1. Trang 1/8
Tình hình Thực hành - Đào tạo Dược tại Việt Nam (Phần I)
Ths.DS. Võ Thị Hà
1 - Tìm hiểu về hệ thống y tế và hoạt động chuyên môn tại Việt Nam.
Trước khi xây dựng một chương trình đào tạo, cần thiết phải: 1- Xác định các nhu cầu của
cộng đồng, 2- Hiểu tổ chức chung của hệ thống y tế và vai trò, nhiệm vụ của các DS trong hệ
thống y tế, và 3- Kết hợp/phối hợp các hoạt động chuyên môn dược trong các lĩnh vực khác
nhau.
1.1 – Cấu trúc chung của hệ thống y tế là gì ?
Trả lời : Hệ thống y tế VN là một hệ thống hỗn hợp gồm cả cơ sở y tế công và tư, tuy nhiên
hệ thống công là chủ yếu (1). Hệ thống y tế chia làm 4 bậc chính: trung ương, thành phố,
huyện và xã. Một trung tâm y tế (bậc thấp nhất) tồn tại trong một cộng đồng khoảng 6.000
dân. Ở tuyến huyện, một BV đa khoa phục vụ cho khoảng 125.000 dân. Tồn tại các BV đa
khoa và chuyên khoa ở tuyến thành phố. Và tuyến cao nhất , một số viện chuyên khoa và các
bệnh viện trung ương dưới sự quản lý của Bộ y tế (2). Đối với cơ sở y tế công, có khoảng
13.467 cơ sở, trong đó có 1.030 BV công; với khoảng 20 giường bệnh viện trên 10.000 dân
năm 2010 (3). Tình trạng quá tải của đa số cơ sở y tế là thường xuyên và chất lượng dịch vụ
khác nhau nhiều giữa các cơ sở (4). Sự hài lòng của bệnh nhân khi đánh giá các dịch vụ y tế
trong các cơ sở công nói chung là thấp. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những khảo sát về chủ đề
này.
1.2 – Khung pháp lý cho các hoạt động dược là gì ?
Trả lời: Sau thời kì Đổi Mới năm 1989, các bệnh viện/phòng khám tư nhân và quầy thuốc tư
nhân tăng khắp cả nước, ở thành phố cũng như nông thôn và trở thành một bộ phận quan
trọng cung cấp dịch vụ y tế (3). Có 11.629 quầy thuốc (công và tư) năm 2010 cho 90 triệu
dân (1). Một quầy thuốc phục vụ cho khoảng 7.500 dân. Có 15 chuỗi nhà thuốc năm 2009 tại
VN (5). Trái với nhiều nước, các quầy thuốc cộng đồng không buộc phải phân bố rải rác theo
vùng địa lý; chính các yếu tố của "thị trường" quyết định số lượng và vị trí của quầy thuốc.
Với lý do này, việc chênh lệch số lượng quầy thuốc giữa thành phố và nông thôn là một vấn
đề nghiêm trọng, cản trở việc tiếp cận quầy thuốc tại vùng nông thôn. Gần 50% các quầy
thuốc tập trung tại hai thành phố lớn là HCM và Hà Nội trong khi dân số của hai thành phố
chỉ chiếm 16% dân số cả nước (5). Trong mỗi khu vực dân cư, vị trí của quầy thuốc thường
xung quanh các bệnh viện, khu mua sắm (chợ), siêu thị.
1.3 – Thuốc giả có hiện diện ở thị trường Việt Nam hay không ?
Trả lời: Những đất nước mới nổi (ở châu Phi, Đông Nam Á, Nam Mỹ), trong đó có Việt
Nam, vẫn là thị trường mục tiêu của tội phạm có tổ chức để bán thuốc giả. Một báo cáo về
chống thuốc giả năm 2006 cho thấy nhiều nước đang phát triển ở châu Phi, châu Á và một
phần châu Mỹ latinh có những vùng mà 30% thuốc được bán là thuốc giả. Ước tính là khoảng
10% đến 30% về tổng thể (6).
2. Trang 2/8
Một chương trình "Opération Storm II" thực hiện dưới sự hợp tác của cảnh sát thế giới
INTERPOL và IMPACT, thực hiện năm 2010 và nhằm vào 8 nước Đông Nam Á:
Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Lào, Birmani, Singapo, Thái Lan và Việt Nam. Chương
trình phát hiện hơn 20 triệu thuốc giả, đặc biệt là thuốc kháng sinh,thuốc chống sốt rét, thuốc
tránh thai, aspirin, thuốc trị rối loạn cường dương và huyết thanh chống uốn ván. Hơn 100
quầy thuốc và địa điểm bán thuốc bất hợp pháp đã bị đóng cửa (7).
Một nghiên cứu về thuốc giả và thuốc kém chất lượng tại VN năm 1999 cho thấy trên 188
mẫu thử nghiệm, có 26% mẫu là chưa đăng kí lưu hành, 8% là thuốc có hàm lượng chất hoạt
tính thấp hơn hàm lượng yêu cầu (8). Một nghiên cứu khác cho thấy 64% thuốc trị sốt rét sử
dụng tại VN là không chứa hoạt chất có hoạt tính (9).
1.4 – Bảo hiểm xã hội của công dân Việt Nam thế nào và sự thay đổi dự kiến trong tương
lai là gì ?
Trả lời: Khả năng bao phủ của bảo hiểm y tế của dân chúng vẫn còn xa mới đạt mức toàn dân
và chi trả tiền thuốc chủ yếu vẫn là từ tiền túi của bệnh nhân và/hoặc gia đình của họ.
Nói chung, có 3 nguồn chủ yếu để chi trả các dịch vụ y tế: 1-phân bổ tài chính của chính phủ,
2-chi trả từ bệnh nhân và 3-các hệ thống chi trả trước (như bảo hiểm y tế) (10). Các chi phí
tổng của Việt Nam về y tế chiếm 7,2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chi tiêu trung bình
cho y tế là khoảng 76USD/người năm 2008. Các chi tiêu công giành cho y tế (ngân sách nhà
nước, bảo hiểm) chỉ chiếm 39% tổng chi còn lại 61% là từ chi trả trực tiếp bởi bệnh nhân
(11). Một khảo sát năm 2006 cho thấy hơn 50% chi tiêu cho y tế được chi trả trực tiếp bởi
bệnh nhân là giành cho các cơ sở y tế công, 25% giành để tự mua thuốc và phần còn lại là
giành cho cơ sở y tế tư, chủ yếu là các phòng khám tư (1). Hệ thống bảo hiểm chỉ chi trả 13%
chi tiêu y tế. Năm 2011, có 57 triệu dân có bảo hiểm (so với 37 triệu năm 2008 với số dân gần
90 triệu. Hệ thống bảo hiểm y tế thu từ trích tiền lương của các công nhân - viên chức (4%) và
từ tiền thuế với thuốc lá, rượu, và vận tải. Để bổ sung với hệ thống còn non trẻ này, bảo hiểm
y tế tư nhân đang phát triển mạnh. Ít nhất có 37 công ty bảo hiểm y tế tư nhân tồn tại (trong
đó có nhóm "Prévoir″, Groupama, Malakof –Mederic).
Các chi tiêu giành cho thuốc chiếm một phần quan trọng trong chi phí tổng của y tế. Năm
2008, Việt Nam chi 1.426 triệu USD cho thuốc, chiếm 21,6% tổng chi cho y tế và tăng gần
1,7 lần giá trị tuyệt tối của năm 2005 (10, 12). Sự gia tăng giá thuốc là nguyên nhân chính cho
sự tăng chi tiêu này (13). Giá thuốc tại Việt Nam tăng gần 10% từ năm 2003 đến 2004 (14).
Bảo hiểm y tế được lập năm 1989 gồm có 3 chương trình: bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm tự
nguyện và bảo hiểm miễn phí giành cho đối tượng đặc biệt. Theo quy định hiện hành, sự tham
gia bảo hiểm là bắt buộc với tất cả nhân viên tại chức và về hưu của các cơ quan công, cũng
như các nhân viên nhận lương từ cơ sở tư bất kể quy mô của cơ sở thế nào. Với bảo hiểm tự
nguyện, học sinh - sinh viên là chủ yếu (chiếm trên 80%). Bảo hiểm chi trả lại cho các dịch vụ
bệnh viện và ở cộng đồng với tất cả các cơ sở y tế công. Những bệnh nhân có bảo hiểm chỉ
được chi trả bởi bảo hiểm nếu chăm sóc tại các cơ sở y tế công và không được chi trả nếu
chăm sóc tại đa số các cơ sở tư nhân (1, 4). Tồn tại một danh sách các thuốc được chi trả bởi
BH. Những BN có bảo hiểm không được chi trả nếu mua thuốc tại quầy thuốc tư nhân. Một
3. Trang 3/8
nghiên cứu phỏng vấn 249 người dân tại Đà Nẵng (Đà Nẵng là thành phố thuộc miền trung,
với khoảng 1 triệu dân) cho thấy 90% người dân được hỏi có bảo hiểm y tế, nhưng chỉ có
khoảng 15% trong số họ chọn các dịch vụ được chi trả bởi bảo hiểm trong khi đó 78% cho
biết họ mua thuốc tại quầy thuốc và không được chi trả bởi BH (15). Những lý do giải thích
cho việc BN không đến cơ sở y tế công liên quan đến chất lượng dịch vụ kém, chi trả không
chính thống (phong bì) tồn tại trong một số khoa của bệnh viện, sự phân biệt đối xử với người
có bảo hiểm, quá tải bệnh biện trong đa số cơ sở y tế (1, 4).
1.5 – Liệu các quầy thuốc hiện là hay có thể trở thành một trung tâm phòng bệnh (trung
tâm cung cấp thông tin và truyền tải các thông báo về y tế cộng đồng (public health),
vaccin) hay quầy thuốc chỉ là nơi cung cấp thuốc ?
Trả lời: Các quầy thuốc tư có thể có ảnh hưởng tích cực trong việc cung cấp chăm sóc sức
khỏe ban đầu (primary care) tại Việt Nam. Nhiều chương trình nhằm làm tăng sự tham gia
của các quầy thuốc về y tế cộng đồng đã được thực hiện gần đây. Từ năm 2003, một chương
trình, tên là RxGen với sự hỗ trợ của một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế PATH đã tiến hành
nhằm cải thiện vai trò của DS tại quầy thuốc tư trong việc cung cấp thông tin về thuốc tránh
thai. Các DS của 90 quầy thuốc được đào tạo để thực hiện 4 dịch vụ chính là bán thuốc tránh
thai khẩn cấp, đưa các lời khuyên-tư vấn, đánh giá nguy cơ và xử lý nếu nghi ngờ bệnh nhân
có thể bị nhiễm khuẩn lây lan qua đường tình dục và tư vấn đi khám ở cơ sở y tế thích hợp.
Đánh giá cuối cùng của chương trình cho thấy những sự thay đổi quan trọng về kiến thức và
thực hành của những nhân viên tại quầy thuốc. Thuốc tranh thai có sẵn trong tất cả các quầy
thuốc và 100% quầy thuốc đưa ra lời khuyên-tư vấn cho bệnh nhân. Tuy nhiên, sự cải thiện
chất lượng chăm sóc đối với các bệnh truyền nhiễm lây lan qua tình dục và tỷ lệ bệnh nhân
được tư vấn đi khám bác sĩ tăng còn hạn chế (16). Dựa trên các kết quả này, mô hình tương tự
để thúc đẩy vai trò của quầy thuốc trong việc phòng, phát hiện và điều trị cúm, nhiễm HIV và
lao là quan trọng (17).
Việc kết hợp quầy thuốc trong các chương trình y tế quốc gia để chống lại bệnh lao, HIV đã
được thực hiện gần đây. Một dự án được triển khai tại 150 quầy thuốc tư tại Tp. HCM tháng
4/2001 để cái thiện khả năng phát hiện lao dựa trên một câu hỏi đơn giản về các triệu chứng
hô hấp, sau đó tư vấn bệnh nhân nghi ngờ (BN ho trên 3 tuần) tới các cơ sở y tế. Tuy nhiên,
dự án với thành công hạn chế: ít bệnh nhân đến cơ sở y tế để thăm khám (18). Để chống lại
HIV, nhiều chương trình hợp tác nhằm cải thiện khả năng phòng, phát hiện và điều trị HIV đã
được triển khai với các quầy thuốc. Vai trò của các quầy thuốc được đề nghị nhằm cải thiện
việc chăm sóc với các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, thúc đẩy dùng biện pháp tránh
thai, và cung cấp bơm tiêm - kim tiêm vô khuẩn (19).
1.6 – Ai có thể bán thuốc tại quầy thuốc ? Chỉ dược sĩ ? Có tồn tại các thuốc chỉ được
bán theo đơn ? Những loại thuốc gì là dân chúng có thể mua mà không cần đơn ?
Trả lời: Để có thể mở một quầy thuốc tư, DS phải trải qua 5 năm đào tạo tại ĐH và có ít nhất
3-5 năm kinh nghiệm làm việc trong một cơ sở dược. Những nhân viên giúp DS gồm: dược tá
đào tạo từ 6-12 tháng, và DS trung cấp đào tạo 3 năm.
4. Trang 4/8
Chương trình hiện tại về dược vẫn còn tập trung dạy về thuốc hơn là về lâm sàng (Dược lâm
sàng liên quan việc dùng thuốc của bệnh nhân, cân nhắc đến các đặc điểm đặc biệt của bệnh
nhân). Các sinh viên dược năm 4, năm 5 giành mỗi tuần thực tập trong các cơ sở dược khác
nhau (sở y tế, bệnh viện, quầy thuốc, công ty dược...) và thực hiện một số công việc khác
nhau. Không có kì thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề dược sau khi SV tốt nghiệp. Duy
nhất Sở y tế/Bộ y tế là có quyền cho phép mở quầy thuốc. Hiện tại, đào tạo liên tục là không
bắt buộc và cơ hội vẫn còn hạn chế.
Có một sự không tương xứng giữa nhu cầu DS của cộng đồng và khả năng đào tạo DS của
các trường. Năm 2008, có khoảng 10.524 DS đại học, 12.533 DS trung cấp và sơ cấp. Theo
kế hoạc quốc gia về phát triển nguồn nhân ực y tế, Bộ Y tế đặt ra mục tiêu năm 2020 sẽ có số
lượng DS tăng gấp đôi. Dù cho nỗ lực này, thì trong tương lai gần, Việt Nam vẫn thiếu DS
(1).
Năm 2010 ước tính khoảng 60% DS đại học đăng kí với cơ quan chính phủ là làm việc tại
quầy thuốc (20). Thực tế, phần lớn DS làm việc toàn thời gian (như là trình dược viên cho các
công ty dược, thậm chí là làm việc tại trường hay bệnh viện). Các quầy thuốc thường thuê các
nhân viên hỗ trợ như DS trung cấp và sơ cấp. Những nhân viên này thường làm việc một
mình, mà không có sự giám sát của DS bởi vì DS chịu trách nhiệm thường vắng mặt (21).
Một nghiên cứu cho thấy DS chịu trách nhiệm quầy thuốc vắng mặt trong 24% các quầy
thuốc được ghé thăm (22). Sự tồn tại của thanh tra dược dường như là không đủ để bảo đảm
luật pháp được tuân thủ.
1.7 – Có tồn tại khả năng mua thuốc tự do tại quầy thuốc hoặc những địa điểm khác
ngoài quầy thuốc như siêu thị ?
Trả lời: Tại Việt Nam, thuốc được phân thành thuốc Tây y và thuốc Đông y (truyền thống).
Thuốc Tây y được chia thành 3 nhóm chính: 1-thuốc bán tự do không cần đơn thuốc (danh
sách khoảng 260 thuốc) ; 2- thuốc bán cần đơn thuốc ; và 3-thuốc được kiểm soát đặc biệt bởi
DS và thanh tra sở y tế, gồm thuốc an thần, morphin và dẫn chất của nó.
Theo quy định của luật, có sự tách biệt hoạt động phân phối thuốc (bán thuốc bởi dược sĩ) và
hoạt động kê đơn thuốc (bởi bác sĩ). Tuy nhiên, phần lớn BS trong các BV công hoặc tư còn
mở phòng khám tư tại nhà ngoài giờ hành chính và có thể bán thuốc sau khi khám bệnh.
Ngược lại, DS bán thuốc cũng thường bán cả thuốc cần kê đơn nhưng không cần đơn. Những
khảo sát cho thấy khoảng 34-98% các DS bán thuốc cần kê đơn nhưng không có đơn (23-25).
Các bệnh nhân thường tới thẳng quầy thuốc mà không cần thăm khám bởi bác sĩ trước, áp lực
cạnh tranh về lợi nhuận là những lý do chính giải thích cho việc tuân thủ luật còn hạn chế.
Một khảo sát quốc gia về y tế VN năm 2002 cho thấy khoảng 54% dân chúng tự ý mua thuốc
(1). Một nghiên cứu gần đây về hành vi liên quan đến y tế của 1.075 dân cho thấy việc tự ý
mua thuốc là phổ biến, với lời khuyên của DS tại quầy thuốc, thậm chí cả với những trường
hợp bệnh nặng (Bảng 1)(26).
5. Trang 5/8
Bảng 1: Địa điểm của lần thăm khám đầu tiền
Địa điểm Tổng (100%) Nhẹ Vừa Nặng
Trạm y tế 17.1 12 23 22
BV 8.8 4 13 16
Phòng khám tư 18.0 15 19 25
Tự điều trị 50.7 64 40 35
Không điều trị 4.9 6 5 2
Khác 0.4
Các thuốc bán cần kê đơn được xem là quá đắt đối với đa số BN. Vì vậy, đa số BN dùng các
phương thức trị bệnh truyền thống hoặc nghe theo lời khuyên của người thân, dùng các thuốc
từ đơn thuốc tương tự của người thân hoặc trong trường hợp may mắn hơn thì theo lời khuyên
của DS tại quầy thuốc.
Chỉ khi nào thất bại sau khi dùng nhiều biện pháp điều trị khác nhau, BN mới đi khám tại
phòng khám hay BV. Thêm vào đó, các quầy thuốc được vận hành như một cơ sở kinh doanh
hơn là tuân thủ các quy định về thực hành y tế. Lợi nhuận chính từ quầy thuốc là từ bán thuốc
và lợi nhuận từ sự chệnh lệch giá mua-bán càng ngày càng thu hẹp do sự cạnh tranh giữa các
quầy thuốc và quy định về giá của BYT (16). Vì tăng số lượng thuốc bán là cách thức hiệu
quả nhất để quầy thuốc tăng lợi nhuận nên rất khó để quầy thuốc từ chối bán thuốc cho BN.
Quy định chỉ yêu cầu DS quầy thuốc lưu trữ thông tin bán các thuốc cần kê đơn. Trong khi
thuốc bán cần đơn thuốc chiếm 70% tổng số lượng thuốc bán ra (27). Tỷ lệ này rất cao trong
khi tình trạng bán thuốc cần đơn thuốc mà không có đơn thuốc tại quầy thuốc là phổ biến thì
đó là nguy cơ quan trọng về việc dùng thuốc không hợp lý.
1.8 – Các DS có tiến hành phân tích đơn thuốc trong khi phát thuốc ?
Trả lời: Những hoạt động sau được xem là các hoạt động cần tiến hành tại quầy thuốc bởi
luật : (1) tư vấn, dán nhãn và phát thuốc với thuốc không cần kê đơn, (2) dán nhãn và phát
thuốc với thuốc cần đơn thuốc, (3) tư vấn BN đến khám BS hoặc cơ sở y tế nếu bệnh nặng,
(4) tư vấn BN với các triệu chứng nhẹ mà không cần dùng thuốc (28). Tuy nhiên, việc thực
hiện các hoạt động trên còn nhiều hạn chế.
Việc phân phát thuốc vẫn là hoạt động chính của quầy thuốc. Các thuốc được phân phát chủ
yếu dưới dạng các vỉ hoặc viên nén trong lọ hoặc được chia thành các túi nhựa nhỏ. Việc ghi
nhãn thuốc khi phát theo đơn phải bao gồm ít nhất các thông tin tên thuốc, dạng bào chế, liều
dùng. Ghi nhãn với thuốc không cần kê đơn đề thêm thông tin bổ sung: liều dùng và đường
dùng (28). Thực tế, ghi nhãn thuốc thường hạn chế dưới dạng hướng dẫn về liều dùng được
viết trên một tấm giấy nhỏ. BN vì lí do tài chính thường yêu cầu mua chỉ một phần đơn thuốc,
hoặc chỉ vài ngày chứ không phải cả liệu trình điều trị đầy đủ.
Thêm vào đó, các vỉ thuốc thường bị cắt nhỏ và phát cho BN và không thể xác định rõ nhãn
mác của thuốc. Các BN thường cũng không biết rõ mình đang dùng loại thuốc gì. Việc bán
thuốc cần phải lưu các thông tin chính xác về tên thuốc, dạng bào chế, liều, số lượng bán, giá
6. Trang 6/8
thuốc. Luật đòi hỏi rằng quầy thuốc lưu thông tin liên quan đến BN nhưng không chỉ rõ thông
tin cụ thể là gì và làm như thế nào (28). Những thông tin về BN và người kê đơn thường
không được lưu bởi nhân viên quầy thuốc. Những thông tin lưu trữ thường là: tên BN, địa chỉ,
số lượng thuốc bán, nhưng không có thông tin về tiền sử dùng thuốc, bệnh. Máy tính được
dùng để quản lý thống kê thuốc trong khi đa số các hoạt động khác đều làm thủ công. Pha chế
thuốc tại quầy thuốc ngày càng hiếm.
1.9. – DS quầy thuốc có thể đóng vai trò gì tại quầy thuốc đối với các sản phẩm khác
ngoài thuốc (mỹ phẩm, thuốc từ dược liệu, sản phẩm băng bó, vệ sinh, thiết bị y khoa,
dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, các dụng cụ chỉnh hình) ?
Trả lời: DS quầy thuốc chịu trách nhiệm bán các sản phẩm về bông băng, vệ sinh, dinh
dướng, thực phẩm chức năng, thuốc từ dược liệu dưới dạng bao gói hiện đại nhưng không bán
các dụng cụ y tế, dụng cụ chỉnh hình, mỹ phẩm. Đối với thuốc đông y thì có BS đông y kê
đơn và bán thuốc đông y trong các phòng mạch tư nhân. Nếu những thảo dược được bào chế
dưới dạng hiện đại như bên dưới, thì quầy thuốc có thể bán.
1.10. – Có tổ chức công đoàn của ngành dược (hay tổ chức tương tự) chịu trách nhiệm
về đạo đức nghề nghiệp ?
Trả lời: Không. Không có tổ chức công đoàn ngành dược chịu trách nhiệm về đạo đức nghề
nghiệp. Chỉ có các tổ chức/văn phòng của chính phủ quản lý tất cả các hoạt động nghề
nghiệp. Tuy nhiên, có các hội chuyên môn như Hội Dược học Việt Nam, Hội Dược sĩ bệnh
viện HCM, Hội dược bệnh viện Hà Nội.
1.11. – Quầy thuốc hiện tại có là một nơi thực tập hữu ích đối với sinh viên ?
Trả lời: Không, bởi vì hiện tại tại VN, các DS ít có mặt tại quầy thuốc để bảo đảm hướng dẫn
tốt thực tập của sinh viên. Nhiệm vụ này có thể bảo đảm nếu có các biện pháp bảo đảm DS
đại học có mặt thường xuyên tại quầy thuốc.
1.12. – Quầy thuốc hiện tại có là trung tâm sơ cứu - cấp cứu của dân chúng ?
Trả lời: Không, hiện tại tại VN nhiệm vụ này không được thực hiện bởi quầy thuốc.
1.13. – Có tồn tại các nhà phân phối lớn và nếu có, các nhà phân phối này có bắt buộc
phải sử dụng năng lực của DS ?
Trả lời: Các DS (quầy thuốc hay bệnh viện) có thể mua thuốc trực tiếp với hãng dược hoặc
thông qua trung gian là các nhà phân phối thuốc. Để mở một hãng phân phối thuốc cần ít nhất
một dược sĩ đại học tốt nghiệp.
Tài liệu tham khảo:
1. Ministry of Health. Joint Annual Health Review - Health Workforce in Viet Nam.
2008.
2. Lita Cameron. Healthcare Choices in the Context of Reform: Perspectives of Young
Lives Caregivers in Vietnam. 2009.
7. Trang 7/8
3. General Statistics Office of Vietnam. [cited 2015 Sept 7]; Available from:
http://www.gso.gov.vn.
4. Giang Thanh Long. Vietnam : Social Health Insurance and Policy Recommendations.
2008.
5. Drug Administration of Vietnam. Final Report of Pharmaceutical Affairs. 2008.
6. IMPACT. Counterfeit Medicines: an update on estimates 15 Nov 2006; 2006 Contract
No.: Document Number|.
7. Shetty P. Médicaments contrefaits : Faits et chiffres. 2011 [updated 2011; cited 2015
Sept 7]; Available from: http://www.scidev.net/afrique-sub-saharienne/sante/article-de-
fond/m-dicaments-contrefaits-faits-et-chiffres.html.
8. Wondemagegnehu E. Counterfeit and Substandard Drugs in Myanmar and Viet Nam -
Report of a Study Carried out in Cooperation with the Governments of Myanmar and Viet
Nam. Geneva: World Health Organization; 1999 Contract No.: Document Number|.
9. IRACM. ENJEUX DE LA FALSIFICATION DE MEDICAMENTS. 2013 [updated
2013; cited 2015 Sept 7]; Available from: http://www.iracm.com/enjeux/.
10. WHO. National health account series. 2008 [updated 2008; cited 2015 Sept 7];
Available from: http://www.who.int/nha/country/vnm.pdf.
11. WHO. World Health Statistics. 2010 [updated 2010; cited 2015 Sept 7]; Available
from: http://www.who.int/whosis/whostat/EN_WHS2011_Full.pdf.
12. Drug Administration of Vietnam. Data of Manufacture and Import of Drugs. 2010
[updated 2010; cited 2015 Sept 7]; Available from: http://www.vnpca.org.vn/story/so-lieu-
thong-ke-tinh-hinh-san-xuat-nhap-khau-thuoc-en-2010.
13. World Bank. Vietnam development report 2008: Social protection. 2009 [updated
2009; cited 2015 Sept 7]; Available from: http://www-
wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/IB/2008/06/04/000333038_2
0080604015001/Rendered/PDF/436530WP0REVIS1ction1final01PUBLIC1.pdf
14. Ames Gross and Rachel Weintraub. Vietnam Pharmaceutical Regulatory Update.
2005.
15. Journal of Pharmacy of Vietnam. Danang Inhabitant’s perspection of medicine
purchase and usage. 2010.
16. Jordan W. Swanson. Unveiling the Invisible Hand: Explaining Pharmacies’
Participation in Public-Private Partnerships for Public Health in Vietnam. 2007.
17. K. Lönnroth at al. Referring TB suspects from private pharmacies to the National
Tuberculosis Programme: experiences from two districts in Ho Chi Minh City, Vietnam. INT
J TUBERC LUNG DIS. 2003;7(12):1147-53.
18. Pankonin CA et al. Selling syringes to injecting drug users: a study of five pharmacies
in Hanoi, Vietnam. J Infect Developing Countries. 2008;2(1):51-8.
19. Family Health International Vietnam. HIV/AIDS PREVENTION AND CARE IN
VIET NAM. 2004 [updated 2004; cited 2015 Sept 7]; Available from:
http://dspace.africaportal.org/jspui/bitstream/123456789/8369/1/HIV%20AIDS%20Preventio
n%20and%20Care%20in%20Viet%20Nam%202004.pdf?1.
20. Drug Administration of Vietnam. Data of Pharmaceutical Human Resources. 2010
[updated 2010; cited 2015 Sept 7]; Available from: http://www.vnpca.org.vn/story/so-lieu-ve-
tinh-hinh-nhan-luc-du-c-2010.
21. Nguyen Nguyen. Jumpstarting Good Pharmacy Practices in Viet Nam. 2011 [updated
2011; cited 2015 Sept 7]; Available from: http://talk.onevietnam.org/jumpstarting-good-
pharmacy-practices-in-viet-nam/.
22. Rajeswari R, Balasubramanian R, Bose SC, Rahman SF. Private pharmacies in
tuberculosis control: a neglected link. Int J Tuberc Lung Dis. 2002;6:171-3.
8. Trang 8/8
23. Duong DV, Binns CW, Le TV. Availability of antibiotics as overthe-counter drugs in
pharmacies: a threat to public health in Vietnam. . Trop Med Int Health. 1997;2(1133-9).
24. Chuc NTK, Tomson G. ‘Doi moi’ and private pharmacies: a case study on dispensing
and financial issues in Hanoi, Vietnam. Eur J Clin Pharmacol. 1999;55:325-32.
25. Chalker J, Chuc NTK, Falkenberg T, Do NT, Tomson G. gement by private
pharmacies in Hanoi: practice and knowledge of drug sellers. STD manaSex Transm Infect.
2000;76(299-302).
26. Khe ND, et al. Primary health concept revisited: Where do people seek health care in a
rural area of Vietnam. Health Policy. 2002;61(1):95-109.
27. UBIFRANCE et les Missions économiques. (2011). Le marché pharmaceutique au
Vietnam. 2011 [updated 2011; cited 2015 Sept 7]; Available from:
http://www.ubifrance.fr/viet-nam/001B1102795A+le-marche-pharmaceutique-au-
vietnam.html.
28. PATH. Leveraging the capacity of pharmacies to improve health outcomes in
Vietnam.: 2015; 2009 [updated 2009; cited Sept 7]; Available from:
http://www.path.org/publications/files/VN_pharm_fs.pdf.