SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 104
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHÙNG THỊ LĨNH
(THÍCH NHUẬN AN)
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI
DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội-2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHÙNG THỊ LĨNH
(THÍCH NHUẬN AN)
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI
DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên
Hà Nội-2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ
liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Phùng Thị Lĩnh
LỜI CẢM ƠN
Trải qua hơn hai năm học tập, đến nay luận văn đã hoàn thành. Tác giả
xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt
thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn Chư tôn
đức GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện để con hoàn thành nhiệm vụ
học tập của mình; đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô Bộ môn Tôn giáo học, PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh chủ nhiệm bộ
môn, tập thể lớp chuyên ngành Tôn giáo học.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn, TS.
Nguyễn Thị Tố Uyên. Cô đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn
này, đồng thời chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên
cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành.
Là một tu sĩ Phật giáo nên khả năng lĩnh hội tri thức thế học chưa
nhiều. Mặc dù bản thân đã ý thức trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hoan hỷ rất mong nhận được
sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn
Phùng Thị Lĩnh
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu.....................................................................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu............................................................................ 10
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................................ 10
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 11
6. Ý nghĩa của đề tài......................................................................................................................... 11
7. Kết cấu của đề tài.......................................................................................................................... 12
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO...................................................................................................................... 13
1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh ............................................ 13
1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo.................................................................................................... 13
1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh........................................................................................................ 18
1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo.................. 26
1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan....................................................................... 26
1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo ................................................................ 29
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................................................... 54
Chƣơng 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN
PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN BẮC
NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ........................ 56
CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ....................................................................... 56
2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín ngƣỡng
tôn giáo ở Bắc Ninh........................................................................................................................ 56
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội............................................................................................. 56
2.1.2. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh.......................................................... 58
1
2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống
tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh.......................................................................... 59
2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản thân của
người dân Bắc Ninh.......................................................................................................................... 59
2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với tha nhân
của người dân Bắc Ninh................................................................................................................. 65
2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường của người
dân Bắc Ninh ........................................................................................................................................ 75
2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn học, nghệ
thuật............................................................................................................................................................ 80
3. Một số đề xuất khuyến nghị................................................................................................ 86
3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh................................................... 86
3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo............................................................... 88
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................................................... 90
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 95
2
CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam : GHPGVN
Nhân sinh quan : NSQ
Nhân sinh quan Phật giáo : NSQ Phật giáo
Vũ trụ quan : VTQ
Vũ trụ quan Phật giáo : VTQ Phật giáo
Nhà xuất bản : Nxb
3
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần con người, của
từng cộng đồng xã hội trong lịch sử và hiện tại. Phật giáo nảy sinh ở Ấn Độ
vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trong một bối cảnh xã hội có hệ
thống tư tưởng triết học rất phong phú nhưng lại có sự phân hóa giai cấp sâu
sắc. Phật giáo ra đời vừa là một trào lưu triết học vừa là một tôn giáo với mục
đích hướng con người vượt qua những khổ đau, mất mát để giải thoát giác ngộ,
đem hòa bình cho thế giới.
Phật giáo theo các thương gia Ấn Độ hiện diện ở nước ta vào những năm
đầu Công nguyên. Qua những tư liệu thành văn ghi lại được đã cho thấy đến
khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu –
Dâu hoạt động khá nhộn nhịp với hình ảnh Thái thú Sĩ Nhiếp mỗi khi ra đường
đều có Hồ tăng đốt hương theo hầu. Qua lời Đàm Thiên đối đáp với Linh Nhân
Hoàng Thái Hậu cho thấy, trung tâm Phật giáo Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp đã hiện
diện một tăng đoàn lớn mạnh, dịch kinh, xây tháp,... Điều này cho thấy, Phật
giáo đã sâu gốc bền rễ và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân
dân nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng trong lịch sử.
Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, Bắc Ninh là
một tỉnh không lớn so với các tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, song lại
có sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa rất mạnh nên có sự tác động tích cực và tiêu
cực không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Trong
bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật
giáo đối với đời sống tinh thần nhân dân Bắc Ninh hiện nay là cần thiết. Bởi
tỉnh Bắc Ninh không chỉ nằm gọn trong vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ
sông Hồng mà còn là cái nôi của Phật giáo – trung tâm Phật giáo Luy Lâu –
Dâu thuộc huyện Thuận Thành ngày nay.
4
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích các
thông tin lịch sử và các dữ kiện thu thập được trong quá trình điền dã, khảo sát
một số cộng đồng tín đồ Phật tử ở một số ngôi chùa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh hiện nay nhằm làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề
tài "Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần
của ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng
của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc
Ninh hiện nay. Chúng tôi nhận thấy rằng, có hai hướng tiếp cận chủ yếu trong
các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước đối với vấn đề này, đó là: 1.
Cách tiếp cận triết học, đây là cách tiếp cận khoa học khi nghiên cứu về nhân
sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Cách tiếp cận này
làm sáng tỏ những quan niệm nhân sinh quan của một số tôn giáo, về vai trò,
giá trị trong đời sống của tín đồ và 2. cách tiếp cận triết học tôn giáo được xem
là tiếp tục "mã hóa", "cụ thể hóa" các khái niệm từ cách tiếp cận thứ nhất. Soi
chiếu vào các sinh hoạt, hoạt động cụ thể của từng tôn giáo. Hay nói cách khác,
với cách tiếp cận này đã cho thấy ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với đời
sống tinh thần của cá nhân các tín đồ tôn giáo hoặc trong cộng đồng tôn giáo
rất rõ ràng.
Ngoài những tài liệu mà đề tài thu thập liên quan đến nhân sinh quan,
nhân sinh quan Phật giáo còn có nhiều tài liệu hướng về giải thích nhân sinh
quan theo các chiều cạnh khách nhau nhằm chứng minh nguồn gốc quan niệm
nhân sinh nói chung và quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng. Tuy
nhiên, trong phạm vi khuôn khổ của một luận văn, đề tài sẽ chỉ đề cập đến
những tư liệu chính nhằm phân tích, giải thích theo hướng sâu chuỗi để các vấn
đề nhân sinh quan được sáng tỏ trên phương diện triết học và triết học tôn giáo.
5
Về nhân sinh quan, hiện nay đã có nhiều công trình, bài tạp chí hay các
bài viết chuyên sâu nghiên cứu. Đó là các công trình Lịch sử triết học của
GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007),
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ
của Hà Thúc Minh (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Tứ diệu đế do Võ
Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (Nxb Tôn giáo. Hà Nội, 2007),
Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của học giả Doãn Chính (Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),... Nhìn chung, nguồn tư liệu trên đã chỉ ra được
khái niệm NSQ và NSQ Phật giáo. Chẳng hạn, PGS.TS. Dương Văn Thịnh trên
phương diện triết học nhận định con người và xã hội loài là một bộ phận cấu
thành nên thế giới và có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ thế giới (Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội, 2011) hay GS.TS. Đỗ Quang Hưng nhận xét trên phương diện triết học
tôn giáo đã cho rằng NSQ có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và
giáo lý Phật giáo (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011),... Ngoài ra còn một số tài liệu
đề cập đến NSQ của Nho giáo như Đến hiện đại từ truyền thống của học giả
Trần Đình Hượu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996), Việt Nam văn hóa sử cương
của học giả Đào Duy Anh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006),...
Về nhân sinh quan Phật giáo, có nhiều tài liệu đề cập sâu sắc về vấn đề
này. Đó là các công trình: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong
đời sống tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà
Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng
Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Khổ đau phát sinh và vận hành
như thế nào của Hoàng Phong (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2002), Vô ngã là
niết bàn của Thích Thiện Siêu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002); Ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và
sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Một số tôn giáo ở Việt Nam của Ban tôn
6
giáo Chính Phủ (Lưu hành nội bộ, 1995), Tư tưởng giải thoát trong triết học
Ấn Độ của Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam do học giả Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1998), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ do Doãn Chính
chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), Lịch sử nhà Phật của Đoàn
Trung Còn (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007), Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức
Nhuận (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2008), Kinh Từ Bi của Thích Nguyên Hiệp
(2010); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh
thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến),
Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2011; Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đến đời sống tinh thần của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay của
Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2015,... đây là
những nguồn tài liệu chỉ ra cơ sở hình thành, quan niệm về NSQ của Phật giáo
trên các phương diện: Bối cảnh lịch sử của đạo Phật, người sáng lập đạo Phật;
sự kết tập kinh điển Phật giáo để có được hệ thống quan niệm đầy đủ về nhân
sinh trên ba phương diện chính là quan niệm về con người, ứng xử giữa con
người với con người và ứng xử của con người với thiên nhiên,... Có thể thấy,
khuynh hướng tiếp cận này đã chỉ ra những quan niệm cơ bản về nhân sinh
quan và nhân sinh quan Phật giáo, đặc biệt là từ các nhà khoa học tiếp cận theo
triết học.
Về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân
dân nói chung và nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể thấy, phần lớn các
công trình đều tiếp cận triết học tôn giáo. Các công trình này cho biết sâu sắc
hơn về quan niệm về nhân sinh của Phật giáo trong tiến trình lịch sử Phật giáo
Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bắc Ninh. Trước hết là các công trình lịch sử như
Dư địa chí do Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích, (Nxb
Sử học, Hà Nội, 1960), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb Sử học, Hà Nội,
1960), Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,…đặc biệt là công trình
7
Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự của Trần Văn
Giáp (Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971) đã cho biết về địa lý cũng như
vị trí và vai trò văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử.
Về ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối
với nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Trong công trình Việt Nam cái nhìn
địa - văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội) đã
xem các trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những
dòng sông Dâu và sông Đuống; Công trình Luy Lâu lịch sử và văn hóa của tác
giả Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản, 1999)
tiếp tục khẳng định rõ hơn về sự ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu
– Dâu trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, văn hóa cho đến đời sống
tín ngưỡng tôn giáo của người dân nơi đây,… Mà ngày nay, người dân Bắc
Ninh rất tự hào về truyền thống văn hóa nổi bật là văn hóa Phật giáo.
Trên phương diện lịch sử, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân Bắc Ninh còn được thể hiện qua các ngôi chùa,
qua các truyền thuyết,... GS. Trần Quốc Vượng trong công trình Việt Nam cái
nhìn địa – văn hóa đã chỉ ra, các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam chính là
chùa Phật Tích, chùa Tứ Pháp, chùa Kiến Sơ và chùa Lục Tổ. Cố GS. Trần
Quốc Vượng nhấn mạnh, các ngôi chùa này đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu
Tương (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật). Khi nghiên cứu
về lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật
giáo sử luận, (Nxb Văn học, 1992) đã cho biết những nhà sư Ấn Độ đã đem
Phật giáo tới Việt Nam vào đầu công nguyên. Còn PGS. Nguyễn Duy Hinh khi
nghiên cứu các tài liệu cổ như Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Đại
Việt sử ký toàn thư,... cho rằng ở Luy Lâu – Dâu thời kỳ đầu Phật giáo truyền
nhập còn có cả Siva giáo với tục thờ Đá mang tính phồn thực, đồng thời còn
diễn tả hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người
Việt. Và như thế, sự giao thoa giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa đã hình
8
thành lên hiện tượng thờ Tứ Pháp vô cùng đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam,
người tu hành đầu tiên của người Việt được biết đến là Nữ giới, và bà được
nhân dân Bắc Ninh tôn xưng là Phật mẫu Man Nương. Sau này, các công trình
viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều đề cập đến các ngôi chùa được xây
dựng vào thời Lý – Trần ở tỉnh Bắc Ninh và những ảnh hưởng của Phật giáo
trong văn học nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc,... qua các thời kỳ. Một số công
trình đề cập đến những hoạt động của Phật giáo. Có thể kể đến các công trình
như Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX của Thiều Chửu (Nxb Tôn giáo, Hà
Nội, 2002), Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981)của Bồ Đề Tân
Thanh - Nguyễn Đại Đồng (Nxb Văn học, Hà Nội, 2012),...
Tuy đã có nhiều công trình đã chỉ ra một số ảnh hưởng của Phật giáo nói
chung và NSQ Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của người dân
Bắc Ninh trong lịch sử. Song về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của
người dân Bắc Ninh hiện nay thì ít có công trình đề cập một cách rõ ràng, trực
tiếp. Hiện nay, theo sự tìm hiểu của đề tài, chỉ một số bài viết in trong Hội thảo
khoa học: Vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây
dựng đời sống văn hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của
Tăng ni, tín đồ Phật tử, Bắc Ninh (Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo, 2019).
Phần lớn các công trình nghiên cứu khác đều đi sâu nghiên cứu về kiến trúc,
điêu khắc, hoặc ảnh hưởng trong văn học dân gian hay tục lệ,... Có thể kể đến
các công trình như Chùa Việt của GS. Trầm Lâm Biền (Nxb. Văn học, Hà Nội,
1998), Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm của Trần Văn Giáp (Tạp chí Dân tộc
học, số 3 năm 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời của Lê Thị Nhâm Tuyết
(Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), Văn minh Việt Nam của học giả nổi tiếng Nguyễn
Văn Huyên (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội), Phật học phổ thông của HT. Thích
Thiện Hoa (Nxb. Phương Đông, Hà Nội, 2011), và gần đây là Báo cáo sơ kết
06 tháng đầu năm 2019 – phương hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm 2019,
của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh,...
9
Nhìn chung, đã có một số các công trình nghiên cứu sâu về tín ngưỡng,
tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của Phật giáo trên các
phương diện chính trị, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật,... Còn trên các phương
diện ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với cách ứng xử với chính bản thân, với
tha nhân và với môi trường thì ít có công trình đề cập. Vì thế, việc tìm hiểu cụ
thể hơn về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo trên các phương diện này, đề tài kế
thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, đồng thời tiếp tục khảo sát thực tế
trong cộng đồng Phật tử ở Bắc Ninh góp phần làm rõ hơn ảnh hưởng của NSQ
phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân Bắc Ninh trong bối cảnh đương
đại. Đối với những người theo Kitô giáo, Tin Lành và một số hiện tượng tôn
giáo mới, hoặc những gia đình theo hai, ba tôn giáo,... những sinh hoạt, hoạt
động tôn giáo khác,... chúng tôi thiết nghĩ cũng cần được tiếp tục nghiên cứu ở
những công trình sau này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề
xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh
về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo
Thứ hai, tìm hiểu những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đối với đời sống người dân Bắc Ninh trong lịch sử và đặc biệt là trong hiện tại.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nhân sinh quan
Phật giáo Bắc tông và những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đối với đời sống tinh thần của người dân ở tỉnh Bắc Ninh.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong cộng đồng người dân ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Trong phạm vi cho phép tác giả chỉ tập trung đề cập những ảnh hưởng tích cực
của nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm
phát huy vai trò tích cực của nhân sinh quan Phật giáo .
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, lý luận chung về tôn
giáo học, xã hội học tôn giáo và Phật học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình triển khai nghiên cứu,
luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát
triển của nhân sinh quan Phật giáo. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp
quan sát và phỏng vấn để thấy được những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh
quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, các phương pháp nghiên cứu liên ngành như triết học, triết học tôn giáo,
xã hội học tôn giáo, đạo đức học,... nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh để thấy
được những quan niệm nhân sinh của Phật giáo và những ảnh hưởng cơ bản
của nó trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh đương đại.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối
với người dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại; đồng thời chỉ ra những mặt
tích cực và một số hạn chế trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh
hiện nay.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên
chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học và làm tài liệu tham khảo trong các
trường Trung cấp Phật học trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
11
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài nghiên cứu khoa học bao gồm 2 chương với 5 tiết.
12
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO
VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh
1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo
Về bối cảnh lịch sử tư tưởng và xã hội: Thời kỳ đạo Phật ra đời vào thế
kỷ thứ VI tại Bắc Ấn Độ. Ở thời kỳ này, tư tưởng triết học, tôn giáo rất phong
phú, đa dạng. Đó là sự tồn tại của nhiều loại hình tôn giáo và nhiều trường phái
triết học khác nhau như Số luận, Du Già, Phệ Đà Đa,... trong đó nổi bật nhất là
Bà La Môn giáo. Về xã hội chia làm bốn giai cấp, đó là giới tăng lữ Bà La
Môn; giới vua quan quý tộc; giới buôn bán, người làm thủ công giàu có và giới
nô lệ, nông nô. Ngoài ra còn một loại tiện dân là hạng cùng đinh nhất trong xã
hội sống trong công xã nông thôn với chế độ quốc hữu ruộng đất. Đúng như
nhận xét của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui cho rằng "sự tồn tại dai dẳng của công
xã nông thôn và chế độ quốc hữu về ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, ảnh
hưởng tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ. Từ hai đặc điểm trên, dẫn tới hệ
quả là các bước phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ thời cổ không mạch lạc
như lịch sử xã hội của các nước châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ không có quan hệ
phong kiến giống như kiểu ở Hy – La, cũng không có kiểu quan hệ phong kiến
giống như ở các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản
xuất chủ yếu, họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu phong kiến…
Mặt khác, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã hội – giai cấp
thêm phức tạp"[79, tr. 109].
Trong bối cảnh đó, đạo Phật ra đời với quan niệm mới đã đem lại một
luồng tư tưởng mới về tinh thần từ bi, bình đẳng giai cấp, bình đẳng tôn giáo.
Tuy nhiên, theo kinh điển Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là nhân vật lịch sử,
nhưng trên phương diện tôn giáo thì Ngài lại một trong muôn vàn chư Phật.
13
Trước ngài đã có nhiều vị Phật quá khứ và sau ngài sẽ còn nhiều vị Phật tương
lai.
Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập Phật giáo: Câu chuyện về cuộc đời
Đức Phật rất quan trọng trong lịch sử hình thành đạo Phật. Nhưng sẽ đặc biệt
hơn, nếu đặt câu chuyện trong đời sống cộng đồng tín đồ Phật giáo. Bởi chỉ có
cộng đồng Phật giáo mới cảm nhận, chiêm nghiệm được những huyền diệu từ
cuộc đời ngài. Và sâu sa hơn, cuộc đời Đức Phật đã và đang là mô hình lý
tưởng nhất để tín đồ Phật tử học tập, tu tập và giải thoát, đồng thời cũng chỉ ra
cho con người hiện sinh một nếp sống đúng đắn trong xã hội đầy biến động.
Kinh Bản sinh ghi chép về cuộc đời Đức Phật bắt đầu với ngày Phật đản
sinh. Đây là câu chuyện về sự tái sinh và niềm tin vào sự tái sinh bởi đó là quả
của một cuộc đời tu tập, đạo hạnh của Đức Phật. Trong sự tái sinh cuối cùng
này, kinh Bản sinh cho chúng ta biết Đức Phật được sinh ra trong một gia đình
hoàng tộc và ngài là một vị Thái tử. Mẹ ngài, bà Maya mang thai ngài trong
giấc mơ về một con voi trắng và sinh ra ngài trong khu rừng Lumbini thuộc
dãy Himalaya gần Nepal ngày nay. Khi vừa mới sinh ra, ngài bước bảy bước
trên bảy đóa hoa sen, tay trái chỉ lên trời tay phải đất và nói "Thiên thượng địa
hạ duy ngã độc tôn".
Sau khi ngài đản sinh, một vị tiên tri đến và tiên đoán rằng, nếu ngài vui
sống trong gia đình hoàng gia thì ngài sẽ trở thành một bậc quân vương tài ba,
nhưng nếu ngài từ bỏ hoàng gia cùng với những khoái lạc trần thế thì ngài trở
thành một "Đấng Toàn Giác". Thời gian đầu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sống và
được giáo dục trong một môi trường lý tưởng, sung túc về vật chất và thoải mái
về tinh thần. Nhưng trong một vài lần ra ngoài cung điện, Thái tử đã thấy cuộc
sống thường ngày với nhiều khổ đau: Già – tương lai của mỗi người; người đau
ốm – ai cũng có thể bị đau ốm; người chết - sự kết thúc cuộc sống của mỗi
người; một vị tu sĩ khắc khổ – người đi tìm sự giải thoát khỏi thế giới đau khổ.
Tất cả những gì Thái tử chứng kiến đều mang tính biểu tưởng cho cuộc đời,
14
nhưng đã thôi thúc ngài rời bỏ hoàng gia và thực hiện cuộc sống khổ hạnh
nhằm mục đích thoát khỏi những khổ đau đã thấy.
Qua sáu năm khổ hạnh dưới sự dẫn dắt của nhiều vị tu sĩ, nhưng không
một vị nào làm cho ngài hài lòng bởi cuộc sống tu hành khổ hạnh đã không
đem lại kết quả như mong đợi. Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh ấy và đón nhận
bát sữa từ một thiếu nữ chăn bò và ngài đã khám phá con đường "Trung dung"
giữa hai lối sống giàu sang và khổ hạnh. Không lâu sau, vị Phật tương lai ngồi
dưới tán cây Bồ đề tu tập và quyết không dời bỏ chốn này nếu không giác ngộ.
Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy cho năm vị khổ tu cùng với ngài trước
đây, đó là Tứ diệu đế và từ đây bánh xe Pháp đầu tiên đã dịch chuyển.
Sau gần 50 năm với sự nghiệp hoằng pháp, vào một ngày Ngài nhắc nhở
tín đồ về tính Vô thường của sự vật, cần phải lấy chuyên cần trong tu tập thực
hành để giác ngộ, giải thoát rồi sau đó, ngài nhập Niết bàn.
Tứ diệu đế là những nguyên lý đầu tiên được ngài khám phá và thuyết
giảng và dần dần ngài thiết lập đời sống tu tập cho mọi tín đồ Phật giáo noi
theo. Tuy nhiên, thời gian đầu những lời Đức Phật thuyết giảng không được
ghi lại bằng văn tự, vì thế phải qua những lần kết tập kinh điển thì giáo lý mới
có hệ thống. Và qua hệ thống giáo lý mới thấy rõ quan niệm về vũ trụ và nhân
sinh của đạo Phật, đặc biệt là quan niệm về nhân sinh trong Phật giáo Đại thừa.
Vì thế, ở đây, chúng tôi xin được nhắc lại một cách khái quát nhất về quá trình
kết tập kinh điển. Bởi chỉ khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, sự
phát triển của đạo Phật được mở rộng. Tuy nhiên, mỗi vùng đất mà Phật giáo
truyền đến có những sự khác biệt về văn hóa xã hội và đây được xem là nguyên
nhân chính dẫn đến những bất đồng trong việc nhận thức lời Phật dạy trước đó
chủ yếu là phương thức truyền miệng. Cho nên, Phật giáo đã phân hóa thành
nhiều bộ phái nhằm thích ứng với những môi trường mà đạo Phật truyền tới.
Lần kết tập thứ nhất tại thành Vương Xá có 500 vị La Hán được Ca Diếp
mời dự dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, xứ Ma Kiệt Đà. Khi đức Phật nhập
15
diệt, không lâu sau đã xuất hiện những kiến giải bất đồng về lời Phật dạy. Để
tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ được toàn vẹn, Ma Ha Ca
Diếp đã đề nghị kết tập và hệ thống hóa lời dạy của đức Phật lại thành kinh
điển với mục đích không để xảy ra tình trạng hiểu sai lầm về giáo pháp. Trong
cuộc kết tập này, A Nan Đà chính là người đã đứng ra trì tụng những điều đức
Phật đã thuyết giảng và Upani kể về Giới luật. Sau cuộc kết tập, bốn bộ kinh
đầu tiên được chép lại. Đó là kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A
Hàm và Tạp A Hàm. Bốn bộ kinh này được xem là các tài liệu cổ nhất ghi lại
cuộc đời của đức Phật và những hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước hình
thành Kinh tạng và Luật tạng vô cùng quan trọng sau này.
Lần kết tập thứ hai tại tại thành Tì Xá Ly sau lần kết tập thứ nhất một trăm
năm. Lần kết tập thứ hai này có 700 vị Tỳ kheo tham dự. Hội nghị kết tập lần
thứ hai cơ bản là để thảo luận về những thay đổi một số chi tiết trong giới luật.
Ngoài ra, đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để tư tưởng của các đạo khác
thâm nhập vào giáo lý Phật giáo. Kết quả là trong hội nghị, những người không
đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị
kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ và số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập
kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ,… Như vậy, Hội nghị này đánh
dấu sự phân hóa về tổ chức của Tăng đoàn. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị
Trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ gồm đa số Tỳ kheo trẻ tuổi
có khuynh hướng cấp tiến, mà nhiều nhà nghiên cứu Phật học sau này cho
rằng, tư tưởng của Đại chúng bộ làm nảy sinh nhiều quan niệm mới về chư
Phật, đặc biệt là Bồ tát, là mầm mống cho việc hình thành phong trào Phật giáo
Đại thừa sau này.
Lần kết tập thứ ba dưới triều vua A Dục thế kỷ 3 trước Công nguyên. Vua
A Dục là người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Số lượng tăng ni đông
đảo và trong đó cũng không ít kẻ cơ hội trà trộn tăng đoàn gây nên những mối bất
hòa. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục đã khởi xướng và bảo trợ cho Hội
16
nghị kết tập kinh điển lần thứ ba trong lịch sử Phật giáo. Có khoảng 1.000 Tỳ
kheo được cử đến. Sau 9 tháng kết tập, lần đầu tiên Tam tạng kinh hoàn thiện
và được con trai vua A Dục đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã
được dịch sang văn hệ Pali và còn nguyên vẹn cho đến nay.
Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư diễn ra vào thời vua Ca Nị Sắc Ka.
Tuy sử liệu không hoàn toàn thống nhất với nhau về thời gian và địa điểm. Vua
Ca Nị Sắc Ca là một tín đồ trung thành của đạo Phật và rất thích nghe giảng
kinh văn. Vì thế, nhà vua nhận ra có rất nhiều sự khác biệt về các kiến giải
trong kinh nên ông khởi tâm bảo trợ cho lần kết tập thứ tư. Hội nghị đã tập hợp
được 500 cao tăng giỏi về Tam tạng và sau khi kết tập, nhà vua đã cho khắc lại
toàn bộ Tam tạng lên những lá đồng. Ngày nay, chỉ còn phần thích luận A Tỳ
Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa được Huyền Trang đời nhà Đường dịch sang Hán ngữ
gồm 200 quyển. Ngoài ra, các lần kết tập còn lại đều thuộc bộ phái Thượng tọa
bộ (Nam truyền Phật giáo) tiến hành. Lần kết tập thứ 5 được tổ chức vào năm
1871 trong suốt 5 tháng tại thủ đô của Miến Điện. Số người tham dự gồm
2.400 cao tăng dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Kết quả là 3 tạng kinh được
hiệu đính lại và đem khắc trên 729 phiến đá hình vuông cất vào trong chùa tháp
Kuthodaw. Lần kết tập gần đây nhất từ ngày 17 tháng 5 năm 1954 tại phía bắc
Ngưỡng Quan trên núi Nghệ Cố. Lần kết tập này dưới sự khởi xướng của Phật
giáo Miến Điện và bảo trợ là chính phủ Miến Điện. Trong suốt hai năm, tất cả
kinh tạng của Phật giáo nam truyền được khảo sát và đúc kết rồi xuất bản để
truyền bá.
Như vậy, sau khi Đức Phật nhập diệt và qua các lần kết tập đã hình thành
hệ thống kinh điển Phật giáo, đồng thời cũng cho chúng ta thấy sự phân hóa
của Phật giáo. Và đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ suy
thoái nhưng lại rất phát triển ở các nước như Miến Điện, Tích Lan, Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,...
Theo Phật sử, từ thế kỷ I trước Công nguyên, tư tưởng Phật giáo Đại
thừa đã xuất hiện và có xu hướng tự do. Đến thế kỷ thứ 3, qua các trước tác của
17
Long Thọ thì tư tưởng của Phật giáo đại thừa đã rõ ràng và có bước phát triển
rực rỡ và ảnh hưởng rất lớn lên các hệ tư tưởng khác, không những trong nước
mà cũng được truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,... Trong đó, quan niệm nhân sinh, lý tưởng Bồ
tát đã tạo một điểm mạnh để đạo Phật có sức lan tỏa rộng lớn qua các vùng
miền mà đạo Phật truyền tới và cả những thay đổi của thời đại.
1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh
Đối với Phật giáo ở Bắc Ninh, như lời nhận xét của cố GS. Trần Quốc
Vượng viết trong công trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa cho biết: "Các
trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam: Phật Tích, chùa Tứ Pháp (Dâu, Đậu,
Giàn, Tướng), chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) và nếu cần kể thêm chùa Lục Tổ,
chùa Tràng Liêu (Tiêu Sơn) cũng đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương"[82,
tr. 154]. Có thể nói, đúng như lời nhận xét của tác giả chùa Phật ở Bắc Ninh
đồng thời là trung tâm văn hóa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần nhân
dân.
Ngược dòng lịch sử, Phật giáo được truyền nhập vào nước ta ở Luy Lâu
và hình thành một trung tâm Phật giáo vô cùng quan trọng, Nguyễn Lang nhận
định: "Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng sĩ
Ấn Độ. Các vị tăng sĩ này đến Việt Nam bằng con đường biển, theo các thuyền
buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Độ tới Việt Nam, các
thương gia Ấn Độ cũng đã tới Việt Nam rồi và đã mang theo sinh hoạt Phật
giáo tới xứ ta"[39, tr. 21]. Truyện Man Nương trong tác phẩm Lĩnh Nam chích
quái có chép về một nhà tu hành người Ấn Độ tên là Già La Xà Lê đến Luy
Lâu vào thời Sĩ Nhiếp. Tại đây có một nữ đệ tử là Man Nương theo học. Một
lần Man Nương ngủ trong bếp, Già La Xà Lê không biết mà bước ngang qua
người Man Nương. Từ đó, Man Nương thụ thai và sinh một người con gái và
đem trả cho ông. Ông liền đặt đứa bé vào hốc cây đa. Về sau cây đa đổ và trôi
về sông Dâu, nhưng không ai vớt lên được. Man Nương đang giặt áo bèn ném
18
giải yếm và kéo được cây đa lên bờ. Bà nhờ thợ đã thành bốn khúc và tạc thành
bốn pho tượng. Đó là tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Còn
con gái của Man Nương đã hóa đá. Khi người dân ném xuống sông thì tỏa hào
quang bèn vớt lên thờ phụng gọi là Thạch Quang Phật. PGS. Nguyễn Duy Hinh
cho rằng "Đây là sự kết hợp giữa tôn giáo Siva (dạng linga) với tục thờ Đá
trong thần điện Cây Đa - Hòn Đá cổ truyền của người Việt mang tính phồn
thực đã diễn đạt qua hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một
Bà Mẹ người Việt [32, tr. 15]. Như thế, có thể nói tín đồ Phật giáo đầu tiên ở
nước ta là nữ giới, và bà được nhân dân tôn là Phật mẫu, hiện còn được thờ tại
chùa Tổ làng Mãn Xá, còn Thạch Quang Phật và Pháp Vân thờ tại chùa Dâu
thôn Khương Tự. Tác phẩm Thiền uyển tập anh còn khẳng định thêm một chi
tiết quan trọng, đó là khi đạo Phật chưa truyền đến Trung Quốc thì ở Luy Lâu -
Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Ngay tại trung tâm này đã có
những nhà sư nổi tiếng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương
Lương, Mâu Bác... đang cư trú và giảng pháp[47, tr. 89]. Điều này có nghĩa là,
ở Luy Lâu thời bấy giờ đã hình thành một cộng đồng tín đồ Phật tử lớn "gồm
có ni và tăng, người Ấn Độ, người Việt gốc Ấn Độ, người Việt"[32, tr.22].
Trong thời kỳ đầu truyền nhập của đạo Phật vào Luy Lâu - Dâu, các tác
phẩm hiện còn đến ngày nay là Lý Hoặc Luận của Mâu Tử và Lục độ tập kinh
của Khương Tăng Hội. Hai tác phẩm này đã cho biết khá rõ không chỉ về hành
trạng của tăng sĩ mà còn về Phật giáo Bắc Ninh và cũng là của đạo Phật Việt
Nam. Mâu Tử là một sĩ phu người Trung Quốc tị nạn đến Luy Lâu vào thời Sĩ
Nhiếp. Ông tinh thông Nho giáo, Đạo giáo và khi đến Luy Lâu tiếp tục học
Phật pháp. Ở đây, ông viết tác phẩm Lý Hoặc Luận nhằm bênh vực đạo Phật.
Nội dung tác phẩm này gồm 37 điều. Trong đó, những nội dung quan trọng
nhất đó là việc bàn về chữ Hiếu, nhất là bàn về việc bố thí, từ bi, nhẫn nhục và
đây cũng là những nội dung tu tập của Phật giáo ở Luy Lâu,...; Khương Tăng
Hội là một người gốc Ấn Độ, sinh ra và lớn lên tại Luy Lâu. Tác phẩm Lục độ
19
tập kinh của ông gồm 91 đoạn trích dịch từ các kinh Phật theo 6 chủ đề (lục
độ). Cũng như Lý Hoặc Luận, Lục độ tập kinh cho thấy tư tưởng từ bi, bố thí
nổi bật nhất trong Phật giáo Luy Lâu thời kỳ này. Do đó, hiếu, bố thí có ảnh
hưởng lớn đến cộng đồng người dân ở vùng Luy Lâu – Dâu, và cũng là tư
tưởng xuyên suốt của Phật giáo ở Bắc Ninh và Việt Nam sau này.
Có thể thấy, Phật giáo truyền bá vào Luy Lâu trực tiếp từ các nhà sư từ
Ấn Độ. Nhưng Phật giáo phát triển tại đây phải trên nền tảng tín ngưỡng vùng
Dâu bấy giờ và dần trở thành một trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng mạnh
khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Đó chính là hệ thống chùa Tứ Pháp ở Hà
Nội, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên mà ngày nay vẫn còn tồn tại dưới hình
thức thờ phụng Tứ pháp và nghi thức cầu mưa. Đặc sắc hơn là tư tưởng từ bi,
bố thí nhẫn nhục thuộc tư tưởng Phật giáo Đại thừa nhưng đậm chất Phật giáo
dân gian vùng Dâu và sau này trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử
Phật giáo ở Bắc Ninh.
Đến thế kỷ thứ 6, trung tâm Phật giáo Luy Lâu vẫn là đại diện duy nhất
ở nước ta. Năm 580, Sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến vùng Dâu và tại chùa Pháp Vân,
ông đã dịch kinh Tổng trì, rồi truyền pháp cho Pháp Hiền. Đại sư Pháp Hiền
bấy giờ là đệ tử của sư Quán Duyên, tu tập ở chùa Chúng Thiện, núi Thiên
Phúc, Tiên Du. Sau theo học và đắc pháp với Tì Ni Đa Lưu Chi thì ông trở về
chùa giảng pháp cho hàng trăm đồ đệ và rất nổi tiếng là người uyên thâm Phật
pháp. Đến mức, vua Tùy Cao Tổ khi nhận được bản tấu của Thứ sử Lưu
Phương đã sai người đem 5 hòm xá lợi Phật cùng sắc điệp ban cho Pháp Hiền
xây tháp cúng dường. Với 5 hòm xá lợi Phật dựng tháp thờ ở Dâu, Phong
Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Ái Châu thì Phật giáo ở vùng Dâu đã phổ
biến khắp vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh miền trung Việt Nam hiện
nay. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi truyền đến thiền sư Y Sơn (1216), được 19
đời. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã truy tán Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi
như sau:
20
Mở lối qua Nam Việt
Nghe ông chín học thiền
Nguồn tâm thông một mạch
Cõi Phật rộng quanh miền
Lăng già ngời bóng nguyệt
Bát nhã nức mùi sen
Biết được bao giờ gặp
Cùng nhau kể đạo huyền. (TT. Mật Thể dịch)
Đến thế kỷ thứ 9, một thiền phái nữa truyền vào Bắc Ninh, đó là thiền
phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, đồ đệ của
thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 ông đến nước ta tìm người có học
vấn Phật pháp thâm sâu để học hỏi. Bởi khi ấy, bản thân ông đã nhận rõ ở nước
ta bấy giờ rất nhiều cao tăng uyên thâm Phật pháp, đặc biệt là vùng Dâu - Luy
Lâu. Ngoài Thiền uyển tập anh ghi chép còn có Đại Đường cầu pháp cao tăng
chuyện của Nghĩa Tịnh (635-713) ghi tên nhiều nhà sư như Vận Kỳ, Mộc Xoa
Đề Bà, Khuy Sung, Huệ Diệm, Trí Hành, Đại Thặng Đăng,... Vì thế, các nhà sư
thời kỳ này cũng thông thạo chữ Phạn, Hán, nhiều kinh điển Phật giáo được
dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Sau, thiền sư Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ
tu hành ở đây suốt 9 năm và truyền pháp cho sư Lập Đức. Dòng thiền Vô Ngôn
thông đến năm 1221, được 15 đời với 49 sư tổ.
Trong thời gian này, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ngoài các nhà sư
Ấn Độ còn có sự hiện diện của các nhà sư Trung Quốc. Và như thế, từ khi xuất
hiện hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, Phật giáo Luy Lâu –
Dâu nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung có sự gia tăng về Phật học, ảnh
hưởng của Thiền tông Trung Quốc ngày càng mạnh.
Nhà Đinh – Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay. Phật giáo
thời kỳ này phát triển và có sự gắn bó với vương triều. Nhà Lý (1009 – 1225)
chọn Thăng Long làm trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Phật
21
giáo vì thế cũng có sự chuyển dịch theo sự lựa chọn đóng đô ở các vương triều,
song các trung tâm Phật giáo ở Bắc Ninh vẫn có sự phát triển và vai trò của các
nhà sư ở Bắc Ninh hoặc các nhà sư từng tu hành ở đây, xét trên bình diện "hộ
quốc an dân" đối với quốc gia dân tộc ngày càng rõ ràng hơn. Có thể kể đến
các thiền sư Thiền Lão, Viên Chiếu, Thường Chiếu,.. Trong đó có các nhà sư
tiêu biểu là: Thiền sư Pháp Thuận (914-990) thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái
Tì Ni Đa Lưu Chi là người học rộng, giúp nhà Tiền Lê hoạch định sách lược và
ông thường được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước; Thiền sư Vạn Hạnh thông
minh hơn người, nghiên cứu tinh thông kinh điển Tam giáo. Ông được xem là
cố vấn của vua Lê Đại Hành, thầy của Lý Công Uẩn và là người có công lớn
mở ra triều Lý. Sau này, vua Lý Nhân Tông truy tán ông như sau:
Vạn Hành thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chốn gậy trấn kinh vua.
Vào thời Trần (1225 -1400), Phật giáo gắn liền với sự ra đời và phát
triển của Phật giáo Trúc Lâm. Người khai sơn Phật giáo Trúc Lâm là thiền sư
Hiện Quang (? - 1220). Sư Hiện Quang vốn là học trò của thiền sư Thường
Chiếu ở chùa Lục Tổ, tỉnh Bắc Ninh. Sau đó, ông lên núi Yên Tử lập am tu
hành. Quốc sư Trúc Lâm là học trò của thiền sư Hiện Quang và là thầy của vua
Trần Thái Tông. Khi nhà vua muốn vào núi Yên Tử tu hành, Quốc sư Trúc
Lâm đã khuyên nhà vua như sau: "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong
tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ phát sinh, chính đó là Phật. Nếu bệ hạ giác
ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không phải khổ công đi
tìm cầu bên ngoài"[38, tr.256]. Sau đó, theo lời mời của vua Trần Thái Tông về
triều soạn duyệt các bộ kinh lục trước khi đem san khắc. Quốc sư Đại Đăng là
học trò của Quốc sư Trúc Lâm và là thầy của vua Trần Thánh Tông. Các đệ tử
của Quốc sư rất nổi tiếng như Quốc sư Liễu Minh, thiền sư Thường Cung,
22
Huyền Sách và Thiền sư Huyền Quang. Thiền sư Huyền Quang huyện Gia
Lương, tỉnh Bắc Ninh. Năm 20 tuổi đỗ Trạng nguyên và ít lâu sau, ông thụ giới
với Tôn giả Pháp Loa. Sau khi đắc pháp, ông tổ chức in ấn kinh sách, giảng
pháp, học trò đông hàng nghìn người.
Phật giáo Bắc Ninh mà đại diện là các nhà sư tiếp nối cội nguồn trung
tâm Phật giáo Luy Lâu. Do đó, có thể thấy, Phật giáo Luy Lâu là cơ sở cho sự
ra đời và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Phật giáo Trúc Lâm là nơi qui tụ
đông đảo tín đồ Phật giáo trong cả nước, góp phần định hướng sự phát triển của
Phật giáo Việt Nam, đồng thời đem đạo vào đời, vì con người mà đem tinh
thần từ bi nhẫn nhục của Phật giáo, hoằng dương giáo lý ngũ giới, thập thiện
cho nhân dân, loại bỏ nhiều "dâm từ",… tất cả đã khiến cho đời sống nhân dân,
đời sống xã hội phát triển lành mạnh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc từ trước
đó và phát triển về sau.
Thời Hồ và thời Hậu Lê, tuy Phật giáo không còn vị trí như thời Lý, thời
Trần, nhưng vẫn tiếp tục tư trào trước đó. Sang thế kỷ 17 - 18, Phật giáo tiếp
tục phát triển bởi công lao lớn của thiền sư Chân Nguyên qua việc sáng tác và
san khắc nhiều tác phẩm của dòng Phật giáo này như Khóa hư lục, Thượng sĩ
ngữ lục,...; Thời kỳ này thiền Lâm Tế xuất hiện ở Bắc Ninh bởi Thiền sư
Chuyết Công người Phúc Kiến, Trung Quốc đến chùa Khán Sơn năm 1633
thuyết pháp giảng kinh. Vua Lê Huyền Tông, các quan lại và nhân dân tôn kính
theo học rất đông. Sau đó, Chuyết công về chùa Phật Tích và sai đệ tử là Minh
Hành về Trung Quốc thỉnh kinh cho chúa Trịnh và để ở chùa Phật Tích. Chùa
Phật tích là nơi tu hành của hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa
Trịnh Thị Ngọc Duyên. Cũng trong thời gian này, chúa Trịnh Tráng cho phép
trùng tu chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) ở huyện Thuận Thành và mời Chuyết
công về trụ trì. Sư Chuyết công về chùa Bút Tháp giảng pháp cho đến khi viên
tịch. Vua Lê Chân Tông ban hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức
Thiền Sư. Đệ tử của ngài là Minh Hành đã xây tháp Bảo Nghiêm để an trí nhục
23
thân của ngài tại chùa Phật Tích. Kế đăng lục cho biết có thể Chuyết công là
người đưa ra mô hình bài trí tượng Phật trong chùa ở Bắc Ninh và vùng đồng
bằng sông Hồng theo phong cách của các ngôi chùa Trung Quốc. Nhưng quan
trọng hơn, trong số rất nhiều các đệ tử của Chuyết công, thì sư Minh Hành và
Minh Lương xuất sắc hơn cả. Hai vị thiền sư này đã theo gương thầy mình
hoằng pháp sâu rộng khắp vùng Bắc Ninh và các vùng phụ cận. Có thể nói,
Chuyết công và hai vị đệ tử của mình có công lao rất lớn trong việc truyền bá
thiền phái Lâm Tế ở Bắc Ninh và rộng ra là cả miền Bắc Việt Nam. Bài kệ mà
Minh Hành để lại cho đệ tử đã cho thấy Lâm Tế ở Bắc Ninh có sự phát triển
khá rõ ràng:
Minh chân như tính hải
Kim tường phổ chiếu thông
Chí đạo thành chính quả
Giác ngộ chứng viên thông.
Trong bối cảnh Phật giáo suy vong kéo dài trong gần một thế kỷ từ nửa
cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, mà nguyên nhân chính là do "đa số tăng
đồ ngày càng lơ là việc học, chỉ chuyên ứng phó, hành trì tín ngưỡng Phật giáo
dân gian, chuyên làm những việc của thầy cúng, dẫn đến thực trạng "dốt và hư
nát", không chuyên tu hành, chỉ tham lợi dưỡng"[69, tr.206]. Sự xuống cấp về
đạo hạnh, không rõ đường lối tu hành, nhà sư quên mất vị trí mình là người dẫn
dắt trí tuệ tâm linh. Cư sĩ Thiều Chửu khẳng định thêm: "Sở dĩ có cảnh suy tàn
(của Phật giáo) như ngày nay, nói cho thật đúng thì suy riêng một giới Giáo Tự
Tăng thôi... Tăng đồ kém đường tu tiến làm sai chính pháp của Phật, cho nên
quần chúng mất lòng tín ngưỡng. Quần chúng mất lòng tín ngưỡng thì Phật
pháp phải suy, đó là lẽ tự nhiên"[17, tr. 29-30]. Vì thế, chấn hưng Phật giáo là
nhu cầu cần thiết. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở cả ba miền đã thổi bùng
lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc và đạo pháp của
mọi tăng ni, Phật tử. Nhất là sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công,
24
đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
tinh thần đoàn kết đấu tranh của nhân dân đã ảnh hưởng mạnh đến tăng ni Phật
tử. Phật giáo Bắc Ninh nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung ý thức được
rằng, muốn có sức mạnh thật sự cần phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp trong
một tổ chức để bảo vệ Phật pháp, bảo vệ văn hóa truyền thống, góp phần đấu
tranh giải phóng dân tộc. Năm 1951, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần
thứ nhất đã diễn ra tại chùa Từ Đàm - Huế, tổ chức Phật giáo toàn quốc này có
tên là Tổng hội Phật giáo Việt namTổ chức này qui tụ sáu tổ chức Phật giáo ở
cả ba miền là Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt, Tăng già Bắc Việt, Hội Việt
Nam Phật giáo Trung Việt, Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Nam
Việt, Tăng già Nam Việt. Tiếp theo là cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo
thống nhất Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1958 ở các tỉnh thành phố phía Bắc
được diễn ra tại chùa Quán Sứ. Tổ chức này lấy tên là Hội Phật giáo thống nhất
Việt Nam và Hòa thượng Thích Trí Độ được bầu làm Hội trưởng. Năm 1964,
tại Miền Nam, trong bối cảnh đấu tranh của Phật giáo thắng lợi năm 1963, cuộc
vận động thống nhất lần thứ ba được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Tổ chức này lấy
tên là GHPGVN thống nhất. Như vậy, trước năm 1975, Phật giáo Việt Nam
chưa thống nhất trọn vẹn như mong ước của Tăng ni Phật tử trong cả nước.
Năm 1981, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ tư đã trọn vẹn, Phật
giáo Việt Nam thống nhất trong một tổ chức mang tên là GHPGVN. Như lời
Hòa thượng Thích Trí Thủ cho rằng "Lần đầu tiên trong lịch sử 2.000 năm của
Phật giáo Việt Nam, chúng ta có được một hội nghị với đầy đủ đại biểu của các
tổ tức Giáo hội, hệ phái Phật giáo trong cả nước... đã vân tập về đây, trong hội
trường trang nghiêm và rực rỡ này, với một quyết tâm sắt đá: xây dựng ngôi
nhà thống nhất Phật giáo Việt Nam"[24, tr.9]. Như vậy, GHPGVN là một tổ
chức giáo hội thống nhất trên toàn quốc, đánh dấu quá trình phát triển của Phật
giáo Việt Nam, phù hợp với điều kiện xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
25
Ngày nay, Phật giáo Bắc Ninh là một bộ phận không thể tách rời
GHPGVN (GHPGVN) và cũng là một dòng chảy mạnh mẽ trong dòng chảy
chung của Phật giáo giáo Việt Nam. Hiện nay, theo báo cáo số liệu thống kê
công tác tôn giáo năm 2015 của Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh, Phật giáo Bắc
Ninh có 594 ngôi chùa, 360 chức sắc và có 282.803 ot tín đồ Phật tử, chiếm
25% dân số trong toàn tỉnh.
1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo
1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan
NSQ nói chung được hiểu là quan niệm sự sống con người như: lẽ sống
của con người là gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao
và sống như thế nào cho xứng đáng. Ở mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp đều có quan
niệm khác nhau về NSQ. Trên phương diện triết học, tôn giáo học, mỗi trường
phái triết học và mỗi tôn giáo đều có những quan niệm của riêng mình về NSQ.
Đối với Phật giáo, ra đời trong bối cảnh xã hội có sự phân biệt giai cấp nặng
nề, song về tư tưởng triết học, tôn giáo thì nở rộ nhiều trường phái triết học và
tôn giáo. Do đó, Phật giáo vừa tiếp thu vừa bác bỏ một số tư tưởng của các tôn
giáo khác; đồng thời người sáng lập đạo Phật vừa là nhân vật lịch sử vừa là
tấm gương đức hạnh đã kiến lập con đường giải thoái lý tưởng cho mọi tín đồ.
Song, quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật, đặc biệt là Phật giáo Đại
thừa phải qua các lần kết tập kinh điển mới được đầy đủ và ngày nay, chúng ta
tìm hiểu NSQ Phật giáo cũng qua hệ thống kinh điển này.
NSQ thường được hiểu là những quan niệm của con người đối với cuộc
sống. Mỗi người đều có một NSQ riêng và vì thế, trong cuộc sống mỗi người
mỗi quan niệm, thậm chí là đối nghịch trong lối sống nếp nghĩ. Theo nghĩa
rộng, NSQ là cách nhìn nhận đời sống con người và xã hội theo quan điểm của
từng thời kỳ lịch sử, của giai cấp. Chẳng hạn như NSQ cách mạng là NSQ của
giai cấp công nhân, hay NSQ cộng sản là quan niệm nhân sinh của những
26
người cộng sản đấu tranh để thực hiện lý tưởng cộng sản. Theo nghĩa hẹp, NSQ
chính là quan niệm của cá nhân về cuộc đời. Trong cuộc sống đời thường, mỗi
con người cũng có quan niệm riêng của mình về cuộc sống. Nhưng các nhà tư
tưởng đã khái quát những quan niệm ấy thành quan điểm, thành lý luận và
mang hơi thở của từng thời đại cụ thể, nhất là trong xã hội có giai cấp. Vì thế,
NSQ có tác dụng lớn đến hoạt động, lối sống của mọi người với mục tiêu tích
cực hay tiêu cực. Nếu phát huy được mặt tốt thì có thể cải tạo xã hội và ngược
lại sẽ làm cho xã hội xấu đi, điều này đã được minh chứng trong lịch sử. Nhiều
giai đoạn lịch sử đã chứng kiến hoạt động của con người bị tha hóa nảy sinh từ
NSQ lạc hậu, sa đà vào chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa vị lợi,… hoặc NSQ của
nhiều tôn giáo mang tính lánh đời, ẩn dật như đạo Lão,… Nhìn chung, NSQ là
một bộ phận của thế giới quan. NSQ bao gồm hệ thống những câu hỏi về con
người là gì, con người được sinh ra từ đâu, vị trí của con người trong thế giới,
hay hạnh phúc là gì, chết đi về đâu,…
Trên phương diện triết học, PGS.TS. Dương Văn Thịnh đã viết "con
người và xã hội loài người là một bộ phận cấu thành nên thế giới, có quan hệ
chặt chẽ với toàn bộ thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng đưa ra câu trả lời
như nhau đối với vấn đề con người quan hệ với xã hội và giới tự nhiên như thế
nào. Bởi vì con người và hoạt động của con người là vô cùng phức tạp"[76,
tr193].
Trên phương diện tôn giáo, GS.TS. Đỗ Quang Hưng cho rằng: "nhân
sinh quan có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và giáo lý Phật giáo.
Có thể nói đây là hai trường hợp tiêu biểu trong số các tôn giáo lớn với triết lý
về con người. Đại thể thì, với Kitô giáo, một tôn giáo độc thần, trong đó Đấng
tối cao dưới hình thức Thiên Chúa Ba ngôi là Đấng tạo dựng, đã "nặn" ra con
người theo hình ảnh của Thiên Chúa. Còn với Phật giáo, con người là một hữu
thế vô thủy vô chung, trong vòng luân hồi với những nghiệp (karma) nhất định,
27
dù là người hay chúng sinh, con người với Phật giáo dường như không có một
khuôn mẫu nhất định"[76, tr. 216].
Nho giáo quan niệm về nhân sinh, cho rằng "con người là của gia đình,
của dòng họ, làng, nước. Bản thân con người không có cái gì là của mình: thân
thể là của cha mẹ cho, phận vị là của vua cho, số mệnh là của Trời cho. Có
được cái gì cũng là nhờ ơn vua, ơn Trời. Giá trị của nó được tính theo chỗ nó là
con ai, thuộc họ nào, làng nào, có chức sắc gì, chứ không theo chỗ bản thân nó
là gì. Tất cả là thần dân của vua, đều được xếp vào bậc thang tước vị xã hội, rồi
lại chia thành hạng cha chú hay con cháu. Con người phải nhìn xuống, nhìn lên
trong thang trật tự trên dưới đó, tự xác định vị trí của mình mà ăn mặc, nói
năng, đi đứng cho phải phép. Đó là con người chức năng trong xã hội luân
thường chứ không có nhân cách độc lập"[36, tr. 394-395],...
Phật giáo, với triết lý mà Đức Phật đã dạy rằng "cuộc đời con người là
khổ" hay "nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả". Cho nên, trong giáo
lý Phật giáo thường xem thân người là ô uế, là giả tạm, vạn vật vô thường,...
Như thế, quan niệm nhân sinh của Phật giáo về thân phận con người dù ở giai
cấp nào, tầng lớp nào cũng như nhau và tất cả luôn luôn trong khổ đau phiền
não. Nhưng quan trọng hơn, quan niệm nhân sinh của đạo Phật ở chỗ làm sao
giúp con người thoát khỏi xiềng xích khổ đau và phiền não ấy, làm sao để hạnh
phúc ngay trong hiện tại và an vui trong tương lai.
Nhìn chung, ở bất cứ nền triết học nào, nhất là trong triết học tôn giáo thì
NSQ vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi tất cả các tôn giáo đều phải chú
trọng đến cuộc sống con người trong đời sống thực hoặc cuộc sống trong tương
lai. Đối với Phật giáo, khi nói về đời sống con người, người ta thường nghĩ đến
hai mặt đối lập là khổ đau và an vui. Nếu con người cho rằng, cuộc đời là hạnh
phúc thì được xem là theo chủ nghĩa lạc quan và ngược lạc, nếu người nào cho
rằng, cuộc đời là khổ đau thì theo chủ nghĩa bi quan.
28
1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo
1.2.2.1. Quan niệm của Phật giáo về con người
Sự phát triển liên tục của Phật giáo trong lịch sử đến hiện tại với sự phân
chia thành nhiều hệ phái khác nhau đã hình thành một hệ thống kinh điển vô
cùng đồ sộ và rất khó bóc tách rành mạch. Tuy nhiên, trên phương diện triết
học có thể thấy hai tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là VTQ và NSQ. Vì thế,
trước khi đề cập đến NSQ Phật giáo, việc đề cập khái quát nhất về VTQ Phật
giáo sẽ làm sáng tỏ hơn quan niệm về con người của Phật giáo. Bởi VTQ Phật
giáo và NSQ Phật giáo có liên hệ mật thiết và không tách rời nhau.
Về VTQ, đạo Phật chia toàn bộ thế giới thành ba cõi gọi là Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới. Chúng sinh trong ba cõi này vẫn trong vòng luân hồi sinh
tử, chỉ trừ những chúng sinh đã đạt quả vị Tứ thánh hay Bồ tát trở lên. Chúng
sinh là một thuật ngữ có độ mở rộng, không chỉ riêng con người mà ở đây như
theo kinh Kim Cương cho biết thì đó là tất cả các loài sinh từ trứng, sinh từ thai,
sinh ở chỗ ẩm ướt,…
Ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được chia thành sáu cõi luân hồi
bao gồm: Trời, Atula, Người, Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục. Trong đó, ba cõi
Trời, Atula và Người là ba cõi trên, còn lại cõi Súc Sinh, Ngạ Quỷ và Địa ngục
là ba cõi dưới. Đạo Phật giáo còn chia Dục giới còn có sáu cõi, Sắc giới gồm
bốn tầng là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, Vô sắc giới cũng gồm bốn
tầng gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Cõi dành cho Tứ thánh chia
thành 18 tầng khác nhau và cõi dành cho Bồ tát thì nhiều hơn, bao gồm 55 tầng
và còn vô số các cõi do vô số chư Phật đứng đầu như cõi Tây phương Cực lạc
của Phật A Di Đà, cõi Đông Phương của Phật Dược Sư, cõi Ta bà của Phật
Thích Ca,...
Thực chất, đạo Phật xem mỗi thế giới đều tương ứng với tâm thức của
từng chúng sinh. Bởi chúng sinh tùy theo Nghiệp của mình mà sinh trong các
thế giới theo các cách khác nhau, như sinh từ trứng (Noãn sinh), sinh từ bào
29
thai (thai sinh), sinh từ ẩm ướt (thấp sinh) và do biến hóa mà sinh (hóa sinh).
Cho nên, nếu chúng sinh chưa đoạn được tham ái thì sinh trong Dục giới; còn
chúng sinh nào do tu tập thiền định rốt ráo thì sinh trong Sắc giới. Ở Sắc giới,
chúng sinh do hóa sinh nên vẫn còn hình dạng thân người được cấu tạo bằng
bốn "chủng tử" là Đất – Nước – Gió – Lửa; cõi Vô sắc giới chỉ dành cho chúng
sinh có trí tuệ sáng suốt và đắc quả vị A La Hán và Bồ tát. Trong Phật giáo Mật
tông còn xem trọng một cõi Trung giới (cõi Âm). Phật giáo Mật tông quan
niệm, cõi Âm là nơi chuyển tiếp tâm thức sau khi lâm chung và trước khi tái
sinh về các cõi tùy theo công phu tu tập của chúng sinh. Có thể về cõi Dục giới,
Sắc giới hay Vô sắc giới.
Bên cạnh đó, đạo Phật còn có sự phân loại vũ trụ thành ba loại là Tiểu
thiên thế giới, trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới. Nghĩa là, vũ trụ bao
gồm vô số các Đại thiên thế giới hợp thành [46, tr. 322-324]. Song, không gian
của "mười phương chư Phật" là quá khứ, là hiện tại và tương lai, đồng nghĩa
với "vô thủy, vô chung" của thời gian. Kinh Lăng Nghiêm cho rằng, toàn bộ vũ
trụ chỉ là "bọt nước trong biển lớn" và suy cho cùng vẫn là "nên biết, hư không
sinh ra ở trong tâm ông cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống là các
thế giới ở trong hư không..."[67, tr. 752]. Hay kinh Viên Giác chỉ ra:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương cũng như điện
Nên khởi quán như thế"[68, tr. 89].
Như thế, Phật giáo quan niệm, thế giới bao gồm nhiều cõi khác nhau.
Trong mỗi cõi đều có nguyên tắc để tương ứng với tâm thức của mỗi chúng
sinh mà chiêu cảm. Nghĩa là chúng sinh được sinh trong cõi nào đều là kết quả
của hành động của mỗi chúng sinh đó. Đồng thời, Phật giáo cho rằng, thế giới
không do ai sáng tạo và không có cái gì vĩnh hằng. Mọi chúng sinh đều phải
tuân theo chu trình "Thành – Trụ - Hoại – Không" theo luật Nhân quả. Vận
30
hành chu trình này là Duyên. Duyên được hiểu vừa là nguyên nhân lại vừa là
kết quả để tiếp tục chu trình mới. Vì thế, không có nguyên nhân đầu tiên và
nguyên nhân cuối cùng, do đó không có ai tạo ra thế giới và cũng không có cái
gì là vĩnh hằng và đạo Phật cũng đã bác bỏ sự tồn tại của Đấng sáng tạo của Bà
la môn và Ngã (atman) trong Upanisad.
Từ quan niệm về thế giới như thế, đạo Phật đã đưa ra quan niệm nhân sinh
hết sắc sâu sắc. Đó là việc xem mọi sự vật hiện tượng đang hiện hữu là tất cả
không có thực bởi tất cả đều do Vô minh đem lại. Thế giới hữu tình được hình
thành do hội tụ của các nguyên tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Sắc bao
gồm bốn yếu tố là Đất – Nước – Lửa – Gió; và danh bao gồm: Thụ (cảm giác),
Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy) và Thức (ý thức). Như thế Sắc và Danh hợp
thành 5 yếu tố gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là sự hội tụ trong một thời gian nhất
định rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Vì thế không có cái Tôi, tức là Vô ngã,
vì sự vật biến đổi không ngừng nên mọi sự vật hiện tượng cũng Vô thường.
Phật giáo quan niệm, trong tất cả chúng sinh, vị trí của con người là cao
nhất trong các loài hữu tình, kinh Hoa Nghiêm đã chỉ ra luận điểm này và
khẳng định "con người là hơn cả". Tuy nhiên, mỗi cá nhân vẫn phải trải qua
chu trình Sinh – Lão – Bệnh – Tử vẫn phải theo luật Nhân quả, Vô thường.
Nghĩa là không có mở đầu không có kết thúc, luôn trong vòng luân hồi sinh tử
nếu không tu tập để giác ngộ, giải thoát.
Không chỉ xem trọng vị trí con người cao hơn các loài chúng sinh mà
đạo Phật còn mô tả con người với vóc dáng uy nghiêm ngay thẳng trong sự đi
đứng, và chỉ có con người mới có tinh thần sáng suốt, không bị mù quáng trước
các hiện tượng huyền ảo. Nhưng, Phật giáo vẫn quan niệm mỗi cá nhân là hiện
thân của ý thức và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về chính bản thân
mình trong hiện tại và tương lai. Song mỗi cá nhân không thể sống đơn độc mà
phải sống chung với nhau trong cộng đồng, xã hội nhất định. Đồng thời đề cao
31
vai trò của mỗi cá nhân cần thiết hay nên phải "đem thân phụng sự chúng
sinh". Phụng sự chúng sinh bằng hành động thực tế của mỗi cá nhân, đó là nỗ
lực bố thí, giữ giới, thực hành các thiện nghiệp trên cơ sở trí tuệ, đồng thời ứng
xử với nhau trên nền tảng Lục hòa bao gồm:
1. Thân hòa đồng trụ (thân hòa cùng ở chung nhau): Trên phương diện
sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một
tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau;
2. Khẩu hòa vô tránh (lời nói hòa hợp không tranh cãi): Đứng trên
phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể
hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác; 3.
Ý hòa đồng duyệt (ý hòa cùng vui): Đứng trên phương diện tư tưởng,
lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là
đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận;
4. Giới hòa đồng tu (giới hòa cùng tu tập): Là chúng ta cùng sống chung
trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo
giới luật chung đã được đặt ra;
5. Kiến hòa đồng giải (thấy biết giải bày cho nhau hiểu): Là kiến giải có
được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu
tập [thuvienhoasen, truy cập ngày 29/8/2019].
6. Lợi hòa đồng quân (lợi hòa cùng chia): Cùng sống chung với nhau
dưới một môi trường, ta phải chia đều cho nhau về vật chất, của cải, không
được lạm dụng quyền hạn của mình để làm của riêng.
Đây chính là cách để mỗi cá nhân ứng xử với chính mình, tránh sa vào
suy đồi đạo đức, làm hư hoại thân tâm. Bởi Phật giáo cho rằng, được làm thân
người rất khó, ví như câu nói khi "sắt nở hoa kết quả". Có thể nói, đó quan
niệm về nhân sinh đầy tính nhân văn mà Phật giáo đem lại cho mỗi cá nhân con
người, đồng thời quan niệm "lợi lạc quần sinh" đã thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và
có thể nói, đạo Phật là đạo vì con người.
32
Khi đề cập đến NSQ Phật giáo, ban đầu chính là quan niệm bác bỏ quan
quan niệm về Đấng sáng tạo của Bà la môn và Ngã trong Upanisad. Sự bác bỏ
này đã đem lại nhiều tư tưởng mới trong Phật giáo sau này. Song đây không
phải là bác bỏ hoàn toàn mà còn có sự kế thừa. Phật giáo đã kế thừa tư tưởng
Luân hồi (Samara) và Nghiệp (Karma) trong Upanisad. Qua đó, có thể thấy rõ,
Phật giáo quan niệm, luật Nhân quả chi phối quá trình của sự vật hiện tượng vũ
trụ, đồng thời cũng chi phối nhân sinh. Sự vật mất đi ở chỗ này thì sinh ở chỗ
khác trong vòng luân hồi vô tận và tùy theo Nghiệp của nó mà sinh nhanh hay
chậm, Nghiệp tuân theo luật Nhân quả. Do đó, Phật giáo quan niệm cuộc đời
con người là Khổ và làm sao thoát Khổ, thoát khỏi vòng luân hồi là quan điểm
cơ bản nhất về con người trong đạo Phật.
Con đường thoát khổ được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ ra cho con
người nhận biết, tu tập bao gồm:
1. Khổ đế bao gồm tám loại khổ (Bát khổ): Sinh, lão, bệnh, tử, yêu
thương nhau nhưng phải xa nhau (thụ biệt ly khổ), ghét nhau phải ở với nhau
(oán tăng hội khổ), muốn mà không được (sở cầu bất đắc) và khổ vì sự tồn tại
của thân xác (thủ ngũ uẩn).
2. Nhân đế hay Tập đế chỉ ra nguyên nhân khổ. Đó là 12 nguyên nhân,
còn gọi là Thập nhị nhân duyên. Đó là: Vô minh, không sáng suốt. Vì không
sáng suốt nên không nhận ra mọi sự vật hiện tượng là giả và không có thật.
Mọi sự vật hiện tượng đều do Duyên mà hội tụ, hòa hợp. Cho nên, mọi sự vật
hiện tượng mà ta thấy như to nhỏ, ngắn dài,… là do sự phân biệt của ý thức chủ
quan gán cho nó nên có sự phân biệt; Duyên hành là hoạt động của ý thức,
nghĩa là sự dao động của Tâm. Tâm dao động khởi phát manh nha của Nghiệp;
Duyên thức: Vì do Tâm dao động nên từ chỗ trong sáng trở nên ô nhiễm.
Duyên thức này tùy theo Nghiệp lực mà tìm đến các nhân duyên khác mà hình
thành; Duyên danh sắc chỉ sự hội tụ của vật chất và tinh thần. Với các loài hữu
tình thì sự hội tụ này phát sinh ra Lục căn (nhãn – mắt; nhĩ – tai; tỵ - mũi; thiệt
33
– lưỡi; thân – thân thể; ý – ý thức); Duyên lục nhập: Chỉ quá trình tiếp xúc giữa
Lục căn với Lục trần (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp); Duyên xúc: chỉ ra chu
trình tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn – lục trần – Thức; Duyên thụ: Chỉ cảm
giác do tiếp xúc mà nảy sinh yêu, ghét, buồn, vui,…; Duyên ái: Chỉ sự nảy sinh
dục vọng; Duyên thủ: Chỉ sự đàm mê, chiếm đoạt; Duyên hữu: Muốn chiếm
đoạt thì có chủ thế, cái muốn chiếm thì phải tồn tại, nghĩa là hành động tạo
nghiệp; Duyên sinh: Nghiệp đã tạo ra thì xuất hiện nghiệp nhân, nghiệp nhân
xuất hiện ắt sẽ xuất hiện nghiệp quả; Duyên lão – tử: Đã có sinh ắt sẽ có tử.
Chết là kết quả cuối cùng của một quá trình nhưng đồng thời khởi động một
chu trình luân hồi mới,…
3. Diệt đế: Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể diệt được và thoát khỏi
luân hồi.
4. Đạo đế: Con đường giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đức Phật chỉ ra có
8 con đường chính gọi là Bát chính đạo bao gồm: Chính kiến: Hiểu biết đúng
đắn; Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn; Chính ngữ: giữ lời nói đúng đắn; Chính
nghiệp: Không trộm cắp, tà dâm,…; Chính mệnh: Tiết chế dục vọng, giữ các
điều răn; Chính tinh tiến: Hăng say truyền bá chân lý; Chính niệm: Phải hằng
ngày thờ Phật, niệm Phật; Chính định: Tập trung suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô
ngã, vô thường,…
Trong bốn chân lý, Khổ đế được xem là căn nguyên đầu tiên để con
người thấy rằng cuộc sống của mình là Vô thường. Song, để hiểu thấu thế là
nào Khổ thì hoàn toàn không hề đơn giản. Bởi trong quan niệm về nhân sinh
trong đạo Phật thì Khổ - Duhkha mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đòi hỏi
phải có nhận thức đúng về Khổ mới đề ra được phương pháp thoát khổ đúng.
Khổ - Duhkha là một thuật ngữ Phạn bao gồm hai nghĩa. Kha là cái lỗ
trong ở bánh xe để đưa trục xe vào đó. Duh chỉ sự bất ổn, rối loạn, bất an. Song
khổ đau không chỉ là khổ đau thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn
bao hàm cả những thể dạng bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả
34
chúng ta đều cảm thấy trong cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì
đấy là sự bất toại nguyện của sự hiện hữu [49, tr.209]. HT. Thích Thiện Siêu
giải thích về khổ đau như sau: duhkha ngoài nghĩa là bất toại nguyện thì phải
được hiểu đầy đủ với 4 nghĩa: Khổ, Vô thường, Không và Vô ngã – đây là bốn
pháp ấn quan trọng của Phật giáo[64, tr. 43].
Do đó, Khổ - Duhkha, nhưng “ta có thể tạm dịch là Khổ. Không ai hiểu rõ
nội dung này đầy đủ của “khổ” trừ bậc đại thánh, còn trên tầm tri kiến thấp hơn
ta chỉ có thể hiểu nó một cách phiến diện”[77, tr. 46]. Tuy nhiên, chúng ta cũng
thấy rằng, việc nhận diện Duhkha sẽ dễ dàng hơn việc tìm hiểu nội dung đầy
tính triết học phức tạp của nó.
Một cách đơn giản là cái gì khiến cho con người cảm thấy khổ, khó chịu,
lo lắng, bất an thì chính là Duhkha. Và cái gì là Duhkha thì cần phải chấm dứt,
loại trừ. Quan niệm của đạo Phật cho rằng thế gian này không có gì ngoài sự
khổ đau, cả hạnh phúc trần thế cuối cùng cũng kết thúc bằng khổ đau. Khổ đau
tiếp nối khổ đau, trong hạnh phúc cũng đã hiện diện những mầm mống của khổ
đau, nhưng không vì thế mà chán nản mà phải nhận diện nó. “Đức Phật dạy
rằng, chúng ta nên nhận thức đau khổ là đau khổ, chấp nhận nó như thực kiến
và chống lại nó”[63, tr. 40].
Duhkha - Khổ vẫn luôn là một khái niệm quan trọng trong đạo Phật, nó
được định nghĩa như sau: Khổ là “cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba
tính của sự vật. Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu mới là Khổ; Khổ
dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức xuất phát từ ngũ uẩn,
chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại. Như thế, tất cả những điều an
lạc đang có cũng là khổ vì chúng sẽ bị hoại diệt. Khổ xuất phát từ Ái và con
đường thoát khổ là bát chính đạo. Chân lý thứ nhất của tứ diệu đế nói về tính
chất của khổ như sau: sinh là khổ; già là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở,
buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại:
mọi thứ dính líu đến ngũ uẩn là khổ”[3, tr. 291]. Vì vậy mà Khổ đau trong đạo
35
Phật được các nhà nghiên cứu nhận diện trên hai phương diện chính là nguyên
nhân, mức độ và hình thức[44, tr. 137].
Về nguyên nhân và mức độ khổ đau có ba loại khổ (Tam khổ) bao gồm:
- Khổ khổ, nghĩa là khổ vì những sự khổ của thế tục, chẳng hạn khổ vì
đói khát, khổ vì phải trải nạn chiến tranh và đây là mức độ khổ thấp nhất mà ai
cũng cảm nhận được;
- Hoại khổ nghĩa là khổ vì sự thay đổi. Ở mức độ này, ngay cả những
kinh nghiệm tưởng có vẻ khoái lạc thì cũng là khổ. Bởi con người cảm thấy các
kinh nghiệm đó là vui sướng là bởi họ đã so sánh chúng với những kinh
nghiệm đau đớn. Sự vui sướng đó chỉ là tương đối. Trong khi đó, sự vật luôn
thay đổi, vì vậy sau một thời gian thì những kinh nghiệm tưởng chừng là vui
sướng đó chỉ còn là sự nhàm chán, không thỏa mãn [45, tr. 112-113] sự vui
sướng rồi cũng mất đi;
- Hành khổ nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này
không chỉ là nền tảng cho cái khổ trong kiếp này mà còn là nền tảng cho đau
khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác một
khi con người vẫn nằm trong vòng vô minh[44, tr.112-113]. Sự nhận biết về
khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất.
Về hình thức có tám loại khổ (Bát khổ) mà con người ai cũng phải chịu:
- Sinh khổ: Phật giáo quan niệm, con người khổ trong sự sinh sống.
Ngay cả khi còn là một thai nhi thì con người đã khổ vì phải nằm trong bụng
mẹ chật hẹp, người mẹ phải mang nặng đẻ đau cũng là khổ, con người phải
mưu sinh để sống cũng là khổ.
- Lão khổ: Khi con người đến tuổi già thì thân thể không còn như trước,
mắt mờ, tai điếc, khi huyết suy nhược, chân tay chậm chạp, nói trước quên sau
không như ý muốn đó là khổ.
- Bệnh khổ đó là khi con người phải chịu đau đớn cả về thể xác và tinh
thần khi mắc bệnh. Từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, không ai là không từng
trải qua một đôi lần mắc bệnh và thấu hiểu nỗi khổ khi bị mắc bệnh. Từ bệnh
36
nhẹ như nhức đầu sổ mũi đến những trọng bệnh như u, nhọt, ung thư hành hạ,...
- Tử khổ, khi con người sắp chết thì trong lòng sợ hãi thì đó là khổ. Thân
xác phân hủy, gia quyến đau lòng đó là khổ. Và trong bốn hiện tượng vô
thường này thì chết là cái khổ lớn nhất, làm cho chúng sinh trong thế giới trần
tục này sợ hãi nhất.
- Ái biệt ly khổ, đó là khi con người yêu thương nhau nhưng phải chia
lìa. Chia lìa khi còn sống và chia lìa khi chết.
- Sở cầu bất đắc khổ (hay cầu bất đắc khổ) đó là khi con người không
được toại nguyện, những nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân
không được như ý.
- Oán tăng hội khổ là khổ khi con người phải tiếp xúc với những thứ
mình không thích. Không ưa nhau mà vẫn phải gặp nhau, ghét nhau mà vẫn
phải ở chung với nhau,…
- Ngũ uẩn khổ, đó là vì con người có sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn
(sắc, thụ, tưởng, hành, thức) trong cơ thể. Chẳng hạn, mơ ước (tưởng) quá thì
cũng khổ, biết (thức) nhiều quá cũng khổ,…
Như vậy, có thể thấy khổ đau theo quan niệm của đạo Phật được nhận
diện ở hai bình diện là Thân khổ và Tâm khổ. Thân khổ có thể thấy rõ là những
cảm giác đau đớn về thể xác, như nóng lạnh, bệnh tật,… còn Tâm khổ là những
cảm giác trong tâm như buồn phiền, căng thẳng, trạng thái lo lắng bất an,…
Hẳn nhiên, Thân khổ và Tâm khổ luôn luôn có sự dính kết, có sự liên quan mật
thiết, không thể tách rời, khổ ở thân sẽ dẫn đến tâm khổ và tâm khổ cũng dẫn
đến thân khổ. Đương nhiên, khổ đau được nhận diện ở đây là những nỗi đau
đớn, khổ sở nói chung. Bởi có những nỗi đau chỉ khó chịu nơi tâm và cũng có
những nỗi đau gây khó chịu nơi thân, có trường hợp có đau nhưng không khổ,
có trường hợp có khổ nhưng không đau, điều này phụ thuộc vào từng người,
37
đặc biệt là đối với các vị tu sĩ đạo Phật, khổ đau thường bị hạn chế, thậm chí
chúng không còn xuất hiện đối với những người đắc đạo.
Nhìn chung, có rất nhiều khổ đau, nó muôn vàn dáng vẻ, mức độ biểu
hiện hay không biểu hiện,... Việc nhận diện khổ đau theo quan niệm của đạo
Phật là khiến cho con người nhìn thấy bản chất của khổ đau, sự xuất hiện và
tồn tại của nó chính là trên nền tảng tham ái và chấp ngã (tham, sân, si). Bởi
càng tham ái, càng chấp ngã thì càng nhận nhiều đau khổ, điểm mấu chốt là
nhận diện khổ đau để khiến cho con người có cái nhìn chân thực về cuộc đời,
hiểu được bản chất, quy luật của đời sống, của các sự vật, các hiện tượng trong
thế giới xung quanh và trong chính bản thân mỗi con người để giảm thiểu nỗi
khổ đau và không tạo ra những khổ đau mới trong cuộc đời, để từ đó con người
gieo trồng được hạt giống được an lạc, hạnh phúc ngay trên thế gian này.
Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải thoát, bởi khi nhận diện được
khổ đau thì câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thoát khổ đau. Giải thoát theo quan
niệm của Phật giáo đó là sự giải phóng ra khỏi khổ bằng cách thấy biết nguyên
nhân của khổ và tận diệt nó, tức là thực hiện Tứ diệu đế và đoạn diệt ô nhiễm.
Giải thoát tức là ra khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi
và đạt Niết bàn.
Giải thoát không gì hơn là thực hiện Bát chính đạo. Đây là con đường
gồm tám nhánh nhưng có sự liên hệ mật thiết với nhau. Đó là sự quán thấy
đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống
đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, sự tĩnh tâm đúng. Bát chính đạo được các
bậc cao tăng phân làm ba nhóm như sau:
- Nhóm thuộc về đạo đức hay giới luật gồm có: Chính ngữ, tức là không
nói dối, không dèm pha, không nói những lời hung bạo, không nguyền rủa,
không ba hoa vô ích; Chính mệnh, tức là không sát sinh, không trộm cắp, tôn
trọng luân lý trong lĩnh vực tính dục, giúp đỡ người khác biết sống một cách
ngay thật; Phương tiện sinh sống đúng, tức là không sinh sống bằng những
38
nghề làm hại đến người khác và các chúng sinh khác (chẳng hạn như buôn bán
khí giới, lừa gạt, làm nghề đồ tể, chăn nuôi súc vật để giết thịt, phá rừng...), nói
chung là phải biết tôn trọng sự sống và kính trọng tất cả chúng sinh.
- Nhóm thuộc về tĩnh tâm hay thiền định gồm có: Cố gắng đứng, nghĩa là
ngăn chặn các thói quen tâm thần kém đạo đức phát sinh trở lại, không để cho
các thứ dục vọng độc hại mới phát sinh và điều khiển mình, cố gắng tạo ra các
thể dạng tâm thức lành mạnh và tốt đẹp, phát huy thêm những thể dạng tâm
thức tốt sẵn có; Chú tâm đúng, ý thức và chú tâm vào thân xác, giác cảm, sự
sinh hoạt tâm thần, tư duy và các khái niệm và tập trung tâm thức đúng. Đây
chính là thiền định, như thiền định hay niệm Phật,…
- Nhóm hiếu biết tối thượng – bát nhã gồm có: Tư duy đúng là từ bỏ hay
là quên chính mình, không ích kỷ, yêu thương tất cả chúng sinh và bất bạo
động; Hiểu biết đúng chính là thấy triệt được Tứ Diệu Đế.
Nhưng đối với nhân dân, “những bà già ngoáy trầu” mộ đạo thì có lẽ họ
không quá bận tâm nhận diện thế nào là khổ, nhưng đối với các tu sĩ chắc hẳn
họ không dừng lại ở việc "hiểu" bản chất của khổ. Vì thế, vấn đề giải thoát
thường được tranh luận trong suốt tiến trình lịch sử của đạo Phật. Giải thoát là
gì, tại sao phải giải thoát, sau khi giải thoát sẽ đi về đâu và ai là người được
giải thoát. Đương nhiên là kèm theo nó là cả một hệ thống thuật ngữ, khái niệm
thiêng liêng giải thích xung quanh vấn đề giải thoát. Chẳng hạn như Phật
(Buddha), Như Lai (Tathãgata), Pháp (Dharma), Niết bàn (Nirvana),…
Từ phương diện này, có thể thấy, điểm chung của các tôn giáo khi thành
lập thường nhắm đến những người chịu nhiều đau khổ. Và những người này
tìm đến và xem tôn giáo như một phương thuốc tinh thần, làm giảm đi những
điều bất hạnh mà cuộc đời họ đang gánh chịu. Chẳng hạn, đối với Kitô giáo ra
đời ở phía đông đế quốc La Mã cổ đại vào khoảng những năm đầu Công
nguyên. Kitô giáo ra đời trong bối cảnh xã hội La Mã đã tồn tại nhiều mâu
thuẫn, nổi bật nhất là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô; giữa các dân tộc bị chinh
39
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Nengyong Ye
 
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Huynh Loc
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
KimBumt1
 

Was ist angesagt? (20)

Đề tài: Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc chùa Mễ Trì Thượng, HAY
Đề tài: Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc chùa Mễ Trì Thượng, HAYĐề tài: Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc chùa Mễ Trì Thượng, HAY
Đề tài: Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc chùa Mễ Trì Thượng, HAY
 
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại Tp HCM
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại Tp HCMLuận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại Tp HCM
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại Tp HCM
 
Luận án: Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Luận án: Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh KhiêmLuận án: Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Luận án: Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm
 
Chương 1 – Những vấn đề chung về CTXH cá nhân
Chương 1 – Những vấn đề chung về CTXH cá nhânChương 1 – Những vấn đề chung về CTXH cá nhân
Chương 1 – Những vấn đề chung về CTXH cá nhân
 
An sinh xa hoi
An sinh xa hoiAn sinh xa hoi
An sinh xa hoi
 
Ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống đến đạo của người công giáo
Ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống đến đạo của người công giáoẢnh hưởng tín ngưỡng truyền thống đến đạo của người công giáo
Ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống đến đạo của người công giáo
 
Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành p...
Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành p...Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành p...
Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành p...
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
Công tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tậtCông tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tật
 
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viênTìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
 
Bai tieu luan
Bai tieu luanBai tieu luan
Bai tieu luan
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
 
bao cao thuc te cong tac xa hoi ca nhan
bao cao thuc te cong tac xa hoi ca nhanbao cao thuc te cong tac xa hoi ca nhan
bao cao thuc te cong tac xa hoi ca nhan
 
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
 
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCDĐề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
 
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOTLuận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
 
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
 
Đề tài: Quản lý về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận, HAY
Đề tài: Quản lý về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận, HAYĐề tài: Quản lý về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận, HAY
Đề tài: Quản lý về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 

Ähnlich wie LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH

Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Man_Ebook
 
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nayđạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
Man_Ebook
 

Ähnlich wie LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH (20)

Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
 
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNHLUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
 
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
 
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
 
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nayTìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
 
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
 
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAYẢnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
 
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAYBÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
 
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nayđạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
 
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
 
Luận văn: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy, HAY, 9đ
Luận văn: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy, HAY, 9đLuận văn: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy, HAY, 9đ
Luận văn: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy, HAY, 9đ
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
 
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
 
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAYLuận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
 
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
 
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên KhánhĐề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
 
luan van quan ly hoat dong cua thu vien
luan van quan ly hoat dong cua thu vien luan van quan ly hoat dong cua thu vien
luan van quan ly hoat dong cua thu vien
 
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIXLuận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
 

Mehr von OnTimeVitThu

Mehr von OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Kürzlich hochgeladen

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Kürzlich hochgeladen (20)

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHÙNG THỊ LĨNH (THÍCH NHUẬN AN) ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội-2020
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHÙNG THỊ LĨNH (THÍCH NHUẬN AN) ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên Hà Nội-2020
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phùng Thị Lĩnh
  • 4. LỜI CẢM ƠN Trải qua hơn hai năm học tập, đến nay luận văn đã hoàn thành. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn Chư tôn đức GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện để con hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình; đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô Bộ môn Tôn giáo học, PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh chủ nhiệm bộ môn, tập thể lớp chuyên ngành Tôn giáo học. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn, TS. Nguyễn Thị Tố Uyên. Cô đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này, đồng thời chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành. Là một tu sĩ Phật giáo nên khả năng lĩnh hội tri thức thế học chưa nhiều. Mặc dù bản thân đã ý thức trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hoan hỷ rất mong nhận được sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2019 Tác giả luận văn Phùng Thị Lĩnh
  • 5. MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................................4 1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................................4 2. Tình hình nghiên cứu.....................................................................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu............................................................................ 10 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................................ 10 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 11 6. Ý nghĩa của đề tài......................................................................................................................... 11 7. Kết cấu của đề tài.......................................................................................................................... 12 CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO...................................................................................................................... 13 1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh ............................................ 13 1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo.................................................................................................... 13 1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh........................................................................................................ 18 1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo.................. 26 1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan....................................................................... 26 1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo ................................................................ 29 Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................................................... 54 Chƣơng 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN BẮC NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ........................ 56 CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ....................................................................... 56 2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín ngƣỡng tôn giáo ở Bắc Ninh........................................................................................................................ 56 2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội............................................................................................. 56 2.1.2. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh.......................................................... 58 1
  • 6. 2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh.......................................................................... 59 2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản thân của người dân Bắc Ninh.......................................................................................................................... 59 2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với tha nhân của người dân Bắc Ninh................................................................................................................. 65 2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường của người dân Bắc Ninh ........................................................................................................................................ 75 2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn học, nghệ thuật............................................................................................................................................................ 80 3. Một số đề xuất khuyến nghị................................................................................................ 86 3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh................................................... 86 3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo............................................................... 88 Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................................................... 90 KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 95 2
  • 7. CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN Giáo hội Phật giáo Việt Nam : GHPGVN Nhân sinh quan : NSQ Nhân sinh quan Phật giáo : NSQ Phật giáo Vũ trụ quan : VTQ Vũ trụ quan Phật giáo : VTQ Phật giáo Nhà xuất bản : Nxb 3
  • 8. A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần con người, của từng cộng đồng xã hội trong lịch sử và hiện tại. Phật giáo nảy sinh ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trong một bối cảnh xã hội có hệ thống tư tưởng triết học rất phong phú nhưng lại có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Phật giáo ra đời vừa là một trào lưu triết học vừa là một tôn giáo với mục đích hướng con người vượt qua những khổ đau, mất mát để giải thoát giác ngộ, đem hòa bình cho thế giới. Phật giáo theo các thương gia Ấn Độ hiện diện ở nước ta vào những năm đầu Công nguyên. Qua những tư liệu thành văn ghi lại được đã cho thấy đến khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu hoạt động khá nhộn nhịp với hình ảnh Thái thú Sĩ Nhiếp mỗi khi ra đường đều có Hồ tăng đốt hương theo hầu. Qua lời Đàm Thiên đối đáp với Linh Nhân Hoàng Thái Hậu cho thấy, trung tâm Phật giáo Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp đã hiện diện một tăng đoàn lớn mạnh, dịch kinh, xây tháp,... Điều này cho thấy, Phật giáo đã sâu gốc bền rễ và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng trong lịch sử. Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, Bắc Ninh là một tỉnh không lớn so với các tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, song lại có sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa rất mạnh nên có sự tác động tích cực và tiêu cực không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối với đời sống tinh thần nhân dân Bắc Ninh hiện nay là cần thiết. Bởi tỉnh Bắc Ninh không chỉ nằm gọn trong vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng mà còn là cái nôi của Phật giáo – trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu thuộc huyện Thuận Thành ngày nay. 4
  • 9. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích các thông tin lịch sử và các dữ kiện thu thập được trong quá trình điền dã, khảo sát một số cộng đồng tín đồ Phật tử ở một số ngôi chùa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề tài "Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Chúng tôi nhận thấy rằng, có hai hướng tiếp cận chủ yếu trong các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước đối với vấn đề này, đó là: 1. Cách tiếp cận triết học, đây là cách tiếp cận khoa học khi nghiên cứu về nhân sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ những quan niệm nhân sinh quan của một số tôn giáo, về vai trò, giá trị trong đời sống của tín đồ và 2. cách tiếp cận triết học tôn giáo được xem là tiếp tục "mã hóa", "cụ thể hóa" các khái niệm từ cách tiếp cận thứ nhất. Soi chiếu vào các sinh hoạt, hoạt động cụ thể của từng tôn giáo. Hay nói cách khác, với cách tiếp cận này đã cho thấy ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với đời sống tinh thần của cá nhân các tín đồ tôn giáo hoặc trong cộng đồng tôn giáo rất rõ ràng. Ngoài những tài liệu mà đề tài thu thập liên quan đến nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo còn có nhiều tài liệu hướng về giải thích nhân sinh quan theo các chiều cạnh khách nhau nhằm chứng minh nguồn gốc quan niệm nhân sinh nói chung và quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ của một luận văn, đề tài sẽ chỉ đề cập đến những tư liệu chính nhằm phân tích, giải thích theo hướng sâu chuỗi để các vấn đề nhân sinh quan được sáng tỏ trên phương diện triết học và triết học tôn giáo. 5
  • 10. Về nhân sinh quan, hiện nay đã có nhiều công trình, bài tạp chí hay các bài viết chuyên sâu nghiên cứu. Đó là các công trình Lịch sử triết học của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ của Hà Thúc Minh (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Tứ diệu đế do Võ Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (Nxb Tôn giáo. Hà Nội, 2007), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của học giả Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),... Nhìn chung, nguồn tư liệu trên đã chỉ ra được khái niệm NSQ và NSQ Phật giáo. Chẳng hạn, PGS.TS. Dương Văn Thịnh trên phương diện triết học nhận định con người và xã hội loài là một bộ phận cấu thành nên thế giới và có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ thế giới (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011) hay GS.TS. Đỗ Quang Hưng nhận xét trên phương diện triết học tôn giáo đã cho rằng NSQ có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và giáo lý Phật giáo (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011),... Ngoài ra còn một số tài liệu đề cập đến NSQ của Nho giáo như Đến hiện đại từ truyền thống của học giả Trần Đình Hượu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996), Việt Nam văn hóa sử cương của học giả Đào Duy Anh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006),... Về nhân sinh quan Phật giáo, có nhiều tài liệu đề cập sâu sắc về vấn đề này. Đó là các công trình: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào của Hoàng Phong (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2002), Vô ngã là niết bàn của Thích Thiện Siêu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Một số tôn giáo ở Việt Nam của Ban tôn 6
  • 11. giáo Chính Phủ (Lưu hành nội bộ, 1995), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), Lịch sử Phật giáo Việt Nam do học giả Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ do Doãn Chính chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), Lịch sử nhà Phật của Đoàn Trung Còn (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007), Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức Nhuận (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2008), Kinh Từ Bi của Thích Nguyên Hiệp (2010); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2011; Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay của Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2015,... đây là những nguồn tài liệu chỉ ra cơ sở hình thành, quan niệm về NSQ của Phật giáo trên các phương diện: Bối cảnh lịch sử của đạo Phật, người sáng lập đạo Phật; sự kết tập kinh điển Phật giáo để có được hệ thống quan niệm đầy đủ về nhân sinh trên ba phương diện chính là quan niệm về con người, ứng xử giữa con người với con người và ứng xử của con người với thiên nhiên,... Có thể thấy, khuynh hướng tiếp cận này đã chỉ ra những quan niệm cơ bản về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo, đặc biệt là từ các nhà khoa học tiếp cận theo triết học. Về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể thấy, phần lớn các công trình đều tiếp cận triết học tôn giáo. Các công trình này cho biết sâu sắc hơn về quan niệm về nhân sinh của Phật giáo trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bắc Ninh. Trước hết là các công trình lịch sử như Dư địa chí do Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích, (Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,…đặc biệt là công trình 7
  • 12. Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự của Trần Văn Giáp (Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971) đã cho biết về địa lý cũng như vị trí và vai trò văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Về ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối với nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Trong công trình Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội) đã xem các trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những dòng sông Dâu và sông Đuống; Công trình Luy Lâu lịch sử và văn hóa của tác giả Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản, 1999) tiếp tục khẳng định rõ hơn về sự ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu – Dâu trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, văn hóa cho đến đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người dân nơi đây,… Mà ngày nay, người dân Bắc Ninh rất tự hào về truyền thống văn hóa nổi bật là văn hóa Phật giáo. Trên phương diện lịch sử, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh còn được thể hiện qua các ngôi chùa, qua các truyền thuyết,... GS. Trần Quốc Vượng trong công trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa đã chỉ ra, các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam chính là chùa Phật Tích, chùa Tứ Pháp, chùa Kiến Sơ và chùa Lục Tổ. Cố GS. Trần Quốc Vượng nhấn mạnh, các ngôi chùa này đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật). Khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật giáo sử luận, (Nxb Văn học, 1992) đã cho biết những nhà sư Ấn Độ đã đem Phật giáo tới Việt Nam vào đầu công nguyên. Còn PGS. Nguyễn Duy Hinh khi nghiên cứu các tài liệu cổ như Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Đại Việt sử ký toàn thư,... cho rằng ở Luy Lâu – Dâu thời kỳ đầu Phật giáo truyền nhập còn có cả Siva giáo với tục thờ Đá mang tính phồn thực, đồng thời còn diễn tả hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người Việt. Và như thế, sự giao thoa giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa đã hình 8
  • 13. thành lên hiện tượng thờ Tứ Pháp vô cùng đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam, người tu hành đầu tiên của người Việt được biết đến là Nữ giới, và bà được nhân dân Bắc Ninh tôn xưng là Phật mẫu Man Nương. Sau này, các công trình viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều đề cập đến các ngôi chùa được xây dựng vào thời Lý – Trần ở tỉnh Bắc Ninh và những ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc,... qua các thời kỳ. Một số công trình đề cập đến những hoạt động của Phật giáo. Có thể kể đến các công trình như Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX của Thiều Chửu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002), Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981)của Bồ Đề Tân Thanh - Nguyễn Đại Đồng (Nxb Văn học, Hà Nội, 2012),... Tuy đã có nhiều công trình đã chỉ ra một số ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và NSQ Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh trong lịch sử. Song về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của người dân Bắc Ninh hiện nay thì ít có công trình đề cập một cách rõ ràng, trực tiếp. Hiện nay, theo sự tìm hiểu của đề tài, chỉ một số bài viết in trong Hội thảo khoa học: Vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của Tăng ni, tín đồ Phật tử, Bắc Ninh (Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo, 2019). Phần lớn các công trình nghiên cứu khác đều đi sâu nghiên cứu về kiến trúc, điêu khắc, hoặc ảnh hưởng trong văn học dân gian hay tục lệ,... Có thể kể đến các công trình như Chùa Việt của GS. Trầm Lâm Biền (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1998), Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm của Trần Văn Giáp (Tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời của Lê Thị Nhâm Tuyết (Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), Văn minh Việt Nam của học giả nổi tiếng Nguyễn Văn Huyên (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội), Phật học phổ thông của HT. Thích Thiện Hoa (Nxb. Phương Đông, Hà Nội, 2011), và gần đây là Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2019 – phương hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm 2019, của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh,... 9
  • 14. Nhìn chung, đã có một số các công trình nghiên cứu sâu về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của Phật giáo trên các phương diện chính trị, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật,... Còn trên các phương diện ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với cách ứng xử với chính bản thân, với tha nhân và với môi trường thì ít có công trình đề cập. Vì thế, việc tìm hiểu cụ thể hơn về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo trên các phương diện này, đề tài kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, đồng thời tiếp tục khảo sát thực tế trong cộng đồng Phật tử ở Bắc Ninh góp phần làm rõ hơn ảnh hưởng của NSQ phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân Bắc Ninh trong bối cảnh đương đại. Đối với những người theo Kitô giáo, Tin Lành và một số hiện tượng tôn giáo mới, hoặc những gia đình theo hai, ba tôn giáo,... những sinh hoạt, hoạt động tôn giáo khác,... chúng tôi thiết nghĩ cũng cần được tiếp tục nghiên cứu ở những công trình sau này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh về công tác tôn giáo trong tình hình mới. 3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo Thứ hai, tìm hiểu những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống người dân Bắc Ninh trong lịch sử và đặc biệt là trong hiện tại. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo Bắc tông và những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân ở tỉnh Bắc Ninh. 10
  • 15. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong cộng đồng người dân ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong phạm vi cho phép tác giả chỉ tập trung đề cập những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò tích cực của nhân sinh quan Phật giáo . 5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, lý luận chung về tôn giáo học, xã hội học tôn giáo và Phật học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình triển khai nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của nhân sinh quan Phật giáo. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp quan sát và phỏng vấn để thấy được những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, các phương pháp nghiên cứu liên ngành như triết học, triết học tôn giáo, xã hội học tôn giáo, đạo đức học,... nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh để thấy được những quan niệm nhân sinh của Phật giáo và những ảnh hưởng cơ bản của nó trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh đương đại. 6. Ý nghĩa của đề tài - Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với người dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại; đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và một số hạn chế trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học và làm tài liệu tham khảo trong các trường Trung cấp Phật học trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 11
  • 16. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài nghiên cứu khoa học bao gồm 2 chương với 5 tiết. 12
  • 17. CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO 1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh 1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo Về bối cảnh lịch sử tư tưởng và xã hội: Thời kỳ đạo Phật ra đời vào thế kỷ thứ VI tại Bắc Ấn Độ. Ở thời kỳ này, tư tưởng triết học, tôn giáo rất phong phú, đa dạng. Đó là sự tồn tại của nhiều loại hình tôn giáo và nhiều trường phái triết học khác nhau như Số luận, Du Già, Phệ Đà Đa,... trong đó nổi bật nhất là Bà La Môn giáo. Về xã hội chia làm bốn giai cấp, đó là giới tăng lữ Bà La Môn; giới vua quan quý tộc; giới buôn bán, người làm thủ công giàu có và giới nô lệ, nông nô. Ngoài ra còn một loại tiện dân là hạng cùng đinh nhất trong xã hội sống trong công xã nông thôn với chế độ quốc hữu ruộng đất. Đúng như nhận xét của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui cho rằng "sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu về ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ. Từ hai đặc điểm trên, dẫn tới hệ quả là các bước phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ thời cổ không mạch lạc như lịch sử xã hội của các nước châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ không có quan hệ phong kiến giống như kiểu ở Hy – La, cũng không có kiểu quan hệ phong kiến giống như ở các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản xuất chủ yếu, họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu phong kiến… Mặt khác, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã hội – giai cấp thêm phức tạp"[79, tr. 109]. Trong bối cảnh đó, đạo Phật ra đời với quan niệm mới đã đem lại một luồng tư tưởng mới về tinh thần từ bi, bình đẳng giai cấp, bình đẳng tôn giáo. Tuy nhiên, theo kinh điển Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là nhân vật lịch sử, nhưng trên phương diện tôn giáo thì Ngài lại một trong muôn vàn chư Phật. 13
  • 18. Trước ngài đã có nhiều vị Phật quá khứ và sau ngài sẽ còn nhiều vị Phật tương lai. Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập Phật giáo: Câu chuyện về cuộc đời Đức Phật rất quan trọng trong lịch sử hình thành đạo Phật. Nhưng sẽ đặc biệt hơn, nếu đặt câu chuyện trong đời sống cộng đồng tín đồ Phật giáo. Bởi chỉ có cộng đồng Phật giáo mới cảm nhận, chiêm nghiệm được những huyền diệu từ cuộc đời ngài. Và sâu sa hơn, cuộc đời Đức Phật đã và đang là mô hình lý tưởng nhất để tín đồ Phật tử học tập, tu tập và giải thoát, đồng thời cũng chỉ ra cho con người hiện sinh một nếp sống đúng đắn trong xã hội đầy biến động. Kinh Bản sinh ghi chép về cuộc đời Đức Phật bắt đầu với ngày Phật đản sinh. Đây là câu chuyện về sự tái sinh và niềm tin vào sự tái sinh bởi đó là quả của một cuộc đời tu tập, đạo hạnh của Đức Phật. Trong sự tái sinh cuối cùng này, kinh Bản sinh cho chúng ta biết Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng tộc và ngài là một vị Thái tử. Mẹ ngài, bà Maya mang thai ngài trong giấc mơ về một con voi trắng và sinh ra ngài trong khu rừng Lumbini thuộc dãy Himalaya gần Nepal ngày nay. Khi vừa mới sinh ra, ngài bước bảy bước trên bảy đóa hoa sen, tay trái chỉ lên trời tay phải đất và nói "Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn". Sau khi ngài đản sinh, một vị tiên tri đến và tiên đoán rằng, nếu ngài vui sống trong gia đình hoàng gia thì ngài sẽ trở thành một bậc quân vương tài ba, nhưng nếu ngài từ bỏ hoàng gia cùng với những khoái lạc trần thế thì ngài trở thành một "Đấng Toàn Giác". Thời gian đầu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sống và được giáo dục trong một môi trường lý tưởng, sung túc về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nhưng trong một vài lần ra ngoài cung điện, Thái tử đã thấy cuộc sống thường ngày với nhiều khổ đau: Già – tương lai của mỗi người; người đau ốm – ai cũng có thể bị đau ốm; người chết - sự kết thúc cuộc sống của mỗi người; một vị tu sĩ khắc khổ – người đi tìm sự giải thoát khỏi thế giới đau khổ. Tất cả những gì Thái tử chứng kiến đều mang tính biểu tưởng cho cuộc đời, 14
  • 19. nhưng đã thôi thúc ngài rời bỏ hoàng gia và thực hiện cuộc sống khổ hạnh nhằm mục đích thoát khỏi những khổ đau đã thấy. Qua sáu năm khổ hạnh dưới sự dẫn dắt của nhiều vị tu sĩ, nhưng không một vị nào làm cho ngài hài lòng bởi cuộc sống tu hành khổ hạnh đã không đem lại kết quả như mong đợi. Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh ấy và đón nhận bát sữa từ một thiếu nữ chăn bò và ngài đã khám phá con đường "Trung dung" giữa hai lối sống giàu sang và khổ hạnh. Không lâu sau, vị Phật tương lai ngồi dưới tán cây Bồ đề tu tập và quyết không dời bỏ chốn này nếu không giác ngộ. Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy cho năm vị khổ tu cùng với ngài trước đây, đó là Tứ diệu đế và từ đây bánh xe Pháp đầu tiên đã dịch chuyển. Sau gần 50 năm với sự nghiệp hoằng pháp, vào một ngày Ngài nhắc nhở tín đồ về tính Vô thường của sự vật, cần phải lấy chuyên cần trong tu tập thực hành để giác ngộ, giải thoát rồi sau đó, ngài nhập Niết bàn. Tứ diệu đế là những nguyên lý đầu tiên được ngài khám phá và thuyết giảng và dần dần ngài thiết lập đời sống tu tập cho mọi tín đồ Phật giáo noi theo. Tuy nhiên, thời gian đầu những lời Đức Phật thuyết giảng không được ghi lại bằng văn tự, vì thế phải qua những lần kết tập kinh điển thì giáo lý mới có hệ thống. Và qua hệ thống giáo lý mới thấy rõ quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật, đặc biệt là quan niệm về nhân sinh trong Phật giáo Đại thừa. Vì thế, ở đây, chúng tôi xin được nhắc lại một cách khái quát nhất về quá trình kết tập kinh điển. Bởi chỉ khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, sự phát triển của đạo Phật được mở rộng. Tuy nhiên, mỗi vùng đất mà Phật giáo truyền đến có những sự khác biệt về văn hóa xã hội và đây được xem là nguyên nhân chính dẫn đến những bất đồng trong việc nhận thức lời Phật dạy trước đó chủ yếu là phương thức truyền miệng. Cho nên, Phật giáo đã phân hóa thành nhiều bộ phái nhằm thích ứng với những môi trường mà đạo Phật truyền tới. Lần kết tập thứ nhất tại thành Vương Xá có 500 vị La Hán được Ca Diếp mời dự dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, xứ Ma Kiệt Đà. Khi đức Phật nhập 15
  • 20. diệt, không lâu sau đã xuất hiện những kiến giải bất đồng về lời Phật dạy. Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ được toàn vẹn, Ma Ha Ca Diếp đã đề nghị kết tập và hệ thống hóa lời dạy của đức Phật lại thành kinh điển với mục đích không để xảy ra tình trạng hiểu sai lầm về giáo pháp. Trong cuộc kết tập này, A Nan Đà chính là người đã đứng ra trì tụng những điều đức Phật đã thuyết giảng và Upani kể về Giới luật. Sau cuộc kết tập, bốn bộ kinh đầu tiên được chép lại. Đó là kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm. Bốn bộ kinh này được xem là các tài liệu cổ nhất ghi lại cuộc đời của đức Phật và những hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước hình thành Kinh tạng và Luật tạng vô cùng quan trọng sau này. Lần kết tập thứ hai tại tại thành Tì Xá Ly sau lần kết tập thứ nhất một trăm năm. Lần kết tập thứ hai này có 700 vị Tỳ kheo tham dự. Hội nghị kết tập lần thứ hai cơ bản là để thảo luận về những thay đổi một số chi tiết trong giới luật. Ngoài ra, đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để tư tưởng của các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo. Kết quả là trong hội nghị, những người không đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ và số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ,… Như vậy, Hội nghị này đánh dấu sự phân hóa về tổ chức của Tăng đoàn. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị Trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ gồm đa số Tỳ kheo trẻ tuổi có khuynh hướng cấp tiến, mà nhiều nhà nghiên cứu Phật học sau này cho rằng, tư tưởng của Đại chúng bộ làm nảy sinh nhiều quan niệm mới về chư Phật, đặc biệt là Bồ tát, là mầm mống cho việc hình thành phong trào Phật giáo Đại thừa sau này. Lần kết tập thứ ba dưới triều vua A Dục thế kỷ 3 trước Công nguyên. Vua A Dục là người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Số lượng tăng ni đông đảo và trong đó cũng không ít kẻ cơ hội trà trộn tăng đoàn gây nên những mối bất hòa. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục đã khởi xướng và bảo trợ cho Hội 16
  • 21. nghị kết tập kinh điển lần thứ ba trong lịch sử Phật giáo. Có khoảng 1.000 Tỳ kheo được cử đến. Sau 9 tháng kết tập, lần đầu tiên Tam tạng kinh hoàn thiện và được con trai vua A Dục đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã được dịch sang văn hệ Pali và còn nguyên vẹn cho đến nay. Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư diễn ra vào thời vua Ca Nị Sắc Ka. Tuy sử liệu không hoàn toàn thống nhất với nhau về thời gian và địa điểm. Vua Ca Nị Sắc Ca là một tín đồ trung thành của đạo Phật và rất thích nghe giảng kinh văn. Vì thế, nhà vua nhận ra có rất nhiều sự khác biệt về các kiến giải trong kinh nên ông khởi tâm bảo trợ cho lần kết tập thứ tư. Hội nghị đã tập hợp được 500 cao tăng giỏi về Tam tạng và sau khi kết tập, nhà vua đã cho khắc lại toàn bộ Tam tạng lên những lá đồng. Ngày nay, chỉ còn phần thích luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa được Huyền Trang đời nhà Đường dịch sang Hán ngữ gồm 200 quyển. Ngoài ra, các lần kết tập còn lại đều thuộc bộ phái Thượng tọa bộ (Nam truyền Phật giáo) tiến hành. Lần kết tập thứ 5 được tổ chức vào năm 1871 trong suốt 5 tháng tại thủ đô của Miến Điện. Số người tham dự gồm 2.400 cao tăng dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Kết quả là 3 tạng kinh được hiệu đính lại và đem khắc trên 729 phiến đá hình vuông cất vào trong chùa tháp Kuthodaw. Lần kết tập gần đây nhất từ ngày 17 tháng 5 năm 1954 tại phía bắc Ngưỡng Quan trên núi Nghệ Cố. Lần kết tập này dưới sự khởi xướng của Phật giáo Miến Điện và bảo trợ là chính phủ Miến Điện. Trong suốt hai năm, tất cả kinh tạng của Phật giáo nam truyền được khảo sát và đúc kết rồi xuất bản để truyền bá. Như vậy, sau khi Đức Phật nhập diệt và qua các lần kết tập đã hình thành hệ thống kinh điển Phật giáo, đồng thời cũng cho chúng ta thấy sự phân hóa của Phật giáo. Và đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ suy thoái nhưng lại rất phát triển ở các nước như Miến Điện, Tích Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,... Theo Phật sử, từ thế kỷ I trước Công nguyên, tư tưởng Phật giáo Đại thừa đã xuất hiện và có xu hướng tự do. Đến thế kỷ thứ 3, qua các trước tác của 17
  • 22. Long Thọ thì tư tưởng của Phật giáo đại thừa đã rõ ràng và có bước phát triển rực rỡ và ảnh hưởng rất lớn lên các hệ tư tưởng khác, không những trong nước mà cũng được truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,... Trong đó, quan niệm nhân sinh, lý tưởng Bồ tát đã tạo một điểm mạnh để đạo Phật có sức lan tỏa rộng lớn qua các vùng miền mà đạo Phật truyền tới và cả những thay đổi của thời đại. 1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh Đối với Phật giáo ở Bắc Ninh, như lời nhận xét của cố GS. Trần Quốc Vượng viết trong công trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa cho biết: "Các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam: Phật Tích, chùa Tứ Pháp (Dâu, Đậu, Giàn, Tướng), chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) và nếu cần kể thêm chùa Lục Tổ, chùa Tràng Liêu (Tiêu Sơn) cũng đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương"[82, tr. 154]. Có thể nói, đúng như lời nhận xét của tác giả chùa Phật ở Bắc Ninh đồng thời là trung tâm văn hóa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần nhân dân. Ngược dòng lịch sử, Phật giáo được truyền nhập vào nước ta ở Luy Lâu và hình thành một trung tâm Phật giáo vô cùng quan trọng, Nguyễn Lang nhận định: "Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng sĩ Ấn Độ. Các vị tăng sĩ này đến Việt Nam bằng con đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Độ tới Việt Nam, các thương gia Ấn Độ cũng đã tới Việt Nam rồi và đã mang theo sinh hoạt Phật giáo tới xứ ta"[39, tr. 21]. Truyện Man Nương trong tác phẩm Lĩnh Nam chích quái có chép về một nhà tu hành người Ấn Độ tên là Già La Xà Lê đến Luy Lâu vào thời Sĩ Nhiếp. Tại đây có một nữ đệ tử là Man Nương theo học. Một lần Man Nương ngủ trong bếp, Già La Xà Lê không biết mà bước ngang qua người Man Nương. Từ đó, Man Nương thụ thai và sinh một người con gái và đem trả cho ông. Ông liền đặt đứa bé vào hốc cây đa. Về sau cây đa đổ và trôi về sông Dâu, nhưng không ai vớt lên được. Man Nương đang giặt áo bèn ném 18
  • 23. giải yếm và kéo được cây đa lên bờ. Bà nhờ thợ đã thành bốn khúc và tạc thành bốn pho tượng. Đó là tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Còn con gái của Man Nương đã hóa đá. Khi người dân ném xuống sông thì tỏa hào quang bèn vớt lên thờ phụng gọi là Thạch Quang Phật. PGS. Nguyễn Duy Hinh cho rằng "Đây là sự kết hợp giữa tôn giáo Siva (dạng linga) với tục thờ Đá trong thần điện Cây Đa - Hòn Đá cổ truyền của người Việt mang tính phồn thực đã diễn đạt qua hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người Việt [32, tr. 15]. Như thế, có thể nói tín đồ Phật giáo đầu tiên ở nước ta là nữ giới, và bà được nhân dân tôn là Phật mẫu, hiện còn được thờ tại chùa Tổ làng Mãn Xá, còn Thạch Quang Phật và Pháp Vân thờ tại chùa Dâu thôn Khương Tự. Tác phẩm Thiền uyển tập anh còn khẳng định thêm một chi tiết quan trọng, đó là khi đạo Phật chưa truyền đến Trung Quốc thì ở Luy Lâu - Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Ngay tại trung tâm này đã có những nhà sư nổi tiếng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác... đang cư trú và giảng pháp[47, tr. 89]. Điều này có nghĩa là, ở Luy Lâu thời bấy giờ đã hình thành một cộng đồng tín đồ Phật tử lớn "gồm có ni và tăng, người Ấn Độ, người Việt gốc Ấn Độ, người Việt"[32, tr.22]. Trong thời kỳ đầu truyền nhập của đạo Phật vào Luy Lâu - Dâu, các tác phẩm hiện còn đến ngày nay là Lý Hoặc Luận của Mâu Tử và Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội. Hai tác phẩm này đã cho biết khá rõ không chỉ về hành trạng của tăng sĩ mà còn về Phật giáo Bắc Ninh và cũng là của đạo Phật Việt Nam. Mâu Tử là một sĩ phu người Trung Quốc tị nạn đến Luy Lâu vào thời Sĩ Nhiếp. Ông tinh thông Nho giáo, Đạo giáo và khi đến Luy Lâu tiếp tục học Phật pháp. Ở đây, ông viết tác phẩm Lý Hoặc Luận nhằm bênh vực đạo Phật. Nội dung tác phẩm này gồm 37 điều. Trong đó, những nội dung quan trọng nhất đó là việc bàn về chữ Hiếu, nhất là bàn về việc bố thí, từ bi, nhẫn nhục và đây cũng là những nội dung tu tập của Phật giáo ở Luy Lâu,...; Khương Tăng Hội là một người gốc Ấn Độ, sinh ra và lớn lên tại Luy Lâu. Tác phẩm Lục độ 19
  • 24. tập kinh của ông gồm 91 đoạn trích dịch từ các kinh Phật theo 6 chủ đề (lục độ). Cũng như Lý Hoặc Luận, Lục độ tập kinh cho thấy tư tưởng từ bi, bố thí nổi bật nhất trong Phật giáo Luy Lâu thời kỳ này. Do đó, hiếu, bố thí có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người dân ở vùng Luy Lâu – Dâu, và cũng là tư tưởng xuyên suốt của Phật giáo ở Bắc Ninh và Việt Nam sau này. Có thể thấy, Phật giáo truyền bá vào Luy Lâu trực tiếp từ các nhà sư từ Ấn Độ. Nhưng Phật giáo phát triển tại đây phải trên nền tảng tín ngưỡng vùng Dâu bấy giờ và dần trở thành một trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng mạnh khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Đó chính là hệ thống chùa Tứ Pháp ở Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên mà ngày nay vẫn còn tồn tại dưới hình thức thờ phụng Tứ pháp và nghi thức cầu mưa. Đặc sắc hơn là tư tưởng từ bi, bố thí nhẫn nhục thuộc tư tưởng Phật giáo Đại thừa nhưng đậm chất Phật giáo dân gian vùng Dâu và sau này trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử Phật giáo ở Bắc Ninh. Đến thế kỷ thứ 6, trung tâm Phật giáo Luy Lâu vẫn là đại diện duy nhất ở nước ta. Năm 580, Sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến vùng Dâu và tại chùa Pháp Vân, ông đã dịch kinh Tổng trì, rồi truyền pháp cho Pháp Hiền. Đại sư Pháp Hiền bấy giờ là đệ tử của sư Quán Duyên, tu tập ở chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phúc, Tiên Du. Sau theo học và đắc pháp với Tì Ni Đa Lưu Chi thì ông trở về chùa giảng pháp cho hàng trăm đồ đệ và rất nổi tiếng là người uyên thâm Phật pháp. Đến mức, vua Tùy Cao Tổ khi nhận được bản tấu của Thứ sử Lưu Phương đã sai người đem 5 hòm xá lợi Phật cùng sắc điệp ban cho Pháp Hiền xây tháp cúng dường. Với 5 hòm xá lợi Phật dựng tháp thờ ở Dâu, Phong Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Ái Châu thì Phật giáo ở vùng Dâu đã phổ biến khắp vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh miền trung Việt Nam hiện nay. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi truyền đến thiền sư Y Sơn (1216), được 19 đời. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã truy tán Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi như sau: 20
  • 25. Mở lối qua Nam Việt Nghe ông chín học thiền Nguồn tâm thông một mạch Cõi Phật rộng quanh miền Lăng già ngời bóng nguyệt Bát nhã nức mùi sen Biết được bao giờ gặp Cùng nhau kể đạo huyền. (TT. Mật Thể dịch) Đến thế kỷ thứ 9, một thiền phái nữa truyền vào Bắc Ninh, đó là thiền phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, đồ đệ của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 ông đến nước ta tìm người có học vấn Phật pháp thâm sâu để học hỏi. Bởi khi ấy, bản thân ông đã nhận rõ ở nước ta bấy giờ rất nhiều cao tăng uyên thâm Phật pháp, đặc biệt là vùng Dâu - Luy Lâu. Ngoài Thiền uyển tập anh ghi chép còn có Đại Đường cầu pháp cao tăng chuyện của Nghĩa Tịnh (635-713) ghi tên nhiều nhà sư như Vận Kỳ, Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung, Huệ Diệm, Trí Hành, Đại Thặng Đăng,... Vì thế, các nhà sư thời kỳ này cũng thông thạo chữ Phạn, Hán, nhiều kinh điển Phật giáo được dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Sau, thiền sư Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ tu hành ở đây suốt 9 năm và truyền pháp cho sư Lập Đức. Dòng thiền Vô Ngôn thông đến năm 1221, được 15 đời với 49 sư tổ. Trong thời gian này, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ngoài các nhà sư Ấn Độ còn có sự hiện diện của các nhà sư Trung Quốc. Và như thế, từ khi xuất hiện hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, Phật giáo Luy Lâu – Dâu nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung có sự gia tăng về Phật học, ảnh hưởng của Thiền tông Trung Quốc ngày càng mạnh. Nhà Đinh – Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay. Phật giáo thời kỳ này phát triển và có sự gắn bó với vương triều. Nhà Lý (1009 – 1225) chọn Thăng Long làm trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Phật 21
  • 26. giáo vì thế cũng có sự chuyển dịch theo sự lựa chọn đóng đô ở các vương triều, song các trung tâm Phật giáo ở Bắc Ninh vẫn có sự phát triển và vai trò của các nhà sư ở Bắc Ninh hoặc các nhà sư từng tu hành ở đây, xét trên bình diện "hộ quốc an dân" đối với quốc gia dân tộc ngày càng rõ ràng hơn. Có thể kể đến các thiền sư Thiền Lão, Viên Chiếu, Thường Chiếu,.. Trong đó có các nhà sư tiêu biểu là: Thiền sư Pháp Thuận (914-990) thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi là người học rộng, giúp nhà Tiền Lê hoạch định sách lược và ông thường được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước; Thiền sư Vạn Hạnh thông minh hơn người, nghiên cứu tinh thông kinh điển Tam giáo. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, thầy của Lý Công Uẩn và là người có công lớn mở ra triều Lý. Sau này, vua Lý Nhân Tông truy tán ông như sau: Vạn Hành thông ba cõi Thật hợp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chốn gậy trấn kinh vua. Vào thời Trần (1225 -1400), Phật giáo gắn liền với sự ra đời và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Người khai sơn Phật giáo Trúc Lâm là thiền sư Hiện Quang (? - 1220). Sư Hiện Quang vốn là học trò của thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ, tỉnh Bắc Ninh. Sau đó, ông lên núi Yên Tử lập am tu hành. Quốc sư Trúc Lâm là học trò của thiền sư Hiện Quang và là thầy của vua Trần Thái Tông. Khi nhà vua muốn vào núi Yên Tử tu hành, Quốc sư Trúc Lâm đã khuyên nhà vua như sau: "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ phát sinh, chính đó là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không phải khổ công đi tìm cầu bên ngoài"[38, tr.256]. Sau đó, theo lời mời của vua Trần Thái Tông về triều soạn duyệt các bộ kinh lục trước khi đem san khắc. Quốc sư Đại Đăng là học trò của Quốc sư Trúc Lâm và là thầy của vua Trần Thánh Tông. Các đệ tử của Quốc sư rất nổi tiếng như Quốc sư Liễu Minh, thiền sư Thường Cung, 22
  • 27. Huyền Sách và Thiền sư Huyền Quang. Thiền sư Huyền Quang huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Năm 20 tuổi đỗ Trạng nguyên và ít lâu sau, ông thụ giới với Tôn giả Pháp Loa. Sau khi đắc pháp, ông tổ chức in ấn kinh sách, giảng pháp, học trò đông hàng nghìn người. Phật giáo Bắc Ninh mà đại diện là các nhà sư tiếp nối cội nguồn trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Do đó, có thể thấy, Phật giáo Luy Lâu là cơ sở cho sự ra đời và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Phật giáo Trúc Lâm là nơi qui tụ đông đảo tín đồ Phật giáo trong cả nước, góp phần định hướng sự phát triển của Phật giáo Việt Nam, đồng thời đem đạo vào đời, vì con người mà đem tinh thần từ bi nhẫn nhục của Phật giáo, hoằng dương giáo lý ngũ giới, thập thiện cho nhân dân, loại bỏ nhiều "dâm từ",… tất cả đã khiến cho đời sống nhân dân, đời sống xã hội phát triển lành mạnh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc từ trước đó và phát triển về sau. Thời Hồ và thời Hậu Lê, tuy Phật giáo không còn vị trí như thời Lý, thời Trần, nhưng vẫn tiếp tục tư trào trước đó. Sang thế kỷ 17 - 18, Phật giáo tiếp tục phát triển bởi công lao lớn của thiền sư Chân Nguyên qua việc sáng tác và san khắc nhiều tác phẩm của dòng Phật giáo này như Khóa hư lục, Thượng sĩ ngữ lục,...; Thời kỳ này thiền Lâm Tế xuất hiện ở Bắc Ninh bởi Thiền sư Chuyết Công người Phúc Kiến, Trung Quốc đến chùa Khán Sơn năm 1633 thuyết pháp giảng kinh. Vua Lê Huyền Tông, các quan lại và nhân dân tôn kính theo học rất đông. Sau đó, Chuyết công về chùa Phật Tích và sai đệ tử là Minh Hành về Trung Quốc thỉnh kinh cho chúa Trịnh và để ở chùa Phật Tích. Chùa Phật tích là nơi tu hành của hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa Trịnh Thị Ngọc Duyên. Cũng trong thời gian này, chúa Trịnh Tráng cho phép trùng tu chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) ở huyện Thuận Thành và mời Chuyết công về trụ trì. Sư Chuyết công về chùa Bút Tháp giảng pháp cho đến khi viên tịch. Vua Lê Chân Tông ban hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư. Đệ tử của ngài là Minh Hành đã xây tháp Bảo Nghiêm để an trí nhục 23
  • 28. thân của ngài tại chùa Phật Tích. Kế đăng lục cho biết có thể Chuyết công là người đưa ra mô hình bài trí tượng Phật trong chùa ở Bắc Ninh và vùng đồng bằng sông Hồng theo phong cách của các ngôi chùa Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn, trong số rất nhiều các đệ tử của Chuyết công, thì sư Minh Hành và Minh Lương xuất sắc hơn cả. Hai vị thiền sư này đã theo gương thầy mình hoằng pháp sâu rộng khắp vùng Bắc Ninh và các vùng phụ cận. Có thể nói, Chuyết công và hai vị đệ tử của mình có công lao rất lớn trong việc truyền bá thiền phái Lâm Tế ở Bắc Ninh và rộng ra là cả miền Bắc Việt Nam. Bài kệ mà Minh Hành để lại cho đệ tử đã cho thấy Lâm Tế ở Bắc Ninh có sự phát triển khá rõ ràng: Minh chân như tính hải Kim tường phổ chiếu thông Chí đạo thành chính quả Giác ngộ chứng viên thông. Trong bối cảnh Phật giáo suy vong kéo dài trong gần một thế kỷ từ nửa cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, mà nguyên nhân chính là do "đa số tăng đồ ngày càng lơ là việc học, chỉ chuyên ứng phó, hành trì tín ngưỡng Phật giáo dân gian, chuyên làm những việc của thầy cúng, dẫn đến thực trạng "dốt và hư nát", không chuyên tu hành, chỉ tham lợi dưỡng"[69, tr.206]. Sự xuống cấp về đạo hạnh, không rõ đường lối tu hành, nhà sư quên mất vị trí mình là người dẫn dắt trí tuệ tâm linh. Cư sĩ Thiều Chửu khẳng định thêm: "Sở dĩ có cảnh suy tàn (của Phật giáo) như ngày nay, nói cho thật đúng thì suy riêng một giới Giáo Tự Tăng thôi... Tăng đồ kém đường tu tiến làm sai chính pháp của Phật, cho nên quần chúng mất lòng tín ngưỡng. Quần chúng mất lòng tín ngưỡng thì Phật pháp phải suy, đó là lẽ tự nhiên"[17, tr. 29-30]. Vì thế, chấn hưng Phật giáo là nhu cầu cần thiết. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở cả ba miền đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc và đạo pháp của mọi tăng ni, Phật tử. Nhất là sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, 24
  • 29. đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh thần đoàn kết đấu tranh của nhân dân đã ảnh hưởng mạnh đến tăng ni Phật tử. Phật giáo Bắc Ninh nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung ý thức được rằng, muốn có sức mạnh thật sự cần phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp trong một tổ chức để bảo vệ Phật pháp, bảo vệ văn hóa truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1951, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất đã diễn ra tại chùa Từ Đàm - Huế, tổ chức Phật giáo toàn quốc này có tên là Tổng hội Phật giáo Việt namTổ chức này qui tụ sáu tổ chức Phật giáo ở cả ba miền là Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt, Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Trung Việt, Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Nam Việt, Tăng già Nam Việt. Tiếp theo là cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1958 ở các tỉnh thành phố phía Bắc được diễn ra tại chùa Quán Sứ. Tổ chức này lấy tên là Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam và Hòa thượng Thích Trí Độ được bầu làm Hội trưởng. Năm 1964, tại Miền Nam, trong bối cảnh đấu tranh của Phật giáo thắng lợi năm 1963, cuộc vận động thống nhất lần thứ ba được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Tổ chức này lấy tên là GHPGVN thống nhất. Như vậy, trước năm 1975, Phật giáo Việt Nam chưa thống nhất trọn vẹn như mong ước của Tăng ni Phật tử trong cả nước. Năm 1981, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ tư đã trọn vẹn, Phật giáo Việt Nam thống nhất trong một tổ chức mang tên là GHPGVN. Như lời Hòa thượng Thích Trí Thủ cho rằng "Lần đầu tiên trong lịch sử 2.000 năm của Phật giáo Việt Nam, chúng ta có được một hội nghị với đầy đủ đại biểu của các tổ tức Giáo hội, hệ phái Phật giáo trong cả nước... đã vân tập về đây, trong hội trường trang nghiêm và rực rỡ này, với một quyết tâm sắt đá: xây dựng ngôi nhà thống nhất Phật giáo Việt Nam"[24, tr.9]. Như vậy, GHPGVN là một tổ chức giáo hội thống nhất trên toàn quốc, đánh dấu quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, phù hợp với điều kiện xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 25
  • 30. Ngày nay, Phật giáo Bắc Ninh là một bộ phận không thể tách rời GHPGVN (GHPGVN) và cũng là một dòng chảy mạnh mẽ trong dòng chảy chung của Phật giáo giáo Việt Nam. Hiện nay, theo báo cáo số liệu thống kê công tác tôn giáo năm 2015 của Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh, Phật giáo Bắc Ninh có 594 ngôi chùa, 360 chức sắc và có 282.803 ot tín đồ Phật tử, chiếm 25% dân số trong toàn tỉnh. 1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo 1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan NSQ nói chung được hiểu là quan niệm sự sống con người như: lẽ sống của con người là gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng. Ở mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp đều có quan niệm khác nhau về NSQ. Trên phương diện triết học, tôn giáo học, mỗi trường phái triết học và mỗi tôn giáo đều có những quan niệm của riêng mình về NSQ. Đối với Phật giáo, ra đời trong bối cảnh xã hội có sự phân biệt giai cấp nặng nề, song về tư tưởng triết học, tôn giáo thì nở rộ nhiều trường phái triết học và tôn giáo. Do đó, Phật giáo vừa tiếp thu vừa bác bỏ một số tư tưởng của các tôn giáo khác; đồng thời người sáng lập đạo Phật vừa là nhân vật lịch sử vừa là tấm gương đức hạnh đã kiến lập con đường giải thoái lý tưởng cho mọi tín đồ. Song, quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa phải qua các lần kết tập kinh điển mới được đầy đủ và ngày nay, chúng ta tìm hiểu NSQ Phật giáo cũng qua hệ thống kinh điển này. NSQ thường được hiểu là những quan niệm của con người đối với cuộc sống. Mỗi người đều có một NSQ riêng và vì thế, trong cuộc sống mỗi người mỗi quan niệm, thậm chí là đối nghịch trong lối sống nếp nghĩ. Theo nghĩa rộng, NSQ là cách nhìn nhận đời sống con người và xã hội theo quan điểm của từng thời kỳ lịch sử, của giai cấp. Chẳng hạn như NSQ cách mạng là NSQ của giai cấp công nhân, hay NSQ cộng sản là quan niệm nhân sinh của những 26
  • 31. người cộng sản đấu tranh để thực hiện lý tưởng cộng sản. Theo nghĩa hẹp, NSQ chính là quan niệm của cá nhân về cuộc đời. Trong cuộc sống đời thường, mỗi con người cũng có quan niệm riêng của mình về cuộc sống. Nhưng các nhà tư tưởng đã khái quát những quan niệm ấy thành quan điểm, thành lý luận và mang hơi thở của từng thời đại cụ thể, nhất là trong xã hội có giai cấp. Vì thế, NSQ có tác dụng lớn đến hoạt động, lối sống của mọi người với mục tiêu tích cực hay tiêu cực. Nếu phát huy được mặt tốt thì có thể cải tạo xã hội và ngược lại sẽ làm cho xã hội xấu đi, điều này đã được minh chứng trong lịch sử. Nhiều giai đoạn lịch sử đã chứng kiến hoạt động của con người bị tha hóa nảy sinh từ NSQ lạc hậu, sa đà vào chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa vị lợi,… hoặc NSQ của nhiều tôn giáo mang tính lánh đời, ẩn dật như đạo Lão,… Nhìn chung, NSQ là một bộ phận của thế giới quan. NSQ bao gồm hệ thống những câu hỏi về con người là gì, con người được sinh ra từ đâu, vị trí của con người trong thế giới, hay hạnh phúc là gì, chết đi về đâu,… Trên phương diện triết học, PGS.TS. Dương Văn Thịnh đã viết "con người và xã hội loài người là một bộ phận cấu thành nên thế giới, có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng đưa ra câu trả lời như nhau đối với vấn đề con người quan hệ với xã hội và giới tự nhiên như thế nào. Bởi vì con người và hoạt động của con người là vô cùng phức tạp"[76, tr193]. Trên phương diện tôn giáo, GS.TS. Đỗ Quang Hưng cho rằng: "nhân sinh quan có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và giáo lý Phật giáo. Có thể nói đây là hai trường hợp tiêu biểu trong số các tôn giáo lớn với triết lý về con người. Đại thể thì, với Kitô giáo, một tôn giáo độc thần, trong đó Đấng tối cao dưới hình thức Thiên Chúa Ba ngôi là Đấng tạo dựng, đã "nặn" ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa. Còn với Phật giáo, con người là một hữu thế vô thủy vô chung, trong vòng luân hồi với những nghiệp (karma) nhất định, 27
  • 32. dù là người hay chúng sinh, con người với Phật giáo dường như không có một khuôn mẫu nhất định"[76, tr. 216]. Nho giáo quan niệm về nhân sinh, cho rằng "con người là của gia đình, của dòng họ, làng, nước. Bản thân con người không có cái gì là của mình: thân thể là của cha mẹ cho, phận vị là của vua cho, số mệnh là của Trời cho. Có được cái gì cũng là nhờ ơn vua, ơn Trời. Giá trị của nó được tính theo chỗ nó là con ai, thuộc họ nào, làng nào, có chức sắc gì, chứ không theo chỗ bản thân nó là gì. Tất cả là thần dân của vua, đều được xếp vào bậc thang tước vị xã hội, rồi lại chia thành hạng cha chú hay con cháu. Con người phải nhìn xuống, nhìn lên trong thang trật tự trên dưới đó, tự xác định vị trí của mình mà ăn mặc, nói năng, đi đứng cho phải phép. Đó là con người chức năng trong xã hội luân thường chứ không có nhân cách độc lập"[36, tr. 394-395],... Phật giáo, với triết lý mà Đức Phật đã dạy rằng "cuộc đời con người là khổ" hay "nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả". Cho nên, trong giáo lý Phật giáo thường xem thân người là ô uế, là giả tạm, vạn vật vô thường,... Như thế, quan niệm nhân sinh của Phật giáo về thân phận con người dù ở giai cấp nào, tầng lớp nào cũng như nhau và tất cả luôn luôn trong khổ đau phiền não. Nhưng quan trọng hơn, quan niệm nhân sinh của đạo Phật ở chỗ làm sao giúp con người thoát khỏi xiềng xích khổ đau và phiền não ấy, làm sao để hạnh phúc ngay trong hiện tại và an vui trong tương lai. Nhìn chung, ở bất cứ nền triết học nào, nhất là trong triết học tôn giáo thì NSQ vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi tất cả các tôn giáo đều phải chú trọng đến cuộc sống con người trong đời sống thực hoặc cuộc sống trong tương lai. Đối với Phật giáo, khi nói về đời sống con người, người ta thường nghĩ đến hai mặt đối lập là khổ đau và an vui. Nếu con người cho rằng, cuộc đời là hạnh phúc thì được xem là theo chủ nghĩa lạc quan và ngược lạc, nếu người nào cho rằng, cuộc đời là khổ đau thì theo chủ nghĩa bi quan. 28
  • 33. 1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo 1.2.2.1. Quan niệm của Phật giáo về con người Sự phát triển liên tục của Phật giáo trong lịch sử đến hiện tại với sự phân chia thành nhiều hệ phái khác nhau đã hình thành một hệ thống kinh điển vô cùng đồ sộ và rất khó bóc tách rành mạch. Tuy nhiên, trên phương diện triết học có thể thấy hai tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là VTQ và NSQ. Vì thế, trước khi đề cập đến NSQ Phật giáo, việc đề cập khái quát nhất về VTQ Phật giáo sẽ làm sáng tỏ hơn quan niệm về con người của Phật giáo. Bởi VTQ Phật giáo và NSQ Phật giáo có liên hệ mật thiết và không tách rời nhau. Về VTQ, đạo Phật chia toàn bộ thế giới thành ba cõi gọi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng sinh trong ba cõi này vẫn trong vòng luân hồi sinh tử, chỉ trừ những chúng sinh đã đạt quả vị Tứ thánh hay Bồ tát trở lên. Chúng sinh là một thuật ngữ có độ mở rộng, không chỉ riêng con người mà ở đây như theo kinh Kim Cương cho biết thì đó là tất cả các loài sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh ở chỗ ẩm ướt,… Ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được chia thành sáu cõi luân hồi bao gồm: Trời, Atula, Người, Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục. Trong đó, ba cõi Trời, Atula và Người là ba cõi trên, còn lại cõi Súc Sinh, Ngạ Quỷ và Địa ngục là ba cõi dưới. Đạo Phật giáo còn chia Dục giới còn có sáu cõi, Sắc giới gồm bốn tầng là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, Vô sắc giới cũng gồm bốn tầng gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Cõi dành cho Tứ thánh chia thành 18 tầng khác nhau và cõi dành cho Bồ tát thì nhiều hơn, bao gồm 55 tầng và còn vô số các cõi do vô số chư Phật đứng đầu như cõi Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà, cõi Đông Phương của Phật Dược Sư, cõi Ta bà của Phật Thích Ca,... Thực chất, đạo Phật xem mỗi thế giới đều tương ứng với tâm thức của từng chúng sinh. Bởi chúng sinh tùy theo Nghiệp của mình mà sinh trong các thế giới theo các cách khác nhau, như sinh từ trứng (Noãn sinh), sinh từ bào 29
  • 34. thai (thai sinh), sinh từ ẩm ướt (thấp sinh) và do biến hóa mà sinh (hóa sinh). Cho nên, nếu chúng sinh chưa đoạn được tham ái thì sinh trong Dục giới; còn chúng sinh nào do tu tập thiền định rốt ráo thì sinh trong Sắc giới. Ở Sắc giới, chúng sinh do hóa sinh nên vẫn còn hình dạng thân người được cấu tạo bằng bốn "chủng tử" là Đất – Nước – Gió – Lửa; cõi Vô sắc giới chỉ dành cho chúng sinh có trí tuệ sáng suốt và đắc quả vị A La Hán và Bồ tát. Trong Phật giáo Mật tông còn xem trọng một cõi Trung giới (cõi Âm). Phật giáo Mật tông quan niệm, cõi Âm là nơi chuyển tiếp tâm thức sau khi lâm chung và trước khi tái sinh về các cõi tùy theo công phu tu tập của chúng sinh. Có thể về cõi Dục giới, Sắc giới hay Vô sắc giới. Bên cạnh đó, đạo Phật còn có sự phân loại vũ trụ thành ba loại là Tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới. Nghĩa là, vũ trụ bao gồm vô số các Đại thiên thế giới hợp thành [46, tr. 322-324]. Song, không gian của "mười phương chư Phật" là quá khứ, là hiện tại và tương lai, đồng nghĩa với "vô thủy, vô chung" của thời gian. Kinh Lăng Nghiêm cho rằng, toàn bộ vũ trụ chỉ là "bọt nước trong biển lớn" và suy cho cùng vẫn là "nên biết, hư không sinh ra ở trong tâm ông cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống là các thế giới ở trong hư không..."[67, tr. 752]. Hay kinh Viên Giác chỉ ra: Tất cả pháp hữu vi Như mộng, huyễn, bọt, bóng Như sương cũng như điện Nên khởi quán như thế"[68, tr. 89]. Như thế, Phật giáo quan niệm, thế giới bao gồm nhiều cõi khác nhau. Trong mỗi cõi đều có nguyên tắc để tương ứng với tâm thức của mỗi chúng sinh mà chiêu cảm. Nghĩa là chúng sinh được sinh trong cõi nào đều là kết quả của hành động của mỗi chúng sinh đó. Đồng thời, Phật giáo cho rằng, thế giới không do ai sáng tạo và không có cái gì vĩnh hằng. Mọi chúng sinh đều phải tuân theo chu trình "Thành – Trụ - Hoại – Không" theo luật Nhân quả. Vận 30
  • 35. hành chu trình này là Duyên. Duyên được hiểu vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả để tiếp tục chu trình mới. Vì thế, không có nguyên nhân đầu tiên và nguyên nhân cuối cùng, do đó không có ai tạo ra thế giới và cũng không có cái gì là vĩnh hằng và đạo Phật cũng đã bác bỏ sự tồn tại của Đấng sáng tạo của Bà la môn và Ngã (atman) trong Upanisad. Từ quan niệm về thế giới như thế, đạo Phật đã đưa ra quan niệm nhân sinh hết sắc sâu sắc. Đó là việc xem mọi sự vật hiện tượng đang hiện hữu là tất cả không có thực bởi tất cả đều do Vô minh đem lại. Thế giới hữu tình được hình thành do hội tụ của các nguyên tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Sắc bao gồm bốn yếu tố là Đất – Nước – Lửa – Gió; và danh bao gồm: Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy) và Thức (ý thức). Như thế Sắc và Danh hợp thành 5 yếu tố gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là sự hội tụ trong một thời gian nhất định rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Vì thế không có cái Tôi, tức là Vô ngã, vì sự vật biến đổi không ngừng nên mọi sự vật hiện tượng cũng Vô thường. Phật giáo quan niệm, trong tất cả chúng sinh, vị trí của con người là cao nhất trong các loài hữu tình, kinh Hoa Nghiêm đã chỉ ra luận điểm này và khẳng định "con người là hơn cả". Tuy nhiên, mỗi cá nhân vẫn phải trải qua chu trình Sinh – Lão – Bệnh – Tử vẫn phải theo luật Nhân quả, Vô thường. Nghĩa là không có mở đầu không có kết thúc, luôn trong vòng luân hồi sinh tử nếu không tu tập để giác ngộ, giải thoát. Không chỉ xem trọng vị trí con người cao hơn các loài chúng sinh mà đạo Phật còn mô tả con người với vóc dáng uy nghiêm ngay thẳng trong sự đi đứng, và chỉ có con người mới có tinh thần sáng suốt, không bị mù quáng trước các hiện tượng huyền ảo. Nhưng, Phật giáo vẫn quan niệm mỗi cá nhân là hiện thân của ý thức và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về chính bản thân mình trong hiện tại và tương lai. Song mỗi cá nhân không thể sống đơn độc mà phải sống chung với nhau trong cộng đồng, xã hội nhất định. Đồng thời đề cao 31
  • 36. vai trò của mỗi cá nhân cần thiết hay nên phải "đem thân phụng sự chúng sinh". Phụng sự chúng sinh bằng hành động thực tế của mỗi cá nhân, đó là nỗ lực bố thí, giữ giới, thực hành các thiện nghiệp trên cơ sở trí tuệ, đồng thời ứng xử với nhau trên nền tảng Lục hòa bao gồm: 1. Thân hòa đồng trụ (thân hòa cùng ở chung nhau): Trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau; 2. Khẩu hòa vô tránh (lời nói hòa hợp không tranh cãi): Đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác; 3. Ý hòa đồng duyệt (ý hòa cùng vui): Đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận; 4. Giới hòa đồng tu (giới hòa cùng tu tập): Là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra; 5. Kiến hòa đồng giải (thấy biết giải bày cho nhau hiểu): Là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập [thuvienhoasen, truy cập ngày 29/8/2019]. 6. Lợi hòa đồng quân (lợi hòa cùng chia): Cùng sống chung với nhau dưới một môi trường, ta phải chia đều cho nhau về vật chất, của cải, không được lạm dụng quyền hạn của mình để làm của riêng. Đây chính là cách để mỗi cá nhân ứng xử với chính mình, tránh sa vào suy đồi đạo đức, làm hư hoại thân tâm. Bởi Phật giáo cho rằng, được làm thân người rất khó, ví như câu nói khi "sắt nở hoa kết quả". Có thể nói, đó quan niệm về nhân sinh đầy tính nhân văn mà Phật giáo đem lại cho mỗi cá nhân con người, đồng thời quan niệm "lợi lạc quần sinh" đã thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và có thể nói, đạo Phật là đạo vì con người. 32
  • 37. Khi đề cập đến NSQ Phật giáo, ban đầu chính là quan niệm bác bỏ quan quan niệm về Đấng sáng tạo của Bà la môn và Ngã trong Upanisad. Sự bác bỏ này đã đem lại nhiều tư tưởng mới trong Phật giáo sau này. Song đây không phải là bác bỏ hoàn toàn mà còn có sự kế thừa. Phật giáo đã kế thừa tư tưởng Luân hồi (Samara) và Nghiệp (Karma) trong Upanisad. Qua đó, có thể thấy rõ, Phật giáo quan niệm, luật Nhân quả chi phối quá trình của sự vật hiện tượng vũ trụ, đồng thời cũng chi phối nhân sinh. Sự vật mất đi ở chỗ này thì sinh ở chỗ khác trong vòng luân hồi vô tận và tùy theo Nghiệp của nó mà sinh nhanh hay chậm, Nghiệp tuân theo luật Nhân quả. Do đó, Phật giáo quan niệm cuộc đời con người là Khổ và làm sao thoát Khổ, thoát khỏi vòng luân hồi là quan điểm cơ bản nhất về con người trong đạo Phật. Con đường thoát khổ được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ ra cho con người nhận biết, tu tập bao gồm: 1. Khổ đế bao gồm tám loại khổ (Bát khổ): Sinh, lão, bệnh, tử, yêu thương nhau nhưng phải xa nhau (thụ biệt ly khổ), ghét nhau phải ở với nhau (oán tăng hội khổ), muốn mà không được (sở cầu bất đắc) và khổ vì sự tồn tại của thân xác (thủ ngũ uẩn). 2. Nhân đế hay Tập đế chỉ ra nguyên nhân khổ. Đó là 12 nguyên nhân, còn gọi là Thập nhị nhân duyên. Đó là: Vô minh, không sáng suốt. Vì không sáng suốt nên không nhận ra mọi sự vật hiện tượng là giả và không có thật. Mọi sự vật hiện tượng đều do Duyên mà hội tụ, hòa hợp. Cho nên, mọi sự vật hiện tượng mà ta thấy như to nhỏ, ngắn dài,… là do sự phân biệt của ý thức chủ quan gán cho nó nên có sự phân biệt; Duyên hành là hoạt động của ý thức, nghĩa là sự dao động của Tâm. Tâm dao động khởi phát manh nha của Nghiệp; Duyên thức: Vì do Tâm dao động nên từ chỗ trong sáng trở nên ô nhiễm. Duyên thức này tùy theo Nghiệp lực mà tìm đến các nhân duyên khác mà hình thành; Duyên danh sắc chỉ sự hội tụ của vật chất và tinh thần. Với các loài hữu tình thì sự hội tụ này phát sinh ra Lục căn (nhãn – mắt; nhĩ – tai; tỵ - mũi; thiệt 33
  • 38. – lưỡi; thân – thân thể; ý – ý thức); Duyên lục nhập: Chỉ quá trình tiếp xúc giữa Lục căn với Lục trần (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp); Duyên xúc: chỉ ra chu trình tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn – lục trần – Thức; Duyên thụ: Chỉ cảm giác do tiếp xúc mà nảy sinh yêu, ghét, buồn, vui,…; Duyên ái: Chỉ sự nảy sinh dục vọng; Duyên thủ: Chỉ sự đàm mê, chiếm đoạt; Duyên hữu: Muốn chiếm đoạt thì có chủ thế, cái muốn chiếm thì phải tồn tại, nghĩa là hành động tạo nghiệp; Duyên sinh: Nghiệp đã tạo ra thì xuất hiện nghiệp nhân, nghiệp nhân xuất hiện ắt sẽ xuất hiện nghiệp quả; Duyên lão – tử: Đã có sinh ắt sẽ có tử. Chết là kết quả cuối cùng của một quá trình nhưng đồng thời khởi động một chu trình luân hồi mới,… 3. Diệt đế: Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể diệt được và thoát khỏi luân hồi. 4. Đạo đế: Con đường giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đức Phật chỉ ra có 8 con đường chính gọi là Bát chính đạo bao gồm: Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn; Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn; Chính ngữ: giữ lời nói đúng đắn; Chính nghiệp: Không trộm cắp, tà dâm,…; Chính mệnh: Tiết chế dục vọng, giữ các điều răn; Chính tinh tiến: Hăng say truyền bá chân lý; Chính niệm: Phải hằng ngày thờ Phật, niệm Phật; Chính định: Tập trung suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô ngã, vô thường,… Trong bốn chân lý, Khổ đế được xem là căn nguyên đầu tiên để con người thấy rằng cuộc sống của mình là Vô thường. Song, để hiểu thấu thế là nào Khổ thì hoàn toàn không hề đơn giản. Bởi trong quan niệm về nhân sinh trong đạo Phật thì Khổ - Duhkha mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đòi hỏi phải có nhận thức đúng về Khổ mới đề ra được phương pháp thoát khổ đúng. Khổ - Duhkha là một thuật ngữ Phạn bao gồm hai nghĩa. Kha là cái lỗ trong ở bánh xe để đưa trục xe vào đó. Duh chỉ sự bất ổn, rối loạn, bất an. Song khổ đau không chỉ là khổ đau thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn bao hàm cả những thể dạng bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả 34
  • 39. chúng ta đều cảm thấy trong cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì đấy là sự bất toại nguyện của sự hiện hữu [49, tr.209]. HT. Thích Thiện Siêu giải thích về khổ đau như sau: duhkha ngoài nghĩa là bất toại nguyện thì phải được hiểu đầy đủ với 4 nghĩa: Khổ, Vô thường, Không và Vô ngã – đây là bốn pháp ấn quan trọng của Phật giáo[64, tr. 43]. Do đó, Khổ - Duhkha, nhưng “ta có thể tạm dịch là Khổ. Không ai hiểu rõ nội dung này đầy đủ của “khổ” trừ bậc đại thánh, còn trên tầm tri kiến thấp hơn ta chỉ có thể hiểu nó một cách phiến diện”[77, tr. 46]. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng, việc nhận diện Duhkha sẽ dễ dàng hơn việc tìm hiểu nội dung đầy tính triết học phức tạp của nó. Một cách đơn giản là cái gì khiến cho con người cảm thấy khổ, khó chịu, lo lắng, bất an thì chính là Duhkha. Và cái gì là Duhkha thì cần phải chấm dứt, loại trừ. Quan niệm của đạo Phật cho rằng thế gian này không có gì ngoài sự khổ đau, cả hạnh phúc trần thế cuối cùng cũng kết thúc bằng khổ đau. Khổ đau tiếp nối khổ đau, trong hạnh phúc cũng đã hiện diện những mầm mống của khổ đau, nhưng không vì thế mà chán nản mà phải nhận diện nó. “Đức Phật dạy rằng, chúng ta nên nhận thức đau khổ là đau khổ, chấp nhận nó như thực kiến và chống lại nó”[63, tr. 40]. Duhkha - Khổ vẫn luôn là một khái niệm quan trọng trong đạo Phật, nó được định nghĩa như sau: Khổ là “cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba tính của sự vật. Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu mới là Khổ; Khổ dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức xuất phát từ ngũ uẩn, chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại. Như thế, tất cả những điều an lạc đang có cũng là khổ vì chúng sẽ bị hoại diệt. Khổ xuất phát từ Ái và con đường thoát khổ là bát chính đạo. Chân lý thứ nhất của tứ diệu đế nói về tính chất của khổ như sau: sinh là khổ; già là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến ngũ uẩn là khổ”[3, tr. 291]. Vì vậy mà Khổ đau trong đạo 35
  • 40. Phật được các nhà nghiên cứu nhận diện trên hai phương diện chính là nguyên nhân, mức độ và hình thức[44, tr. 137]. Về nguyên nhân và mức độ khổ đau có ba loại khổ (Tam khổ) bao gồm: - Khổ khổ, nghĩa là khổ vì những sự khổ của thế tục, chẳng hạn khổ vì đói khát, khổ vì phải trải nạn chiến tranh và đây là mức độ khổ thấp nhất mà ai cũng cảm nhận được; - Hoại khổ nghĩa là khổ vì sự thay đổi. Ở mức độ này, ngay cả những kinh nghiệm tưởng có vẻ khoái lạc thì cũng là khổ. Bởi con người cảm thấy các kinh nghiệm đó là vui sướng là bởi họ đã so sánh chúng với những kinh nghiệm đau đớn. Sự vui sướng đó chỉ là tương đối. Trong khi đó, sự vật luôn thay đổi, vì vậy sau một thời gian thì những kinh nghiệm tưởng chừng là vui sướng đó chỉ còn là sự nhàm chán, không thỏa mãn [45, tr. 112-113] sự vui sướng rồi cũng mất đi; - Hành khổ nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này không chỉ là nền tảng cho cái khổ trong kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác một khi con người vẫn nằm trong vòng vô minh[44, tr.112-113]. Sự nhận biết về khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất. Về hình thức có tám loại khổ (Bát khổ) mà con người ai cũng phải chịu: - Sinh khổ: Phật giáo quan niệm, con người khổ trong sự sinh sống. Ngay cả khi còn là một thai nhi thì con người đã khổ vì phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, người mẹ phải mang nặng đẻ đau cũng là khổ, con người phải mưu sinh để sống cũng là khổ. - Lão khổ: Khi con người đến tuổi già thì thân thể không còn như trước, mắt mờ, tai điếc, khi huyết suy nhược, chân tay chậm chạp, nói trước quên sau không như ý muốn đó là khổ. - Bệnh khổ đó là khi con người phải chịu đau đớn cả về thể xác và tinh thần khi mắc bệnh. Từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, không ai là không từng trải qua một đôi lần mắc bệnh và thấu hiểu nỗi khổ khi bị mắc bệnh. Từ bệnh 36
  • 41. nhẹ như nhức đầu sổ mũi đến những trọng bệnh như u, nhọt, ung thư hành hạ,... - Tử khổ, khi con người sắp chết thì trong lòng sợ hãi thì đó là khổ. Thân xác phân hủy, gia quyến đau lòng đó là khổ. Và trong bốn hiện tượng vô thường này thì chết là cái khổ lớn nhất, làm cho chúng sinh trong thế giới trần tục này sợ hãi nhất. - Ái biệt ly khổ, đó là khi con người yêu thương nhau nhưng phải chia lìa. Chia lìa khi còn sống và chia lìa khi chết. - Sở cầu bất đắc khổ (hay cầu bất đắc khổ) đó là khi con người không được toại nguyện, những nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân không được như ý. - Oán tăng hội khổ là khổ khi con người phải tiếp xúc với những thứ mình không thích. Không ưa nhau mà vẫn phải gặp nhau, ghét nhau mà vẫn phải ở chung với nhau,… - Ngũ uẩn khổ, đó là vì con người có sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) trong cơ thể. Chẳng hạn, mơ ước (tưởng) quá thì cũng khổ, biết (thức) nhiều quá cũng khổ,… Như vậy, có thể thấy khổ đau theo quan niệm của đạo Phật được nhận diện ở hai bình diện là Thân khổ và Tâm khổ. Thân khổ có thể thấy rõ là những cảm giác đau đớn về thể xác, như nóng lạnh, bệnh tật,… còn Tâm khổ là những cảm giác trong tâm như buồn phiền, căng thẳng, trạng thái lo lắng bất an,… Hẳn nhiên, Thân khổ và Tâm khổ luôn luôn có sự dính kết, có sự liên quan mật thiết, không thể tách rời, khổ ở thân sẽ dẫn đến tâm khổ và tâm khổ cũng dẫn đến thân khổ. Đương nhiên, khổ đau được nhận diện ở đây là những nỗi đau đớn, khổ sở nói chung. Bởi có những nỗi đau chỉ khó chịu nơi tâm và cũng có những nỗi đau gây khó chịu nơi thân, có trường hợp có đau nhưng không khổ, có trường hợp có khổ nhưng không đau, điều này phụ thuộc vào từng người, 37
  • 42. đặc biệt là đối với các vị tu sĩ đạo Phật, khổ đau thường bị hạn chế, thậm chí chúng không còn xuất hiện đối với những người đắc đạo. Nhìn chung, có rất nhiều khổ đau, nó muôn vàn dáng vẻ, mức độ biểu hiện hay không biểu hiện,... Việc nhận diện khổ đau theo quan niệm của đạo Phật là khiến cho con người nhìn thấy bản chất của khổ đau, sự xuất hiện và tồn tại của nó chính là trên nền tảng tham ái và chấp ngã (tham, sân, si). Bởi càng tham ái, càng chấp ngã thì càng nhận nhiều đau khổ, điểm mấu chốt là nhận diện khổ đau để khiến cho con người có cái nhìn chân thực về cuộc đời, hiểu được bản chất, quy luật của đời sống, của các sự vật, các hiện tượng trong thế giới xung quanh và trong chính bản thân mỗi con người để giảm thiểu nỗi khổ đau và không tạo ra những khổ đau mới trong cuộc đời, để từ đó con người gieo trồng được hạt giống được an lạc, hạnh phúc ngay trên thế gian này. Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải thoát, bởi khi nhận diện được khổ đau thì câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thoát khổ đau. Giải thoát theo quan niệm của Phật giáo đó là sự giải phóng ra khỏi khổ bằng cách thấy biết nguyên nhân của khổ và tận diệt nó, tức là thực hiện Tứ diệu đế và đoạn diệt ô nhiễm. Giải thoát tức là ra khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết bàn. Giải thoát không gì hơn là thực hiện Bát chính đạo. Đây là con đường gồm tám nhánh nhưng có sự liên hệ mật thiết với nhau. Đó là sự quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, sự tĩnh tâm đúng. Bát chính đạo được các bậc cao tăng phân làm ba nhóm như sau: - Nhóm thuộc về đạo đức hay giới luật gồm có: Chính ngữ, tức là không nói dối, không dèm pha, không nói những lời hung bạo, không nguyền rủa, không ba hoa vô ích; Chính mệnh, tức là không sát sinh, không trộm cắp, tôn trọng luân lý trong lĩnh vực tính dục, giúp đỡ người khác biết sống một cách ngay thật; Phương tiện sinh sống đúng, tức là không sinh sống bằng những 38
  • 43. nghề làm hại đến người khác và các chúng sinh khác (chẳng hạn như buôn bán khí giới, lừa gạt, làm nghề đồ tể, chăn nuôi súc vật để giết thịt, phá rừng...), nói chung là phải biết tôn trọng sự sống và kính trọng tất cả chúng sinh. - Nhóm thuộc về tĩnh tâm hay thiền định gồm có: Cố gắng đứng, nghĩa là ngăn chặn các thói quen tâm thần kém đạo đức phát sinh trở lại, không để cho các thứ dục vọng độc hại mới phát sinh và điều khiển mình, cố gắng tạo ra các thể dạng tâm thức lành mạnh và tốt đẹp, phát huy thêm những thể dạng tâm thức tốt sẵn có; Chú tâm đúng, ý thức và chú tâm vào thân xác, giác cảm, sự sinh hoạt tâm thần, tư duy và các khái niệm và tập trung tâm thức đúng. Đây chính là thiền định, như thiền định hay niệm Phật,… - Nhóm hiếu biết tối thượng – bát nhã gồm có: Tư duy đúng là từ bỏ hay là quên chính mình, không ích kỷ, yêu thương tất cả chúng sinh và bất bạo động; Hiểu biết đúng chính là thấy triệt được Tứ Diệu Đế. Nhưng đối với nhân dân, “những bà già ngoáy trầu” mộ đạo thì có lẽ họ không quá bận tâm nhận diện thế nào là khổ, nhưng đối với các tu sĩ chắc hẳn họ không dừng lại ở việc "hiểu" bản chất của khổ. Vì thế, vấn đề giải thoát thường được tranh luận trong suốt tiến trình lịch sử của đạo Phật. Giải thoát là gì, tại sao phải giải thoát, sau khi giải thoát sẽ đi về đâu và ai là người được giải thoát. Đương nhiên là kèm theo nó là cả một hệ thống thuật ngữ, khái niệm thiêng liêng giải thích xung quanh vấn đề giải thoát. Chẳng hạn như Phật (Buddha), Như Lai (Tathãgata), Pháp (Dharma), Niết bàn (Nirvana),… Từ phương diện này, có thể thấy, điểm chung của các tôn giáo khi thành lập thường nhắm đến những người chịu nhiều đau khổ. Và những người này tìm đến và xem tôn giáo như một phương thuốc tinh thần, làm giảm đi những điều bất hạnh mà cuộc đời họ đang gánh chịu. Chẳng hạn, đối với Kitô giáo ra đời ở phía đông đế quốc La Mã cổ đại vào khoảng những năm đầu Công nguyên. Kitô giáo ra đời trong bối cảnh xã hội La Mã đã tồn tại nhiều mâu thuẫn, nổi bật nhất là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô; giữa các dân tộc bị chinh 39