1. QUAN HỆ GIỮA HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN
Quan hệ kinh tế
Từ trước đến nay, kinh tế luôn được xem là một trong những thước đo tiêu
chuẩn trong mối quan hệ qua lại giữa hai hay nhiều chủ thể chính trị với
nhau. Đó là một trong những khía cạnh để phân tích và nhận định về đặc
điểm, tính chất của một mối quan hệ, cũng là biểu hiện và sự cụ thể hoá
cho những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao. Đặc biệt, bước vào
những năm 80, 90 của thế kỷ XX, khi toàn cầu hoá dần dần trở thành xu
thế chủ đạo trong các dòng chảy quan hệ quốc tế thì cũng đồng nghĩa với
việc các quốc gia, khu vực gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau, đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế. Đối với quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Nhật Bản (1989-
2010), thương mại và đầu tư là hai khía cạnh thể hiện rõ nét nhất sự tương
tác giữa hai nền kinh tế hàng đầu châu lục này. Bên cạnh đó, vốn ODA dù
không có dấu ấn thực sự rõ nét bằng, nhưng cũng cho thấy phần nào sự hỗ
trợ về mặt vốn và kỹ thuật mà Nhật Bản dành cho Hàn Quốc và cũng tạo
cho Hàn Quốc những cơ hội học hỏi, để Hàn Quốc có điều kiện sử dụng
vốn ODA của mình viện trợ cho các quốc gia phát triển sau này.
quan hệ chính trị
Sau sự kiện Mỹ và Liên Xô đưa ra thông cáo về sự kết thúc của Chiến
tranh Lạnh (1989), chính phủ Hàn Quốc đã xác định việc xúc tiến quan hệ
ngoại giao với Nhật Bản là nhiệm vụ chính trị then chốt nhằm duy trì hòa
bình, an ninh và ổn định ở khu vực. Tuy nhiên, cho đến cuối thập niên 80,
làn sóng và tư tưởng chống Nhật ở Hàn Quốc vẫn chưa hề lắng dịu. Mặc
dù vậy, những động thái tích cực từ phía hai nước, đặc biệt là từ phía Nhật
Bản đã khiến tình hình được cải thiện.
Đối với Hàn Quốc, sau Chiến tranh Lạnh là thời điểm mà quốc gia này
tạm gác lại những bất đồng, những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ để
hướng tới một mối quan hệ căn bản hơn với Nhật Bản. Có nhiều lý do để
giải thích cho sự thay đổi này. Trước hết, mức độ phụ thuộc của nền kinh
tế Hàn Quốc vào Nhật Bản tính đến những năm đầu thập niên 90 còn khá
cao. Thêm vào đó, Hàn Quốc cũng cần có sự ủng hộ của Nhật Bản trong
việc giải quyết những vấn đề trên bán đảo Triều Tiên.
Một trong những điểm nhấn chính trị - ngoại giao đáng chú ý giữa hai
nước chính là việc ký kết Tuyên bố chung Hàn Quốc - Nhật Bản: Quan hệ
đối tác hướng tới thế kỷ XXI giữa Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung và
Thủ tướng Nhật Keizo Obuchi vào tháng 10 năm 1998. Đây được xem là
một sự kiện chính trị trọng đại của cả Hàn Quốc và Nhật Bản khi những
2. người đứng đầu hai quốc gia này cùng chung tay cam kết “xây dựng một
mối quan hệ bền vững, láng giềng, thân thiện trong thế kỷ XXI”, “cùng đối
diện với quá khứ, phát triển mối quan hệ dựa trên sự hiểu biết và tin tưởng
lẫn nhau” . Trên thực tế, việc ký kết những Tuyên bố về việc thắt chặt
thêm mối quan hệ hữu nghị đều chủ yếu dựa trên những toan tính chiến
lược của cả hai quốc gia này.
Những thành tựu hợp tác song phương được cả Hàn Quốc và Nhật Bản
đánh giá rất cao và đặc biệt hoan nghênh, đồng thời cam kết sẽ phối hợp
với nhau cùng vượt qua những lằn ranh của quá khứ, tiến tới xây dựng
tương lai. Tuy nhiên, vấn đề chính trị vốn là một vấn đề nhạy cảm, khó có
thể giải quyết trong một sớm một chiều mà cần có sự nỗ lực, kiên trì lâu
dài và hợp tác từ cả hai phía, nhất là từ phía Nhật Bản.
thương mại song phương
-Trong những năm 1997 - 1998, do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở châu Á, cả Nhật Bản lẫn Hàn Quốc đều lâm vào tình trạng
suy thoái kinh tế nặng nề, thương mại hai chiều bị giảm sút đáng kể. Trước
tình hình đó, hai bên đã có các cuộc gặp gỡ để tìm ra các biện pháp nhằm
hạn chế sự tác động của cuộc khủng hoảng này. Năm 1998, trong chuyến
thăm Nhật Bản của Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung, hai nước đã ra
Tuyên bố chung Nhật - Hàn, xác định việc hướng tới mối quan hệ bền
chặt, láng giềng hữu nghị trong thế kỷ XXI.
-Mặc dù còn nhiều vướng mắc về các vấn đề lịch sử, song Nhật Bản và
Hàn Quốc ngay sau đó vẫn xúc tiến các cuộc thảo luận về hợp tác kinh tế
khu vực, tiến tới các vòng đàm phán để ký kết Hiệp định thương mại tự do
FTA, thiết lập một cơ chế hợp tác kinh tế toàn diện hơn. Tháng 10 năm
1998, Ngoại trưởng Hàn Quốc và Nhật Bản đã chính thức ký kết và chính
thức có hiệu lực vào tháng 11 năm 1999. Công ước này nhằm tạo ra khung
pháp lý minh bạch góp phần loại bỏ các rào cản về thuế trong kinh doanh,
thương mại và đầu tư, thúc đẩy thương mại thông thoáng hơn và tạo điều
kiện thu hút vốn đầu tư. Tháng 3/1999, trong khuôn khổ chuyến thăm Hàn
Quốc của Thủ tướng Nhật Obuchi Keizo, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ra
một chương trình nghị sự hợp tác kinh tế Hàn Quốc - Nhật Bản. Tháng 7
năm 1999, phía Hàn Quốc đã bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện chế độ đa
phương hóa nhập khẩu, chiến lược mà chính phủ Hàn Quốc từng sử dụng
để hạn chế nhập khẩu từ Nhật Bản. Bên cạnh đó, hai nước thành lập diễn
đàn thương mại tự do Hàn Quốc - Nhật Bản để trao đổi ý kiến, ký kết hiệp
định hỗ trợ lẫn nhau về thuế quan.