền, tài sản đã được tẩy rửa để đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động
13

sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như: đầu tư vào các doanh nghiệp, mua cổ
phiếu, tín phiếu, bất động sản … việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ làm gia
tăng giá trị đồng tiền tội phạm, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây
cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm.
1.1.5.2. Các phương thức rửa tiền.
Theo phạm vi thực hiện, thì có 5 trường hợp rửa tiền cơ bản:
Trường hợp 1: “tiền bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây
là quá trình mà số tiền bất hợp pháp được hình thành, được tẩy rửa cũng như
được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó.
Trường hợp 2: “tiền bẩn” được hình thành ở trong nước, sau đó chuyển ra
nước ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu
thông trên thị trường trong nước.
Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa ở
nước đó hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.
Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút khỏi hệ thống tài chính của một
nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó.
Trường hợp 5: “tiền bẩn” sau khi rửa được chuyển vào một nước đang phát
triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện theo một số phương thức
như:
Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài.
Thời gian qua, pháp luật đầu tư nước ngoài của những nước đang phát
triển được xây dựng và thường được bổ sung, sửa đổi theo hướng ngày càng
thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư. Thậm chí độ thông thoáng đến mức
người ta không cần quan tâm đến nguồn gốc vốn đầu tư. “Tiền sạch”, “tiền bẩn”
đều được chấp nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ để
14

rửa tiền. Về phía bọn tội phạm, hiệu qủa đầu tư lại không phải là mục đích và lỗ
lãi không quan trọng nên hoạt động đầu tư chỉ được xem như là một công cụ rửa
tiền. Chúng đưa tiền vào nước các nước đang phát triển để mua bất động sản,
mua lại nhà máy, công ty phá sản, thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài mới … lợi nhuận sau đầu tư được chuyển đến các địa chỉ mong
muốn đã có bề ngoài hợp pháp.
Với thủ đoạn rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài, các tổ chức tội phạm
đã hoàn tất 3 công đoạn của quá trình rửa tiền. Duy trì các kết quả đầu tư càng
lâu dài thì bóng dáng của đồng vốn bất hợp pháp càng phai mờ.
Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm.
Theo đó, bọn tội phạm dùng tiền có nguồn gốc bất hợp pháp mua bảo
hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Khoản tiền này được nằm trong tài
khoản của công ty bảo hiểm một thời gian nhất định. Tiền có nguồn gốc bất hợp
pháp không được sử dụng trong thời gian dài cũng đã tạo ra cho nó một điều
kiện an toàn nhất định. Sau đó, kẻ tẩy rửa sẽ viện một lý do nào đó để yêu cầu
rút tiền trước thời hạn hoặc dùng giá trị của hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi
trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó như mua bất động sản.
Trên thực tế bọn tội phạm còn biến hóa để nó trở nên rối rắm hơn nhiều.
Trong trường hợp khi yêu cầu công ty bảo hiểm rút tiền, chúng không rút tiền
cho chính bản thân mình mà sẽ chỉ định một người khác là người thụ hưởng như
con, cháu, đồng bọn, luật sư.
Rửa tiền bằng cách sử dụng hóa đơn, chứng từ giả.
Theo quy định pháp luật của nhiều nước, việc thành lập và hoạt động của
các doanh nghiệp hầu như không chịu sự kiểm soát nào từ phía nhà nước. Muốn
thành lập doanh nghiệp chỉ cần đăng ký qua mạng, qua điện thoại, qua luật sư
đại diện. Ngay sau khi thành lập, doanh nghiệp có thể mua hóa đơn từ chi cục
thuế để hoạt động. Những công ty bình phong có thể được lập ra, bằng cách thuê
người khác đứng tên để được thành lập, thuê địa chỉ làm trụ sở hoặc khai gian
15

địa chỉ rồi biến mất, những doanh nghiệp này được gọi là doanh nghiệp “ma”
hay doanh nghiệp “ảo”. Hoạt động của chúng không chỉ gắn với rửa tiền mà còn
có thể lừa đảo, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng …Và theo đó, bọn tội phạm sử
dụng tư cách pháp nhân của doanh nghiệp “ma” để ký kết các hợp đồng thương
mại “ma”, cung cấp các dịch vụ khống và xuất hóa đơn, chứng từ theo các yêu
cầu rửa tiền hay mục đích phạm tội. Ở hình thức khác, do có nhiều công ty ở
nhiều nước nên chúng chuyển tiền bất hợp pháp vào công ty ở nước này, rồi từ
công ty đó mua tài sản hoặc dịch vụ của công ty đặt ở nước khác (bề ngoài có
thể khác chủ, nhưng thực tế cùng chủ), với giá rất cao so với giá trị thực của tài
sản. Kỹ thuật này giúp chúng lý giải được nguồn gốc của số lãi giả tạo.
Rửa tiền tại các sòng bạc.
Tại các sòng bạc hầu như không có bất cứ hành động nào nhằm kiểm soát
nguồn gốc tiền của khách mang đến chơi bạc. Do vậy, sòng bạc được xem là
thiên đường để bọn tội phạm thực hiện tẩy rửa tiền bằng cách bỏ tiền có nguồn
gốc bất hợp pháp để mua vé, mua thẻ chơi bạc. Nếu thắng, chúng sẽ được trả
bằng séc để đưa tiền thắng bạc vào tài khoản của mình. Như vậy, bọn tội phạm
sẽ có séc của sòng bạc để hợp pháp hóa những đồng tiền bất hợp pháp. Ở khía
cạnh khác, nhiều khi việc đánh bạc chỉ là hình thức bên ngoài, thực chất bọn tội
phạm đang thỏa thuận với chủ sòng bạc để có được xác nhận các khoản tiền
thắng bạc với một tỷ lệ chi phí nhất định.
Rửa tiền thông qua xổ số và cá cược hợp pháp.
Việc hợp thức hóa tiền có nguồn gốc phạm tội đôi khi được thực hiện
thông qua mua lại những giải thưởng xổ số với giá lớn hơn giá trị thực mà người
trúng thưởng có thể được hưởng. Khoản chi phí lớn hơn đó là khoản chi phí đảm
bảo cho tính hợp pháp của đồng tiền bất hợp pháp. Sau khi sở hữu vé xổ số trúng
thưởng, bọn tội phạm vào Công ty phát hành xổ số là có thể nhận tiền hợp pháp.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều trò chơi cá cược được thừa
nhận là nhu cầu giải trí như: đua ngựa, đua chó, trọi gà, trọi trâu …., hoạt động
16

cá cược này sử dụng tiền mặt với số lượng lớn. Đây cũng là mảnh đất tốt cho
việc rửa tiền.
Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán.
Thị trường chứng khoán cũng là nơi bọn tội phạm chú ý lợi dụng để rửa
tiền, nhất là thị trường chứng khoán ở những nước chưa có quy định chặt chẽ về
kiểm soát nguồn gốc tài chính và pháp luật về rửa tiền. Bọn tội phạm sử dụng
các khoản tiền bất hợp pháp để đầu tư cổ phiếu được niêm yết tại các trung tâm
giao dịch chứng khoán. Sau một thời gian đầu tư, các cổ phiếu trên sẽ được bán
ra với giá có thể thấp hơn giá đầu tư ban đầu, nhưng dấu vết tội phạm của đồng
tiền bất hợp pháp đã dần phai mờ. Do những đồng tiền này được nhận qua hệ
thống tài chính, nên nó có được bề ngoài hợp pháp.
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những
mô hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay của
ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của
phương thức này là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như
được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy
vốn của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như nước nào
cũng có hệ thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống
rửa tiền sơ khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi
hơn.
1.2.

Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.

1.2.1. Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phương thức mà bọn
tội phạm thường sử dụng. Tuy nhiên, để có thể rửa tiền qua kênh này, bọn tội
phạm thường sử dụng các thủ thuật hết sức tinh vi. Do vậy, việc đưa ra các dấu
17

hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết.
Có thể phân loại, định dạng và nhận biết một số dấu hiệu đáng ngờ ở các
giao dịch mà bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền như sau:
Thứ nhất, thông qua thông tin về khách hàng
Ngân hàng hoàn toàn có đủ cơ sở để nghi ngờ bất cứ một khách hàng nào
có thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông tin, chứng từ thông thường theo
quy định của ngân hàng trong quan hệ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt là
những khách hàng cung cấp ít thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc khi
nộp đơn xin mở tài khoản tại ngân hàng, những khách hàng này đã cung cấp
những thông tin mà nếu muốn xác minh được những thông tin đó thì ngân hàng
sẽ gặp khó khăn hoặc phải trả chi phí rất cao.
Thứ hai, các tài khoản giao dịch đang bị điều tra hoặc bị khởi kiện.
Nhân viên ngân hàng thường chú ý đến các chủ tài khoản đang bị điều tra,
khởi kiện hoặc liên quan đến các vụ án đang được xét xử tại tòa án, hoặc nằm
trong danh sách cảnh báo rửa tiền.
Thứ ba, thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch.
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế
Các giao dịch này có đặc điểm không phù hợp với các hoạt động thông
thường của khách hàng. Ví dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện
pháp tài chính thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Tuy nhiên, việc chuyển tiền này lại không phù hợp với các hoạt động kinh doanh
thông thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch
qua các tài khoản mà trước đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại
lại có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ tài khoản này không đưa
ra được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao.
Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn.
18

Một là, mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù
khách hàng có tài khoản trong ngân hàng.
Hai là, thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn, mà số tiền này
dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ba là, rút tiền mặt với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới bất ngờ nhận
được một khoản chuyển tiền vô cùng lớn từ nước ngoài.
Bốn là, gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số
tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng số tất
cả các khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.
Năm là, các khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào
ngân hàng, nhưng tiền rút ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các cá
nhân, hay công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng.
Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số đặc
điểm bất thường. Sau đây là hai trường hợp tiêu biểu:
Một là, tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này
thể hiện ở việc thay đổi đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số
giao dịch lớn trong một thời gian ngắn nhưng số dư tài khoản nhỏ.
Hai là, các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác
nhau về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một thời
gian rất ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản khác nhau.
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài.
Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, các
giao dịch liên quan đến chuyển tiền ra nước ngoài là phổ biến. Tuy nhiên trong
số các giao dịch đó, cũng có những giao dịch với mục đích bất thường. Nhân
viên ngân hàng có thể nhận biết được qua mục đích, tính chất của việc chuyển
tiền. Sau đây là một số dấu hiệu điển hình mà ngân hàng cần quan tâm, lưu ý:
19

Việc một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra
lý do hợp pháp.
Một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nước ngoài, công ty con, hoặc
ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và
buôn bán ma túy thường xuyên diễn ra.
Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư.
Một là, hoạt động mua bán chứng khoán không phù hợp với vị thế hiện tại
của khách hàng, hoặc khách hàng đầu tư chứng khoán bằng tiền mặt một cách
khác thường với số lượng lớn.
Hai là, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có nguồn
gốc từ các nước có tỷ lệ tội phạm cao như: Ý, Nga, Macao ….. hay từ các nước có
hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền còn yếu kém như các nước Châu Phi.
Thứ tư, thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp
Các khoản vay được trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh
toán khác mà người cho vay không được tiết lộ.
Các khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không
có mối liên hệ minh bạch với khách hàng.
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ.
Rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thường lợi dụng
những sơ hở trong các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi
rửa tiền. Do đó, điều đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ đang
trong giai đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ
phía các tổ chức tài chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn hạn chế
20

Về công tác quản lý: ngân hàng trung ương thiếu một cơ quan đầu mối về
phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin về các giao
dịch đáng ngờ từ các ngân hàng thương mại trong nước, cũng như tập hợp danh
sách các giao dịch đáng ngờ từ các nước trên thế giới.
Về phía các ngân hàng thương mại: thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ
thông tin còn tương đối lạc hậu và chưa có quy trình về phòng, chống rửa tiền.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối
mặt với nhiều rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát,
kiểm toán nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc
xây dựng các quy trình giám sát về phòng, chống rửa tiền còn thiếu hoặc chưa
được quan tâm đúng mức. Các ngân hàng không áp dụng các quy định trong việc
nhận dạng và thực hiện nguyên tắc hiểu biết khách hàng.
Thứ ba: một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền.
Tín dụng chứng từ (LC) là một trong những công cụ được bọn tội phạm
rửa tiền ưa thích sử dụng nhất, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng phương
thức này ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt ngân hàng và cơ quan pháp luật. Một
trong những yếu tố hấp dẫn của LC là “các ngân hàng giao dịch trên cơ sở các
chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác có liên
quan đến chứng từ” [ 5 ], tức là ngân hàng phát hành LC sẽ thanh toán khi nhận
được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC chứ không
phải chờ khi hàng đến rồi mới thanh toán. Đối với những LC thanh toán bằng
vốn tín dụng, ngân hàng có thể tham gia can thiệp vào một số điều kiện, điều
khoản của LC nhằm tránh rủi ro cho khách hàng và gián tiếp là tránh rủi ro cho
ngân hàng tài trợ. Ngoài ra, sau khi cho vay thanh toán LC, ngân hàng còn theo
dõi, kiểm tra hàng hóa. Tuy nhiên, đối với LC thanh toán bằng vốn tự có và ký

5

International Chamber Commerce (2007), the Uniform Customs and Practice for Documentary

Credits, Art 5
21

qũy đủ 100% thì các ngân hàng thường chỉ tư vấn chứ không can thiệp vào nội
dung LC và cũng không phải kiểm tra, theo dõi hàng hoá đã được nhận hay
chưa. Thêm vào đó ngân hàng không yêu cầu nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải
quan sau khi hoàn tất thủ tục nhận hàng. Điều này tạo điều kiện tội phạm mở LC
“ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để người thụ hưởng là đồng bọn của
chúng có thể dễ dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán. Theo điều 15 của
UCP 600: “khi ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó
phải thanh toán”, khi đó ngân hàng phát hành thực hiện ghi nợ tài khoản thanh
toán của nhà nhập khẩu. Đến thời điểm này ngân hàng đóng hồ sơ LC mà không
có tờ khai hải quan, nhà nhập khẩu nhận bộ chứng từ nhưng không đi nhận hàng
vì thực tế đó chỉ là giao dịch “ma”, tiền được chuyển ra nước ngoài không gặp
trở ngại nào.
Phương thức nhờ thu chứng từ cũng được bọn tội phạm lợi dụng để rửa
tiền. Thủ thuật có thể được thực hiện như sau: nhà xuất khẩu là đồng bọn của
nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng chuyển giao chứng từ và chỉ thị nhờ thu.
Theo đó, bộ chứng từ được gửi đến ngân hàng xuất trình để nhờ thu, ngân hàng
này xuất trình bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và yêu cầu thanh toán. Biết rằng
bộ chứng từ là giả mạo nhưng nhà nhập khẩu vẫn đồng ý thanh toán cho nhà
xuất khẩu, và tất nhiên nhà nhập khẩu cũng sẽ không đi nhận hàng. Những giao
dịch không có thật này, thường được bọn tội phạm thanh toán bằng vốn tự có để
tránh việc ngân hàng kiểm tra hàng hóa như trong trường hợp giao dịch nhập
khẩu được ngân hàng tài trợ bằng vốn tín dụng.
Ứng trước một phần tiền hàng là một trong những điều kiện mua bán bình
thường trong hợp đồng thương mại quốc tế. Để nhà xuất khẩu có thể ứng trước
một phần tiền hàng từ nhà nhập khẩu, thì giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải
có hợp đồng mua bán hàng hóa với điều khoản thanh toán trước cho nhà xuất
khẩu một số tiền nhất định, để làm cơ sở cho việc ngân hàng chuyển tiền thanh
toán. Như vậy tại thời điểm thanh toán ngân hàng chưa có đầy đủ chứng từ thanh
toán. Nếu đây là những giao dịch thật thì không có vấn đề gì phải bàn, nhưng
22

nếu đó là thủ thuật của bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền thì là chuyện khác.
Ngân hàng có thể bị cáo buộc là đã tiếp tay cho bọn tội phạm rửa tiền. Có ngân
hàng cẩn thận hơn yêu cầu khách hàng bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ
khác khi hoàn tất việc nhận hàng. Nhưng giao dịch “ma” nhằm mục đích rửa tiền
thì làm gì có hàng để nhận. Do vậy nhà nhập khẩu sẽ không thể bổ sung các
chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng chỉ còn biết rút kinh nghiệm
lần sau sẽ không chấp nhận chuyển tiền cho nhà nhập khẩu này nữa.
Lợi dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Nhà xuất khẩu A (trong nước) ký
hợp đồng xuất khẩu “ma” với nhà nhập khẩu B (nước ngoài), trong đó quy định
nhà xuất khẩu A phải cung cấp cho nhà nhập khẩu B một bảo lãnh ngân hàng trị
giá 10% giá trị hợp đồng để đảm bảo cho việc giao hàng. Nhà xuất khẩu A ký
qũy 100% để ngân hàng phát hành bảo lãnh. Khi đến hạn giao hàng nhà xuất
khẩu A cố tình không giao hàng và để cho ngân hàng phải thanh toán cho nhà
nhập khẩu B tiền phạt không thực hiện hợp đồng. Như vậy, tiền được chuyển ra
nước ngoài, với bề ngoài có vẻ hợp pháp. Trong trường hợp ngân hàng quan tâm
đến tổn thất của khách hàng thì được nhà xuất khẩu A trả lời rằng: “mặc dù phải
thanh toán tiền phạt không thực hiện hợp đồng nhưng trong thương vụ này công
ty vẫn có lãi vì đã ký hợp đồng với nhà nhập khẩu khác với giá cao hơn nhiều”.
Lý giải này có vẻ xóa tan nghi ngờ của ngân hàng.
Lợi dụng bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: nhà nhập khẩu B (trong nước)
ký hợp đồng nhập khẩu “ma” với nhà xuất khẩu A (nước ngoài), trong đó quy
định nhà nhập khẩu B phải trả trước 20% trị giá hợp đồng khi nhận được bảo
lãnh hoàn trả tiền ứng trước do ngân hàng của nhà xuất khẩu A phát hành. Khi
nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, nhà nhập khẩu B xuất trình thư bảo
lãnh và đề nghị ngân hàng của mình thực hiện chuyển tiền cho nhà xuất khẩu A
bằng vốn tự có của mình. Tất nhiên nhà nhập khẩu B chẳng bao giờ yêu cầu
ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước mặc dù nhà xuất khẩu A
không thực hiện các cam kết theo hợp đồng.
23

Bên cạnh rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, bọn tội phạm còn thực
hiện rửa tiền thông qua những giao dịch có thật, nhưng thủ thuật tinh vi hơn, đó
là hạ giá hoặc nâng giá hàng hóa. Khoản chênh lệch giữa giá thực tế và giá nhập
khẩu chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa. Sau vụ 11/9,
Mỹ nghi ngờ mạng lưới Al Qaeda có thể đã sử dụng thủ thuật nâng giá xuất khẩu
mật ong để chuyển tiền giữa Mỹ và Trung Đông. Phân tích của hai giáo sư Đại
học quốc tế Florida cho thấy giá xuất khẩu mật ong đến Các Tiểu Vương Quốc
Ả Rập, Cô-oét, Ả Rập xê-út, Yemen cao hơn giá xuất khẩu mật ong đến các
nước khác đáng kể. Bộ Ngân khố Mỹ đã ra lệnh cho các ngân hàng phong tỏa tài
khoản của ba Công ty bán mật ong cho Yemen, vì nghi ngờ các Công ty này có
thể là một bộ phận của mạng lưới Al Qaeda.
1.3.

Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng.
1.3.1. Hệ thống ngân hàng.
Tại hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được
chia thành hai cấp: cấp 1 là ngân hàng trung ương, cấp 2 là ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ tín
dụng, nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Hiện nay, các nước trên thế giới
dù lớn hay nhỏ đều có ngân hàng trung ương, nó có thể được xây dựng ngay sau
khi hình thành quốc gia, hoặc có thể có nguồn gốc từ các ngân hàng thương mại
tư nhân được quốc hữu hóa [ 6 ]
Với tư cách là một bộ máy của Chính phủ, ngân hàng trung ương có nhiệm
vụ và quyền hạn như một cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà

6

TS.Lê Vinh Danh (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát

triển, tr 46
24

nước trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Nhiệm vụ cụ thể khi thực hiện chức năng
này bao gồm: (i) Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của nhà nước; (ii) Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện; (iii) Xây dựng các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo sự phân công của
chính phủ; (iv) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng và trình các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra các văn bản quy phạm
pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; (v) Xây dựng chính sách tiền tệ quốc
gia trong từng thời kỳ trình chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; (vi) Chủ
động điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, các biện pháp khác để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia; (vii) Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động
của các tổ chức tín dụng; (viii) Thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp
luật; (ix) Chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế
hoạch phòng, chống rửa tiền và tổ chức thực hiện; (x) Quản lý ngoại hối và hoạt
động ngoại hối; (xi) Đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật; (xii) Tổ chức thực hiện hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và thực hiện các nhiệm vụ
quyền hạn khác theo quy định pháp luật của từng quốc gia.
Với tư cách là ngân hàng trung ương, cơ quan này thực hiện các chức
năng có tính chất nghiệp vụ như : (i) Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ;
(ii) Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng; (iii) Thực hiện chức
năng ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng trung gian.
Thuật ngữ “ngân hàng trung gian” dùng để ám chỉ nhiều loại ngân hàng.
Tùy theo mỗi quốc gia, các loại ngân hàng này có thể có những tên gọi khác
nhau, nhưng nhìn chung hệ thống ngân hàng trung gian gồm có: ngân hàng
25

thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng đặc biệt, các định chế tài
chính trung gian phi ngân hàng khác.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngân hàng trung gian thực hiện các
chức năng cơ bản như sau:
Thứ nhất là trung gian tín dụng, vì ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng
gửi tiền và vay tiền, ngân hàng chuyển hóa những khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm,
tài sản tạm thời chưa sử dụng của một số chủ thể kinh tế này đến tay chủ thể
kinh tế khác đang cần tiền để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Với chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng trung gian là một thiết chế kinh doanh chuyên
nghiệp, giúp cho cung cầu tín dụng trong nền kinh tế có thể dễ dàng gặp nhau.
Thứ hai là là trung gian thanh toán. Theo chức năng này, ngân hàng trung
gian thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh
của họ. Để thực hiện tốt chức năng này, ngân hàng cung cấp cho khách hàng
nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ
rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn
cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Thứ ba là trung gian giữa ngân hàng trung ương và nền kinh tế. Thông
qua ngân hàng trung gian, tiền mặt từ ngân hàng trung ương cung ứng ra lưu
thông và việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ tác động
trực tiếp đến nền kinh tế. Cũng thông qua ngân hàng trung gian, tình hình về nhu
cầu tiền, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, gian lận thương mại, đặc biệt là việc
lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến hành rửa tiền được phản hồi về ngân hàng
trung ương.
1.3.2. Phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Với những tác hại to lớn của việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến
26

hành rửa tiền. Nhìn chung, các quốc gia phát triển đều đã thực hiện phương thức
phòng, chống rửa tiền như sau:
Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống
rửa tiền. Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy
mô, mức độ tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng,
chống rửa tiền ở các nước có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến
việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan
đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết
khách hàng; (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của
giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về
phòng, chống rửa tiền.
Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một cơ quan chuyên trách về
phòng, chống rửa tiền. Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện
Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ bản:
Mô hình thứ nhất, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ
máy Chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung ương, trợ giúp chính phủ
thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng
giám sát thi hành Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức
năng thu thập các thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng
ngờ và đề xuất các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền.
Mô hình thứ hai, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc
lập với bộ máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong
bộ máy chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn.
Ở các nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm nổi bật của
mô hình này là đảm bảo sự độc lập, khách quan trong điều tra rửa tiền.
27

Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại.
Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro.
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại coi việc đánh giá và phân loại
khách hàng là việc làm hàng đầu. Việc đánh giá và phân loại khách hàng có ý
nghĩa quan trọng quyết định, vì thông qua đây, ngân hàng thương mại sẽ có các
biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Thông thường các ngân hàng thương mại trên
thế giới thường phân khách hàng thành 3 loại như sau:
Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền
Phân loại khách hàng
Khách hàng có rủi ro cao

Mức độ giám sát
Kiểm tra giám sát thường xuyên và bắt buộc
trong việc tìm hiểu thông tin về khách hàng.

Khách hàng rủi ro trung bình Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thường và tìm
hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu.
Khách hàng rủi ro thấp

Kiểm tra giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi
hỏi những thông tin thông thường về khách hàng.

Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội.
Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ.
Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa
tiền được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của từng quốc
gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh … đều xem xét dấu
hiệu bất thường dựa trên mức (ngưỡng) giá trị của các giao dịch quy định (thông
thường các giao dịch có giá trị vượt mức 10.000 USD hoặc tương đương sẽ nằm
trong danh sách các giao dịch cần phải lưu ý, báo cáo). Tuy nhiên ở một số ít các
quốc gia khác lại lưu ý đến những giao dịch có dấu hiệu không bình thường thông
qua tính chất, đặc điểm giao dịch, các thông tin về khách hàng … mà không quá
28

quan tâm đến giá trị giao dịch, tiêu biểu cho trường hợp này là Malaysia.
Khi phát hiện về các giao dịch đáng ngờ, nhân viên ngân hàng phụ trách
sẽ tiến hành xử lý, báo cáo cấp trên xem xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực
thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định việc chuyển các thông tin này
cho Cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để việc này được tiến hành tốt, các ngân
hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình báo cáo thông tin về giao dịch
này, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin khách hàng.
Lưu giữ hồ sơ về khách hàng
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm chỉnh việc lưu giữ hồ sơ,
thông tin về khách hàng. Các thông tin về nhận dạng khách hàng và thông tin
giao dịch được lưu giữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu
cầu của các cơ quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác
điều tra khởi tố. Theo Luật phòng, chống rửa tiền của Malaysia, thời gian lưu giữ
hồ sơ khách hàng là 6 năm nếu không có dính líu gì đến các vụ việc khác.
Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về
phòng, chống rửa tiền.
Ngày nay, hành vi rửa tiền không chỉ thực hiện trong phạm vi một quốc
gia mà còn có thể thực hiện xuyên suốt từ quốc gia này đến quốc gia khác. Do
vậy, công tác phòng, chống rửa tiền rất cần sự hợp tác của các quốc gia trong
việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm.
1.4.

Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam.
1.4.1. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Một trong những quy định quốc tế đầu tiên là Bản tuyên bố về ngăn ngừa
tội phạm sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền của Uỷ ban Basel về
giám sát ngân hàng. Bản tuyên bố này đưa ra các chính sách và thủ tục cơ bản
mà giám đốc ngân hàng cần bảo đảm có sẵn trong tổ chức của mình để hỗ trợ
29

cho việc chống rửa tiền. Về cơ bản, có bốn nguyên tắc được đưa ra trong Bản
tuyên bố này, đó là: (i) Nhận dạng khách hàng đúng cách; (ii) Tiêu chuẩn đạo
đức cao và tuân thủ luật pháp; (iii) Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật;
và (iv) Các chính sách và thủ tục để bảo đảm tuân thủ Bản tuyên bố này
Do mối quan ngại về tình trạng buôn bán ma túy bất hợp pháp trên quốc tế
ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ
thống ngân hàng. Chương trình Liên Hợp Quốc về Kiểm soát ma túy (UNDCP)
đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán ma túy bất hợp pháp và
rửa tiền. Trong năm 1988, Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất
hợp pháp ma túy và chất hướng thần (Công ước Viên) đã được thông qua, có
169 nước tham gia vào Công ước này và có hiệu lực từ tháng 11 năm 1990.
Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp
pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công
ước không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về
khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công
ước Viên chỉ quy định tội buôn bán ma túy bất hợp pháp là tội phạm nguồn và
không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa.
Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Lực
Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF) do nhóm G-7 thành lập tại Paris năm
1989. Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và khuyến khích các tổ chức
cảnh sát trong việc chống rửa tiền. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý
tưởng cho rằng hoạt động rửa tiền là tội phạm kinh tế rất phức tạp, do đó nó
không thể được kiểm soát một cách hiệu quả bởi những phương pháp làm luật
thông thường. Kết quả là cần thiết phải tập hợp các cơ quan chức năng như:
Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Cảnh sát… để phòng, chống rửa tiền.
Điều đó sẽ tạo ra sự phối hợp toàn diện để giải quyết vấn đề phức tạp này.
Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy
định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành được Luật Chống
30

Rửa Tiền. Theo hướng này, tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành 40 khuyến nghị
nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất
hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn
bán ma tuý chuyển qua các tổ chức tài chính. Mặc dù các gợi ý về luật pháp được
đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh giá việc thực hiện của các nước thành viên
thông qua nỗ lực của từng nước trong việc ban hành các quy định về phòng, chống
rửa tiền. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ
chức ngoài nhóm như: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG),
Lực lượng đặc nhiệm tài chính khu vực Caribe (CFATF), Hội đồng châu Âu, Nhóm
chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG), Lực lượng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD)
Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao
dịch rửa tiền trong giao dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực
trong việc tạo ra những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Qua
việc đánh giá các nước trong việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền,
FATF đã yêu cầu các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp,
mà còn phải thực hiện luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra
một diễn đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy
các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia về phòng, chống rửa tiền. Một ví dụ điển
hình là sự phối hợp giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt động rửa tiền
của Tập đoàn Cali vào những năm 90.
FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nước và
những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền. Mục đích của “danh sách đen” này
là “chỉ tên và làm xấu hổ” các nước được coi là thiên đường của việc rửa riền. Danh
sách đen này bao gồm: Ecuado, Iran, Pakistan, North Korea, Ethiopia, Angola,
Turkmenistan, Sao Tome and Principe. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các
ngân hàng đã cắt bỏ quan hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách
trên. Mặc dù, một mặt các nước trên đều phản đối danh sách này, mặt khác hầu hết
họ đều nỗ lực ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy định cho phù hợp với các
31

khuyến nghị của FATF, đồng thời tích cực hợp tác quốc tế toàn diện và thực hiện
báo cáo các giao dịch đáng ngờ để cố gắng ra khỏi danh sách trên.
1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới.
1.4.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ.
Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và
nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của
họ đều phải tuân theo.
Với mục tiêu tìm cách chống lại nạn rửa tiền và tài trợ khủng bố trên tất
cả các mặt trận, bao gồm cả tích cực theo đuổi điều tra tài chính. Nhìn chung,
chiến lược phòng, chống rửa tiền của Mỹ tập trung vào ba mục tiêu chính: (i) Để
hiệu quả hơn, tiến hành cắt đứt sự tiếp cận hệ thống tài chính tài quốc tế của tội
phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Tăng cường khả năng của chính quyền
liên bang hướng đến các tổ chức rửa tiền và các hệ thống tài trợ khủng bố; (iii)
Tăng cường và cải tiến biện pháp phòng, chống rửa tiền cho các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính để cải thiện hiệu quả những nỗ lực tuân thủ và thực thi pháp
luật để ngăn ngừa và ngăn chặn lạm dụng.
Để cụ thể hóa chiến lược trên, Mỹ kiểm tra các tổ chức tài chính trong việc
tuân thủ các quy định của hệ thống, và thực thi những yêu cầu thông qua hành vi
dân sự và hình sự. Bên cạnh đó, Mỹ đánh giá các lĩnh vực khác nhau để xác định
lỗ hổng chống rửa tiền, nhằm áp đặt các biện pháp kiểm soát thích hợp. Tính minh
bạch và trách nhiệm được khuyến khích trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, cũng như
trong các lĩnh vực phi tài chính có liên quan. Và Mỹ cũng xem xét khu vực tư
nhân là một thành phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phòng, chống
rửa tiền. Trong thời gian qua, Chính phủ Mỹ đã có những nỗ lực trong các khu
vực then chốt sau đây: (i) Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan; (ii) Đảm bảo
rằng các cơ quan thực thi pháp luật và Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính sử dụng
và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài chính và các công cụ phân tích; (iii) Tập trung nhân
viên thực thi pháp luật và các nguồn lực khác vào các mục tiêu và các hệ thống tài
32

chính có mức độ ảnh hưởng cao nhất; (iv) Cải cách các cơ quan lập pháp và hành
pháp; (v) Gia tăng các hoạt động hợp tác quốc tế; (vi) Nâng cao sự hỗ trợ lẫn nhau
giữa chính phủ Mỹ với cộng đồng tài chính; và (vii) Giúp chính quyền địa phương
điều tra và truy tố tội phạm tài chính và rửa tiền.
Với các chiến lược và nỗ lực như trên, hàng năm FinCEN nhận được hơn
14,7 triệu báo cáo giao dịch, trong đó chủ yếu là báo cáo giao dịch vượt ngưỡng
(hơn 13,67 triệu giao dịch), báo cáo giao dịch đáng ngờ (hơn 0,66 triệu giao
dịch) ….
Bảng 1.2: Số lượng báo cáo được FinCEN nhận được qua các năm.
Loại hình báo cáo
Báo cáo giao dịch đáng ngờ (SAR)

Năm 2003

Năm 2004

413.052

663.655

13.341.699

13.674.114

Báo cáo của Ngân hàng nước ngoài

199.738

218.667

Báo cáo cho các khoản thanh toán tiền mặt

129.824

151.998

14.084.313

14.708.434

Báo cáo vượt ngưỡng (CTR)

trên 10.000 USD
Tổng số

Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France
Qua đó, hàng năm Mỹ đã đưa ra hơn 1000 trường hợp xét xử theo loại tội
phạm rửa tiền và số trường hợp bị kết án có xu hướng giảm qua các năm:
Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2002 đến 2005
33

Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France
Bên cạnh kết quả như trên, hệ thống phòng, chống rửa tiền của Mỹ còn tồn
tại một số lỗ hỗng như: (i) Các biện pháp liên quan đến những người có quan hệ
chính trị không áp dụng một cách rõ ràng cho các Công ty dịch vụ tiền tệ, lĩnh vực
bảo hiểm, các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa; (ii) Không có quy định rõ
ràng yêu cầu các công ty bảo hiểm, các công ty dịch vụ tiền tệ, hoặc các nhà tư vấn
đầu tư và kinh doanh hàng hóa có các chính sách và thủ tục đối với các giao dịch
không trực tiếp; (iii) Các yêu cầu của Đạo luật bí mật ngân hàng không áp dụng cho
các chi nhánh nước ngoài và văn phòng của Các công ty bảo hiểm nhân thọ.
1.4.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại Singapore.
Không giống như Mỹ, Singapore đã thông qua một phương pháp tiếp cận
đa phương để đối phó với các rủi ro rửa tiền. Các nỗ lực chống rửa tiền hướng
vào khung pháp lý, thể chế, chính sách một cách toàn diện và đầy đủ, tỷ lệ tội
phạm trong nước ở mức thấp, không khoan dung cho tham nhũng trong nước,
một bộ máy tư pháp hiệu quả, một nền văn hóa tuân thủ đã được thiết lập từ lâu
và các biện pháp giám sát được thực hiện đầy đủ và hiệu quả.
Singapore cho rằng họ đã đi đầu trong theo dõi và làm gián đoạn hành vi
rửa tiền thông qua các thông tin tình báo và quyền lực pháp lý khác. Và họ đã
xác định các yếu tố chính của chiến lược chống rửa tiền và tài trợ khủng bố như
sau: (i) Xác định các khu vực ưu tiên cao cho hành động dựa trên đánh giá rủi ro
34

của các mối đe dọa lớn và các lỗ hổng về hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố;
(ii) Thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế một cách nghiêm chỉnh, đặc biệt là 40+9
khuyến nghị của FATF; (iii) Duy trì một chế độ hình phạt nghiêm khắc chống lại
nạn buôn bán ma túy, khủng bố và các tội phạm nghiêm trọng khác; (iv) Thực
thi pháp luật hiệu quả là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ; (v) Áp đặt các tiêu chí
lựa chọn chặt chẽ đối với các định chế tài chính muốn gia nhập ngành tài chính
của Singapore; (vi) Bảo đảm hiệu quả giám sát các định chế tài chính hoạt động
tại Singapore; (vii) Thuê chuyên gia và những chuyên viên nòng cốt để phát triển
và thực hiện các chính sách và biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố; (viii) Thực hiện sự phối hợp và hợp tác cao giữa các cơ quan chính phủ; (ix)
Cung cấp hỗ trợ pháp lý khác thông qua các kênh chính thức và không chính
thức, bao gồm cả việc chia sẻ thông tin và tình báo.
Để tăng cường các biện pháp phòng, chống rửa tiền, chính phủ Singapore
đã quan tâm nhiều hơn đến loại hình kinh doanh và nghề nghiệp phi tài chính
nhạy cảm với rửa tiền. Và họ đã đưa ra các sáng kiến mới bao gồm: (i) Ban hành
quy định phòng, chống rửa tiền đối với các hoạt động casino; (ii) Thực hiện một
hệ thống khai báo cho du khách xuất nhập cảnh để kịp thời phát hiện vận chuyển
tiền hoặc công cụ chuyển nhượng vô danh; (iii) Mở rộng yêu cầu phòng, chống
rửa tiền và tài trợ khủng bố trong môi giới hàng hóa kỳ hạn; (iv) Mở rộng chương
trình tiếp cận lĩnh vực kinh doanh và ngành nghề phi tài chính bao gồm cả luật sư,
đại lý bất động sản, kim hoàn và các doanh nghiệp nói chung; (v) Xây dựng
hướng dẫn thi hành Luật xã hội; (vi) Nghiên cứu một khuôn khổ pháp lý phòng,
chống rửa tiền chi tiết hơn đối với các nhà cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp;
(vii) Đánh giá tham nhũng, buôn bán ma túy và các tội phạm nghiêm trọng khác
để điều chỉnh các quy định có liên quan, và có tính đến các yếu tố phản hồi về các
vấn đề thực hiện.
Thông qua phương pháp tiếp cận như trên, số lượng báo cáo giao dịch
đáng ngờ tăng đều qua các năm, với 6.356 báo cáo, chủ yếu là từ các ngân hàng
2.063 báo cáo, các công ty bảo hiểm 2.964 báo cáo ….
35

Bảng 1.3: Số lượng báo cáo được Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore
nhận được qua các năm 2004-2007
36

Nhóm báo cáo

2004

Các ngân hàng

2005

2006

2007

1 074

1 243

1 712

2 063

543

590

911

2 964

Đại lý đổi tiền và chuyển tiền

32

107

195

111

Các thị trường vốn trung gian

24

60

350

1 039

7

29

56

87

Các cơ quan Chính phủ

57

25

26

30

Các đơn vị khác (bao gồm cả cá nhân)

37

21

35

62

1 772

2 075

3 285

6 356

Các công ty bảo hiểm

Công ty tài chính

Tổng cộng

Nguồn: FATF, APG (2008), Third Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in Singapore,
France
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Mặc dù là nước đi sau trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống
rửa tiền. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách chênh lệch
và giảm thiểu thiệt hại trong việc thực hiện kiểm soát rửa tiền. Qua nghiên cứu
việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại một số nước như: Mỹ,
Singapore, chúng ta có thể rút ta một số kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Kinh nghiệm của các nước trên cho thấy, việc sớm ban hành hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ
quan thực thi đầy đủ các quyền và chức năng của mình.
Xây dựng hệ thống giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về
phòng, chống rửa tiền hiệu quả. Mặc dù Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về
phòng, chống rửa tiền từ những năm 1970, nhưng do thiếu một hệ thống giám sát
37

hiệu quả nên vụ ngân hàng Boston cố tình vi phạm các quy định về lưu giữ
chứng từ, giao dịch với các tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm mới được phát
hiện. Do vậy, công tác giám sát đóng một vai trò quan trọng trong công tác
phòng, chống rửa tiền của các quốc gia.
Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng. Theo kinh nghiệm của các
nước có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả thì việc các ngân hàng thương
mại xây dựng được chính sách nhận biết khách hàng là đã thực hiện cắt đứt sự
tiếp cận hệ thống ngân hàng của bọn tội phạm; tức giai đoạn 1 của quy trình rửa
tiền chưa được thực hiện.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các
phương thức và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng như những ảnh hưởng của hoạt
động rửa tiền đến nền kinh tế. Hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong
phạm vi một quốc gia hay một khu vực mà luôn có xu hướng mở rộng trên toàn
thế giới với khối lượng tiền được tẩy rửa mỗi năm ngày càng gia tăng.
Dù cho hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngân
hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu để thực hiện hành vi tẩy rửa bởi vì khả năng
giao dịch lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành một “đồng tiền sạch”, từ
đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về
tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân hàng Việt Nam hiện đang đứng nguy cơ
sẽ là điểm đến của tội phạm rửa tiền trên thế giới. Thực trạng phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam được trình bày ở chương 2 sẽ cho thấy rõ
hơn về vấn đề này.
38

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

2.1.

Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu

cuộc cách mạng tư duy kinh tế ở Việt Nam. Những quan điểm, đường lối đổi
mới do Đại hội đề ra là cơ sở cho việc tiến hành đổi mới toàn bộ nền kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Nghị Định 53/HĐBT ngày 26/03/1988
của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tiếp đến là 2
Pháp lệnh ngân hàng: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Pháp lệnh
Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng Và Công ty Tài chính ngày 23/05/1990 là
những cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Theo đó, Ngân hàng Nhà
nước là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ, là ngân hàng trung ương có
chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, còn các TCTD có chức
năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã nhanh chóng được củng cố, sắp xếp lại
để phát triển. Trong giai đoạn 1990-1997 hoạt động ngân hàng đã đạt được
những thành tựu đáng kể: đã xây dựng được hệ thống ngân hàng, bước đầu thích
ứng được với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu qủa quản lý của nhà nước, bảo đảm ổn định tiền tệ
kiểm soát lạm phát, vai trò tự chủ kinh doanh ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên,
trong giai đoạn này hoạt động ngân hàng cũng bộc lộ không ít hạn chế, điển hình
là sự hoạt động kém hiệu qủa của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, sự
buông lỏng trong quản lý tín dụng ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh.
Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ
chức tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/10/1998. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Chính
39

phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân
hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các TCTD. Sự ra đời Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức
tín dụng đã khắc phục cơ bản của những hạn chế của 2 pháp lệnh trước đó, hoàn
chỉnh hơn khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và khẳng định quyết tâm
đổi mới mạnh mẽ của Việt Nam.
Trực thuộc Ngân hàng nhà nước là các TCTD, bao gồm 2 loại: TCTD
ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan; và TCTD phi ngân hàng là loại
hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên, không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch
vụ thanh toán.
Sơ đồ 2.1: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
05 Ngân hàng Thương mại Nhà nước
02 Ngân hàng chính sách

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

37 Ngân hàng Thương mại cổ phần
05 Ngân hàng Liên doanh
39 Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài
05 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
40

Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2009
Ngân hàng thương mại nhà nước: trước đây, chúng ta có tất cả 5 ngân
hàng thương mại 100% vốn nhà nước, sau đó vào năm 2008 cổ phần hóa Ngân
hàng Ngoại Thương Việt Nam, năm 2009 cổ phần hóa Ngân hàng Công Thương
Việt Nam. Nên hiện nay chỉ còn 3 ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước là:
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam và Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Các ngân hàng thương mại nhà nước có mạng lưới rộng lớn với khoảng 2000 chi
nhánh các loại được phân bố trên phạm vi cả nước. Các ngân hàng này có được
mối quan hệ truyền thống, gắn bó lâu năm với khách hàng và có uy tín khá cao
trong xã hội, và là ngân hàng đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính
sách phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần: các ngân hàng thương mại cổ phần chủ
yếu được thành lập sau khi có 2 pháp lệnh ngân hàng và là một trong những kết
qủa đáng chú ý của quá trình cải cách ngân hàng. Hiện nay có 37 ngân hàng
đang hoạt động, chiếm hơn 30% thị phần huy động và cho vay. Các ngân hàng
thương mại cổ phần ở Việt Nam hiện nay thường được đặt tại ở những thành phố
lớn và những khu vực nông thôn có sản xuất hàng hóa phát triển, khách hàng
mục tiêu là những doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có quy mô kinh tế vừa
và nhỏ, cá nhân, hộ gia đình. Đã có một số ngân hàng phát triển tương đối tốt
như: ACB, Sacombank, Techcombank ….
Cùng với chính sách mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng được mở
cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức cơ
bản là: Liên doanh với các TCTD trong nước, thành lập chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cho đến nay ở Việt
Nam có 5 ngân hàng liên doanh, 39 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 ngân
hàng 100% vốn nước ngoài.
2.2.

Tình hình rửa tiền tại Việt Nam.
41

2.2.1. Tình hình kinh tế xã hội có liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Việt
Nam.
Sau một thời gian khôi phục và phát triển, cho đến nay tình hình kinh tế
xã hội trong nước đã có những khởi sắc và từng bước hòa nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. GDP tăng đều hàng năm, trung bình 7,5%/năm. Mức sống
người dân dần được cải thiện.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng phải đối mặt với không
ít khó khăn và thách thức. Toàn cầu hóa đã đem đến những bước phát triển thần
tốc cho nền kinh tế nhưng cũng làm cho tội phạm quốc tế có thể xâm nhập vào
nước ta dễ dàng. Những thủ thuật đã bị phát hiện và xử lý ở những quốc gia phát
triển, lại bắt đầu du nhập vào nước ta đang còn non kém về trình độ kiểm soát,
đặc biệt là kiểm soát rửa tiền. Song song với toàn cầu hóa, vấn đề nội tại bên
trong nền kinh tế cũng mang lại không ít cơ hội và điều kiện để thực hiện hành
vi rửa tiền như: hệ thống tài chính tiền tệ còn non kém, công tác cổ phần hóa còn
lỏng lẻo, tình hình buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội phạm băng nhóm có tổ chức
đang ngày càng gia tăng.
Về hệ thống tài chính tiền tệ
Hệ thống tài chính tiền tệ nước ta bao gồm: tài chính công, tài chính
doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm và thị trường tài chính. Trong thời
gian qua, hệ thống tài chính tiền tệ nước ta đã có sự tiến bộ đáng kể, đóng góp
quan trọng vào ổn định và tăng trưởng kinh tế, cụ thể: (i) Thu ngân sách tăng
bình quân hơn 20%/năm, tỷ lệ bội chi ngân sách cố gắng đạt ở mức dưới
5%/GDP; (ii) Vào cuối năm 2000, số lượng doanh nghiệp là 42.228 đơn vị, với
doanh thu bình quân 19,15 tỷ đồng, vốn bình quân 26 tỷ đồng. Đến cuối 2009, số
lượng doanh nghiệp là 205.689 đơn vị, doanh thu bình quân 25,84 tỷ đồng, vốn
bình quân 31 tỷ đồng; (iii) Hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng đáp ứng
tốt hơn các nhu cầu như: thanh toán, vay vốn, gửi tiền, thư tín dụng, bảo lãnh
…., mạng lưới các ngân hàng thương mại được trải khắp đến các huyện trên cả
42

Song song với sự tiến bộ như trên, hệ thống tài chính tiền tệ còn tồn tại
một số vấn đề tạo cơ hội cho bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền như: các
văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều kẻ hở, công nghệ ngân hàng còn tương
đối lạc hậu, các ngân hàng thương mại đều thành lập bộ phận chống rửa tiền
nhưng chỉ mang tính hình thức.
Công cuộc cổ phần hóa ở các doanh nghiệp nhà nước, và đặc biệt là cổ
phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc cổ phần hóa mang lại luồng
sinh khí mới, xóa bỏ tình trạng vô chủ, nhưng nó cũng mang lại không ít mặt
tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa như: xác định giá trị, bán cổ phần doanh
nghiệp. Đây được xem là kẻ hở của chính sách cổ phần hóa để tiến hành tham
nhũng và được xem là nguồn gốc của “tiền bẩn” khi tiến hành các công đoạn rửa
tiền. Ở khía cạnh khác, sau khi tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại
nhà nước, mục tiêu của các ngân hàng này chủ yếu là lợi nhuận, các chỉ tiêu tăng
trưởng được đặt ra ở mức cao, đặc biệt là các chỉ tiêu về tín dụng, huy động. Do
vậy, nhu cầu huy động vốn cấp bách và thiết thực hơn bao giờ hết, và nếu như
các ngân hàng này không có chính sách nhận biết khách hàng hiệu quả, không
hiểu rõ nguồn gốc vốn huy động thì họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng
rửa tiền là rất lớn.
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế đã giảm dần trong các năm gần
đây, nhưng vẫn còn ở mức khá cao với tỷ lệ 14% vào năm 2009, gây khó khăn
trong công tác giám sát lưu thông tiền tệ. Hiện tại ở những nước phát triển chỉ
43

tiêu này ở mức 1 con số.
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán (%)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam khá lớn, trở thành nguồn thu quan
trọng, bổ sung ngoại tệ phục vụ cho công tác thanh toán thương mại quốc gia.
Trong tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, lượng tiền kiều hối do cộng
đồng người Việt ở nước ngoài chuyển về trong năm 2009 chỉ ở mức 6,28 tỷ
USD giảm 12,8% so với năm 2008. Nhưng con số thực tế cao hơn nhiều, với
lượng kiều hối phi chính thức chiếm khoảng 30-60%, đây là nguồn tiền thường
khó xác định nguồn gốc thu nhập. Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng vẫn còn
hạn chế thì hệ thống chuyển tiền khác lại được sử dụng rộng rãi. Do vậy nguy cơ
rửa tiền thông qua con đường này rất lớn.
Biểu đồ 2.2: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các năm.
44

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo đánh giá của của Ngân hàng thế giới, Việt Nam là một trong 20
nước nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới trong năm 2009.
Biểu đồ 2.3: Danh sách 20 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới
năm 2009

Nguồn: World Bank (2010), Migration and Development Brief 12
Về các hoạt động đầu tư: việc kêu gọi và thu hút đầu tư nước ngoài của
các nước đang phát triển và đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển là một
xu hướng hợp tác kinh tế phổ biến hiện nay trên thế giới. Pháp luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện sửa đổi theo hướng ngày càng
thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư. Hiện nay không chỉ ở cấp quốc gia mà còn
tất cả các địa phương đang tạo mọi điều kiện thông thoáng nhất để kêu gọi và
thu hút đầu tư. Thậm chí thông thoáng đến mức mà người ta không cần quan tâm
đến nguồn gốc của vốn đầu tư. Do đó, “tiền sạch”, “tiền bẩn” đều được chấp
nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ tạo điều kiện cho
bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền một cách dễ dàng.
Về tình hình an ninh trật tự xã hội: buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội
phạm băng nhóm có tổ chức đang ngày càng gia tăng. Đặc biệt tội phạm quốc tế
đã xuất hiện và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi. Tội phạm kinh tế, nhất là
tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ hay còn gọi là tội phạm “cổ cồn trắng”
45

đang len lỏi vào trong nền kinh tế. Những tội phạm này tạo ra nguồn thu bất hợp
pháp rất lớn và chúng luôn có nhu cầu chuyển những nguồn thu bất hợp pháp
này thành những nguồn thu có bề ngoài hợp pháp.
2.2.2. Hoạt động rửa tiền tại Việt Nam thời gian qua.
Trong xu thế toàn cầu hoá, rửa tiền không chỉ dừng lại ở những quốc gia
phát triển, mà đang tràn đến những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc
gia có hệ thống tài chính yếu kém. Trong tương lai gần, nền kinh tế nước ta sẽ
hội nhập sâu vào hệ thống tài chính thế giới. Một mặt sẽ là cơ hội giúp Việt Nam
nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác
sự hội nhập này sẽ làm cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam đối mặt với nhiều
hành vi rửa tiền có mức độ tinh vi và mang tầm vóc quốc tế.
Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động
rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong một nghiên
cứu công bố gần đây về các hoạt động phi chính thức tại Việt Nam làm chúng ta
lo ngại. Nghiên cứu của Stoyan và cộng sự cho rằng: “hoạt động phi chính thức
tại Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần
hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ thuộc của hộ gia đình ở nông thôn chiếm
24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là 10,5% và
hoạt động không khai báo khác là 10%”[7 ]. Như vậy, dù ít hay nhiều thì hoạt
động rửa tiền ở Việt Nam đã tồn tại và có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt
động kinh tế xã hội.
“Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống kê của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), hằng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400 -

7

TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát

triển, (số 186)
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam
Tailieu.vncty.com   phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam

Weitere ähnliche Inhalte

Mehr von Trần Đức Anh

Tailieu.vncty.com nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747
Tailieu.vncty.com   nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747Tailieu.vncty.com   nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747
Tailieu.vncty.com nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com nhom 6-de_tai_flo_9602
Tailieu.vncty.com   nhom 6-de_tai_flo_9602Tailieu.vncty.com   nhom 6-de_tai_flo_9602
Tailieu.vncty.com nhom 6-de_tai_flo_9602Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com lai phan-tu_2413
Tailieu.vncty.com   lai phan-tu_2413Tailieu.vncty.com   lai phan-tu_2413
Tailieu.vncty.com lai phan-tu_2413Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com duong hoa-hoc_3666
Tailieu.vncty.com   duong hoa-hoc_3666Tailieu.vncty.com   duong hoa-hoc_3666
Tailieu.vncty.com duong hoa-hoc_3666Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562
Tailieu.vncty.com   do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562Tailieu.vncty.com   do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562
Tailieu.vncty.com do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com tieu luanc4v-1324
Tailieu.vncty.com   tieu luanc4v-1324Tailieu.vncty.com   tieu luanc4v-1324
Tailieu.vncty.com tieu luanc4v-1324Trần Đức Anh
 
Tailieu.vncty.com do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366
Tailieu.vncty.com   do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366Tailieu.vncty.com   do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366
Tailieu.vncty.com do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366Trần Đức Anh
 

Mehr von Trần Đức Anh (20)

Tailieu.vncty.com 5275 1261
Tailieu.vncty.com   5275 1261Tailieu.vncty.com   5275 1261
Tailieu.vncty.com 5275 1261
 
Tailieu.vncty.com 5249 5591
Tailieu.vncty.com   5249 5591Tailieu.vncty.com   5249 5591
Tailieu.vncty.com 5249 5591
 
Tailieu.vncty.com 5219 0449
Tailieu.vncty.com   5219 0449Tailieu.vncty.com   5219 0449
Tailieu.vncty.com 5219 0449
 
Tailieu.vncty.com 5208 2542
Tailieu.vncty.com   5208 2542Tailieu.vncty.com   5208 2542
Tailieu.vncty.com 5208 2542
 
Tailieu.vncty.com 5145 0887
Tailieu.vncty.com   5145 0887Tailieu.vncty.com   5145 0887
Tailieu.vncty.com 5145 0887
 
Tailieu.vncty.com 5142 5647
Tailieu.vncty.com   5142 5647Tailieu.vncty.com   5142 5647
Tailieu.vncty.com 5142 5647
 
Tailieu.vncty.com 5138 529
Tailieu.vncty.com   5138 529Tailieu.vncty.com   5138 529
Tailieu.vncty.com 5138 529
 
Tailieu.vncty.com 5125 4608
Tailieu.vncty.com   5125 4608Tailieu.vncty.com   5125 4608
Tailieu.vncty.com 5125 4608
 
Tailieu.vncty.com 5117 1019
Tailieu.vncty.com   5117 1019Tailieu.vncty.com   5117 1019
Tailieu.vncty.com 5117 1019
 
Tailieu.vncty.com 5106 4775
Tailieu.vncty.com   5106 4775Tailieu.vncty.com   5106 4775
Tailieu.vncty.com 5106 4775
 
Tailieu.vncty.com 5089 2417
Tailieu.vncty.com   5089 2417Tailieu.vncty.com   5089 2417
Tailieu.vncty.com 5089 2417
 
Tailieu.vncty.com 5088 8018
Tailieu.vncty.com   5088 8018Tailieu.vncty.com   5088 8018
Tailieu.vncty.com 5088 8018
 
Tailieu.vncty.com 5067 1967
Tailieu.vncty.com   5067 1967Tailieu.vncty.com   5067 1967
Tailieu.vncty.com 5067 1967
 
Tailieu.vncty.com nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747
Tailieu.vncty.com   nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747Tailieu.vncty.com   nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747
Tailieu.vncty.com nst gioi-tinh_va_di_truyen_lien_ket_gioi_tinh_747
 
Tailieu.vncty.com nhom 6-de_tai_flo_9602
Tailieu.vncty.com   nhom 6-de_tai_flo_9602Tailieu.vncty.com   nhom 6-de_tai_flo_9602
Tailieu.vncty.com nhom 6-de_tai_flo_9602
 
Tailieu.vncty.com lai phan-tu_2413
Tailieu.vncty.com   lai phan-tu_2413Tailieu.vncty.com   lai phan-tu_2413
Tailieu.vncty.com lai phan-tu_2413
 
Tailieu.vncty.com duong hoa-hoc_3666
Tailieu.vncty.com   duong hoa-hoc_3666Tailieu.vncty.com   duong hoa-hoc_3666
Tailieu.vncty.com duong hoa-hoc_3666
 
Tailieu.vncty.com do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562
Tailieu.vncty.com   do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562Tailieu.vncty.com   do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562
Tailieu.vncty.com do an-nhan_giong_in_vi_tro_cay_co_ngot_stevia_4562
 
Tailieu.vncty.com tieu luanc4v-1324
Tailieu.vncty.com   tieu luanc4v-1324Tailieu.vncty.com   tieu luanc4v-1324
Tailieu.vncty.com tieu luanc4v-1324
 
Tailieu.vncty.com do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366
Tailieu.vncty.com   do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366Tailieu.vncty.com   do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366
Tailieu.vncty.com do an-cong_nghe_san_xuat_sua_tiet_trung_9366
 

Tailieu.vncty.com phong, chong-rua_tien_qua_he_thong_ngan_hang_viet_nam

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM LÊ XUÂN HIỀN PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM Chuyên ngành : Kinh tế Tài chính Ngân hàng Mã số 60.31.12 : LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người Hướng Dẫn Khoa Học GS.TS Dương Thị Bình Minh TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
  • 2. 2 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................3 U CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG..................................................................6 1.1. Tổng quan về rửa tiền. ...................................................................................6 1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.................................................................16 1.3. Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. .................................................................................................23 1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam..........................................................................................28 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. ....................38 2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam................................................38 2.2. Tình hình rửa tiền tại Việt Nam...................................................................40 2.3. Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam...............................46 2.4. Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam........50 2.5. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. ....................................................................60 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM......................................................................67 3.1. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng và định hướng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..............................................................67 3.2. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ....................70 3.3. Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..71 KẾT LUẬN ...............................................................................................................83 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 3. 3 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài. Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một mối nguy cơ lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống kê của Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), hàng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400-500 tỷ USD, trong đó khoảng 60-70% là tiền mặt. Một trong những thủ đoạn rửa tiền phổ biến là thông qua hệ thống ngân hàng, điều đó có nghĩa là những quốc gia có hệ thống tài chính ngân hàng sơ khai, lỏng lẻo luôn là điểm đến tiềm năng của bọn tội phạm rửa tiền. Tác hại của việc rửa tiền không chỉ làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế, mà còn làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân, lũng đoạn hệ thống tài chính, bóp méo hoạt động ngoại thương, ngăn cản hội nhập quốc tế …. Chính tác hại to lớn của việc rửa tiền như trên, rất nhiều các tổ chức chính phủ và phi chính phủ được phân công thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền như: Ngân Hàng Thế Giới (WB), Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ủy Ban Giám Sát Ngân Hàng Basel, Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF), v.v… Ở các nước phát triển như : Mỹ, Anh, Nga, Úc, Pháp, … Luật Phòng, chống rửa tiền đã được hình thành và triển khai một cách hiệu qủa. Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề tương đối mới mẻ. Trước đây phòng, chống rửa tiền được đề cập đầu tiên thông qua Công Ước Viên (Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988) mà Việt Nam tham gia. Và sau này là Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 của Chính Phủ về phòng, chống rửa tiền. Nghị định 74/2005/NĐ-CP được ban hành năm 2005, tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho công tác phòng, chống rửa tiền. Đến nay, nghị định này đã ban hành được hơn 5 năm, tuy nhiên hiệu quả của việc ngăn chặn rửa tiền nói chung và rửa tiền qua hệ thống ngân hàng nói riêng còn rất hạn chế. Trong thời gian tới nếu chúng ta không có những giải pháp đúng đắn, Việt Nam sẽ trở thành điểm
  • 4. 4 đến của tội phạm rửa tiền, mà ngân hàng được xem như là công cụ để thực hiện hành vi đó. Vì vậy, vấn đề phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang được đặt ra như một đòi hỏi bức xúc trong công tác quản lý hiện nay. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền - Phạm vi nghiên cứu: hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở dùng các phương pháp như: - Phương pháp mô tả nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình rửa tiền tại các nước trên thế giới và Việt Nam. - Phương pháp thống kê nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng rửa tiền. - Phương pháp lịch sử nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin trong quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp. Nguồn dữ liệu của luận văn chủ yếu được lấy từ: - Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF). - Nhóm châu Á Thái Bình Dương về phống rửa tiền (APG). - Tổng cục thống kê. - Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. - Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Kết quả nghiên cứu chủ yếu nhằm đạt được: - Thứ nhất: phản ánh trung thực những tác động của việc rửa tiền. - Thứ hai: nêu lên thực trạng rửa tiền tại Việt Nam và những ảnh hưởng của nó đến kinh tế xã hội.
  • 5. 5 - Thứ ba: trên cơ sở đó đưa ra một số đóng góp để đẩy lùi nạn rửa tiền đang có nguy cơ phát triển mạnh tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Kết cấu của luận văn. Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn trình bày theo 3 chương: Chương 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Chương 2: Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
  • 6. 6 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG. 1.1. Tổng quan về rửa tiền. 1.1.1. Khái niệm về rửa tiền. Ở Châu Mỹ Latinh vào khoảng năm 1935, đã xuất hiện loại tội phạm mới, mà theo tiếng Tây Ban Nha gọi là “blanqueo” được dịch ra tiếng anh là “whitening” (tẩy trắng). Đây là hành vi nhằm chuyển tiền và tài sản bất hợp pháp thành tiền và tài sản hợp pháp. Loại tội phạm này thường xảy ra trong các lĩnh vực ngân hàng, thuế, hải quan và được các nhà làm luật gọi là “tẩy trắng các đồng tiền bẩn thỉu” Về sau loại tội phạm này đã xuất hiện ở nhiều nước và được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ như: “riciclaggio” (tiếng Italia, dịch ra là “tái chế lại”), “blanchiment de fonds” (tiếng Pháp, dịch ra là “tẩy trắng đồng tiền”). Đến năm 1970, loại tội phạm này xuất hiện tại Mỹ và được gọi là “money laundering” (tẩy rửa tiền). Có thể nói, định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền được nhắc đến trong một văn bản pháp lý mang tính chất quốc tế là Công Ước Viên năm 1988. Theo đó, rửa tiền là “hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội, với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi của mình; hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có; hành vi mua, tàng
  • 7. 7 trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có”[1 ] Tuy nhiên, định nghĩa về rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất, đó là định nghĩa rửa tiền theo Công ước Palermo (2000), rửa tiền được quy định là hành vi: “(i) Chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại; (ii) Che dấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên quan đến tài sản, dù biết tài sản đó do phạm tội mà có; (iii) Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có; (iv) Tham gia, phối hợp hoặc có âm mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện thuận lợi và lập kế hoạch để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với quy định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có”[2 ]. Theo Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) thì: “rửa tiền là việc xử lý thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng”[ 3 ]. Theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền thì: “rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động: (i) tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; (ii) thu nhận, chiếm dữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; (iii) đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm 1 UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And Psychotropic Substances, p.p 3. 2 UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo. 3 FATF, What is Money Laundering?, http://www.fatf-gafi.org/document/29/0,3343,en_32250379_32235720 _33659613_1_1_1_1,00.html
  • 8. 8 cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”. Tuy nhiên theo tác giả thì “rửa tiền là hành vi nhằm chuyển những tài sản dễ bị nhận biết là có nguồn gốc bất hợp pháp thành những tài sản khó bị nhận biết là có nguồn gốc bất hợp pháp” 1.1.2. Tác động của việc rửa tiền đối với nền kinh tế xã hội. Rửa tiền gây ra những hậu quả kinh tế và xã hội nghiêm trọng cho các nước đang phát triển đặc biệt là những nước có hệ thống tài chính yếu kém. Mặc dù không thể lượng hóa hết tác động của việc rửa tiền, nhưng chúng ta có thể liệt kê tương đối đầy đủ những tác động của rửa tiền đối với nền kinh tế như sau: Làm mất sự kiểm soát các chính sách kinh tế Tại một số nước mới nổi hay đang trong quá trình chuyển đổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của chính phủ nhỏ lại do bị thất thoát từ nguồn thu thuế. Kết quả là chính phủ rơi vào tình trạng mất kiểm soát các chính sách kinh tế. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân. Bọn tội phạm rửa tiền sử dụng những công ty ngụy trang để trộn lẫn những khoản tiền bất hợp pháp với những khoản tiền hợp pháp. Với những khoản tiền bất hợp pháp, công ty ngụy trang có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản xuất. Điều này làm cho những doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn trong việc cạnh tranh với công ty ngụy trang, và có thể dẫn đến phá sản. Lũng đoạn hệ thống tài chính. Hoạt động rửa tiền gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của các ngành kinh tế tài chính vì hai lý do: (i) hoạt động rửa tiền làm gia tăng các hành vi gian lận của các nhân viên trong định chế tài chính phục vụ cho mục đích rửa tiền của bọn tội phạm. Hành vi thông đồng tiếp tay cho hoạt động rửa tiền của
  • 9. 9 nhân viên cũng là yếu tố đầu tiên của chu trình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng; (ii) ở các nước đang phát triển, uy tín của định chế tài chính tác động tới tâm lý khách hàng, đến lượt nó tác động trở lại tới sự phát triển và lớn mạnh của định chế tài chính đó. Nguy hại đến nền kinh tế vĩ mô. Trong một nghiên cứu, tổ chức tư vấn dịch vụ John Walker đã sử dụng mô hình I-O để phân tích những kịch bản của tác động rửa tiền. Trong một kịch bản trung hòa nhất cho thấy tác động như sau: 1 tỷ USD rửa tiền làm giảm đi 1,13 tỷ USD giá trị sản lượng, 609 ngàn USD thu nhập và 25 việc làm[ 4 ]. Bóp méo hoạt động ngoại thương. Hoạt động rửa tiền có liên hệ mật thiết tới việc làm biến tướng các hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Trong lĩnh vực này, bọn tội phạm thường sử dụng các khoản tiền bất hợp pháp đã được tẩy rửa để nhập khẩu các mặt hàng sang trọng, đắt tiền, những mặt hàng này không hề sinh lợi cho nền kinh tế hay tạo ra công ăn việc làm cho người dân thậm chí trong một số trường hợp còn tạo ra một số cơn sụt giá giả tạo, điều đó dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất trong nước bị giảm sút. Ngăn cản hội nhập quốc tế Trong bối cảnh hội nhập, nhiều vấn đề đã trở thành thách thức toàn cầu như bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phòng, chống dịch bệnh, chống khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó có đấu tranh phòng, chống rửa tiền luôn được quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để đánh giá một quốc gia tích cực đấu tranh chống rửa tiền là quốc gia đó phải: (i) Công 4 TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), TPHCM.
  • 10. 10 nhận và tham gia ký kết các công ước quốc tế về phòng, chống rửa tiền; (ii) Có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền được xây dựng trên cơ sở 40+9 khuyến nghị của FATF; (iii) Có tổ chức chuyên trách về đấu tranh phòng, chống rửa tiền và tổ chức tốt cuộc đấu tranh này. Nếu không có những điều kiện trên và để cho hoạt động rửa tiền phát triển thì quốc gia đó không phải là một đối tác tin cậy và không thể tham gia thị trường tài chính thế giới một cách toàn diện. Bên cạnh những tác động tiêu cực, thì rửa tiền cũng có những tác động tích cực đối với nền kinh tế như: cơ sở vật chất ở nước nhận đầu tư được cải thiện, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn, thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn … Tóm lại, những tích cực của rửa tiền mang lại là nhất thời, nhưng các tác hại của nó gây ra là lâu dài. Do vậy, hoạt động chống tội phạm rửa tiền là một hoạt động rất cần nhận được sự quan tâm của các nước trên thế giới. 1.1.3. Nguyên nhân và điều kiện phát triển nạn rửa tiền trên thế giới. Nhu cầu hợp pháp hóa các tài sản bất hợp pháp. Theo các chuyên gia IMF, nhu cầu tẩy rửa tiền hàng năm trên thế giới khoảng 1040 tỷ USD đến 2600 tỷ USD, và con số này tăng khoảng 5% qua các năm. Để xóa bỏ mọi dấu vết của tài sản bất hợp pháp, bọn tội phạm thường dấu biệt danh tính của mình, tìm cách đầu tư vào các dự án hợp pháp và cố gắng thu hồi trong thời gian nhanh nhất số tiền đầu tư đó. Sự khiếm khuyết, chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật Ngày 20/12/1988, lần đầu tiên tội phạm rửa tiền được định nghĩa trong Công ước Viên của Liên Hiệp Quốc. Đến tháng 7/1989 nhóm hành động tài chính (GAFI) được thành lập với sự tham gia của 130 chuyên gia đến từ 15 quốc gia, và nhóm này đã đưa ra 14 nghị quyết về phòng, chống lạm dụng hệ thống ngân hàng vào mục đích bất hợp pháp, củng cố hệ thống hình sự của các nước thành viên và phát triển hợp tác quốc tế. Ở góc độ quốc gia, mãi đến cuối những năm 80 và 90, hầu hết các quốc
  • 11. 11 gia trên thế giới mới quy định tội rửa tiền trong bộ luật hình sự. Một số nước như: Trung Quốc, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Luxembourg quy định rửa tiền chỉ liên quan tới ma túy. Trong khi đó các nước như: Đức, Tây Ban Nha, Hy Lạp quy định rửa tiền nằm trong các tội phạm nghiêm trọng như: buôn bán ma túy, vũ khí, mại dâm, buôn người. Và một số nước như: Mỹ, Thụy Điển, Pháp, Bỉ, Áo … và Việt Nam lại quy định tội rửa tiền cho các loại tội phạm. Chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại hối. Kể từ đầu những năm 1990, hầu hết các quốc gia đều có chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại tệ. Lượng tiền trao đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD (năm 1989) lên 1880 tỷ USD năm 2004. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã sử dụng hoặc công nhận Đô La Mỹ hay Euro như là một nội tệ bán chính thức của họ. Nhờ thế một lượng tiền khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan thẩm quyền. Mức độ mở của nền kinh tế Mức độ mở của nền kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là 10-15 năm gần đây. Đi liền với sự gia tăng độ mở của nền kinh tế là sự đa dạng hóa các loại hình dịch vụ tài chính với độ phức tạp cũng tăng lên. Dĩ nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính thì càng nhiều cơ hội để chuyển tiền phi pháp. Cạnh tranh thu hút vốn ngày càng gia tăng giữa các ngân hàng. Đây là yếu tố mà bọn rửa tiền rất quan tâm, vì chúng biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng sẵn sàng nhận tiền của chúng mà không cần biết nguồn tiền ấy có từ đâu. Tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ở nhiều nước trên thế giới, các ngân hàng thương mại đã áp dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin sớm và nhanh nhất. Ngày nay, hầu hết dịch vụ tài chính đều có thể thực hiện trong nháy mắt từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Phí giao dịch cũng hạ thấp: phí ngân hàng có thể được giảm tới 40% khi khách hàng giao dịch qua fax thay vì đích thân đến ngân hàng, và giảm tới 98% khi dịch vụ
  • 12. 12 ấy được thực hiện qua internet. Với những thành quả này đã được bọn tội phạm rửa tiền lợi dụng triệt để. Trong khi đó, các cơ quan công quyền, đặc biệt là ngân hàng trung ương tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi thực hiện sự phối hợp với các ngân hàng thương mại hay với các nước khác. Do vậy, để đảm bảo cho các nền kinh tế trên thế giới được phát triển một cách bền vững, công tác phòng, chống rửa tiền phải đặt ra ở tất cả các nước trên thế giới, không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, thông qua việc xây dựng luật phòng, chống rửa tiền và các văn bản quy phạm pháp luật hướng tới kiểm soát chặt chẽ, hạn chế những điều kiện như trên. Qua đó đẩy lùi nạn rửa tiền. 1.1.4. Quy trình và các phương thức rửa tiền. 1.1.4.1. Quy trình rửa tiền. Về mặt quy trình, rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: đưa tiền bất hợp pháp vào hệ thống kinh tế tài chính, gọt tắt là “gài đặt”, “gửi tiền”. Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất đối với bọn tội phạm, vì tiền và tài sản bất hợp pháp đang được các cơ quan điều tra theo dõi. Hơn thế nữa, nhà nước thường đặt ra nhiều quy chế để đón lõng bọn tội phạm rửa tiền, ví dụ như: quy định lượng tiền mặt được đưa qua biên giới, được phép thanh toán và thực hiện các quy định về khai báo ngân hàng. Giai đoạn 2: tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã thâm nhập hệ thống tài chính, gọi tắt là “chuyển dịch”, “sắp xếp”. Trong công đoạn này, nhiều thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm cho đồng tiền chuyển dịch khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xóa đi dấu vết tội phạm. Quốc gia nào có hệ thống luật doanh nghiệp càng thông thoáng, thì càng dễ bị lợi dụng thông qua việc thành lập công ty “ma”. Giai đoạn 3: đầu tư hợp pháp, gọi tắt là “hòa nhập”. Đây là lúc bọn tội phạm sử dụng tiền, tài sản đã được tẩy rửa để đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động
  • 13. 13 sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như: đầu tư vào các doanh nghiệp, mua cổ phiếu, tín phiếu, bất động sản … việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị đồng tiền tội phạm, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm. 1.1.5.2. Các phương thức rửa tiền. Theo phạm vi thực hiện, thì có 5 trường hợp rửa tiền cơ bản: Trường hợp 1: “tiền bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá trình mà số tiền bất hợp pháp được hình thành, được tẩy rửa cũng như được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó. Trường hợp 2: “tiền bẩn” được hình thành ở trong nước, sau đó chuyển ra nước ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên thị trường trong nước. Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa ở nước đó hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển. Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút khỏi hệ thống tài chính của một nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó. Trường hợp 5: “tiền bẩn” sau khi rửa được chuyển vào một nước đang phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi. Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện theo một số phương thức như: Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài. Thời gian qua, pháp luật đầu tư nước ngoài của những nước đang phát triển được xây dựng và thường được bổ sung, sửa đổi theo hướng ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư. Thậm chí độ thông thoáng đến mức người ta không cần quan tâm đến nguồn gốc vốn đầu tư. “Tiền sạch”, “tiền bẩn” đều được chấp nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ để
  • 14. 14 rửa tiền. Về phía bọn tội phạm, hiệu qủa đầu tư lại không phải là mục đích và lỗ lãi không quan trọng nên hoạt động đầu tư chỉ được xem như là một công cụ rửa tiền. Chúng đưa tiền vào nước các nước đang phát triển để mua bất động sản, mua lại nhà máy, công ty phá sản, thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới … lợi nhuận sau đầu tư được chuyển đến các địa chỉ mong muốn đã có bề ngoài hợp pháp. Với thủ đoạn rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài, các tổ chức tội phạm đã hoàn tất 3 công đoạn của quá trình rửa tiền. Duy trì các kết quả đầu tư càng lâu dài thì bóng dáng của đồng vốn bất hợp pháp càng phai mờ. Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm. Theo đó, bọn tội phạm dùng tiền có nguồn gốc bất hợp pháp mua bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Khoản tiền này được nằm trong tài khoản của công ty bảo hiểm một thời gian nhất định. Tiền có nguồn gốc bất hợp pháp không được sử dụng trong thời gian dài cũng đã tạo ra cho nó một điều kiện an toàn nhất định. Sau đó, kẻ tẩy rửa sẽ viện một lý do nào đó để yêu cầu rút tiền trước thời hạn hoặc dùng giá trị của hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó như mua bất động sản. Trên thực tế bọn tội phạm còn biến hóa để nó trở nên rối rắm hơn nhiều. Trong trường hợp khi yêu cầu công ty bảo hiểm rút tiền, chúng không rút tiền cho chính bản thân mình mà sẽ chỉ định một người khác là người thụ hưởng như con, cháu, đồng bọn, luật sư. Rửa tiền bằng cách sử dụng hóa đơn, chứng từ giả. Theo quy định pháp luật của nhiều nước, việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp hầu như không chịu sự kiểm soát nào từ phía nhà nước. Muốn thành lập doanh nghiệp chỉ cần đăng ký qua mạng, qua điện thoại, qua luật sư đại diện. Ngay sau khi thành lập, doanh nghiệp có thể mua hóa đơn từ chi cục thuế để hoạt động. Những công ty bình phong có thể được lập ra, bằng cách thuê người khác đứng tên để được thành lập, thuê địa chỉ làm trụ sở hoặc khai gian
  • 15. 15 địa chỉ rồi biến mất, những doanh nghiệp này được gọi là doanh nghiệp “ma” hay doanh nghiệp “ảo”. Hoạt động của chúng không chỉ gắn với rửa tiền mà còn có thể lừa đảo, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng …Và theo đó, bọn tội phạm sử dụng tư cách pháp nhân của doanh nghiệp “ma” để ký kết các hợp đồng thương mại “ma”, cung cấp các dịch vụ khống và xuất hóa đơn, chứng từ theo các yêu cầu rửa tiền hay mục đích phạm tội. Ở hình thức khác, do có nhiều công ty ở nhiều nước nên chúng chuyển tiền bất hợp pháp vào công ty ở nước này, rồi từ công ty đó mua tài sản hoặc dịch vụ của công ty đặt ở nước khác (bề ngoài có thể khác chủ, nhưng thực tế cùng chủ), với giá rất cao so với giá trị thực của tài sản. Kỹ thuật này giúp chúng lý giải được nguồn gốc của số lãi giả tạo. Rửa tiền tại các sòng bạc. Tại các sòng bạc hầu như không có bất cứ hành động nào nhằm kiểm soát nguồn gốc tiền của khách mang đến chơi bạc. Do vậy, sòng bạc được xem là thiên đường để bọn tội phạm thực hiện tẩy rửa tiền bằng cách bỏ tiền có nguồn gốc bất hợp pháp để mua vé, mua thẻ chơi bạc. Nếu thắng, chúng sẽ được trả bằng séc để đưa tiền thắng bạc vào tài khoản của mình. Như vậy, bọn tội phạm sẽ có séc của sòng bạc để hợp pháp hóa những đồng tiền bất hợp pháp. Ở khía cạnh khác, nhiều khi việc đánh bạc chỉ là hình thức bên ngoài, thực chất bọn tội phạm đang thỏa thuận với chủ sòng bạc để có được xác nhận các khoản tiền thắng bạc với một tỷ lệ chi phí nhất định. Rửa tiền thông qua xổ số và cá cược hợp pháp. Việc hợp thức hóa tiền có nguồn gốc phạm tội đôi khi được thực hiện thông qua mua lại những giải thưởng xổ số với giá lớn hơn giá trị thực mà người trúng thưởng có thể được hưởng. Khoản chi phí lớn hơn đó là khoản chi phí đảm bảo cho tính hợp pháp của đồng tiền bất hợp pháp. Sau khi sở hữu vé xổ số trúng thưởng, bọn tội phạm vào Công ty phát hành xổ số là có thể nhận tiền hợp pháp. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều trò chơi cá cược được thừa nhận là nhu cầu giải trí như: đua ngựa, đua chó, trọi gà, trọi trâu …., hoạt động
  • 16. 16 cá cược này sử dụng tiền mặt với số lượng lớn. Đây cũng là mảnh đất tốt cho việc rửa tiền. Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán. Thị trường chứng khoán cũng là nơi bọn tội phạm chú ý lợi dụng để rửa tiền, nhất là thị trường chứng khoán ở những nước chưa có quy định chặt chẽ về kiểm soát nguồn gốc tài chính và pháp luật về rửa tiền. Bọn tội phạm sử dụng các khoản tiền bất hợp pháp để đầu tư cổ phiếu được niêm yết tại các trung tâm giao dịch chứng khoán. Sau một thời gian đầu tư, các cổ phiếu trên sẽ được bán ra với giá có thể thấp hơn giá đầu tư ban đầu, nhưng dấu vết tội phạm của đồng tiền bất hợp pháp đã dần phai mờ. Do những đồng tiền này được nhận qua hệ thống tài chính, nên nó có được bề ngoài hợp pháp. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những mô hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay của ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của phương thức này là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy vốn của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như nước nào cũng có hệ thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống rửa tiền sơ khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi hơn. 1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. 1.2.1. Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phương thức mà bọn tội phạm thường sử dụng. Tuy nhiên, để có thể rửa tiền qua kênh này, bọn tội phạm thường sử dụng các thủ thuật hết sức tinh vi. Do vậy, việc đưa ra các dấu
  • 17. 17 hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết. Có thể phân loại, định dạng và nhận biết một số dấu hiệu đáng ngờ ở các giao dịch mà bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền như sau: Thứ nhất, thông qua thông tin về khách hàng Ngân hàng hoàn toàn có đủ cơ sở để nghi ngờ bất cứ một khách hàng nào có thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông tin, chứng từ thông thường theo quy định của ngân hàng trong quan hệ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt là những khách hàng cung cấp ít thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc khi nộp đơn xin mở tài khoản tại ngân hàng, những khách hàng này đã cung cấp những thông tin mà nếu muốn xác minh được những thông tin đó thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn hoặc phải trả chi phí rất cao. Thứ hai, các tài khoản giao dịch đang bị điều tra hoặc bị khởi kiện. Nhân viên ngân hàng thường chú ý đến các chủ tài khoản đang bị điều tra, khởi kiện hoặc liên quan đến các vụ án đang được xét xử tại tòa án, hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền. Thứ ba, thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch. Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế Các giao dịch này có đặc điểm không phù hợp với các hoạt động thông thường của khách hàng. Ví dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện pháp tài chính thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này sang quốc gia khác. Tuy nhiên, việc chuyển tiền này lại không phù hợp với các hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch qua các tài khoản mà trước đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại lại có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ tài khoản này không đưa ra được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao. Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn.
  • 18. 18 Một là, mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù khách hàng có tài khoản trong ngân hàng. Hai là, thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn, mà số tiền này dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng. Ba là, rút tiền mặt với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới bất ngờ nhận được một khoản chuyển tiền vô cùng lớn từ nước ngoài. Bốn là, gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng số tất cả các khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn. Năm là, các khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào ngân hàng, nhưng tiền rút ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các cá nhân, hay công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng. Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số đặc điểm bất thường. Sau đây là hai trường hợp tiêu biểu: Một là, tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này thể hiện ở việc thay đổi đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số giao dịch lớn trong một thời gian ngắn nhưng số dư tài khoản nhỏ. Hai là, các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một thời gian rất ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản khác nhau. Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài. Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, các giao dịch liên quan đến chuyển tiền ra nước ngoài là phổ biến. Tuy nhiên trong số các giao dịch đó, cũng có những giao dịch với mục đích bất thường. Nhân viên ngân hàng có thể nhận biết được qua mục đích, tính chất của việc chuyển tiền. Sau đây là một số dấu hiệu điển hình mà ngân hàng cần quan tâm, lưu ý:
  • 19. 19 Việc một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra lý do hợp pháp. Một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nước ngoài, công ty con, hoặc ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy thường xuyên diễn ra. Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư. Một là, hoạt động mua bán chứng khoán không phù hợp với vị thế hiện tại của khách hàng, hoặc khách hàng đầu tư chứng khoán bằng tiền mặt một cách khác thường với số lượng lớn. Hai là, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có nguồn gốc từ các nước có tỷ lệ tội phạm cao như: Ý, Nga, Macao ….. hay từ các nước có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền còn yếu kém như các nước Châu Phi. Thứ tư, thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp Các khoản vay được trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh toán khác mà người cho vay không được tiết lộ. Các khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối liên hệ minh bạch với khách hàng. 1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ. Rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thường lợi dụng những sơ hở trong các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi rửa tiền. Do đó, điều đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ phía các tổ chức tài chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Thứ hai, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn hạn chế
  • 20. 20 Về công tác quản lý: ngân hàng trung ương thiếu một cơ quan đầu mối về phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin về các giao dịch đáng ngờ từ các ngân hàng thương mại trong nước, cũng như tập hợp danh sách các giao dịch đáng ngờ từ các nước trên thế giới. Về phía các ngân hàng thương mại: thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin còn tương đối lạc hậu và chưa có quy trình về phòng, chống rửa tiền. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối mặt với nhiều rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát, kiểm toán nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc xây dựng các quy trình giám sát về phòng, chống rửa tiền còn thiếu hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Các ngân hàng không áp dụng các quy định trong việc nhận dạng và thực hiện nguyên tắc hiểu biết khách hàng. Thứ ba: một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền. Tín dụng chứng từ (LC) là một trong những công cụ được bọn tội phạm rửa tiền ưa thích sử dụng nhất, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng phương thức này ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt ngân hàng và cơ quan pháp luật. Một trong những yếu tố hấp dẫn của LC là “các ngân hàng giao dịch trên cơ sở các chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác có liên quan đến chứng từ” [ 5 ], tức là ngân hàng phát hành LC sẽ thanh toán khi nhận được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC chứ không phải chờ khi hàng đến rồi mới thanh toán. Đối với những LC thanh toán bằng vốn tín dụng, ngân hàng có thể tham gia can thiệp vào một số điều kiện, điều khoản của LC nhằm tránh rủi ro cho khách hàng và gián tiếp là tránh rủi ro cho ngân hàng tài trợ. Ngoài ra, sau khi cho vay thanh toán LC, ngân hàng còn theo dõi, kiểm tra hàng hóa. Tuy nhiên, đối với LC thanh toán bằng vốn tự có và ký 5 International Chamber Commerce (2007), the Uniform Customs and Practice for Documentary Credits, Art 5
  • 21. 21 qũy đủ 100% thì các ngân hàng thường chỉ tư vấn chứ không can thiệp vào nội dung LC và cũng không phải kiểm tra, theo dõi hàng hoá đã được nhận hay chưa. Thêm vào đó ngân hàng không yêu cầu nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải quan sau khi hoàn tất thủ tục nhận hàng. Điều này tạo điều kiện tội phạm mở LC “ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để người thụ hưởng là đồng bọn của chúng có thể dễ dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán. Theo điều 15 của UCP 600: “khi ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán”, khi đó ngân hàng phát hành thực hiện ghi nợ tài khoản thanh toán của nhà nhập khẩu. Đến thời điểm này ngân hàng đóng hồ sơ LC mà không có tờ khai hải quan, nhà nhập khẩu nhận bộ chứng từ nhưng không đi nhận hàng vì thực tế đó chỉ là giao dịch “ma”, tiền được chuyển ra nước ngoài không gặp trở ngại nào. Phương thức nhờ thu chứng từ cũng được bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền. Thủ thuật có thể được thực hiện như sau: nhà xuất khẩu là đồng bọn của nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng chuyển giao chứng từ và chỉ thị nhờ thu. Theo đó, bộ chứng từ được gửi đến ngân hàng xuất trình để nhờ thu, ngân hàng này xuất trình bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và yêu cầu thanh toán. Biết rằng bộ chứng từ là giả mạo nhưng nhà nhập khẩu vẫn đồng ý thanh toán cho nhà xuất khẩu, và tất nhiên nhà nhập khẩu cũng sẽ không đi nhận hàng. Những giao dịch không có thật này, thường được bọn tội phạm thanh toán bằng vốn tự có để tránh việc ngân hàng kiểm tra hàng hóa như trong trường hợp giao dịch nhập khẩu được ngân hàng tài trợ bằng vốn tín dụng. Ứng trước một phần tiền hàng là một trong những điều kiện mua bán bình thường trong hợp đồng thương mại quốc tế. Để nhà xuất khẩu có thể ứng trước một phần tiền hàng từ nhà nhập khẩu, thì giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải có hợp đồng mua bán hàng hóa với điều khoản thanh toán trước cho nhà xuất khẩu một số tiền nhất định, để làm cơ sở cho việc ngân hàng chuyển tiền thanh toán. Như vậy tại thời điểm thanh toán ngân hàng chưa có đầy đủ chứng từ thanh toán. Nếu đây là những giao dịch thật thì không có vấn đề gì phải bàn, nhưng
  • 22. 22 nếu đó là thủ thuật của bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền thì là chuyện khác. Ngân hàng có thể bị cáo buộc là đã tiếp tay cho bọn tội phạm rửa tiền. Có ngân hàng cẩn thận hơn yêu cầu khách hàng bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ khác khi hoàn tất việc nhận hàng. Nhưng giao dịch “ma” nhằm mục đích rửa tiền thì làm gì có hàng để nhận. Do vậy nhà nhập khẩu sẽ không thể bổ sung các chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng chỉ còn biết rút kinh nghiệm lần sau sẽ không chấp nhận chuyển tiền cho nhà nhập khẩu này nữa. Lợi dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Nhà xuất khẩu A (trong nước) ký hợp đồng xuất khẩu “ma” với nhà nhập khẩu B (nước ngoài), trong đó quy định nhà xuất khẩu A phải cung cấp cho nhà nhập khẩu B một bảo lãnh ngân hàng trị giá 10% giá trị hợp đồng để đảm bảo cho việc giao hàng. Nhà xuất khẩu A ký qũy 100% để ngân hàng phát hành bảo lãnh. Khi đến hạn giao hàng nhà xuất khẩu A cố tình không giao hàng và để cho ngân hàng phải thanh toán cho nhà nhập khẩu B tiền phạt không thực hiện hợp đồng. Như vậy, tiền được chuyển ra nước ngoài, với bề ngoài có vẻ hợp pháp. Trong trường hợp ngân hàng quan tâm đến tổn thất của khách hàng thì được nhà xuất khẩu A trả lời rằng: “mặc dù phải thanh toán tiền phạt không thực hiện hợp đồng nhưng trong thương vụ này công ty vẫn có lãi vì đã ký hợp đồng với nhà nhập khẩu khác với giá cao hơn nhiều”. Lý giải này có vẻ xóa tan nghi ngờ của ngân hàng. Lợi dụng bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: nhà nhập khẩu B (trong nước) ký hợp đồng nhập khẩu “ma” với nhà xuất khẩu A (nước ngoài), trong đó quy định nhà nhập khẩu B phải trả trước 20% trị giá hợp đồng khi nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước do ngân hàng của nhà xuất khẩu A phát hành. Khi nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, nhà nhập khẩu B xuất trình thư bảo lãnh và đề nghị ngân hàng của mình thực hiện chuyển tiền cho nhà xuất khẩu A bằng vốn tự có của mình. Tất nhiên nhà nhập khẩu B chẳng bao giờ yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước mặc dù nhà xuất khẩu A không thực hiện các cam kết theo hợp đồng.
  • 23. 23 Bên cạnh rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, bọn tội phạm còn thực hiện rửa tiền thông qua những giao dịch có thật, nhưng thủ thuật tinh vi hơn, đó là hạ giá hoặc nâng giá hàng hóa. Khoản chênh lệch giữa giá thực tế và giá nhập khẩu chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa. Sau vụ 11/9, Mỹ nghi ngờ mạng lưới Al Qaeda có thể đã sử dụng thủ thuật nâng giá xuất khẩu mật ong để chuyển tiền giữa Mỹ và Trung Đông. Phân tích của hai giáo sư Đại học quốc tế Florida cho thấy giá xuất khẩu mật ong đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập, Cô-oét, Ả Rập xê-út, Yemen cao hơn giá xuất khẩu mật ong đến các nước khác đáng kể. Bộ Ngân khố Mỹ đã ra lệnh cho các ngân hàng phong tỏa tài khoản của ba Công ty bán mật ong cho Yemen, vì nghi ngờ các Công ty này có thể là một bộ phận của mạng lưới Al Qaeda. 1.3. Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. 1.3.1. Hệ thống ngân hàng. Tại hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được chia thành hai cấp: cấp 1 là ngân hàng trung ương, cấp 2 là ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung ương Ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng, nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Hiện nay, các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ đều có ngân hàng trung ương, nó có thể được xây dựng ngay sau khi hình thành quốc gia, hoặc có thể có nguồn gốc từ các ngân hàng thương mại tư nhân được quốc hữu hóa [ 6 ] Với tư cách là một bộ máy của Chính phủ, ngân hàng trung ương có nhiệm vụ và quyền hạn như một cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà 6 TS.Lê Vinh Danh (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát triển, tr 46
  • 24. 24 nước trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Nhiệm vụ cụ thể khi thực hiện chức năng này bao gồm: (i) Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước; (ii) Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện; (iii) Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo sự phân công của chính phủ; (iv) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng và trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; (v) Xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ trình chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; (vi) Chủ động điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, các biện pháp khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; (vii) Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng; (viii) Thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật; (ix) Chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch phòng, chống rửa tiền và tổ chức thực hiện; (x) Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối; (xi) Đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật; (xii) Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định pháp luật của từng quốc gia. Với tư cách là ngân hàng trung ương, cơ quan này thực hiện các chức năng có tính chất nghiệp vụ như : (i) Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ; (ii) Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng; (iii) Thực hiện chức năng ngân hàng của chính phủ. Ngân hàng trung gian. Thuật ngữ “ngân hàng trung gian” dùng để ám chỉ nhiều loại ngân hàng. Tùy theo mỗi quốc gia, các loại ngân hàng này có thể có những tên gọi khác nhau, nhưng nhìn chung hệ thống ngân hàng trung gian gồm có: ngân hàng
  • 25. 25 thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng đặc biệt, các định chế tài chính trung gian phi ngân hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngân hàng trung gian thực hiện các chức năng cơ bản như sau: Thứ nhất là trung gian tín dụng, vì ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng gửi tiền và vay tiền, ngân hàng chuyển hóa những khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm, tài sản tạm thời chưa sử dụng của một số chủ thể kinh tế này đến tay chủ thể kinh tế khác đang cần tiền để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng trung gian là một thiết chế kinh doanh chuyên nghiệp, giúp cho cung cầu tín dụng trong nền kinh tế có thể dễ dàng gặp nhau. Thứ hai là là trung gian thanh toán. Theo chức năng này, ngân hàng trung gian thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Để thực hiện tốt chức năng này, ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Thứ ba là trung gian giữa ngân hàng trung ương và nền kinh tế. Thông qua ngân hàng trung gian, tiền mặt từ ngân hàng trung ương cung ứng ra lưu thông và việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Cũng thông qua ngân hàng trung gian, tình hình về nhu cầu tiền, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, gian lận thương mại, đặc biệt là việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến hành rửa tiền được phản hồi về ngân hàng trung ương. 1.3.2. Phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Với những tác hại to lớn của việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến
  • 26. 26 hành rửa tiền. Nhìn chung, các quốc gia phát triển đều đã thực hiện phương thức phòng, chống rửa tiền như sau: Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền. Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy mô, mức độ tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng, chống rửa tiền ở các nước có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng; (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ bản: Mô hình thứ nhất, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ máy Chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung ương, trợ giúp chính phủ thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng giám sát thi hành Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức năng thu thập các thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ và đề xuất các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền. Mô hình thứ hai, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc lập với bộ máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong bộ máy chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Ở các nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm nổi bật của mô hình này là đảm bảo sự độc lập, khách quan trong điều tra rửa tiền.
  • 27. 27 Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại. Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro. Nhìn chung, các ngân hàng thương mại coi việc đánh giá và phân loại khách hàng là việc làm hàng đầu. Việc đánh giá và phân loại khách hàng có ý nghĩa quan trọng quyết định, vì thông qua đây, ngân hàng thương mại sẽ có các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Thông thường các ngân hàng thương mại trên thế giới thường phân khách hàng thành 3 loại như sau: Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền Phân loại khách hàng Khách hàng có rủi ro cao Mức độ giám sát Kiểm tra giám sát thường xuyên và bắt buộc trong việc tìm hiểu thông tin về khách hàng. Khách hàng rủi ro trung bình Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thường và tìm hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu. Khách hàng rủi ro thấp Kiểm tra giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi hỏi những thông tin thông thường về khách hàng. Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội. Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ. Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa tiền được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của từng quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh … đều xem xét dấu hiệu bất thường dựa trên mức (ngưỡng) giá trị của các giao dịch quy định (thông thường các giao dịch có giá trị vượt mức 10.000 USD hoặc tương đương sẽ nằm trong danh sách các giao dịch cần phải lưu ý, báo cáo). Tuy nhiên ở một số ít các quốc gia khác lại lưu ý đến những giao dịch có dấu hiệu không bình thường thông qua tính chất, đặc điểm giao dịch, các thông tin về khách hàng … mà không quá
  • 28. 28 quan tâm đến giá trị giao dịch, tiêu biểu cho trường hợp này là Malaysia. Khi phát hiện về các giao dịch đáng ngờ, nhân viên ngân hàng phụ trách sẽ tiến hành xử lý, báo cáo cấp trên xem xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định việc chuyển các thông tin này cho Cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để việc này được tiến hành tốt, các ngân hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình báo cáo thông tin về giao dịch này, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin khách hàng. Lưu giữ hồ sơ về khách hàng Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm chỉnh việc lưu giữ hồ sơ, thông tin về khách hàng. Các thông tin về nhận dạng khách hàng và thông tin giao dịch được lưu giữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của các cơ quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác điều tra khởi tố. Theo Luật phòng, chống rửa tiền của Malaysia, thời gian lưu giữ hồ sơ khách hàng là 6 năm nếu không có dính líu gì đến các vụ việc khác. Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Ngày nay, hành vi rửa tiền không chỉ thực hiện trong phạm vi một quốc gia mà còn có thể thực hiện xuyên suốt từ quốc gia này đến quốc gia khác. Do vậy, công tác phòng, chống rửa tiền rất cần sự hợp tác của các quốc gia trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm. 1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 1.4.1. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền. Một trong những quy định quốc tế đầu tiên là Bản tuyên bố về ngăn ngừa tội phạm sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng. Bản tuyên bố này đưa ra các chính sách và thủ tục cơ bản mà giám đốc ngân hàng cần bảo đảm có sẵn trong tổ chức của mình để hỗ trợ
  • 29. 29 cho việc chống rửa tiền. Về cơ bản, có bốn nguyên tắc được đưa ra trong Bản tuyên bố này, đó là: (i) Nhận dạng khách hàng đúng cách; (ii) Tiêu chuẩn đạo đức cao và tuân thủ luật pháp; (iii) Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật; và (iv) Các chính sách và thủ tục để bảo đảm tuân thủ Bản tuyên bố này Do mối quan ngại về tình trạng buôn bán ma túy bất hợp pháp trên quốc tế ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng. Chương trình Liên Hợp Quốc về Kiểm soát ma túy (UNDCP) đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán ma túy bất hợp pháp và rửa tiền. Trong năm 1988, Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần (Công ước Viên) đã được thông qua, có 169 nước tham gia vào Công ước này và có hiệu lực từ tháng 11 năm 1990. Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán ma túy bất hợp pháp là tội phạm nguồn và không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa. Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF) do nhóm G-7 thành lập tại Paris năm 1989. Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và khuyến khích các tổ chức cảnh sát trong việc chống rửa tiền. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý tưởng cho rằng hoạt động rửa tiền là tội phạm kinh tế rất phức tạp, do đó nó không thể được kiểm soát một cách hiệu quả bởi những phương pháp làm luật thông thường. Kết quả là cần thiết phải tập hợp các cơ quan chức năng như: Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Cảnh sát… để phòng, chống rửa tiền. Điều đó sẽ tạo ra sự phối hợp toàn diện để giải quyết vấn đề phức tạp này. Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành được Luật Chống
  • 30. 30 Rửa Tiền. Theo hướng này, tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành 40 khuyến nghị nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn bán ma tuý chuyển qua các tổ chức tài chính. Mặc dù các gợi ý về luật pháp được đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh giá việc thực hiện của các nước thành viên thông qua nỗ lực của từng nước trong việc ban hành các quy định về phòng, chống rửa tiền. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức ngoài nhóm như: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG), Lực lượng đặc nhiệm tài chính khu vực Caribe (CFATF), Hội đồng châu Âu, Nhóm chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG), Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD) Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao dịch rửa tiền trong giao dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực trong việc tạo ra những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Qua việc đánh giá các nước trong việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền, FATF đã yêu cầu các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải thực hiện luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia về phòng, chống rửa tiền. Một ví dụ điển hình là sự phối hợp giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt động rửa tiền của Tập đoàn Cali vào những năm 90. FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nước và những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền. Mục đích của “danh sách đen” này là “chỉ tên và làm xấu hổ” các nước được coi là thiên đường của việc rửa riền. Danh sách đen này bao gồm: Ecuado, Iran, Pakistan, North Korea, Ethiopia, Angola, Turkmenistan, Sao Tome and Principe. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các ngân hàng đã cắt bỏ quan hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách trên. Mặc dù, một mặt các nước trên đều phản đối danh sách này, mặt khác hầu hết họ đều nỗ lực ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy định cho phù hợp với các
  • 31. 31 khuyến nghị của FATF, đồng thời tích cực hợp tác quốc tế toàn diện và thực hiện báo cáo các giao dịch đáng ngờ để cố gắng ra khỏi danh sách trên. 1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới. 1.4.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ. Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo. Với mục tiêu tìm cách chống lại nạn rửa tiền và tài trợ khủng bố trên tất cả các mặt trận, bao gồm cả tích cực theo đuổi điều tra tài chính. Nhìn chung, chiến lược phòng, chống rửa tiền của Mỹ tập trung vào ba mục tiêu chính: (i) Để hiệu quả hơn, tiến hành cắt đứt sự tiếp cận hệ thống tài chính tài quốc tế của tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Tăng cường khả năng của chính quyền liên bang hướng đến các tổ chức rửa tiền và các hệ thống tài trợ khủng bố; (iii) Tăng cường và cải tiến biện pháp phòng, chống rửa tiền cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính để cải thiện hiệu quả những nỗ lực tuân thủ và thực thi pháp luật để ngăn ngừa và ngăn chặn lạm dụng. Để cụ thể hóa chiến lược trên, Mỹ kiểm tra các tổ chức tài chính trong việc tuân thủ các quy định của hệ thống, và thực thi những yêu cầu thông qua hành vi dân sự và hình sự. Bên cạnh đó, Mỹ đánh giá các lĩnh vực khác nhau để xác định lỗ hổng chống rửa tiền, nhằm áp đặt các biện pháp kiểm soát thích hợp. Tính minh bạch và trách nhiệm được khuyến khích trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, cũng như trong các lĩnh vực phi tài chính có liên quan. Và Mỹ cũng xem xét khu vực tư nhân là một thành phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phòng, chống rửa tiền. Trong thời gian qua, Chính phủ Mỹ đã có những nỗ lực trong các khu vực then chốt sau đây: (i) Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan; (ii) Đảm bảo rằng các cơ quan thực thi pháp luật và Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính sử dụng và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài chính và các công cụ phân tích; (iii) Tập trung nhân viên thực thi pháp luật và các nguồn lực khác vào các mục tiêu và các hệ thống tài
  • 32. 32 chính có mức độ ảnh hưởng cao nhất; (iv) Cải cách các cơ quan lập pháp và hành pháp; (v) Gia tăng các hoạt động hợp tác quốc tế; (vi) Nâng cao sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chính phủ Mỹ với cộng đồng tài chính; và (vii) Giúp chính quyền địa phương điều tra và truy tố tội phạm tài chính và rửa tiền. Với các chiến lược và nỗ lực như trên, hàng năm FinCEN nhận được hơn 14,7 triệu báo cáo giao dịch, trong đó chủ yếu là báo cáo giao dịch vượt ngưỡng (hơn 13,67 triệu giao dịch), báo cáo giao dịch đáng ngờ (hơn 0,66 triệu giao dịch) …. Bảng 1.2: Số lượng báo cáo được FinCEN nhận được qua các năm. Loại hình báo cáo Báo cáo giao dịch đáng ngờ (SAR) Năm 2003 Năm 2004 413.052 663.655 13.341.699 13.674.114 Báo cáo của Ngân hàng nước ngoài 199.738 218.667 Báo cáo cho các khoản thanh toán tiền mặt 129.824 151.998 14.084.313 14.708.434 Báo cáo vượt ngưỡng (CTR) trên 10.000 USD Tổng số Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France Qua đó, hàng năm Mỹ đã đưa ra hơn 1000 trường hợp xét xử theo loại tội phạm rửa tiền và số trường hợp bị kết án có xu hướng giảm qua các năm: Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2002 đến 2005
  • 33. 33 Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France Bên cạnh kết quả như trên, hệ thống phòng, chống rửa tiền của Mỹ còn tồn tại một số lỗ hỗng như: (i) Các biện pháp liên quan đến những người có quan hệ chính trị không áp dụng một cách rõ ràng cho các Công ty dịch vụ tiền tệ, lĩnh vực bảo hiểm, các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa; (ii) Không có quy định rõ ràng yêu cầu các công ty bảo hiểm, các công ty dịch vụ tiền tệ, hoặc các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa có các chính sách và thủ tục đối với các giao dịch không trực tiếp; (iii) Các yêu cầu của Đạo luật bí mật ngân hàng không áp dụng cho các chi nhánh nước ngoài và văn phòng của Các công ty bảo hiểm nhân thọ. 1.4.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại Singapore. Không giống như Mỹ, Singapore đã thông qua một phương pháp tiếp cận đa phương để đối phó với các rủi ro rửa tiền. Các nỗ lực chống rửa tiền hướng vào khung pháp lý, thể chế, chính sách một cách toàn diện và đầy đủ, tỷ lệ tội phạm trong nước ở mức thấp, không khoan dung cho tham nhũng trong nước, một bộ máy tư pháp hiệu quả, một nền văn hóa tuân thủ đã được thiết lập từ lâu và các biện pháp giám sát được thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Singapore cho rằng họ đã đi đầu trong theo dõi và làm gián đoạn hành vi rửa tiền thông qua các thông tin tình báo và quyền lực pháp lý khác. Và họ đã xác định các yếu tố chính của chiến lược chống rửa tiền và tài trợ khủng bố như sau: (i) Xác định các khu vực ưu tiên cao cho hành động dựa trên đánh giá rủi ro
  • 34. 34 của các mối đe dọa lớn và các lỗ hổng về hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế một cách nghiêm chỉnh, đặc biệt là 40+9 khuyến nghị của FATF; (iii) Duy trì một chế độ hình phạt nghiêm khắc chống lại nạn buôn bán ma túy, khủng bố và các tội phạm nghiêm trọng khác; (iv) Thực thi pháp luật hiệu quả là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ; (v) Áp đặt các tiêu chí lựa chọn chặt chẽ đối với các định chế tài chính muốn gia nhập ngành tài chính của Singapore; (vi) Bảo đảm hiệu quả giám sát các định chế tài chính hoạt động tại Singapore; (vii) Thuê chuyên gia và những chuyên viên nòng cốt để phát triển và thực hiện các chính sách và biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; (viii) Thực hiện sự phối hợp và hợp tác cao giữa các cơ quan chính phủ; (ix) Cung cấp hỗ trợ pháp lý khác thông qua các kênh chính thức và không chính thức, bao gồm cả việc chia sẻ thông tin và tình báo. Để tăng cường các biện pháp phòng, chống rửa tiền, chính phủ Singapore đã quan tâm nhiều hơn đến loại hình kinh doanh và nghề nghiệp phi tài chính nhạy cảm với rửa tiền. Và họ đã đưa ra các sáng kiến mới bao gồm: (i) Ban hành quy định phòng, chống rửa tiền đối với các hoạt động casino; (ii) Thực hiện một hệ thống khai báo cho du khách xuất nhập cảnh để kịp thời phát hiện vận chuyển tiền hoặc công cụ chuyển nhượng vô danh; (iii) Mở rộng yêu cầu phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong môi giới hàng hóa kỳ hạn; (iv) Mở rộng chương trình tiếp cận lĩnh vực kinh doanh và ngành nghề phi tài chính bao gồm cả luật sư, đại lý bất động sản, kim hoàn và các doanh nghiệp nói chung; (v) Xây dựng hướng dẫn thi hành Luật xã hội; (vi) Nghiên cứu một khuôn khổ pháp lý phòng, chống rửa tiền chi tiết hơn đối với các nhà cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp; (vii) Đánh giá tham nhũng, buôn bán ma túy và các tội phạm nghiêm trọng khác để điều chỉnh các quy định có liên quan, và có tính đến các yếu tố phản hồi về các vấn đề thực hiện. Thông qua phương pháp tiếp cận như trên, số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ tăng đều qua các năm, với 6.356 báo cáo, chủ yếu là từ các ngân hàng 2.063 báo cáo, các công ty bảo hiểm 2.964 báo cáo ….
  • 35. 35 Bảng 1.3: Số lượng báo cáo được Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore nhận được qua các năm 2004-2007
  • 36. 36 Nhóm báo cáo 2004 Các ngân hàng 2005 2006 2007 1 074 1 243 1 712 2 063 543 590 911 2 964 Đại lý đổi tiền và chuyển tiền 32 107 195 111 Các thị trường vốn trung gian 24 60 350 1 039 7 29 56 87 Các cơ quan Chính phủ 57 25 26 30 Các đơn vị khác (bao gồm cả cá nhân) 37 21 35 62 1 772 2 075 3 285 6 356 Các công ty bảo hiểm Công ty tài chính Tổng cộng Nguồn: FATF, APG (2008), Third Mutual Evaluation Report on Antimoney Laundering anh combating the financing of terrotirsm in Singapore, France 1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Mặc dù là nước đi sau trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách chênh lệch và giảm thiểu thiệt hại trong việc thực hiện kiểm soát rửa tiền. Qua nghiên cứu việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại một số nước như: Mỹ, Singapore, chúng ta có thể rút ta một số kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Kinh nghiệm của các nước trên cho thấy, việc sớm ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan thực thi đầy đủ các quyền và chức năng của mình. Xây dựng hệ thống giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền hiệu quả. Mặc dù Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền từ những năm 1970, nhưng do thiếu một hệ thống giám sát
  • 37. 37 hiệu quả nên vụ ngân hàng Boston cố tình vi phạm các quy định về lưu giữ chứng từ, giao dịch với các tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm mới được phát hiện. Do vậy, công tác giám sát đóng một vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền của các quốc gia. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng. Theo kinh nghiệm của các nước có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả thì việc các ngân hàng thương mại xây dựng được chính sách nhận biết khách hàng là đã thực hiện cắt đứt sự tiếp cận hệ thống ngân hàng của bọn tội phạm; tức giai đoạn 1 của quy trình rửa tiền chưa được thực hiện. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong chương này, tác giả đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các phương thức và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng như những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền đến nền kinh tế. Hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực mà luôn có xu hướng mở rộng trên toàn thế giới với khối lượng tiền được tẩy rửa mỗi năm ngày càng gia tăng. Dù cho hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngân hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu để thực hiện hành vi tẩy rửa bởi vì khả năng giao dịch lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành một “đồng tiền sạch”, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân hàng Việt Nam hiện đang đứng nguy cơ sẽ là điểm đến của tội phạm rửa tiền trên thế giới. Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam được trình bày ở chương 2 sẽ cho thấy rõ hơn về vấn đề này.
  • 38. 38 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu cuộc cách mạng tư duy kinh tế ở Việt Nam. Những quan điểm, đường lối đổi mới do Đại hội đề ra là cơ sở cho việc tiến hành đổi mới toàn bộ nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Nghị Định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tiếp đến là 2 Pháp lệnh ngân hàng: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng Và Công ty Tài chính ngày 23/05/1990 là những cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ, là ngân hàng trung ương có chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, còn các TCTD có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã nhanh chóng được củng cố, sắp xếp lại để phát triển. Trong giai đoạn 1990-1997 hoạt động ngân hàng đã đạt được những thành tựu đáng kể: đã xây dựng được hệ thống ngân hàng, bước đầu thích ứng được với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu qủa quản lý của nhà nước, bảo đảm ổn định tiền tệ kiểm soát lạm phát, vai trò tự chủ kinh doanh ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn này hoạt động ngân hàng cũng bộc lộ không ít hạn chế, điển hình là sự hoạt động kém hiệu qủa của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, sự buông lỏng trong quản lý tín dụng ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Chính
  • 39. 39 phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD. Sự ra đời Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng đã khắc phục cơ bản của những hạn chế của 2 pháp lệnh trước đó, hoàn chỉnh hơn khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và khẳng định quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của Việt Nam. Trực thuộc Ngân hàng nhà nước là các TCTD, bao gồm 2 loại: TCTD ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan; và TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán. Sơ đồ 2.1: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 05 Ngân hàng Thương mại Nhà nước 02 Ngân hàng chính sách HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 37 Ngân hàng Thương mại cổ phần 05 Ngân hàng Liên doanh 39 Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài 05 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
  • 40. 40 Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2009 Ngân hàng thương mại nhà nước: trước đây, chúng ta có tất cả 5 ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước, sau đó vào năm 2008 cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, năm 2009 cổ phần hóa Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Nên hiện nay chỉ còn 3 ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước là: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long. Các ngân hàng thương mại nhà nước có mạng lưới rộng lớn với khoảng 2000 chi nhánh các loại được phân bố trên phạm vi cả nước. Các ngân hàng này có được mối quan hệ truyền thống, gắn bó lâu năm với khách hàng và có uy tín khá cao trong xã hội, và là ngân hàng đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Ngân hàng thương mại cổ phần: các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu được thành lập sau khi có 2 pháp lệnh ngân hàng và là một trong những kết qủa đáng chú ý của quá trình cải cách ngân hàng. Hiện nay có 37 ngân hàng đang hoạt động, chiếm hơn 30% thị phần huy động và cho vay. Các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam hiện nay thường được đặt tại ở những thành phố lớn và những khu vực nông thôn có sản xuất hàng hóa phát triển, khách hàng mục tiêu là những doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có quy mô kinh tế vừa và nhỏ, cá nhân, hộ gia đình. Đã có một số ngân hàng phát triển tương đối tốt như: ACB, Sacombank, Techcombank …. Cùng với chính sách mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng được mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức cơ bản là: Liên doanh với các TCTD trong nước, thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài và thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam có 5 ngân hàng liên doanh, 39 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. 2.2. Tình hình rửa tiền tại Việt Nam.
  • 41. 41 2.2.1. Tình hình kinh tế xã hội có liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Việt Nam. Sau một thời gian khôi phục và phát triển, cho đến nay tình hình kinh tế xã hội trong nước đã có những khởi sắc và từng bước hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. GDP tăng đều hàng năm, trung bình 7,5%/năm. Mức sống người dân dần được cải thiện. Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Toàn cầu hóa đã đem đến những bước phát triển thần tốc cho nền kinh tế nhưng cũng làm cho tội phạm quốc tế có thể xâm nhập vào nước ta dễ dàng. Những thủ thuật đã bị phát hiện và xử lý ở những quốc gia phát triển, lại bắt đầu du nhập vào nước ta đang còn non kém về trình độ kiểm soát, đặc biệt là kiểm soát rửa tiền. Song song với toàn cầu hóa, vấn đề nội tại bên trong nền kinh tế cũng mang lại không ít cơ hội và điều kiện để thực hiện hành vi rửa tiền như: hệ thống tài chính tiền tệ còn non kém, công tác cổ phần hóa còn lỏng lẻo, tình hình buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội phạm băng nhóm có tổ chức đang ngày càng gia tăng. Về hệ thống tài chính tiền tệ Hệ thống tài chính tiền tệ nước ta bao gồm: tài chính công, tài chính doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm và thị trường tài chính. Trong thời gian qua, hệ thống tài chính tiền tệ nước ta đã có sự tiến bộ đáng kể, đóng góp quan trọng vào ổn định và tăng trưởng kinh tế, cụ thể: (i) Thu ngân sách tăng bình quân hơn 20%/năm, tỷ lệ bội chi ngân sách cố gắng đạt ở mức dưới 5%/GDP; (ii) Vào cuối năm 2000, số lượng doanh nghiệp là 42.228 đơn vị, với doanh thu bình quân 19,15 tỷ đồng, vốn bình quân 26 tỷ đồng. Đến cuối 2009, số lượng doanh nghiệp là 205.689 đơn vị, doanh thu bình quân 25,84 tỷ đồng, vốn bình quân 31 tỷ đồng; (iii) Hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu như: thanh toán, vay vốn, gửi tiền, thư tín dụng, bảo lãnh …., mạng lưới các ngân hàng thương mại được trải khắp đến các huyện trên cả
  • 42. 42 Song song với sự tiến bộ như trên, hệ thống tài chính tiền tệ còn tồn tại một số vấn đề tạo cơ hội cho bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền như: các văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều kẻ hở, công nghệ ngân hàng còn tương đối lạc hậu, các ngân hàng thương mại đều thành lập bộ phận chống rửa tiền nhưng chỉ mang tính hình thức. Công cuộc cổ phần hóa ở các doanh nghiệp nhà nước, và đặc biệt là cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc cổ phần hóa mang lại luồng sinh khí mới, xóa bỏ tình trạng vô chủ, nhưng nó cũng mang lại không ít mặt tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa như: xác định giá trị, bán cổ phần doanh nghiệp. Đây được xem là kẻ hở của chính sách cổ phần hóa để tiến hành tham nhũng và được xem là nguồn gốc của “tiền bẩn” khi tiến hành các công đoạn rửa tiền. Ở khía cạnh khác, sau khi tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước, mục tiêu của các ngân hàng này chủ yếu là lợi nhuận, các chỉ tiêu tăng trưởng được đặt ra ở mức cao, đặc biệt là các chỉ tiêu về tín dụng, huy động. Do vậy, nhu cầu huy động vốn cấp bách và thiết thực hơn bao giờ hết, và nếu như các ngân hàng này không có chính sách nhận biết khách hàng hiệu quả, không hiểu rõ nguồn gốc vốn huy động thì họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng rửa tiền là rất lớn. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế đã giảm dần trong các năm gần đây, nhưng vẫn còn ở mức khá cao với tỷ lệ 14% vào năm 2009, gây khó khăn trong công tác giám sát lưu thông tiền tệ. Hiện tại ở những nước phát triển chỉ
  • 43. 43 tiêu này ở mức 1 con số. Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán (%) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam khá lớn, trở thành nguồn thu quan trọng, bổ sung ngoại tệ phục vụ cho công tác thanh toán thương mại quốc gia. Trong tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, lượng tiền kiều hối do cộng đồng người Việt ở nước ngoài chuyển về trong năm 2009 chỉ ở mức 6,28 tỷ USD giảm 12,8% so với năm 2008. Nhưng con số thực tế cao hơn nhiều, với lượng kiều hối phi chính thức chiếm khoảng 30-60%, đây là nguồn tiền thường khó xác định nguồn gốc thu nhập. Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng vẫn còn hạn chế thì hệ thống chuyển tiền khác lại được sử dụng rộng rãi. Do vậy nguy cơ rửa tiền thông qua con đường này rất lớn. Biểu đồ 2.2: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các năm.
  • 44. 44 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Theo đánh giá của của Ngân hàng thế giới, Việt Nam là một trong 20 nước nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới trong năm 2009. Biểu đồ 2.3: Danh sách 20 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới năm 2009 Nguồn: World Bank (2010), Migration and Development Brief 12 Về các hoạt động đầu tư: việc kêu gọi và thu hút đầu tư nước ngoài của các nước đang phát triển và đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển là một xu hướng hợp tác kinh tế phổ biến hiện nay trên thế giới. Pháp luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện sửa đổi theo hướng ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư. Hiện nay không chỉ ở cấp quốc gia mà còn tất cả các địa phương đang tạo mọi điều kiện thông thoáng nhất để kêu gọi và thu hút đầu tư. Thậm chí thông thoáng đến mức mà người ta không cần quan tâm đến nguồn gốc của vốn đầu tư. Do đó, “tiền sạch”, “tiền bẩn” đều được chấp nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ tạo điều kiện cho bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền một cách dễ dàng. Về tình hình an ninh trật tự xã hội: buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội phạm băng nhóm có tổ chức đang ngày càng gia tăng. Đặc biệt tội phạm quốc tế đã xuất hiện và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi. Tội phạm kinh tế, nhất là tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ hay còn gọi là tội phạm “cổ cồn trắng”
  • 45. 45 đang len lỏi vào trong nền kinh tế. Những tội phạm này tạo ra nguồn thu bất hợp pháp rất lớn và chúng luôn có nhu cầu chuyển những nguồn thu bất hợp pháp này thành những nguồn thu có bề ngoài hợp pháp. 2.2.2. Hoạt động rửa tiền tại Việt Nam thời gian qua. Trong xu thế toàn cầu hoá, rửa tiền không chỉ dừng lại ở những quốc gia phát triển, mà đang tràn đến những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có hệ thống tài chính yếu kém. Trong tương lai gần, nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập sâu vào hệ thống tài chính thế giới. Một mặt sẽ là cơ hội giúp Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác sự hội nhập này sẽ làm cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam đối mặt với nhiều hành vi rửa tiền có mức độ tinh vi và mang tầm vóc quốc tế. Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu công bố gần đây về các hoạt động phi chính thức tại Việt Nam làm chúng ta lo ngại. Nghiên cứu của Stoyan và cộng sự cho rằng: “hoạt động phi chính thức tại Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ thuộc của hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là 10,5% và hoạt động không khai báo khác là 10%”[7 ]. Như vậy, dù ít hay nhiều thì hoạt động rửa tiền ở Việt Nam đã tồn tại và có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động kinh tế xã hội. “Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), hằng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400 - 7 TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186)