Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Hợp Đồng Thương Mại Điện Tử Ở Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0934.536.149 để được hỗ trợ tải nhé!
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Báo Cáo Pháp Luật Về Hợp Đồng Thương Mại Điện Tử Ở Việt Nam
1. TRƯỜNG
KHOA LUẬT
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Tham khảo thêm tài liệu tại Trangluanvan.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.536.149
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
2. TRƯỜNG
KHOA LUẬT
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
3. LỜI CÁM ƠN
Trước tiên tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến toàn thể các
Thầy, Cô giáo của Trường nói chung và các thầy cô giáo trong Khoa Luật nói
riêng đã tận tình giảng dạy, dẫn dắt và truyền đạt cho sinh viên những kiến thức,
kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến giáo viên trực tiếp hướng dẫn trong
suốt quá trình làm bài báo cáo thực tập tốt nghiệp này.
Mặc dù tác giả đã cố gắng hết sức để hoàn thiện báo cáo này nhưng do bản
thân còn hạn chế nhiều về vốn kiến thức, không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong các Quý Thầy, (Cô) giáo hướng dẫn và góp ý để giúp tác giả
sửa chữa, hoàn thiện hơn bài báo cáo này.
Xin chân thành cảm ơn!
4. LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan bài báo cáo này là công trình nghiên cứu của
riêng tác giả. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong báo cáo là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện báo
cáo này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Bà Rịa- Vũng Tàu, ngày tháng năm 2020
………………………………………………..…….
5. BẢNG QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ
TMĐT Thương mại điện tử
DN Doanh nghiệp
HĐĐT Hợp đồng điện tử
CKĐT Chữ ký điện tử
NTD Người tiêu dùng
6. MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................Error! Bookmark not defined.
1. Lý do chọn đề tài...............................................Error! Bookmark not defined.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...............................Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích nghiên cứu.........................................Error! Bookmark not defined.
4. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu................Error! Bookmark not defined.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài............. Error! Bookmark not
defined.
6. Bố cục đề tài ......................................................Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ....................................................................................................................2
1.1. Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử .............................................2
1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử.............................................5
1.3. Phân loại hợp đồng thương mại điện tử....................................................9
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1....................................Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ..........12
2.1 Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử.............................................12
2.1.1 Giao kết hợp đồng thương mại điện tử .............................................13
2.1.2 Tình hình thực hiện hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam ......17
2.1.3 Vi phạm và xử lý vi phạm hợp đồng thương mại điện tử ..................20
2.1.4 Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại điện tử........................22
2.2 Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương
mại điện tử ở Việt Nam hiện nay .......................................................................24
2.2.1 Những vấn đề bất cập........................................................................24
2.2.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử ....28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN..............................................................................................................30
8. 2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử
Trước hết, vấn đề cần được làm rõ là khái niệm về “Thương mại điện
tử”. Theo khái niệm được đưa ra trên trang Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia: “Thương mại điện tử, hay còn gọi là e-commerce, e-
comm hay EC, là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử
như Internet và các mạng máy tính. TMĐT dựa trên một số công nghệ
như chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị
Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ
thống quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu”1
.
Hiện nay có rất nhiều hình thức TMĐT và cũng có rất nhiều định nghĩa
cũng như quan điểm về TMĐT. Tùy vào mục tiêu nghiên cứu mà người ta
hiểu TMĐT theo một cách khác nhau.
Dưới gốc độ công nghệ thông tin thì TMĐT là khả năng phân phối sản
phẩm, dịch vụ, thông tin hoặc các tác vụ thanh toán được thực hiện thông qua
một mạng, ví dụ là điện thoại, máy fax, Internet hay World Wide Web…. Tuy
nhiên, trên phương diện kinh doanh thì TMĐT là việc sử dụng các ứng dụng
công nghệ để tự động hóa các giao dịch và các kênh thông tin kinh doanh, đối
với kinh doanh TMĐT mang lại một cuộc cách mạng vô cùng to lớn khi mà
giờ đây chỉ bằng một cú “click” chuột, người mua và người bán có thể thực
hiện việc tra cứu thông tin sản phẩm hoặc thực hiện ngay các giao dịch mua
bán “online” một các tự động. Dưới góc độ dịch vụ, TĐT là công cụ để các
DN, tổ chức, nhà quản lý hay NTD nhanh chóng kết nối được với nhau, rút
ngắn thời gian giao dịch, cắt giảm chi phí đồng thời nâng cao chất lượng dịch
vụ.
1
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i_%C4%91i%E1%BB%87n_t%E1
%BB%AD
9. 3
Theo pháp luật Việt Nam. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không đưa
ra khái niệm về TMĐT mà chỉ đưa ra khái niệm về giao dịch điện tử. Theo
đó, giao dịch điện tử là “giao dịch được thực hiện bằng phưong tiện điện tử”2
.
“Giao dịch” có thể hiểu là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Đồng thời, khái
niệm phương tiện điện tử cũng được quy định rõ “Phương tiện điện tử là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính,
truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự”. Theo đó,
giao dịch điện tử có thể là việc nộp thuế qua mạng, hải quan điện tử, giáo dục
tiếng Anh qua mạng, kể cả thực hiện hợp đồng kinh doanh qua mạng...
Như vậy, có thể thấy TMĐT tại Việt Nam được hiểu theo nghĩa rộng,
bởi vì Luật Giao dịch TMĐT được xây dựng dựa trên nền tảng của Luật mẫu
UNCITRAL về TMĐT. Và theo cách tiếp cận này, internet là một phương
tiện thúc đẩy hoạt động TMĐT, không đồng nghĩa với việc xác định TMĐT
bắt buộc phải thông qua internet3
. Với góc độ này sẽ tạo điều kiện cho các
DN Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn, giảm bớt bỡ ngỡ và lúng túng ban đầu.
Vào thời điểm này mặc dù internet đã xuất hiện tại Việt Nam nhưng vẫn chưa
phát triển mạnh, do đó phương thức kinh doanh qua mạng internet toàn cầu
được xem như là một bước phát triển mới trong TMĐT.
Hiện nay, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT cùng với sự đa
dạng về hình thức cũng như công cụ thực hiện, các giao dịch điện tử nói
chung và đặc biệt là hợp đồng TMĐT cũng dần hình thành và được sử dụng
ngày càng nhiều trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng.
Tuy nhiên, khái niệm về “Hợp đồng thương mại điện tử” thì cho
đến nay vẫn còn thể hiện sự khác biệt trong quan niệm của luật pháp các nước
cũng như cách hiểu của các nhà chuyên môn.
2
Luật giao dịch điện tử 2005
3
http://vuahocvalam.com/ky-nang-mem/lu/at-mau-cua-uncitral-va-luat-giao-dich-dien-tu-cua-mot-so-quoc-
gia-tren-the-gioi-370.html. Truy cập ngày 01/08/2020.
10. 4
Theo luật sư Olivier Iteanu, thuộc đoàn luật sư Paris thì HĐĐT được
hiểu là “sự gặp gỡ trên mạng viễn thông quốc tế giữa một lời đề nghị giao kết
hợp đồng thể hiện bằng phương tiện nghe nhìn và một lời chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng. Sự gặp gỡ này có thể được thể hiện tức thời nhờ sự trao
đổi tương tác”4
.
Theo Ủy ban kinh tế châu Âu của Liên Hợp Quốc (UNECE), HĐĐT là
hợp đồng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các đối tác TMĐT. Hợp đồng bao
gồm các điều khoản cơ bản có thể đảm bảo rằng một hay nhiều giao dịch
TMĐT, sau này có thể ký kết giữa các đối tác thương mại trong khuôn khổ
pháp lý cho phép. HĐĐT nhằm đề cập tới mọi hình thức liên lạc điện tử có
thể ký kết các giao dịch TMĐT5
. Luật Giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005,
điều 33 thì định nghĩa “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới
dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này. Trong đó, “Thông điệp
dữ liệu” là “thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ
bằng phương tiện điện tử”6
.
Tại Việt Nam, theo Luật Giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005, điều
33 thì định nghĩa “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu theo quy định của luật này”7
. Theo đó, Thông điệp dữ
liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng
phương tiện điện tử8
.
Như vậy, có thể hiểu HĐĐT là hợp đồng được giao kết giữa hai bên
hoặc nhiều bên thông qua việc sử dụng các phương tiện điện tử nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên.
Nói đến HĐĐT là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ
không phải là một loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào.
4
Nhà pháp luật Việt – Pháp (1999), Khoảng không vũ trụ, mạng không gian và thông tin viễn thông (tiến bộ
khoa học và các vấn đề pháp lý), Kỷ yếu hội thảo Pháp – Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5
Trung tâm Thương mại quốc tế (2002), Bí quyết TMĐT, Phụ lục 3: Hợp đồng TMĐT của UNECE, Nxb.
Thế giới, Hà Nội
6
Luật giao dịch điện tử 2005
7
Luật giao dịch điện tử 2005
8
Khoản 12 Điều 4 Luật giao dịch điện tử 2005
11. 5
Dựa vào cách hiểu trên, có thể nêu lên định nghĩa hợp đồng TMĐT
như sau: Hợp đồng TMĐT là sự thỏa thuận giữa các bên trong đó có ít nhất
một bên là thương nhân. Chủ thể còn lại là chủ thể có tư cách pháp lý nhằm
xác lập hợp đồng dưới dạng thông điệp dữ liệu9
.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng TMĐT vẫn giữ các đặc điểm pháp lý đặc trưng của một hợp
đồng thương mại như:
- Chủ thể của hợp đồng: giữa các bên là thương nhân, hoặc có một bên là
thương nhân (thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh10
).
- Mục đích của hợp đồng trong TMĐT cũng giống như các hợp đồng thương
mại khác đó chính là lợi nhuận.
Xuất phát từ mục đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi
các thương nhân tham gia ký kết một hợp đồng thương mại suy cho cùng
cũng đều vì lợi ích lợi nhuận. Theo Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại năm
2005, đối với những hợp đồng giữa thương nhân với chủ thể không phải là
thương nhân và không nhằm mục đích sinh lợi, việc có áp dụng Luật thương
mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không là do bên không có mục
đích lợi nhuận quyết định.
- Đối tượng của hợp đồng TMĐT là hàng hóa.
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005: “Hàng hóa bao gồm: i) Tất
cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; ii) Những
vật gắn liền với đất đai”. Như vậy, hàng hóa trong hợp đồng TMĐT có thể là
hàng hóa đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai, có thể là
động sản hoặc bất động sản mà không thuộc danh mục cấm của pháp luật.
9
Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Duy Thanh (2019), “Hợp đồng thương mại điện tử: thực trạng và hướng
hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 08(384), xem tại:
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210304 truy cập ngày 01/08/2020
10
Điều 2 Luật thương mại 2005
12. 6
- Nội dung của hợp đồng TMĐT thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ hợp đồng, đó là các điều khoản do các bên thỏa thuận.
Hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng hợp các điều
khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoản
này xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp
đồng.
- Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng TMĐT các bên phải tuân thủ các nguyên tắc
của một giao dịch dân sự được quy định tại Bộ luật dân sự. Đó là nguyên tắc
“Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình một cách thiện chí, trung thực.” và nguyên tắc “Việc xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác” “Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”11
.
Tuy nhiên, hợp đồng TMĐT lại mang những đặc điểm riêng mà các
loại hợp đồng khác không có.
Một là, hợp đồng thương mại điện tử được thể hiện hoàn toàn dưới dạng
thông điệp dữ liệu.
Theo Luật Giao dịch điện tử 2005, “thông điệp dữ liệu” là thông tin được tạo
ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử12
. Trong
giao kết hợp đồng TMĐT, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị
giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện
thông qua thông điệp dữ liệu.
Hai là, chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử bên cạnh những chủ thể của
một hợp đồng thương mại thì còn xuất hiện thêm các chủ thể trung gian là
các tổ chức cung cấp dịch vụ mạng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực
chữ ký điện tử.
11
Điều 3 Bộ Luật dân sự 2015
12
Khoản 12 Điều 4 Luật giao dịch điện tử 2005
13. 7
Các tổ chức này không tham gia vào quá trình đàm phán, giao kết hay thực
hiện hợp đồng TMĐT mà chỉ đóng vài trò thực hiện việc gửi, lưu trữ thông
tin giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng, cung cấp những thông tin cần
thiết để xác nhận độ tin cậy của thông điệp dữ liệu trong giao kết hợp đồng.
Bên cạnh đó, việc xác định năng lực chủ thể và thông tin về đối tác trong giao
kết hợp đồng TMĐT rất không hề đơn giản như các loại hợp đồng truyền
thống. Lý do vì phần lớn các hợp đồng TMĐT được thực hiện thông qua các
công cụ/ ứng dụng điện tử, mạng Internet nơi mà các chủ thể tham gia vào
hợp đồng thường ít quen biết, có thể cách xa về mặt vị trí địa lý, có thể ký kết
hợp đồng mà chưa từng gặp mặt và ngay cả khi thực hiện xong hợp đồng
cũng chưa biết mặt.
Ba là, hợp đồng thương mại điện tử mang tính vô hình, phi vật chất.
Hình thức của HĐĐT hoàn toàn khác với hình thức phổ biến của hợp đồng
truyền thống trên giấy. Hợp đồng TMĐT, như đã nói ở trên, được tạo lập và
ký kết bởi các thông điệp dữ liệu. Do đó HĐĐT nói chung và hợp đồng
TMĐT nói riêng không thể sờ thấy hay cầm nắm một cách vật chất được. Các
nội dung của HĐĐT được hiển thị bằng các thiết bị điện và điện tử như: máy
tính, điện thoại di động… Chính đặc điểm này của hợp đồng TMĐT tạo cảm
giác HĐĐT là “ảo”, “phi giấy tờ”, không dễ dàng “cầm nắm” và “sử dụng”
một cách dễ dàng. Chính đặc điểm này cũng mang lại nhiều khó khăn trong
việc xác định các vấn đề về bản gốc, chữ ký, về bằng chứng pháp lý của hợp
đồng…
Bốn là, hợp đồng thương mại điện tử mang tính phi biên giới.
Quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, các bên không cần gặp trực tiếp mà
thông qua các phương tiện điện tử. Do đó, hợp đồng TMĐT đã phá vỡ các
giới hạn, rào cản về không gian, biên giới hay bất kỳ khoảng cách địa lý nào.
Loại hợp đồng cho phép các bên trao đổi thông tin, thỏa thuận thực hiện các
thao tác giao kết hợp đồng thông quan. Theo chiều hướng tích cực, hợp đồng
TMĐT tạo ra sự thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng bất kể là giữa những
14. 8
chủ thể trong hay ngoài nước, từ đó tiết kiệm được thời gian, chi phí… cho
các chủ thể tham gia. Tuy nhiên, việc xác định thời gian và địa điểm giao kết
HĐĐT sẽ trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền thống vì thời điểm
“gửi” và “nhận” một thông điệp dữ liệu (chính là một chào hàng hay một
chấp nhận chào hàng) trở nên khó xác định trong môi trường điện tử.
Năm là, tính rủi ro của hợp đồng thương mại điện tử,
Việc giao kết hợp đồng TMĐT được thực hiện dựa trên các ứng dụng,
phương tiện điện tử và viễn thông. Bên cạnh sự thuận tiện và tiết kiệm chi phí
do sử dụng phương tiện điện tử và mạng viễn thông để ký kết HĐĐT, việc ký
kết và thực hiện HĐĐT cũng gặp phải một số khó khăn do chính những yếu
tố này tạo ra. Với đặc thù được giao kết dưới dạng phi giấy tờ, việc giao kết
HĐĐT sẽ gặp rủi ro nếu không có các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ
quan chứng thực CKĐT. Hệ thống mạng trục trặc lập tức sẽ ảnh hưởng đến
việc giao kết HĐĐT. Cơ quan chứng thực CKĐT sẽ đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và tạo ra được một cơ chế sao cho các HĐĐT không thể
bị giả mạo và không thể bị phủ nhận khi tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó
hình thức hợp đồng này cũng phải đối mặt với rủi ro đến từ công tác bảo mật
thông tin của các thương vụ trước sự tấn công của các ”hacker” công nghệ
thông tin.
Sáu là đặc trưng về áp dụng pháp luật điều chỉnh,
Ngoài các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự HĐĐT còn chịu
sự điều chỉnh của Luật Giao dịch điện tử, Luật về Giao kết hợp đồng điện tử,
Luật về TMĐT, Luật về Chữ ký điện tử, … Do pháp luật điều chỉnh về việc
giao kết hợp đồng truyền thống không đề cập đến những vấn đề như thông
điệp dữ liệu, trao đổi dữ liệu điện tử, CKĐT,… Vậy nên vấn đề hoàn thiện
pháp luật về lĩnh vực này là điều cấp thiết, tạo nền tảng vững chắc về cơ sở
pháp lý cho sự phát triển bền vững của TMĐT, đem lại niềm tin cho các chủ
thể thực hiện các giao dịch về HĐĐT, và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong giao kết HĐĐT.
15. 9
1.3. Phân loại hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng TMĐT được hình thành khi các chủ thể tham gia giao dịch
trong môi trường TMĐT và được thể hiện bởi nhiều hình thức khác nhau.
Trong đó, các hình thức phổ biến gồm: hợp đồng thương mại truyền thống
được đưa lên website, hợp đồng TMĐT được hình thành qua giao dịch tự
động, hợp đồng TMĐT hình thành qua thư điện tử, hợp đồng TMĐT có sử
dụng chữ ký số13
:
Thứ nhất, hợp đồng thương mại truyền thống được đưa lên website:
Các hợp đồng này có đặc điểm là được sử dụng một cách phổ biến, thường
xuyên, thường do một bên soạn thảo với các nội dung đã được chuẩn hóa và
gần như là cố định, được đưa lên website và bên còn lại sau khi đọc những
nội dung đó có thể nhấp vào tùy chọn “Đồng ý” hoặc “Không đồng ý” để xác
nhận chấp nhận hoặc không chấp nhận giao kết hợp đồng theo nội dung được
soạn sẵn. Loại hợp đồng này thường được sử dụng trong một số lĩnh vực như:
ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ viễn thông, Internet, điện thoại, du lịch, vận tải,
bảo hiểm, tài chính… Trước đây, đa số những hợp đồng này đều là hợp đồng
truyền thống và được in ra giấy để hai bên có thể giao kết.
Thứ hai, Hợp đồng TMĐT hình thành qua giao dịch tự động:
Đây là hình thức mua sắm trực tuyến phổ biến hiện nay nhất là thời đại công
nghệ 4.0 với mạng Intetnet phủ sóng khắp mọi nơi trên thế giới. Mua sắm
trực tuyến cho phép NTD đặt mua hàng trên các trang web, “fanpage” bán
hàng của DN và sau đó hàng hóa, sản phẩm sẽ được vận chuyển tới địa chỉ
mà NTD yêu cầu.
Hiện nay, chúng ta có thể bắt gặp hình thức này ở bất kì nơi đâu với sự phát
triển mạnh mẽ của nó. Trên thể giới, chúng ta khá quen thuộc với các trang
như: Amazon.com, Ebay.com, BestBuy.com, Taobao.com…Hay như ở Việt
Nam: Lazada.vn, Tiki.vn, Sendo, Shopee, Nguyenkim.com,
13
Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Duy Thanh (2019), “Hợp đồng thương mại điện tử: thực trạng và hướng
hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 08(384), xem tại:
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210304 truy cập ngày 01/08/2020
16. 10
Thegioididong.com… đã dần trở thành công cụ đắc lực thỏa mãn nhu cầu
mua sắm của NTD. Mô hình này có thể vừa sử dụng trong giao dịch thương
mại giữa DN với DN (B2B) và cả giao dịch giữa DN với NTD (B2C).
Đặc điểm nổi bật của loại HĐĐT này là nội dung hợp đồng không được soạn
sẵn mà được hình thành trong giao dịch tự động. Máy tính tự tổng hợp nội
dung và xử lý trong quá trình giao dịch dựa trên các thông tin do người mua
nhập vào. Một số giao dịch điện tử kết thúc bằng hợp đồng, một số khác kết
thúc bằng đơn đặt hàng điện tử. Cuối quá trình giao dịch, HĐĐT được tổng
hợp và hiển thị để người mua xác nhận sự đồng ý với các nội dung của hợp
đồng. Sau đó, người bán sẽ được thông báo về hợp đồng và gửi xác nhận đối
với hợp đồng14
.
Thứ ba, hợp đồng TMĐT hình thành qua thư điện tử:
Hầu hết các DN hiện nay đều sử dụng mạng internet và thư điện tử (E-mail)
cho quá trình hoạt động của mình. Hình thức này cho phép các bên tiến hành
các giao dịch bao gồm các bước: chào hàng, hỏi hàng, đàm phán về các điều
khoản của hợp đồng như quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện cơ
sở giao hàng… Quy trình giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng
tương tự quy trình giao dịch truyền thống, điểm khác biệt là phương tiện sử
dụng để thực hiện giao kết hợp đồng là máy tính, mạng Internet và email.
Hình thức này chủ yếu được sử dụng trong giao dịch B2B giữa các DN với
nhau.
Theo số liệu của Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 201915
thống kê tình hình
áp dụng TMĐT tại 4,300 DN trong cả nước thì có tới 84% trong số đó sử
dụng email để đặt hàng hoặc nhận đơn đặt hàng. Điều này mức độ phổ biến
của loại hợp đồng TMĐT này đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, Hợp đồng TMĐT sử dụng chữ ký số:
14
Nguyễn Nhất Tư (2017), Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng thương mại điện tử” theo pháp luật Việt Nam, tr. 13
15
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
17. 11
Đặc điểm nổi bật là các bên phải có chữ ký số để ký vào các thông điệp dữ
liệu trong quá trình giao dịch. Các đối tác có thể ký hợp đồng hoàn toàn trực
tuyến, chỉ cần ký vào file hợp đồng và gửi file qua email.
“Chữ ký số là một dạng của chữ ký điện tử phát triển dựa trên công nghệ mã
khóa công khai. Mỗi người dùng chữ ký số sẽ phải có một cặp khóa, gồm có
khóa công khai và khóa bí mật. Khóa bí mật sẽ dùng để tạo chữ ký số. Còn
khóa công khai dùng để thẩm định chữ ký số và xác thực người tạo ra chữ ký
số đó16
”.
Chính vì vậy HĐĐT có sử dụng chữ ký số này có độ bảo mật và ràng buộc
trách nhiệm các bên cao hơn các hình thức trên. Tuy nhiên, để có thể sử dụng
chữ ký số, cần có sự tham gia của các cơ quan chứng thực chữ ký số mà trên
thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay, dịch vụ này còn trong giai đoạn bắt
đầu triển khai. Đây là hình thức hợp đồng TMĐT được sử dụng trên các sàn
giao dịch điện tử tiên tiến như Alibaba.com, Asite.com, Covisint.com,
Bolero.net…
16
Tham khảo bài viết “Ứng dụng chữ ký số trong thương mại điện tử hiện nay”, xem tại:
https://chukyviettel.com/ung-dung-chu-ky-trong-thuong-mai-dien-tu-hien-nay.html. Truy cập ngày
01/08/2020
18. 12
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1 Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử
Để phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
pháp luật cũng ghi nhận hình thức của hợp đồng có thể được thể hiện thông
qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu và hình thức này
được coi là hợp đồng bằng văn bản. Hoạt động về xây dựng và phát triển hợp
đồng TMĐT muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải được pháp điển hoá thành
các quy phạm, các đạo luật. Mặc dù vậy, hiện nay khái niệm pháp luật hợp
đồng TMĐT vẫn còn những cách hiểu khác nhau.
Trong những năm qua, đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, song song với phát triển kinh tế cũng cần ban hành
các quy định pháp luật trong lĩnh vực TMĐT. Nhận thức rõ vai trò quan trọng
của hoạt động bảo vệ môi trường, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
hoạch định, xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật nhằm điều
chỉnh. Có thể nói rằng, phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể trong từng văn
bản pháp luật, các quan hệ về hợp đồng TMĐT với luật chuyên ngành đã
được xử lý một cách hài hoà và ngày càng mang tính khả thi cao. Thông qua
hoạt động ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật chung và văn bản
pháp luật chuyên ngành khác có quy định về nội dung về hợp đồng TMĐT đã
tạo nên nền tảng pháp lý cơ bản trong hoạt động TMĐT, xây dựng và phát
triển bền vững.
Dựa trên các phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm pháp luật hợp đồng
TMĐT như sau: Pháp luật hợp đồng TMĐT là tập hợp các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình các chủ thể giao kết và thực hiện hợp đồng TMĐT. Đồng thời quy định
quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động hợp đồng
TMĐT.
19. 13
Pháp luật hợp đồng TMĐT được cấu thành bởi hệ thống quy phạm pháp
luật được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như:
Hiến pháp, Bộ luật, Luật cho đến những văn bản hướng dẫn thi hành do
Chính phủ, các Bộ, ban ngành hay chính quyền địa phương ban hành.
2.1.1 Giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Giao kết hợp đồng là thuật ngữ được Bộ luật dân sự Việt Nam năm
2015 sử dụng để chỉ việc ký kết hợp đồng. Mặt khác theo Luật Giao dịch điện
tử Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Giao kết hợp đồng điện tử là việc sử
dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hay toàn bộ giao dịch trong
quá trình giao kết hợp đồng”17
.
Vì vậy, giao kết HĐĐT là quá trình đàm phán, thương thảo, tạo lập và ký kết
hợp đồng thông qua trao đổi các dữ liệu điện tử. Các hợp đồng như vậy sẽ
được lưu trữ hoàn toàn ở dạng dữ liệu điện tử. Quá trình giao kết hợp đồng có
thể được thực hiện qua nhiều giao dịch, từ việc quảng cáo hàng hóa (dịch vụ),
chào bán, chào mua hàng hóa (dịch vụ) đến chấp nhận mua hay bán hàng hóa,
dịch vụ đó. Khi một số các giao dịch này hay toàn bộ các giao dịch này được
thực hiện thông qua việc trao đổi dữ liệu (như trao đổi dưới dạng điện tín,
điện báo, fax, thư điện tử…). Thì quá trình đó được gọi là quá trình giao kết
HĐĐT18
.
* Hình thức thư điện tử:
Các DN, các cơ quan nhà nước…sử dụng thư điện tử để gửi cho nhau một
cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, viết tắt
là e-mail).
Luật thương mại năm 2005, Điều 15 đã có quy định rõ hơn: “Trong hoạt động
thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật
theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương
17
Đièu 36 Luật giao dịch điện tử 2005
18
Đièu 36 Luật giao dịch điện tử 2005
20. 14
văn bản”19
. Luật Giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 cụ thể: “Thông điệp
dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ kiệu điện tử, chứng từ điện
tử, thư điện tử, điện tín, fax và các hình thức tương tự khác”20
(Điều 10). Luật
giao dịch điện tử năm 2005 khẳng định giá trị pháp lý của các thông điệp dữ
liệu điện tử trên là: “Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá
trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”
(Điều 11)21
. Nhằm hướng dẫn các DN về vấn đề này, đặc biệt, nhằm làm yên
lòng các DN cũng như các chủ thể tham gia giao kết HĐĐT.
* Hình thức trao đổi dữ liệu điện tử:
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange viết tắt là EDI) là việc
trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc”. Theo cách này, sẽ tự động hoá
hoàn toàn không cần đến sự can thiệp của con người. Theo uỷ ban của Liên
Hiệp Quốc về Luật Thương mại Quốc Tế (UNCITRAL), việc trao đổi dữ liệu
điện tử được quy định như sau: “Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc chuyển
giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng
phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã đựợc thoả thuận để cấu
trúc thông tin”22
. EDI có thể rút ngắn đáng kể khoảng thời gian từ lúc bắt đầu
giao dịch cho đến khi thanh toán kết thúc, bằng cách gửi đi những thông tin
cần thiết và tránh được sự trùng lặp trong cả quá trình giao dịch.
* Tốc độ truyền tin của điện tử: Hợp đồng TMĐT có tốc độ nhanh. Nhờ áp
dụng các phương tiện điện tử nên các bước trong quá trình giao dịch đều được
tiến hành nhanh hơn.
* Hủy đề nghị giao kết hợp đồng:
- Khách hàng hủy giao dịch: Website TMĐT có cơ chế cho phép khách hàng
rà soát, bổ sung, sửa đổi và xác nhận nội dung giao dịch trước khi sử dụng
chức năng đặt hàng trực tuyến để gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Căn cứ vào
19
Đièu 15 Luật giao dịch điện tử 2005
20
Xem Đièu 10 Luật giao dịch điện tử 2005
21
Xem Đièu 11 Luật giao dịch điện tử 2005
22
UNCITRAL (1996), Luật mẫu về TMĐT.
21. 15
Khoản 3 Điều 18 Ngị định 52/2013/NĐ - CP TMĐT quy định: “Cho phép
khách hàng sau khi rà soát những thông tin nói trên được lựa chọn hủy giao
dịch hoặc xác nhận việc đề nghị giao kết hợp đồng”23
. Có thể nói khi khách
hàng kiểm tra lại các thông tin trên lời đề nghị giao kết hợp đồng cảm thấy
không phù hợp thì được quyền hủy giao dịch. Khi khách hàng hủy giao dịch
thì đương nhiên lời đề nghị giao kết hợp đồng ban đầu cũng chấm dứt.
- Bên nhận đề nghị gửi trả lời không chấp nhận đề nghị giao kết: Có thể nói
đây là trường hợp rõ ràng nhất khi lời đề nghị giao dịch trong giao dịch
TMĐT bị chấm dứt. Khoản 1 Điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ - CP quy định:
Trả lời đề nghị giao kết hợp đồng: “Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng phải được thực hiện dưới hình thức phù hợp để
thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ thống thông tin của khách
hàng” 24
. Khi bên nhận được đề nghị giao kết hợp đồng đã trả lời không chấp
nhận giao kết hợp đồng ấy thì coi như lời đề nghị bị chấm dứt. Mọi quyền lời
và nghĩa vụ cũng chấm dứt theo.
- Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời Khoản 1 Điều 20 Nghị định 52/2013/NĐ - CP quy định
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng: “Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá
nhân bán hàng có công bố thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu hết
thời hạn này mà khách hàng vẫn không được trả lời thì đề nghị giao kết hợp
đồng của khách hàng chấm dứt hiệu lực”25
.
- Bên đề nghị không nhận được trả lời chấp nhận đề nghị: Khoản 2 Điều 20
Nghị định 52/2013/NĐ - CP quy định rõ trường hợp bên đề nghị không ghi rõ
thời hạn trả lời sẽ được giải quyết như sau: “Trường hợp thương nhân, tổ
chức, cá nhân bán hàng không công bố rõ thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp
đồng, nếu trong vòng 12 (mười hai) giờ kể từ khi gửi đề nghị giao kết hợp
23
Khoản 3 Điều 18 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
24
Khoản 1 Điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
25
Khoản 1 Điều 20 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
22. 16
đồng, khách hàng không nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề
nghị giao kết hợp đồng của khách hàng được coi là chấm dứt hiệu lực”26
.
* Chấp nhận giao kết hợp đồng đến muộn:
Theo khoản 2 Điều 394 Bộ luật dân sự 2015 về thời hạn trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng quy định trường hợp chấp nhận hợp đồng đến muộn.
- Giá trị của thông điệp dữ liệu: Thông điệp dữ liệu là hình thức thông tin
được trao đổi qua phương tiện điện tử trong các giao dịch hợp đồng TMĐT.
Thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu là cơ sở cho việc thừa
nhận các giao dịch TMĐT, thể hiện dưới các khía cạnh: có thể thay thế văn
bản giấy (hoặc văn bản kèm chữ ký), có giá trị như bản gốc, có giá trị lưu trữ
và chứng cứ, xác định trách nhiệm các bên và thời gian, địa điểm gửi, nhận
thông điệp dữ liệu.
- Chữ ký điện tử: Là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản: word, excel, pdf,
hình ảnh, video…) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. CKĐT
là một công nghệ cho phép xác nhận người gửi và bảo đảm tính toàn vẹn của
thông điệp dữ liệu. Về bản chất, CKĐT tương đương chữ ký tay, có các thuộc
tính như: khả năng nhận dạng một người, tạo tính chắc chắn về mối quan hệ
của người đó với hành vi ký và cho thấy người đó chấp nhận nội dung tài liệu
ký. Có nhiều loại CKĐTkhác nhau như: chữ ký số, chữ ký sinh trắc học, chữ
ký dựa trên số nhận dạng cá nhân (số PIN), chữ ký tạo bằng thẻ thông minh...
Hiện nay, chữ ký số là loại CKĐT được sử dụng phổ biến nhất. Chữ ký số
dựa trên công nghệ mã khóa công khai. Mỗi người dùng chữ ký số phải có
một cặp khóa (keypair), gồm khóa công khai (public key) và khóa bí mật
(private key). Khóa bí mật dùng để tạo chữ ký số. Khóa công khai dùng để
thẩm định chữ ký số hay xác thực người tạo ra chữ ký số đó. Do vậy, việc sử
dụng CKĐTđồng nghĩa với việc mã hóa tài liệu đã được ký kết, nó trở thành
hình thức quan trọng trong văn bản được ký kết.
26
Khoản 2 Điều 20 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
23. 17
Chữ ký đã trở nên rất quen thuộc với mọi người nhưng đến nay pháp luật Việt
Nam hiện nay chưa hề có định nghĩa nào về chữ ký nói chung. Tuy nhiên, liên
quan đến khái niệm CKĐTlại được đề cập trong Luật Giao dịch điện tử năm
2005: Ứng dụng của chữ ký điện tử: Chữ ký số có thể sử dụng trong các giao
dịch thư điện tử, các e-mail, để mua bán hàng trực tuyến, đầu tư chứng khoán
trực tuyến, chuyển tiền ngân hàng, thanh toán trực tuyến mà không sợ bị đánh
cắp tiền như với các tài khoản Visa, Master. Ngoài ra, chữ ký số cũng có thể
dùng để kê khai, nộp thuế trực tuyến, khai báo hải quan và thông quan trực
tuyến mà không phải mất thời gian đi in các tờ khai, đóng dấu đỏ của công ty
rồi đến cơ quan thuế xếp hàng để nộp tờ khai này.
2.1.2 Tình hình thực hiện hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam
Năm 2018, Cục TMĐT và Công nghệ thông tin - Bộ Công thương đã
tiến hành điều tra từ tháng 9 tới tháng 11 năm 2018 tại 4,300 DN trong cả
nước nhằm tổng hợp, phân tích số liệu về tình hình hoạt động của các DN
TMĐT, hiện trạng ứng dụng TMĐT của cộng đồng trong nước. Theo số liệu
của Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 201927
(với số liệu điều tra năm 2018),
có thể rút ra được tình hình sử dụng hợp đồng TMĐT trong hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, hạ tầng thương mại điện tử về cơ bản đã được hoàn thiện.
Theo bài viết “Hợp đồng thương mại điện tử: thực trạng và hướng hoàn thiện”
của Nguyễn Duy Phương và Nguyễn Duy Thanh đăng trên ấn phẩm Nghiên
cứu lập pháp số 08(384)-2019: Theo thống kê của Bộ Công thương trong Báo
cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2017, có 99% DN tham gia khảo sát cho biết có
trang bị máy tính PC và laptop, bên cạnh đó có 61% cho biết có trang bị các
thiết bị di động, bao gồm điện thoại thông minh và máy tính bảng28
27
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
28
Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Duy Thanh (2019), “Hợp đồng thương mại điện tử: thực trạng và hướng
hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 08 (384), xem tại:
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210304 truy cập ngày 01/08/2020.
24. 18
Qua đó có thể thấy, về hạ tầng gần như các DN đều đã trang bị PC, laptop và
các thiết bị di động để hỗ trợ kinh doanh và điều này cũng phản ánh đúng
thực tế hiện nay do đó tiêu chí này đã được lược bỏ khỏi cuộc khảo sát này kể
từ năm 2018.
Thứ hai, việc áp dụng và đa dạng hóa các phương tiện điện tử nhằm ký kết
hợp đồng đang trở nên ngày càng phổ biến
Về nhân lực, khảo sát cho thấy có 47% các DN hiện nay có trên 50% lao động
thường xuyên sử dụng email trong công việc và cao hơn 7% so với năm 2017.
Xét về quy mô DN, nhóm DN vừa và nhỏ (SME) có tỷ lệ ứng dụng email cao
hơn các DN lớn. Qua nhiều năm khảo sát cho thấy mục đích chính của việc sử
dụng email trong DN vẫn dùng để giao dịch với khách hàng và nhà cung cấp.
Xu hướng sử dụng email trong DN năm nay lại tăng đôi chút so với năm
trước về cả số lượng cũng như các mục đích sử dụng 29
.
Bên cạnh đó, xu hướng trong việc các DN ứng dụng những công nghệ tiên
tiến hơn email vào các hoạt động công ty cũng tăng lên, điển hình như việc
ứng dụng các nền tảng giao tiếp như Viber, WhatsApp, Skype, Facebook
Messenger, Zalo…Khảo sát cho thấy gần như 100% DN có ứng dụng các
công cụ này.30
Thứ ba, các hợp đồng thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp với nhau
(B2B) chủ yếu vẫn dưới dạng đơn đặt hàng qua email
84% các DN tham gia khảo sát biết có nhận đơn hàng trực tuyến thông qua
email (tăng 5% so với năm 2017), cho tới thời điểm này vẫn là kênh quan
trọng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các kênh trực tuyến. Tiếp theo đó là mạng
xã hội (49%), website (36%) và sàn TMĐT (13%).
Tương tự với tiêu chí trên thì tiêu chí về tỷ lệ DN có đặt hàng thông qua các
công cụ trực tuyến cũng khá tương đồng với mức độ DN nhận đơn đặt hàng,
email vẫn là kênh giao tiếp chính giữa DN với nhà cung cấp để đặt hàng (84%
29
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
30
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
25. 19
DN đặt hàng trực tuyến thông qua email), tiếp sau đó là mạng xã hội (45%),
website (44%) và sàn TMĐT (19%)31
.
Như vậy, so với năm 2017 thì tỷ lệ nhận đơn đặt hàng cũng như đặt hàng của
DN thông qua các công cụ trực tuyến đều có xu hướng tăng lên.
Thứ tư, các DN đang dần chú trọng đến các giao dịch TMĐT, đặc biệt là
TMĐT giữa DN với NTD (B2C).
Chỉ có 44% DN tham gia khảo sát cho biết đã xây dựng website, tỷ lệ này chỉ
nhỉnh lên 1% so với năm 2017 và không thay đổi nhiều trong vài năm trở lại
đây. Tuy nhiên đa số DN đã chú trọng nhiều hơn tới việc chăm sóc website
của mình: 47% DN cho biết thường xuyên cập nhật thông tin hàng ngày và
23% cho biết có tần suất cập nhật thông tin hàng tuần. 19% DN có website
phiên bản di động và 14% có phần mềm bán hàng trên thiết bị di động. Trong
đó phần lớn các ứng dụng có trên Androi (75%), IOS (45%) và Window
(45%).32
Thứ năm, kinh doanh trên mạng xã hội đang dần trở nên phổ biến và chiếm
ưu thế.
Trong 36% DN trả lời có kinh doanh trên mạng xã hội, con số này tăng 4% so
với năm 201733
.
Như vậy, mạng xã hội đang trở thành trang quảng cáo được ưa chuộng nhất,
sau đó là các công cụ tìm kiếm và báo điện tử. DN hiện nay không còn
chuộng báo giấy và truyền hình như xưa nữa. Cho thấy, xu hướng dịch
chuyển từ các hình thức thương mại truyền thống sang TMĐT hiện nay ngày
càng tăng.
Thứ sáu, các giao dịch giữa Chính phủ và DN thông qua sử dụng dịch vụ
công trực tuyến ngày càng phổ biến.
31
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
32
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
33
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
26. 20
Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến liên quan tới các thủ tục thông báo,
đăng ký, cấp phép, v.v.. của DN có xu hướng tăng. Từ 73% DN sử dụng dịch
vụ công năm 2017 tăng lên 75% DN có sử dụng năm 201834
.
Qua phân tích tình hình thực hiện hợp đồng trong TMĐT, có thể rút ra một số
đánh giá như sau:
- Việc xác lập và thực hiện các giao dịch bằng hợp đồng TMĐT đang diễn ra
khá phổ biến và có chiều hướng gia tăng qua các năm.
- Chủ thể thực hiện các giao dịch này rất đa dạng (DN, NTD, chính phủ,v.v..);
- Bên cạnh các lợi ích đạt được của giao dịch thông qua hợp đồng TMĐT, vẫn
còn tiềm ẩn các rủi ro pháp lý cần được điều chỉnh và giải quyết.
2.1.3 Vi phạm và xử lý vi phạm hợp đồng thương mại điện tử
* Vi phạm hợp đồng thương mại điện tử:
Cũng như hợp đồng truyền thống, việc vi phạm HĐĐT cũng được thể
hiện từ hành vi vi phạm thủ tục ký kết HĐĐT cho đến các hành vi vi phạm
quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐĐT. Vi phạm hợp đồng TMĐT
thường bao gồm: Vi phạm các thủ tục và quy trình khởi tạo các dữ liệu điện
tử, Vi phạm các quy định liên quan đến yêu cầu kỹ thuật như: không có quy
trình bảo mật, không có quy định về CKĐT, không hướng dẫn khách hàng
cách thức trả lời, xác nhận chào hàng, Vi phạm các quy trình kỹ thuật về tạo
lập và sử dụng website bán hàng, Vi phạm các quy định về thủ tục, quy trình
truy cập để mua hàng trên website, Vi phạm những quy định về kỹ thuật, dẫn
đến mắc lỗi trong việc nhập, tạo hay truy cập dữ liệu điện tử ở khâu đề nghị
ký kết hợp đồng, chấp nhận ký kết hợp đồng và cả thực hiện HĐĐT, Chính
những hành vi vi phạm HĐĐT nêu trên đã dẫn đến tranh chấp trong việc thực
hiện HĐĐT.
* Xử lý vi phạm hợp đồng thương mại điện tử:
34
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019
27. 21
Trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung, thực tế là sẽ
khó tránh khỏi những bất đồng, mâu thuẫn tranh chấp giữa các chủ thể. Việc
giải quyết tranh chấp về hợp đồng TMĐT sẽ nhằm bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật về hợp đồng TMĐT nhằm
phát triển một nền công nghiệp phát triển ở nước ta trong thời gian tới.
Tranh chấp về hợp đồng TMĐT nếu xảy ra sẽ khá phức tạp. Sự phức
tạp của các tranh chấp này thể hiện ở chỗ: quan hệ tranh chấp có liên quan
đến nhiều bên bao gồm bên cơ quan, tổ chức mang quyền lực nhà nước (sở y
tế, các bệnh viên, phòng khám...), các tổ chức kinh doanh dược phẩm có thể
mang yếu tố nước ngoài (DN kinh doanh dược phẩm làm DN nước ngoài đầu
tư ở Việt Nam...). Khi có tranh chấp xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của mình
các bên đều muốn giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả
và không ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của mình. Theo quy định tại
Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 (viết tắt LTM), các hình thức giải quyết
tranh chấp, là:
-Thương lượng giữa các bên.
-Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các
bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
-Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Vấn đề cơ quan giải quyết tranh chấp thường gặp phải trong hợp đồng
truyền thống, vấn đề này trở nên khó khăn hơn trong hợp đồng TMĐT. Khi số
lượng giao dịch nhiều, các bên tham gia ở các nước khác nhau và đặc biệt là
những giao dịch trong môi trường mạng với sự tham gia của các hệ thống
máy tính. Hợp đồng TMĐT giữa các cá nhân, pháp nhân Việt Nam được thực
hiện trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, luật điều chỉnh hợp đồng, luật tố tụng
và cơ quan giải quyết các tranh chấp phát sinh hay liên quan đến hợp đồng
TMĐT đó là pháp luật nước Việt Nam. Trong hợp đồng TMĐT, một giao
dịch có thể được điều chỉnh bởi rất nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Mỗi
28. 22
hệ thống pháp luật khác nhau lại có những quy định khác nhau tùy thuộc vào
các điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa của mỗi quốc gia.
2.1.4 Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại điện tử
Từ trước đến nay, tranh chấp vốn là điều không tránh khỏi khi thực
hiện các giao dịch thương mại. Hợp đồng TMĐT lại là một hình thức khá mới
mẻ thì việc xuất hiện tranh chấp cũng là điều có thể hiểu được. Theo Luật
Giao dịch điện tử 2005 thì “Tranh chấp trong giao dịch điện tử là tranh chấp
phát sinh trong quá trình giao dịch bằng phương tiện điện tử”.35
Đối với một tranh chấp, để có thể giải quyết thì trước hết cần phải xác
định 2 yếu tố sau: hệ thống pháp luật nào đang được sử dụng đề điều chỉnh
hợp đồng có tranh chấp và sử dụng hệ thống pháp luật nào, cơ quan tố tụng
nào để thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết tranh chấp.
Ở đây chúng ta đang đề cập đến HĐĐT được thực hiện ở Việt Nam do đó hệ
thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ được sử
dụng để điều chỉnh hợp đồng và các tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp
đồng TMĐT. Điều này thể hiện trong Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015, luật Thương mại 2015 cũng các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan.
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều hợp đồng TMĐT được giao kết có
yếu tố nước ngoài. Điều này cực kì phổ biển khi mà loại hợp đồng này cho
phép thương lượng, giao kết và thực hiện hợp đồng không bị giới hạn bởi
biên giới quốc gia nào. Ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ với
đối tác nước ngoài, ngân hàng thanh toán là ngân hàng nước ngoài, hoặc máy
chủ của giao dịch được đặt ở nước ngoài…Như vậy, chúng ta sẽ gặp khó khăn
trong việc xác định hệ thống luật nào sẽ được áp dụng.
Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều thừa nhận và tôn trọng nguyên tắc
tự do lựa chọn luật áp dụng, dựa trên cơ sở sự đàm phán, thương lượng giữa
các bên tham gia hợp đồng TMĐT.
35
Điều 51, Luật Giao dịch điện tử 2005
29. 23
Trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc áp dụng luật nào để điều
chỉnh thì đa số các quốc gia áp dụng hai quy tắc sau để hương dẫn việc chọn
luật áp dụng: thứ nhất là luật của nước người bán, thứ hai là luật nơi ký kết
hợp đồng.
Tuy nhiên, tới nay vẫn có nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề xác định
nước người bán hay nơi kí kêt hợp đồng. Ví dụ như người mua hàng hóa ở
Việt Nam nhưng người bán hàng hóa ở Hàn Quốc, nhưng họ lại sử dụng hệ
thống máy chủ tại một nước thứ ba như vậy rất khó xác định để áp dụng luật
của Hàn Quốc hay nước thứ ba đó. Bên cạnh đó, hợp đồng TMĐT rất khó đề
xác định được nơi kí kết hợp đồng do các bên giao kết thường không gặp trực
tiếp tại một địa điểm nhất định để thực hiện giao kết.
Thủ tục giải quyết tranh chấp TMĐT ở Việt Nam được khuyến khích giải
quyết thông qua hòa giải. Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được
thực hiện theo quy định của pháp luật36
. Vấn đề là xác định thẩm quyền, trình
tự, thủ tục giải quyết như thế nào.
Nếu các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng TMĐT được giao kết hoặc
thực hiện ở Việt Nam, có chủ thể tham gia là cá nhân, pháp nhân Việt Nam
hoặc các bên thống nhất áp dụng hệ thống luật Việt Nam để điều chỉnh hoặc
sử dụng trong tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp thì tranh chấp sẽ được
thụ lý giải quyết bởi tòa án có thẩm quyền hoặc cơ quan trọng tài của Việt
Nam.
Nếu các tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì trước hết phải xét đến sự
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng hoặc giải quyết tranh chấp có yếu tố
nước ngoài. Trường hợp các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng TMĐT
thì việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp rất khó khăn do
sự khác biệt giữa hệ thống luật giữa các quốc gia do đó phải căn cứ vào quy
định pháp luật quốc tế và các thông lệ quốc tế.
Thực tế cho thấy hiện nay nhiều hợp đồng TMĐT lựa chọn trọng tài đề giải
quyết tranh chấp do tránh được việc khởi kiện lên tòa án quốc gia và thực
36
Điều 52, Luật Giao dịch điện tử 2005
30. 24
hiện quy định về thủ tục xét xử của quốc gia, điều mà ít nhất một trong các
bên không thành thạo.
2.2 Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương
mại điện tử ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Những vấn đề bất cập
Một là, chưa có hàng lang pháp lý cụ thể để bảo vệ người tiêu dùng khi tham
gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử theo mẫu trên website.
Hiện nay, việc giao kết hợp đồng trực tuyến được tiến hành chủ yếu
thông qua website của DN hoặc sàn giao dịch TMĐT của các nhà cung cấp
trung gian. Khác với thư điện tử trao đổi trực tiếp giữa hai bên, giao kết hợp
đồng trên website có thể được thực hiện qua sự tương tác giữa khách hàng và
chức năng đặt hàng trực tuyến của website hoặc thông qua những hợp đồng
truyền thống được đưa lên website mà thông thường đây là những hợp đồng
mẫu37
. Các hợp đồng này có đặc điểm là được sử dụng một cách phổ biến,
thường xuyên, thường do một bên soạn thảo với các nội dung đã được chuẩn
hóa và gần như là cố định, được đưa lên website và bên còn lại sau khi đọc
những nội dung đó có thể nhấp vào tùy chọn “Đồng ý” hoặc “Không đồng ý”
để xác nhận chấp nhận hoặc không chấp nhận giao kết hợp đồng theo nội
dung được soạn sẵn. Loại hợp đồng này thường được sử dụng trong một số
lĩnh vực như: ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ viễn thông, Internet, điện thoại,
du lịch, vận tải, bảo hiểm, tài chính…
Trong thực tiễn có thể dễ dàng bắt gặp một HĐĐT theo mẫu của ngân
hàng, dịch vụ viễn thông, bảo hiểm…không có sự cân đối về mặt thông tin
cũng như bình đẳng về vai trò thương lượng của các bên khi tham gia hợp
đồng. Cụ thể, loại hợp đồng này thông thường là do người bán, nhà sản xuất,
cung cấp dịch vụ đơn phương soạn ra mà người bán lúc nào cũng là người
nắm rõ về hàng hóa, dịch vụ mà họ cung cấp, do đó họ thường đưa ra những
37
Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Duy Thanh (2019), “Hợp đồng thương mại điện tử: thực trạng và hướng
hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 08(384), xem tại:
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210304 truy cập ngày 01/08/2020
31. 25
điều khoản dài dòng rườm rà nhằm đánh lạc hướng NTD. Đồng thời, họ cũng
lồng ghép vào những nội dung bất lợi cho NTD, bỏ qua những quyền lợi mà
đáng ra họ phải được hưởng cũng như giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của
người bán. Hay việc, các hợp đồng này được soạn ra với nhiều thuật ngữ
chuyên môn, chuyên ngành mà lại không giải thích hoặc giải thích nhưng
không rõ hoặc không đầy đủ cho NTD. NTD khi giao kết hợp đồng thì
thường chỉ quan tâm đến giá cả, khuyến mãi đi kèm mà thường bỏ qua các
điều khoản khác. Mặt khác, không phải NTD nào cũng “thông thái”, tức nghĩa
là có đủ trình độ để hiều hết các nội dung cồng kềnh, phức tạp mà các hợp
đồng này thể hiện. Chính những điều này đã khiến cho NTD nhanh chóng
nhấp vào nút “Đồng ý” để giao kết hợp đồng mà có thể không biết rõ các điều
khoản hoặc các hậu quả pháp lý phải gánh chịu khi có rắc rối, tranh chấp xảy
ra.
Từ những bất cập đó dẫn đến đòi hỏi phải có một khung pháp lý để vừa
đảm bảo thực hiện được các thỏa thuận giao kết hợp đồng TMĐT vừa phải
đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia, đặc biệt là bảo vệ NTD.
Luật Bảo vệ quyền lợi NTD 2011 đã có nội dung liên quan đến hợp đồng
mẫu38
nhưng dường như chỉ mới dừng lại ở việc điều chỉnh các hợp đồng
truyền thống chứ chưa đề cập đến hợp đồng TMĐT.
Hai là, thiếu quy trình thu thập chứng cứ để xử lý các tranh chấp phát sinh
trong quá trình mua bán trên website thương mại điện tử,
Tóm tắt khái niệm về chứng cứ điện tử theo pháp luật Việt Nam:
“Chứng cứ điện tử là thông điệp dữ liệu được khởi tạo, lưu trữ, truyền tải,
nghe, nhìn được bằng phương tiện điện tử và đảm bảo các yêu cầu của pháp
luật về cách thức khởi tạo và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu cũng
như các yếu tố phù hợp khác. Chứng cứ điện tử do các chủ thể tham gia quan
hệ thương mại điện tử lưu giữ, thu thập cung cấp cho Tòa án hoặc do Tòa án,
cơ quan có thẩm quyền thu thập nhằm chứng minh cho các yêu cầu của các
chủ thể này khi giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại bằng các phương
38
Điều 17, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD 2010.
32. 26
thức khác nhau trong đó có phương thức giải quyết bằng các thủ tục tố
tụng”.39
Về mặt bản chất thì các chứng cứ điện tử được thừa nhận là có giá trị tương
đương thuộc tính đối với văn bản nhưng trên thực tế thì giá trị pháp lý và
nguyên tắc tương đương thuộc tính vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng các
chứng cứ điện tử.
Do các quy đinh vẫn mang tính nguyên tắc và được thừa nhận là có ý nghĩa
trong việc áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý
nhà nước cũng như áp dụng để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, luật lại
không có các văn bản hướng dẫn quy định quy trình, cách thức thu thập
chứng cứ điện tử như thế nào? Quyền và nghĩa vụ của chủ thể có liên quan
khi tiến hành thu thập chứng cứ ra sao? Dẫn tới nhiều khó khăn, lúng túng khi
giải quyết tranh chấp hình thưc hợp đồng này, không chỉ đối với cơ quan tòa
án mà cả đối với các bên đương sự.
Trong thực tế khi áp dụng giải quyết các vụ án thương mại có những chứng
cứ điện tử thì đường lối xét xử vẫn ưu tiên các chứng cứ vật chất dễ chứng
minh như: Văn bản, hợp đồng có chứng thực, công chứng… Mặt khác, luật
pháp cũng chưa có quy định cụ thể về việc công chứng hợp đồng TMĐT. Do
đó, hầu hết các chứng cứ điện tử chỉ được xem xét mang tính hỗ trợ cho các
chứng cứ khác nếu phù hợp mà rất hiếm khi được sử dụng độc lập.
Pháp luật về TMĐT cũng quy định các nguyên tắc về việc cho phép các chủ
thể tham gia thương mại điện tử tự lựa chọn loại phương tiện điện tử, phương
thức thực hiện và tự thỏa thuận về loại công nghệ để sử dụng trong mua bán
hàng hóa dịch vụ, đồng thời nguyên tắc không một loại công nghệ nào là duy
nhất trong thương mại điện tử nên các cá nhân tổ chức hoàn toàn có thể chỉ có
các chứng cứ điện tử để chứng minh cho yêu cầu của mình.
39
https://kiemsat.vn/chung-cu-dien-tu-trong-giai-quyet-tranh-chap-kinh-doanh-thuong-mai-46731.html truy
cập ngày 03/08/2020
33. 27
Tuy nhiên, việc Tòa án không chấp nhận các chứng cứ điện tử có tính độc lập
và có giá trị pháp lý như văn bản viết hoặc các chứng cứ khác sẽ làm ảnh
hưởng tới quyền của các cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu Tòa án giải quyết
tranh chấp, đồng thời nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự cũng không được
tôn trọng trong thực tiễn.
Ba là, chưa có hành lang pháp lý chặt chẽ để xử lý các hành vi gian lận trong
thương mại điện tử,
Đặc thù của hình thức TMĐT là người mua và người bán không trực
tiếp giao dịch với nhau, NTD không được trực tiếp trải nghiệm-đánh giá sản
phẩm trước khi thanh toán, nên đã trà trộn hàng kém chất lượng, hàng giả,
hàng vi phạm sở hữu trí tuệ… hoặc thậm chí là nhận thanh toán nhưng không
giao hàng, gây thiệt hại cho NTD.
Năm 2019 lực lượng quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra 2.403 vụ, xử lý
2.213 vụ vi phạm hành chính, xử phạt hơn 16 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm
gần 41 tỷ đồng.
Ông Nguyễn Sinh Nhật Tân- Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ NTD (Bộ
Công Thương) - khẳng định, mỗi năm Cục tiếp nhận trên 1.500 khiếu nại, yêu
cầu của NTD, trong đó trên 50% liên quan đến các giao dịch TMĐT hoặc vấn
đề hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vi phạm điển hình bao
gồm: Chất lượng hoàng hóa, hàng nhận được không giống với quảng cáo;
thông tin sai về xuất xứ...40
Như vậy có thể thấy, cùng với những mặt tích cực thì các hành vi gian lận
trong TMĐT cũng không ngừng gia tăng, gây thiệt hại và mất niềm tin vào
hình thức giao dịch này.
Việc thực hiện xử lý vi phạm đối với các DN gian lận cũng rất khó khăn do
việc thực hiện kiểm tra, truy tìm được những DN “ảo” không đơn giản. Chế
40
http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/xu-ly-vi-pham-trong-thuong-mai-dien-tu-khong-manh-tay-se-
nhon-luat-320765.html, truy cập ngày 02/08/2020
34. 28
tài xử phạt cũng mới chỉ dừng lại ở xử phạt vi phạm hành chính nên chưa đủ
sức răn đe.
Mặc dù, chúng ta đã có hành lang pháp lý về thương mại điện tử (Nghị định
52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013) xây dựng khá chi tiết, đáp ứng yêu cầu về
quản lý thương mại điện tử tại thời điểm ban hành, nhưng thị trường thương
mại điện tử thay đổi liên tục đã đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh một số nội
dung.
2.2.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử
Một là, xây dựng và ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết và
thực hiện hợp đồng theo mẫu trên các website TMĐT
Cần xây dựng những quy định cụ thể về hợp đồng mẫu trên các website
TMĐT để đảm bảo tính công bằng và tính ưng thuận trong quan hệ giữa
thương nhân và NTD. Bên cạnh các quy định chung và mang tính kỹ thuật về
giao kết hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website TMĐT
đã được quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, cần bổ sung quy định chi
tiết về nội dung các hợp đồng TMĐT mẫu được đưa lên website. Ví dụ như
quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào hợp đồng, những nội dung
không được phép lược bỏ, nghĩa vụ giải thích rõ ràng các thuật ngữ chuyên
ngành trong hợp đồng TMĐT…
Hai là, hoàn thiện pháp luật về chứng cứ điện tử và quy trình tố tụng liên
quan đến chứng cứ điện tử.
Pháp luật cần phải bổ sung các quy định về thu thập chứng cứ điện tử
để đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp để chứng minh cho các yêu cầu của
các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp
luật thương mại điện tử. Đồng thời, cần thiết phải ban hành văn bản hướng
dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đối với các vụ án liên quan đến hoạt động này, trình tự, thủ
tục thu thập lưu giữ chứng cứ điện tử và giải thích một cách thống nhất hay án
lệ đối với các vụ án kinh doanh thương mại được thực hiện bằng phương tiện
35. 29
điện tử. Việc mở rộng thẩm quyền giải quyết các vụ án liên quan đến hoạt
động thương mại điện tử sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí cho các cá nhân, tổ
chức tham gia quan hệ này, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng cũng như các chủ thể khác một cách kịp thời, nhanh chóng.
Ngoài ra, cần có chính sách đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ và phù
hợp để đáp ứng các yêu cầu giải quyết tranh chấp các vụ án liên quan đến
thương mại điện tử và có sử dụng các chứng cứ điện tử cũng như nâng cao
trình độ chuyên môn và kỹ năng của những người tiến hành tố tụng.
Ba là, tăng cường quản lý của Nhà nước trong việc xử lý các hành vi gian lận
trong thương mại điện tử
Để quản lý được hành vi gian lận thương mại điện tử, trong thời gian
tới, Bộ Công Thương cần bổ sung, sửa đổi Nghị định 52/2013/NĐ-CP, tạo
chế tài đủ mạnh nhằm bảo vệ người tiêu dùng; đồng thời có kế hoạch hợp tác
với các ngành liên quan để xóa tận gốc những loại hàng hóa kém chất lượng
bán tràn lan trên mạng.
Ngoài ra, cần thành lập một tổ chức đứng ra tập hợp và chuẩn hóa các
hoạt động kinh doanh của các DN trong nước, đảm bảo cho việc kinh doanh
được thực hiện một cách lành mạnh, qua đó tổ chức này cũng có chức năng
kiểm soát, giám sát hoạt động của các DN này.
Tuy nhiên, tổ chức này cần có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ, ban, ngành có
liên quan để việc kiểm soát hoạt động bán hàng trên website TMĐT được
thuận lợi hơn.
Đồng thời, các lực lượng chức năng Trung ương và địa phương cũng
cần được phân công nhiệm vụ theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền,
tránh chồng chéo; nâng cao trách nhiệm, công khai, minh bạch; không bao
che, tiếp tay, làm ngơ trước những hành vi lợi dụng hoạt động thương mại
điện tử để vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, cần có các chế tài xử lý nghiêm, mạnh tay hơn cho các hành vi
gian lận trong TMDDT để răn đe và thiết lập lại trật tự giao dịch điện tử.
36. 30
KẾT LUẬN
Những lợi ích mà thương mại điện tử mang lại là điều mà chúng ta đều
nhận thấy. Song, để thúc đẩy thương mại điện tử ở Việt Nam phát triển một
cách thuận lợi, tránh được các rủi ro có thể xảy ra thì cần phải có sự phát triển
đồng đều ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hạ tầng
công nghệ thông tin, viễn thông và hạ tầng pháp lý.
Thời gian qua, với những cố gắng của Quốc hội, Chính phủ và các bộ
ngành, chúng ta đã tạo dựng được những quy định pháp lý bước đầu điều
chỉnh các khía cạnh khác nhau của thương mại điện tử. Song, để đáp ứng các
yêu cầu pháp lý của việc phát triển thương mại điện tử đặc biệt là trong bối
cảnh hội nhập thì hệ thống các quy định pháp luật của chúng ta còn thiếu tính
đồng bộ và còn nhiều hạn chế, bất cập.
Đặc biệt, để hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng thương mại điện tử
để giao dịch, thanh toán và giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử
chúng ta cần phải đảm bảo an toàn cho hợp đồng thương mại điện tử vì nó là
một loại chứng cứ cần thiết trong các tranh chấp của thương mại điện tử.
Hợp đồng thương mại điện tử rõ ràng là bước đột phá để chuyển các
giao dịch từ giấy tờ sang phi giấy tờ hay số hóa mà vẫn đảm bảo được các yêu
cầu của giao dịch. Các hệ thống luật pháp và quy định đóng vai trò quan trọng
trong việc thừa nhận giá trị pháp lý của những giao dịch điện tử và chữ điện
tử.
Tuy nhiên, thực trạng triển khai và ứng dụng hợp đồng thương mại điện tử
trong các giao dịch điện tử còn gặp nhiều khó khăn, có thể kể ra ba khó khăn
lớn nhất là: hạn chế về tài chính, hạn chế về trình độ và hạn chế về công nghệ.
Bên cạnh đó việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử là điều
vô cùng cần thiết trên con đường hội nhập và phát triển của nước ta hiện nay.
Thực hiện pháp luật hợp đồng thương mại điện tử là một trong những nội
dung quan trọng trong hệ thống pháp luật Nhà nước Việt Nam. Xét ở góc độ
pháp lý, hợp đồng thương mại điện tử góp phần quan trọng trong việc tạo nền
37. 31
tảng cho các hoạt động thương mại điện tử ở nước ta trong giai đoạn xây
dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới. Để phục vụ quá trình sản
xuất, kinh doanh, tạo ra lợi ích về mặt kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi một quốc gia. Trải qua quá trình được ban hành và áp dụng vào thực
tiễn có thể khẳng định quy định về hợp đồng thương mại điện tử đã thay đổi
cơ bản cả về quan điểm, chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện và không ngừng
được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng với nhu cầu đổi mới của đất nước, nhất
là từ khi kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường. Đây cũng là hành lang pháp lý cơ bản, là công cụ đắc lực của
Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển và xây dựng hệ thống quản lý về
các giao dịch thương mại trong giai đoạn mới, góp phần ổn định chính trị - xã
hội, tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước.
Thực tế trên đòi hỏi chúng ta cần xây dựng chính sách về quản lý về hợp đồng
thương mại điện tử theo hướng chặt chẽ bởi đó hợp đồng thương mại điện tử
có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế của các cá nhân, tổ chức nói
chung. Hòan thiện và mở rộng hơn nữa về các quy định về hợp đồng thương
mại điện tử là điều hoàn toàn cần thiết, đáp ứng với yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, cần phát huy hiệu quả thực thi pháp
luật về các văn bản pháp luật có liên quan như bộ luật dân sự, luật các tổ chức
tín dụng, bảo hiểm…. thông qua việc quy định về việc áp dụng hợp đồng
thương mại điện tử trong hoạt động của các chủ thể nói chung.
38. DANH MỤC TÀI LIỆU
A. Danh mục văn bản pháp luật:
1. Bộ Luật Dân Sự 2015.
2. Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015.
3. Luật giao dịch điện tử 2005.
4. Luật Thương Mại 2005.
5. Luật công nghệ thông tin 2006.
6. Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010.
7. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006 của Chính Phủ quy định
về Thương mại điện tử.
8. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 của Chính Phủ quy định
chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số.
9. Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007.
10. Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 của Chính Phủ quy
định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang
thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
11. Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 26/2007/NĐ-CP về chữ ký và dịch vụ chứng thực chữ ký.
12. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về Thương mại điện tử
(thay thế Nghị định 57/2006/NĐ-CP).
13. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về Quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
14. Nghị định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi
tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số.
39. B. Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trần Văn Biên (2012), Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam, nhà
xuất bản tư pháp, Hà Nội;
2. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam,
Luận án Thạc Sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
3. Nguyễn Thị Mơ (2006), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện
tử, Nxb Lao động - Xã hội;
4. Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Duy Thanh (2019), “Hợp đồng thương
mại điện tử: thực trạng và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp 08(384)
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210304
5. Nguyễn Văn Thoan (2010), Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong
điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ, Đại học
Ngoại thương;
6. Nguyễn Nhất Tư (2017), “Hợp đồng thương mại điện tử” theo pháp luật
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội;
7. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số TMĐT
Việt Nam 2019;
8. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1999), Khoảng không vũ trụ, mạng không
gian và thông tin viễn thông (tiến bộ khoa học và các vấn đề pháp lý), Kỷ
yếu hội thảo Pháp – Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
9. Trung tâm Thương mại quốc tế (2002), Bí quyết TMĐT, Phụ lục 3: Hợp
đồng TMĐT của UNECE, Nxb. Thế giới, Hà Nội;
10. UNCITRAL (1996), Luật mẫu về TMĐT;
11. UNCITRAL (1996), Luật mẫu về chữ ký điện tử;
12.https://chukyviettel.com/ung-dung-chu-ky-trong-thuong-mai-dien-tu-
hien-nay.html
13.http://vuahocvalam.com/ky-nang-mem/luat-mau-cua-uncitral-va-luat-
giao-dich-dien-tu-cua-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi-370.html
14.http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/xu-ly-vi-pham-trong-thuong-
mai-dien-tu-khong-manh-tay-se-nhon-luat-320765.html
15.https://kiemsat.vn/chung-cu-dien-tu-trong-giai-quyet-tranh-chap-kinh-
doanh-thuong-mai-46731.html