SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 80
Downloaden Sie, um offline zu lesen
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRƢƠNG THỊ THÙY ANH
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN
TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA
ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRƢƠNG THỊ THÙY ANH
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN
TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA
ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Chí Quế
Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Lê Chí Quế -
ngườ đ t n t n ướng dẫn em trong su t qu tr n t ực hiện lu n văn.
Em xin gửi lời cảm ơn c ân thành tới Ban Giám hiệu, P òng Đào tạo
sau đại học, Trường ĐH KXHX&NV – ĐH Qu c gia Hà Nội; Ban Chủ nhiệm
k oa Văn ọc, các thầy cô giáo trong tổ văn ọc dân g an đ tạo đ ều kiện
cho em trong su t quá trình học t p.
Em cũng x n c ân t àn cảm ơn c c t ầy cô g o, đồng nghiệp thuộc
Khoa Giáo dục Mầm non, Trường ĐH Sư p ạm – ĐH T Nguyên đ g úp
đỡ và tạo đ ều kiện thu n lợ c o em trong qu tr n công t c để em có thể
hoàn thiện lu n văn t eo t ờ g an quy định.
Cu i cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến g a đình, bạn bè, những người
luôn bên cạn , động viên em trong quá trình thực hiện lu n văn.
Hà Nộ , ngày t ng năm 2014
Trƣơng Thị Thùy Anh
2
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng, các hình
Mở đầu ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 3
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ......................... 17
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 19
5. Đóng góp mới của luận văn ................................................................. 20
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 20
Chƣơng : Một số vấn đề uận chung về biểu tƣợng và nh ng
vấn đề liên quan............................................................................................ 21
1.1. Một số vấn đề uận chung về biểu tượng...................................... 21
1.1.1. Khái niệm biểu tượng..................................................................... 21
1.1.2. Đặc điểm của biểu tượng ............................................................... 23
1.1.3. Phân biệt biểu tượng văn học với ẩn dụ, hình tượng..................... 25
1.2. Biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian................................. 27
1.2.1. Một vài khái niệm .......................................................................... 27
1.2.2. Đặc điểm của biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian...... 30
1.3. Dân ca và biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mông............... 32
1.3.1. Dân ca Mông.................................................................................. 32
1.3.2. Biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mông ............................ 34
Chƣơng 2: Khảo sát biểu tƣợng khèn trong dân ca Mông ................ 38
2.1. Những định hướng chung trong khảo sát, thống kê, phân loại......... 38
2.1.1. Mục đích......................................................................................... 38
2.1.2. Nguyên tắc thống kê ...................................................................... 39
2.1.3. Tư iệu khảo sát, thống kê.............................................................. 40
3
2.2. Thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông so
với một số biểu tượng đồ vật khác....................................................... 41
2.2.1. Bảng thống kê ................................................................................ 41
2.2.2. Biểu đồ ........................................................................................... 42
2.2.3. Nhận xét ......................................................................................... 45
2.3. Thống kê tần số xuất hiện của các hình thức biểu hiện của biểu tượng
khèn trong dân ca Mông ...................................................................... 56
2.3.1. Bảng thống kê ................................................................................ 57
2.3.2. Biểu đồ ........................................................................................... 58
2.3.3. Nhận xét ......................................................................................... 59
Chƣơng 3: Giải mã một số hƣớng nghĩa cơ bản của biểu tƣợng
khèn trong dân ca Mông.............................................................................. 67
3.1. Khèn – biểu tượng vật thiêng trong nghi lễ tang ma ........................ 67
3.1.1. Khèn – vật dẫn đường người chết về thế giới mường ma ............. 67
3.1.2. Khèn – vật trung gian giao tiếp giữa người sống với người chết .. 71
3.2. Khèn – biểu tượng tình nam.............................................................. 78
3.2.1. Tính nam biểu hiện trong vẻ đẹp thể chất và tâm hồn người đàn ông
Mông................................................................................................................................. 78
3.2.2. Tính nam biểu hiện trong các phẩm chất thuộc về ý chí của người
đàn ông Mông ....................................................................................... 83
3.2.3. Tính nam biểu hiện trong tình yêu đôi ứa..................................... 84
3.3. Một số hướng nghĩa biểu trưng khác của biểu tượng khèn .............. 87
3.3.1. Khèn – dấu hiệu phân biệt thế giới con người............................... 88
3.3.2. Khèn – biểu trưng cho thân phận con người.................................. 90
3.3.3. Khèn – biểu trưng cho hai trạng thái trong tình yêu...................... 91
Kết luận................................................................................................... 99
Tài liệu tham khảo ................................................................................ 103
Phụ lục
4
ANH MỤC C C ẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân
ca Mông............................................................................................. 41
Bảng 2.2. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn so với một
số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông.................................. 42
àng 2.3. ảng thống kê các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn
trong dân ca Mông ............................................................................ 57
ANH MỤC C C H NH
Hình 2.1. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn trong
các tác phẩm...................................................................................... 43
Hình 2.2. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn
trong các tác phẩm ............................................................................ 43
Hình 2.3. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn
và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông...................... 44
Hình 2.4. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn
và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông...................... 44
Hình 2.5. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu
hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông .................................. 58
Hình 2.6. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu
hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông .................................. 58
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn hóa à một bộ phận được hình thành nhờ sự tập hợp các thành tố
nảy sinh song song với quá trình phát triển của xã hội oài người. Văn hóa
được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau, nhưng dễ thấy nhất là khi nó
tồn tại dưới hình thức các biểu tượng. Biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm, và
được coi là tế bào của văn hóa. Hay nói cách khác, biểu tượng chính là sự mã
hóa những giá trị thuộc về tinh thần của oài người dọc theo trục thời gian.
Muốn hiểu được nghĩa của biểu tượng, người ta cần phải giải mã nghĩa
của những biểu tượng đó. Việc giải mã biểu tượng không chỉ nhằm khám phá
ra những giá trị văn hóa vĩnh hằng còn nằm ẩn trong đời sống cộng đồng mà
còn hướng tới mở ra nhiều tầng nghĩa mới. Điều này xuất phát từ chỗ biểu
tượng là một thực thể sống động, luôn có sự đắp đổi ý nghĩa. iểu tượng được
sinh ra từ sự tư duy và tưởng tượng của con người nên trong quá trình phát
triển, biểu tượng không ngừng được bồi đắp, àm đầy. Chính vì thế, ở nền văn
học được thai nghén và sản sinh trong thời kỳ đầu tiên của xã hội oài người
đã ẩn chứa những biểu tượng văn hóa vô cùng độc đáo.
1.2. Văn học dân gian, từ âu được ví như một kho báu khổng lồ bởi nó
chứa đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú. Những tri thức này, về
cơ bản được đúc kết dựa trên những trải nghiệm, kinh nghiệm thực tế và được
truyền lại qua nhiều thế hệ. Vì lẽ đó, bức tranh văn học dân gian Việt Nam,
thực chất là sự kết hợp của rất nhiều tri thức dân gian đã được nghệ thuật hóa
với những gam màu riêng biệt. Tuy nhiên, cần thấy rằng trong quá trình vận
động và phát triển, kho tàng văn học dân gian Việt Nam có sự cộng gộp của
hai mảng lớn à văn học dân gian người Việt và văn học dân gian các dân tộc
thiểu số. Do vậy, khi nhắc đến những thành tựu của văn học dân gian của
người Việt, cũng cần chú đến những đóng góp của văn học dân gian các dân
2
tộc thiểu số. Trong đó, cùng với văn học dân gian của các dân tộc Tày, Thái,
Mường…, văn học dân gian của người Mông được coi là một trong những
nền văn học vô cùng đặc sắc. Trong đó, dân ca được nhắc đến như một thành
tố quan trọng nhất, cấu thành những sắc màu riêng biệt. Dân ca Mông tích
hợp nhiều hình thức diễn xướng khác nhau, thể hiện những quan niệm riêng
về cách cảm của người dân Mông về thế giới xung quanh. Thế nhưng, dù
được thể hiện ở môi trường diễn xướng nào thì dân ca Mông vẫn là sự thể
hiện sâu sắc những tri nhận về thiên nhiên, xã hội, con người... Và sâu hơn
nữa, nó à nơi ưu giữ những biểu tượng gắn bó mật thiết với con người trong
đời sống sinh hoạt và tâm linh.
1.3. Cũng như một số dân tộc khác, khèn là một trong những nhạc cụ gắn
bó mật thiết đối với người Mông nói chung. Trước hết, khèn có nghĩa cực
kỳ quan trọng trong đời sống tâm inh, tín ngưỡng. Tiếng khèn không chỉ là
sợi dây nối giữa con người với thế giới thần linh, giữa người đang sống với tổ
tiên dòng họ, tiếng khèn còn là vật chỉ đường cho người chết tìm về với tổ
tiên, là tiếng lòng của người sống với người chết… ên cạnh đó, tiếng khèn
còn là khúc tâm tình của người bạn trai gửi tới người bạn gái, tiếng khèn giúp
họ kết đôi, giúp họ xây dựng một gia đình hạnh phúc... Chính vì có nghĩa vô
cùng quan trọng như vậy nên tiếng khèn Mông, dù trải qua bao thăng trầm
của cuộc sống, vẫn được ưu truyền qua nhiều thế hệ và tồn tại trong dân ca
với tư cách à một biểu tượng vô cùng độc đáo.
1.4. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ng ên cứu biểu
tượng khèn trong dân ca Mông từ văn óa đến văn ọc dân gian”. Thực hiện
đề tài này, chúng tôi mong muốn tìm ra một hướng đi khả dụng nhằm tiệm
cận với đời sống tinh thần của cộng đồng người Mông trong quá trình hình
thành và phát triển; đồng thời hé mở cánh cửa bản sắc văn hóa vô cùng độc
đáo của dân tộc này thông qua biểu tượng khèn.
3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu biểu tượng trong dân ca Mông chịu sự tác động và chi
phối bởi nhiều ĩnh vực khác như: nhân học biểu tượng, biểu tượng văn hoá,
văn hoá dân gian, tín ngưỡng dân gian… Do đó, trước khi đề cập đến lịch sử
nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, chúng tôi xin được điểm qua
những công trình, bài viết ít nhiều có liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu biểu tượng cũng đã được nhiều nhà nghiên
cứu đề cập tới. Xét về phương diện văn hóa, có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
2.1.1. Công trình “Nguồn g c và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và
ngôn ngữ Đông Sơn” của nhà nghiên cứu Tạ Đức (1999) đã đề cập đến biểu
tượng trong kiến trúc cổ truyền của Việt Nam trong cái nhìn bao quát toàn
cảnh Đông Nam Á; cũng như nguồn gốc và quá trình phát triển của các biểu
tượng trong kiến trúc Đông Sơn [8].
2.1.2. Bài nghiên cứu “Biểu tượng rùa trong văn óa V ệt Nam và thế
giới” của tác giả Chu Thị Quỳnh Giao đã cho thấy rùa là con vật mang ý
nghĩa biểu trưng khá độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam và trong nhiều nền
văn hóa khác nhau trên thế giới [11].
2.1.3. Ngoài ra, có thể kể đến tên một số công trình của các nhà nghiên
cứu khác như: Phạm Đức Dương (2002) với bài viết “Thế giới biểu tượng tiếp
c n từ góc độ văn óa ọc” [6]; Hồ Sĩ Vịnh (2004) với bài viết “Biểu tượng
hình học trong thần thoại là gì” [78]; Đinh Hồng Hải với “Nghiên cứu biểu
tượng và vấn đề tiếp c n nhân học biểu tượng ở Việt Nam” [14]. Trong những
nghiên cứu này, các tác giả không chỉ dừng lại ở việc tô đậm khung lý thuyết
về biểu tượng mà còn áp dụng nó vào từng trường hợp cụ thể. Mặc dù khác
nhau về đối tượng cũng như phương pháp giải mã biểu tượng nhưng nhìn
4
chung, đây à những công trình nghiên cứu khá toàn diện về biểu tượng trong
văn hóa Việt Nam.
Ngoài ra, ở Việt Nam, biểu tượng còn được nghiên cứu lồng ghép trong
nhiều công trình nghiên cứu đến văn hóa, văn học dân gian như:
2.1.4. Chuyên luận “Nghiên cứu văn ọc dân gian từ m văn óa dân
gian” của PGS.TS. Nguyễn Thị ích Hà được coi là một trong những công
trình nghiên cứu về biểu tượng có tính quy mô và hệ thống. Chuyên luận bao
gồm hai phần khác nhau. Trong đó, phần I là những vấn đề ý thuyết, gồm
những vấn đề có iên quan đến đề tài như: phương pháp uận nghiên cứu văn
học dân gian và phương pháp nghiên cứu văn học dân gian qua các mã văn
hoá dân gian; quan niệm về văn hoá, mã văn hoá; mối quan hệ giữa văn hoá,
văn hoá dân gian và văn học dân gian; các khái niệm: tín ngưỡng, mã tín
ngưỡng, phong tục tập quán; các thao tác nghiên cứu văn học dân gian qua
các mã văn hoá dân gian. Phần II của chuyên luận trình bày một số những
nghiên cứu cụ thể theo hướng lý thuyết trên. Nhìn chung, chuyên luận là một
tài liệu tham khảo có giá trị, đặc biệt phù hợp với hướng tiếp cận biểu tượng
trong văn học dân gian từ các mã văn hóa dân gian [13].
2.1.5. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính trong chuyên đề “Thi pháp ca dao” đã
dành trọn một chương để viết về một số biểu tượng, hình ảnh tiêu biểu trong
ca dao. Trong chương này, bên cạnh việc giới thiệu khái ược những nội dung
cơ bản của biểu tượng, tác giả đã phân tích một số những biểu tượng cơ bản
trong ca dao Việt Nam qua sự đối sánh với văn chương bác học. Những biểu
tượng này thuộc hai nhóm lớn: nhóm thực vật gồm các biểu tượng khá phổ
biến và quen thuộc như: biểu tượng cây trúc, cây mai, biểu tượng hoa nhài…;
nhóm động vật gồm: biểu tượng con bống, con cò… Nhìn chung, tuy à một
chuyên luận có trọng tâm nghiêng về thi pháp hơn nội dung nhưng trong
5
nghiên cứu của mình, tác giả đã cố gắng giải mã những nét nghĩa chủ đạo của
một số loại biểu tượng trên [33].
2.1.6. GS.TS. Vũ Anh Tuấn (1984) trong bài nghiên cứu “Về một s biểu
tượng văn ọc dân gian miền núi” đã nghiên cứu về một số biểu tượng văn
học dân gian của các dân tộc miền núi, trong đó, tác giả đặc biệt quan tâm tới
hệ thống biểu tượng trong văn học dân gian dân tộc Tày [74].
2.1.7. TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong bài viết “Thế giới biểu tượng
sóng đô trong ca dao người Việt” in trên Tạp chí Văn hoá dân gian số
3(75)/2001 đã cho rằng: “Biểu tượng tồn tại trong ca dao không phải với tính
chất là những yếu t đơn lẻ rời rạc, mà đ n t àn nên một hệ th ng khá
hoàn chỉn …” [7]. Với những dẫn chứng cụ thể, bài nghiên cứu đã góp phần
khẳng định rằng hệ thống biểu tượng sóng đôi trong ca dao người Việt vô
cùng phong phú, bao gồm: các hiện tượng tự nhiên, thế giới động vật, thực
vật, các thực thể nhân tạo, thế giới con người… Nghiên cứu các biểu tượng
sóng đôi trong ca dao người Việt, tác giả đã chỉ ra được nguồn gốc sinh thành,
cấu tạo và chức năng của các biểu tượng này trong việc thể hiện những khía
cạnh khác nhau của đời sống văn hoá dân tộc.
2.1.8. TS. Nguyễn Thị Hồng Thu trong bài nghiên cứu “Trăng trong t ơ
ca dân gian Việt Nam” in trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 3-2006 đã
nhấn mạnh: trăng à một biểu tượng tích hợp nhiều yếu tố văn hóa khi nó gắn
với những đặc thù văn hóa của dân tộc, cũng như có sự tiếp biến với các vùng
văn hóa xung quanh. Vì vậy, biểu tượng trăng trong ca dao gắn với nhiều ý
nghĩa khác nhau, nhưng về cơ bản “… trăng c ủ yếu được sử dụng trong
mảng ca dao nói về t n yêu đô lứa” [63]. Với việc chỉ ra các nhóm có tính
khái quát (nhóm mang tính chất tích cực, nhóm mang tính chất trung tính,
nhóm mang tính chất tiêu cực), bài nghiên cứu đã chỉ ra được trạng thái chủ
đạo được biểu hiện qua biểu tượng trăng à cảm xúc buồn.
6
2.1.9. TS. Trần Minh Hường trong bài nghiên cứu “Tiếp c n truyền thuyết
Con rồng cháu tiên từ góc độ biểu tượng nghệ thu t” in trên Tạp chí văn hoá
dân gian số 3 (111)/2007 đã chỉ ra những khía cạnh cơ bản xung quanh khái
niệm biểu tượng. Dựa trên những kiến thức cơ bản đó, tác giả đã tìm hiểu một
số biểu tượng được phân xuất ra từ truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”. Tác
giả có viết rằng: “… truyền thuyết Con rồng cháu Tiên chứa đựng hai loại
biểu tượng quan trọng: Rồng – Tiên thuộc loại biểu tượng cặp đô và Bọc
trứng (s n ra trăm con) t uộc loại biểu tượng đơn” [22]. Với những dẫn
chứng phong phú, tiêu biểu, bài nghiên cứu không chỉ làm sáng tỏ con đường
hình thành biểu tượng Rồng – Tiên và Bọc trứng mà còn lý giải được nghĩa
văn hoá của những biểu tượng này.
2.1.10. Nhà nghiên cứu Lê Đức Luận với “Biểu tượng oa trong văn ọc
dân gian” in trên Tạp chí VHNT số 328-2011 cho rằng: “… oa trong văn
học dân gian trở thành hình ảnh biểu trưng c o vẻ đẹp n ân văn của con
ngườ … ” [27]. Bài nghiên cứu đã giải nghĩa của biểu tượng hoa trong tục
ngữ, ca dao qua việc phân tích những lớp nghĩa biểu trưng trong từng hoàn
cảnh cụ thể: hoa thơm biểu trưng cho người khôn, kẻ giỏi; màu sắc của hoa
biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân; hương thơm và vẻ đẹp của hoa tượng
trưng cho nét đẹp của người phụ nữ. Với những minh chứng rõ nét, bài
nghiên cứu đã góp phần khẳng định rằng, biểu tượng hoa đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt nói chung: “Hoa đ từ tâm
thức tín ngưỡng thiên sinh về con ngườ đến vẻ đẹp n ân s n …” [27].
2.1.11. Trong vài nghiên cứu “Biểu tượng long – rồng trong văn ọc dân
g an người Việt” in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 331-2012, nhà nghiên
cứu Lê Đức Luận cho rằng biểu tượng long - rồng có những nghĩa cơ bản sau:
biểu trưng cho nguồn gốc cao sang của các nhân vật trong lịch sử; biểu trưng
cho sự phù trợ của truyền thống tổ tiên với các nhân vật lịch sử; biểu tượng
7
cho hình thể núi sông dân tộc; biểu trưng cho sự sang trọng, giàu sang, tôn
kính; biểu trưng cho vương quyền và sự thịnh đạt của vua chúa; cặp đôi rồng
– phượng biểu trưng tình yêu nam nữ đẹp đẽ; biểu trưng cho sự gian khó [28].
Với nhiều dẫn chứng tiêu biểu, bài nghiên cứu đã chứng minh được những
lớp nghĩa tồn tại ẩn mình dưới biểu tượng long – rồng trong tâm thức và trong
văn học dân gian người Việt à hoàn toàn có cơ sở.
2.1.12. Nhà nghiên cứu Triều Nguyên trong bài “Về biểu tượng con chim
quyên trong ca dao” in trên Tạp chí văn hoá dân gian số 3(59)/1997 đã có sự
thống kê tương đối chi tiết tần số xuất hiện của chim quyên trong ca dao. Với
những số iệu thu được, tác giả đưa ra kết luận: “Về s lượng, biểu tượng con
chim quyên có tần xuất thấp ơn con cò 3,7 lần” [30]. Từ những kết quả đã
khảo sát được, tác giả tiến hành lý giải nghĩa của biểu tượng con chim
quyên trong ca dao thông qua sự so sánh với biểu tượng con cò. Từ đó, tác giả
đi đến kết luận về lớp nghĩa biểu trưng của biểu tượng con chim quyên trong
ca dao: “Con chim quyên là một biểu tượng chỉ người, có thể nam hay nữ,
trong quan hệ lứa đô ” [30].
2.1.13. Bùi Xuân Tiệp trong bài “Bước đầu giải mã một s biểu tượng
trong lễ hội Gầu Tào (LHGT) và dân ca giao duyên (DCGD) dân tộc Hmông”
in trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 3(99)/2005 cho rằng: “Thế giới biểu
tượng trong DCGD Mông rất phong phú. Từ những sự v t, hiện tượng tự
n ên n ư l ngón, c m d l , nú đồi, mặt trăng, mặt trờ … đến những v t
nhân tạo n ư cây nêu, vải, lanh, cái cày, chiếc nhẫn, vòng bạc…” [72]. Thông
qua việc giải mã nghĩa của các biểu tượng cây nêu, biểu tượng vải lanh,
biểu tượng mặt trăng – mặt trời, tác giả đã từng bước bóc tách những lớp văn
hóa, tín ngưỡng dân gian của đồng bào Mông. Những biểu tượng này, một
mặt chúng tồn tại một cách độc lập tương đối trong việc thể hiện chiều sâu
8
văn hóa; mặt khác, chúng có tác động qua lại lẫn nhau, thể hiện thế giới quan,
nhân sinh quan của đồng bào Mông nói chung.
2.1.14. TS. Đặng Diệu Trang trong bài nghiên cứu “Thiên nhiên với thế
giới nghệ thu t ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao dân ca” in trên Tạp chí văn
hoá dân gian số 1-2006 cho rằng: “Một trong những đặc đ ểm của t ơ ca trữ
tình dân gian là hình thức sử dụng các hình ản t ên n ên k ông t eo ng ĩa
trực tiếp, ng ĩa đen, ng ĩa b ểu v t mà t eo ng ĩa g n t ếp vớ ng ĩa bóng,
ng ĩa b ểu cảm tạo nên c c n tượng ẩn dụ và biểu tượng để diễn tả cảm
xúc” [73]. Trong bài nghiên cứu, tác giả cũng chỉ ra một số những hình tượng
ẩn dụ được sử dụng thường xuyên đã được chuyển hóa thành biểu tượng.
Trong đó, những loại biểu tượng đơn tiêu biểu à: chim, hoa, trăng… và biểu
tượng sóng đôi tiêu biểu là: loan – phượng, bướm – hoa… Dựa trên những
nội dung đó, tác giả đã tiến hành tìm hiểu các hình tượng ẩn dụ và biểu tượng
trong sự so sánh ca dao dân ca các miền. Nhìn chung, bài nghiên cứu đã khái
quát được những nét cơ bản nhất về hình tượng ẩn dụ và biểu tượng trong kho
tàng ca dao dân ca.
2.1.15. PGS.TS. Phạm Thu Yến trong bài nghiên cứu “Vấn đề nghiên cứu
biểu tượng trong t ơ ca dân g an”, ngoài việc đưa ra những nhận xét khái
quát về việc nghiên cứu biểu tượng trong ca dao của một số tác giả, đã xem
xét và nghiên cứu về biểu tượng trong thơ ca trữ tình dân gian ở ba nội dung:
xác định ranh giới giữa ẩn dụ và biểu tượng; biểu tượng thơ ca dân gian với
đặc trưng thể loại; sự hình thành và phát triển của biểu tượng trong thơ ca dân
gian [84].
2.1.16. GS.TSKH. Phan Đăng Nhật trong bài nghiên cứu “Ngữ ng ĩa của
hệ th ng biểu tượng trong nghi lễ Êđê” đã nghiên cứu hệ thống các biểu
tượng đơn ập và ưỡng lập trong các bài cúng mà thầy cúng dùng trong nhiều
hoạt động khác nhau của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào đê.
9
Trong đó, tác giả cho rằng biểu tượng đơn ập bao gồm những biểu tượng
trong nghi lễ về rừng, biểu tượng trong nghi lễ về trồng trọt, biểu tượng trong
nghi lễ về đời người; biểu tượng ưỡng lập được thể hiện rõ nét nhất trong lễ
cưới và sự điều hòa nam/nữ, lễ tang và sự điều hòa sống/chết [85].
2.1.17. Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, biểu tượng còn đuợc đề
cập đến trong nhiều luận văn, uận án. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu
mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu:
- ùi Văn Thành (2000), Thế giới biểu tượng thần thoạ trong Mo Mường,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Đặng Thị Oanh (2006), Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca dân
tộc H’Mông, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
- Nguyễn Thị Minh (2008), Giải mã biểu tượng dòng sông trong bài ca
tang lễ một s dân tộc vùng Bắc Bộ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Cầm Bá Phượng (2010), Giải mã một s biểu tượng trong ca dao – dân
ca dân tộc Thái, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian, Truờng
ĐH KHXH&NV – ĐH QGHN.
- Nguyễn Thị Minh Thành (2010), Giải mã biểu tượng con thuyền trong
kho tàng ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
- Phạm Thị Hoàng Oanh (2010), Biểu tượng cây đa trong ca dao người
Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Nguyễn Minh Thu (2011), Biểu tượng trăng trong ca dao người Việt,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Dương Thị Hồng Thúy (2011), Biểu tượng mưa trong ca dao người Việt,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
10
- Đặng Thị Oanh (2012), Biểu tượng nước từ văn óa đến văn ọc dân
gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Lê Thị Minh Huệ (2013), Biểu tượng c trong k o tàng ca dao người
Việt, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ngoài được coi là một đối tượng nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn học
dân gian, biểu tượng còn được coi là một đối tượng khá thú khi nó được
xem xét từ góc độ văn học hiện đại. Hiện cũng đã có rất nhiều những nghiên
cứu xoay quanh biểu tượng thông qua việc tìm hiểu, giải các tác phẩm văn
học hiện đại. Có thể kể đến như: ùi Thị Nguyệt Hồng (2003), Biểu tượng
nghệ thu t trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ khoa học
ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thanh Xuân (2009), Hệ
biểu tượng về chủ đề quê ương trong t ơ Hoàng Cầm, Luận văn Thạc sĩ
khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Duyên
(2010), Biểu tượng đô t ị trong T ơ mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Bảy (2011), Hệ th ng biểu
tượng trong t ơ Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội; Dương Ngọc Hải (2011), Biểu tượng nghệ thu t
trong t ơ Xuân Quỳnh, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội; Ngô Thị Tuyết (2013), Thế giới biểu tượng trong Di cảo
t ơ của Chế Lan Viên, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội...
Nhìn chung, những công trình, bài viết trên đây đã nghiên cứu biểu tượng
trên nhiều phương diện, ĩnh vực khác nhau. Có bài viết nghiên cứu về
phương diện nghĩa biểu trưng của các biểu tượng đặc thù trong các nền văn
hóa; có bài viết trình bày những nghiên cứu về mặt lý thuyết hoặc đưa ra con
đường, biện pháp tiếp cận biểu tượng văn hóa. Với từng trường hợp, các tác
11
giả cũng đã cố gắng lý giải nghĩa của biểu tượng qua việc gắn với những
hoàn cảnh cụ thể, nhằm khai thác triệt để những giá trị thẩm mĩ chứa đựng
trong biểu tượng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông
Trong kho tàng văn học dân gian của người Mông, dân ca được coi là một
bộ phận vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc phản ánh tâm hồn,
tính cách và số phận của người Mông trong suốt chiều dài thăng trầm của lịch
sử. Không những thế, dân ca Mông còn góp phần tạo nên chiều sâu của bản
sắc văn hóa tộc người đã được đúc kết qua hàng nghìn năm. Hiện nay, việc
nghiên cứu dân ca Mông đã đạt được những thành tựu nhất định.
Đầu tiên, phải kể đến cuốn “Dân ca Mèo” của tác giả Doãn Thanh, xuất
bản năm 1967. Đây à cuốn sách giới thiệu khá đầy đủ diện mạo dân ca Mông
với năm oại chính. Cuốn sách được dịch ra tiếng Việt với chú thích kỹ ưỡng,
đảm bảo được nghĩa cơ bản. Năm 1974, tác giả Doãn Thanh tiếp tục cho ra
mắt cuốn “Dân ca Mèo Lào Cai” gồm 45 bài. Cuốn sách tuy mỏng nhưng có
giá trị ở chỗ giúp cho người đọc có thể đối chiếu phần lời Việt và phần lời
bằng tiếng Mông. Năm 1984, các tác giả Doãn Thanh, Hoàng Thao đã tiến
hành tuyển chọn, chỉnh lý, bổ sung một số bài dân ca Mông đã được công bố
trên các sách, báo, tạp chí và cho ra mắt cuốn “Dân ca Hmông” mới với lời
giới thiệu của Chế Lan Viên. Cuốn sách tuyển đủ năm oại hát của dân ca
Mông với lời dịch có phần khá trau chuốt. Đến năm 1994, tác giả người dân
tộc Mông à Hùng Đình Qu cho ra mắt cuốn Dân ca Mông Hà Giang, gồm
ba tập, bao gồm những bài dân ca được sưu tập tại Hà Giang. Ngoài ra, từ
những năm 90 trở lại đây, ở một số tỉnh có người Mông cư trú như Yên ái,
Lai Châu, Hà Giang, Lào Cai… người ta cũng tiến hành sưu tầm dân ca Mông
và in rải rác trên các sách báo trung ương và địa phương. Nhìn chung, công
tác sưu tầm dân ca Mông nói chung trong hơn 40 năm qua đã đạt được thành
12
tựu cả về số ượng và chất ượng. Đó à những tư iệu quý giá cho luận văn
trong quá trình tiến hành khảo sát, giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông.
Có thể thấy rằng, trong đời sống của đồng bào Mông nói chung, khèn
được coi là một nhạc cụ đặc biệt. Vì lẽ đó, trong dân ca Mông, khèn được coi
như một biểu tượng có sức sống vô cùng mạnh mẽ. Trong khi một số biểu
tượng khác đã được khảo sát và nghiên cứu, giải mã thì biểu tượng khèn
dường như chưa được quan tâm đúng mức. Trong những nghiên cứu về vấn
đề khác, biểu tượng khèn mới chỉ được đề cập ở mức quá sơ ược. Trong khả
năng cho phép, uận văn xin được điểm qua một số công trình nghiên cứu có
đề cập đến vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Mở đầu cuốn “Văn o dân tộc Mông Hà Giang”, Trường Lưu và
Hùng Đình Qu có cho rằng “… nó đến văn óa Mông ở Hà Giang, không ai
không biết đến tiếng k èn vơ âm t an trầm trầm dìu dặt, vớ c c làn đ ệu
dân ca trữ tình, duyên dáng và hồn n ên…” [45, tr.15]. Trong đời sống văn
hoá tinh thần của đại bộ phận người Mông, khèn được coi là “nhạc cụ đặc
trưng văn óa t êu b ểu…” [45, tr.62]. Cũng trong cuốn sách này, ở một phần
khác tác giả có cho rằng khèn thuộc nhóm dụng cụ sinh hoạt tinh thần của
người Mông và đây “là nhạc cụ được dùng phổ biến nhất ở vùng người
Mông. Có lẽ không một chàng trai Mông nào lại không làm quen với cây
k èn. K èn được dùng trong tang lễ và trong sinh hoạt vu c ơ múa t” [45,
tr.126]. Thêm vào đó, cùng với việc giới thiệu một cách sơ ược đặc điểm của
các loại nhạc cụ khác, tác giả cũng đã đề cập đến cấu tạo cơ bản của khèn
Mông và nhấn mạnh: “Tiếng khèn biểu đạt các bài dân ca Mông rất s ng
động, chính thế nó làm đắm say lòng người” [45, tr.126]. Nhìn chung, công
trình nghiên cứu đã đề cập đến cây khèn ở nhiều phương diện khác nhau nhưng
về cơ bản mới chỉ dừng ở việc nêu ra những khía cạnh cơ bản nhất về giá trị,
vai trò và cấu tạo của cây khèn trong đời sống văn hoá của người Mông.
13
2.2.2. Trong bài viết “Một s biểu tượng văn óa dân g an Hmông” trên
Tạp chí văn học nghệ thuật Lào Cai, TS. Trần Hữu Sơn đã dựa trên những
kiến thức về văn hóa, phong tục tập quán để giải mã một số biểu tượng trong
văn hóa, dân ca Mông: cây tre, cây lanh, con gà, con lợn. Với những tri thức,
trải nghiệm được tích ũy nhờ sự gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa của
đồng bào Mông, tác giả cho rằng lễ hội Gầu Tào: “… tíc ợp nhiều yếu t
văn o , t p hợp một s biểu tượng nổi trội mang đ m sắc t văn o
Hmông n ư b ểu tượng cây tre (mai, vầu), biểu tượng mảnh vải lanh, quả bầu
đựng rượu, cây khèn... Các biểu tượng này nhằm phản n tín ngưỡng cổ
truyền cũng n ư ước vọng của cộng đồng” [50]. Tuy đã nhắc đến cây khèn
với tư cách à một biểu tượng trong dân ca Mông nhưng trong bài viết của
mình, tác giả chưa tiến hành giải mã nghĩa của biểu tượng này.
2.2.3. Nhà nghiên cứu âm nhạc Hồng Thao trong cuốn “Âm nhạc dân tộc
H’mông” đã đề cập đến những bài hát và nhạc cụ độc đáo của dân tộc Mông
cũng như những điệu hát, những nhạc cụ đã được dân tộc Mông “tự giác tiếp
thu” của những dân tộc khác. Trong số những nhạc cụ đã được đề cập, tác giả
cho rằng: “Những chàng trai Mông va đeo gù , tay cầm khèn, tay cầm lồng
chim là hình ản đ ển hình trên rẻo cao…” [58, tr.18]. Ngoài ra, trong cuốn
sách này, tác giả cũng đề cập tới âm vực của cây khèn, qua đó nói ên tầm
quan trọng của khèn trong nghi lễ tang ma của người Mông: “…Riêng trong
nghi lễ tang ma […] mỗ trường hợp, mỗi cách chết phả được thổi bằng
những bài khèn riêng” [58, tr.106]. Tuy nhiên, mục tiêu chính của công trình
chủ yếu hướng tới việc sưu tầm, ghi chép những bài khèn Mông dưới dạng
các bài nhạc nên tác giả không khai phá những tầng nghĩa sâu của biểu tượng
khèn. Những nhận định sơ ược và có phần gián đoạn về cây khèn trong dân
ca Mông mà tác giả đã đề cập, thực chất là những phương diện thuộc về ý
nghĩa, tầm quan trọng của biểu tượng này trong đời sống của người Mông.
14
2.2.4. Trong lời tựa cho cuốn “Dân ca H’mông”, Chế Lan Viên có nhắc
tới cây khèn và nhấn mạnh đây à một loại nhạc cụ phổ biến đối với người
Mông: “Người Mông rất yêu nền văn ng ệ của mình, tiếng hát của mình.
Phần đông người Mông đều biết một trong ba loại nhạc cụ này: sáo, khèn,
đàn mô …” [57, tr.36]. Do chỉ là những lời giới thiệu về cả tập dân ca nên
trong hơn hai mươi trang viết, tác giả chỉ duy nhất một lần nhắc đến khèn với
tư cách à một nhạc cụ của người Mông, chưa có những kiến giải về mặt ý
nghĩa biểu trưng của biểu tượng này.
Ngoài ra, biểu tượng khèn cũng được đề cập tới với những mức độ khác
nhau trong những luận văn, uận án mà chúng tôi có điều kiện khảo sát. Có
thể kể đến như:
2.2.5. Vũ Hồng Cường trong luận văn thạc sĩ Văn học Việt Nam “Tiếng
hát tình yêu lứa đô trong dân ca H’mông Hà G ang” ít nhiều cũng đã có
những nhận định về biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa, tâm inh của
đồng bào Mông. Trong luận văn này, tác giả tập trung phân tích những nội
dung và nghệ thuật cơ bản của Tiếng hát tình yêu đôi ứa trong dân ca Mông
Hà Giang. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác giả cũng đã có một phần rất nhỏ đề cập
đến biểu tượng. Trong đó, tác giả có cho rằng, biểu tuợng đàn môi à một biểu
tuợng đặc trưng cho tình yêu đôi ứa. Ngược lại, tác giả cho rằng “thực tế,
trong quá khứ của nguờ H’mông ở Hà Giang chỉ dùng k èn để thổi và múa
trong những nghi lễ tang ma, thờ cúng” [3, tr.91].
2.2.6. Vương Thị Thủy trong luận văn thạc sĩ Khoa học Ngữ văn “Dân ca
nghi lễ cúng trong chu kỳ vòng đời của nguời Mông ở Mèo Vạc, Hà Giang”
đã có những kiến giải tương đối chi tiết về nghĩa chủ đạo của biểu tuợng
khèn. Luận văn đã trình bày được những nội dung cơ bản của dân ca nghi lễ
cúng trong chu kỳ vòng đời của nguời Mông cũng như các phương thức diễn
xướng của các bài dân ca này. Trong chương 3, tác giả có đề cập đến việc
15
nghiên cứu biểu tượng trong một mục nhỏ với các biểu tượng như: biểu tượng
lanh, biểu tượng khèn và biểu tượng con gà. Trong đó, khi viết về biểu tượng
khèn, tác giả có cho rằng: “Tiếng k èn tượng trưng c o lời chàng trai, lúc nhẹ
nhàng tha thiết, khi sôi nổi mãnh liệt, tiếng khèn giữ chức năng n ư một tín
hiệu tình yêu của đô tra g Mông, d ễn tả mọi cung b c cảm xúc của tâm
hồn, không chỉ là xứ giả âm thanh của tình yêu mà còn là cầu n i hai tâm hồn
đồng đ ệu giữa núi rừng rộng lớn” [68, tr.110]. Bên cạnh đó, tác giả còn
khẳng định cả vai trò của biểu tượng khèn trong nghi lễ tang ma của người
Mông: “Trong c c đ m tang, dù c ỉ là đ m ma k ô ay ma tưo t cây k èn
là một nhạc cụ không thể thiếu để tiễn đưa ồn người chết về thế giới bên kia,
tiếng khèn tang ma còn mang xứ mệnh thiêng liêng là nhắc người Mông nhớ
tới nguồn dòng tộc” [68, tr.111]. Từ những phân tích khá chi tiết và những
dẫn chứng tiêu biểu, cuối cùng tác giả nhấn mạnh rằng: “… cây k èn trở
thành biểu tượng đặc sắc của tâm hồn, tình cảm và dấu ấn sắc tộc của người
Mông” [68, tr.111]. Với những nhận định, kiến giải có tính chất gợi mở về
biểu tượng khèn, uận văn của tác giả Vương Thị Thủy được coi à một trong
những tư iệu tham khảo có giá trị, gắn với xu hướng tiệm cận văn hóa truyền
thống trong đời sống, đặc biệt à đời sống tinh thần của đồng bào Mông.
2.2.7. Trần Duy Hưng trong uận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam “Biểu
tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà Giang” cũng đã có
những kiến giải khá cụ thể về biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa của
đồng bào Mông. Trước hết, tác giả đã khái quát được cấu tạo của khèn và
những nghi lễ iên quan đến việc sử dụng khèn, bao gồm nghi lễ àm ma tươi
và nghi lễ làm ma khô. Qua đó, tác giả cũng nhấn mạnh: “dù là tục lệ gì
n ưng k có người chết thì khèn luôn gắn bó m t thiết với nghi lễ và truyền
tải những t ông đ ệp quan trọng tớ người chết” [21, tr.26]. Trong chương 2
của luận văn, tác giả đã tiến hành khảo sát và giải mã một số biểu tượng trong
16
dân ca nghi lễ tang ma của người Mông như: biểu tuợng “gầu khèn đrâu
trống” và “hoa khèn, hoa mưa, hoa nắng, hoa trống”. Tuy có những luận giải
khác nhau nhưng về cơ bản, tác giả đã nhấn mạnh đến đặc điểm giới tính
trong những biểu tượng này. Từ những kiến giải, phân tích và những dẫn
chứng tiêu biểu, tác giả khẳng định: “Từ hệ th ng những biểu tượng luôn đ
song àn cùng n au và đều là những biểu tượng có đầy đủ cả hai giới nam
và nữ trong cùng một tên gọi, chúng ta có thể nh n thấy tư tuởng tiến bộ, dân
chủ man n a trong văn óa Mông” [21, tr.51].
2.2.8. Hoàng Thị Thủy trong luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam “Dân ca
nghi lễ dân tộc H’Mông” cũng đã đề cập đến biểu tượng khèn, tuy mới ở mức
độ rất sơ ược. Trong chuơng 4 – một số phương diện nghệ thuật trong dân ca
nghi lễ dân tộc Mông, tác giả đã àm rõ những nét cơ bản nhất về khái niệm
biểu tượng. Từ đó, tác giả đi đến giải mã nghĩa của một số biểu tượng trong
dân ca Mông như biểu tượng con gà, biểu tượng lanh. Khi nhắc tới khèn trong
đời sống văn hóa nói chung, nghi ễ tang ma nói riêng, tác giả nhấn mạnh:
“Trong việc thực hiện các nghi lễ, vai trò của khèn, tr ng hết sức cần thiết
[…]. Từ lúc bắt đầu đ m ma c o đến k người chết đ c ôn, ầu n ư k ông
bao giờ vắng tiếng khèn, tr ng. Các bài khèn này có nộ dung và được thể
hiện phù hợp với từng nghi thức của tang lễ” [67, tr.112]. Với một cái nhìn
tương đối bao quát, tác giả cho rằng: “Văn ọc dân gian dân tộc Mông phong
phú với nhiều thể loạ mang đ m bản sắc văn óa rất riêng của đồng bào,
trong đó mảng dân ca nghi lễ xuất hiện nhiều hệ th ng biểu tượng đặc thù
n ư b ểu tượng về hệ th ng loài v t, biểu tượng về hệ th ng đồ v t, biểu
tượng về hệ th ng cây c i, con s …” [67, tr.171]. Nhìn chung, đây à một
công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về dân ca nghi ễ dân tộc Mông,
nhưng do mục tiêu hướng tới không phải à biểu tượng nên ít nhiều biểu
tượng chưa được quan tâm một cách đúng mực, nhất à biểu tượng khèn.
17
Mặc dù là một nhạc cụ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
và xuất hiện khá nhiều trong dân ca Mông, nhưng cho đến nay việc nghiên
cứu về biểu tượng này vẫn còn là một khoảng trống lớn. Qua quá trình thu
thập tài liệu, chúng tôi được biết, hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu
về biểu tượng khèn trong dân ca Mông một cách hệ thống; không kể những
nghiên cứu mang tính chất gợi mở và có tính xen kẽ. Vì vậy, chúng tôi đã
mạnh dạn lựa chọn biểu tượng khèn trong dân ca Mông để giải mã.
3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đ tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là biểu tượng khèn trong dân ca
Mông. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh, đối
chiếu biểu tượng khèn với một số biểu tượng khác trong dân ca Mông để có
được những đánh giá và kết luận đúng đắn, khách quan hơn.
3.2. Mục đíc ng ên cứu
Biểu tượng khèn là một loại biểu tượng độc đáo, mang đậm bản sắc dân
tộc Mông. Tiến hành giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông, chúng tôi
hướng tới các mục đích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, chỉ ra được tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca
Mông, cũng như so sánh được số lần xuất hiện của biểu tượng khèn với một
số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông.
- Thứ hai, chỉ ra các giá trị thuộc về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín
ngưỡng, lịch sử cũng như toàn bộ bức tranh kinh tế, chính trị của đồng bào
Mông đã và đang được ưu giữ trong biểu tượng khèn.
- Thứ ba, giải mã nghĩa của biểu tượng khèn trong dân ca Mông nhằm
góp phần khẳng định hướng nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Mông
thông qua việc giải mã các biểu tượng là một hướng đi đúng, hiệu quả và phù
hợp với đặc trưng của loại hình văn hóa, văn học này.
18
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ đưa ra các vấn đề lý luận và thực tiễn có iên quan đến vấn đề
nghiên cứu như: thuyết về biểu tượng, những nét cơ bản về biểu tượng
trong văn học dân gian Việt Nam, những nét khái quát về dân ca Mông, biểu
tượng khèn trong đời sống của đồng bào Mông.
Thống kê, phân loại các hình thức biểu hiện và nghĩa biểu trưng của
biểu tượng khèn trong dân ca Mông để thấy được tần số của các hình thức
biểu hiện và các hướng nghĩa của biểu tượng lanh.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu để giải mã biểu tượng khèn trong
những ngữ cảnh cụ thể. Từ đó, tổng hợp các nghĩa biểu trưng ại với nhau
để thấy được những lớp nghĩa cơ bản nhất của biểu tượng khèn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông dựa
trên các văn bản sau:
- Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, Hà Nội.
- Doãn Thanh (1974), Dân ca Mèo, Hội văn học nghệ thuật Lào Cai.
- Doãn Thanh - Hoàng Thao - Chế Lan Viên (1984), Dân ca H’mông,
Nxb Văn học, Hà Nội.
- Hùng Đình Qu (2001), Dân ca Mông Hà Giang (t p 1), Sở Văn hoá
Thông tin Hà Giang
- Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (t p 2), Sở Văn hoá
Thông tin Hà Giang.
- Hùng Đình Qu (2003), Dân ca Mông Hà Giang (t p 3), Sở Văn hoá
Thông tin Hà Giang.
- Hùng Đình Qu (2005), Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang,
Nxb KHXH.
- Viện nghiên cứu văn hóa (2008), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc
thiểu s Việt Nam, (tập 17), Nxb KHXH.
19
- Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc
thiểu s Việt Nam (tập 18), Nxb KHXH.
- Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc
thiểu s Việt Nam (tập 19), Nxb KHXH.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. P ương p p ng ên cứu liên ngành
Việc giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông cần có sự phối kết hợp
kiến thức chuyên môn của nhiều ngành khoa học khác nhau như: xã hội học,
văn hóa học, dân tộc học, lịch sử học, nhân học… ởi vậy, phương pháp
nghiên cứu iên ngành đóng vai trò then chốt, là chìa khóa hữu cơ để giải mã
những thông điệp khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
4.2. P ương p p t ng kê phân loại
Để có một cái nhìn toàn diện và rõ ràng về những khía cạnh khác nhau
của biểu tượng khèn trong dân ca Mông - nhất là số lần xuất hiện cũng như
các hình thức biểu hiện của biểu tượng này, chúng tôi sử dụng phương pháp
thống kê phân loại để nghiên cứu các vấn đề một cách khoa học và cụ thể.
4.3. P ương p p đ ền dã
Nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, thực chất là nghiên cứu
một hiện tượng, một vấn đề của văn học dân gian đã và đang tồn tại trong môi
trường diễn xướng đích thực của nó. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài,
chúng tôi đã sử dụng phương pháp điền dã nhằm quan sát và khảo sát một số
trường hợp cụ thể.
4.4. P ương p p p ân tíc , tổng hợp, so sánh
Đây à một phương pháp không thể thiếu khi nghiên cứu tác phẩm văn
học. Các phương pháp này giúp quá trình giải mã biểu tượng khèn được sâu
sắc, toàn diện và khách quan hơn.
Tuy các phương pháp nghiên cứu trên được thống kê và chia tách một
cách rõ ràng, gắn với từng mục đích nghiên cứu nhất định nhưng trong quá
20
trình thực hiện luận văn, các phương pháp trên được sử dụng kết hợp với
nhau. Ngoài ra, khi thực hiện luận văn, chúng tôi cũng sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác.
5. Đóng góp mới của luận văn
Qua thống kê, phân loại biểu tượng khèn trong dân ca Mông, luận văn chỉ
ra tần số xuất hiện và một số hình thức biểu hiện, nghĩa cũng như giá trị
thẩm mỹ của biểu tượng khèn với tư cách à một trong những biểu tượng nghệ
thuật trong dân ca Mông. Từ đó, uận văn góp phần khẳng định một cách sâu
sắc hơn giá trị của biểu tượng khèn trong đời sống văn hoá, tinh thần và đặc
biệt là trong dân ca Mông.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và mục Tài liệu tham khảo, luận văn gồm:
Chương 1. Một số vấn đề uận chung về biểu tượng và nhữngvấn đề
liên quan
Chương 2. Khảo sát biểu tượng khèn trong dân ca Mông
Chương 3. Giải mã một số hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong
dân ca Mông
21
CHƢƠNG : MỘT S VẤN ĐỀ UẬN CHUNG VỀ BIỂU TƢỢNG
VÀ NH NG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. Nh ng vấn đề chung về biểu tƣợng
1.1.1. Khái niệm biểu tượng
Khi nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa, biểu tượng là một thành tố không
thể thiếu. Ngay từ thời nguyên thủy, khi con nguời biết ao động và hình
thành nên ngôn ngữ thì cùng úc đó con nguời đã gián tiếp hình thành trong tư
duy một hệ thống những biểu tuợng. Hệ thống biểu tượng này vô cùng phong
phú, đa dạng và con nguời dựa vào nó để tiến hành các hoạt động nhằm khám
phá thế giới khách quan. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu biểu tượng đã được chú ý
đến rất sớm, và cho đến nay đã đạt được rất nhiều thành tựu.
Từ phương diện văn hóa, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có rất nhiều
khái niệm về biểu tượng đã được đưa ra.
GS. A. A. Radugin trong “Từ đ ển b c k oa văn óa ọc” đưa ra khái
niệm: Biểu tượng là một loại ký hiệu để thể hiện nội dung thực tế của một
điều nào đó. Tuy nhiên, biểu tượng văn hóa khác kí hiệu thông thường ở chỗ
chứa đựng mối liên hệ tâm lý với tồn tại mà nó biểu trưng [46].
Nguyễn Văn Hậu trong Luận án Tiến sĩ ịch sử “Về biểu tượng trong lễ
hội dân gian truyền th ng” đã tổng kết: Biểu tượng là một hình thái biểu hiện
của văn hóa – ký hiệu hàm nghĩa. Nó được sáng tạo ra nhờ vào những năng
lực “biểu tượng hóa” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để
bày tỏ nghĩa kia, nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu xuất
nào đó. Biểu tượng được xem như à “đơn vị cơ bản của văn hóa” và à hạt
nhân di truyền xã hội đầu tiên của oài người [17].
PGS. TS. Nguyễn Bích Hà trong chuyên luận “Nghiên cứu văn ọc dân
gian từ m văn óa dân g an” cho rằng: “Biểu tượng là một loại tín hiệu
riêng, có chiều sâu và p ong p ú ơn tín ệu, giữa biểu tượng và c được
22
biểu trưng t ường không có quan hệ phổ biến, liên tục. Nó chính là cái nhìn
thấy được để dẫn ta đến với cái không nhìn thấy được, nó là c được cảm
nh n cho ta liên hệ vớ c đang còn mơ ồ, khó nắm bắt. Thời gian và không
gian làm cho tính biểu tượng bị mờ đ , k uất lấp nên phải biết chìa khóa (mã)
mới khai mở được và hầu n ư k ông t ể giải mã một lần là xong” [13; tr.63].
Từ phương diện ngôn ngữ học, văn học, các nhà khoa học cũng đưa ra
nhiều cách nhìn nhận về biểu tượng:
Các tác giả trong cuốn “Từ đ ển thu t ngữ văn ọc” cho rằng: “Biểu tượng
là một p ương t ức chuyển ng ĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thu t
đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa k qu t được bản chất của một
hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết
lý sâu xa về con người và cuộc đời” [16; tr.24].
Các tác giả trong cuốn “Từ đ ển Tiếng Việt” cho rằng: “Biểu tượng là hình
thức, cao ơn cảm giác, cho ta hình ảnh về sự v t còn lưu g ữ lạ trong đầu
óc sau k t c động của sự v t vào g c quan ta đ c ấm dứt” [37; tr.64].
Nguyễn Thị Ngân Hoa trong Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học đã quan niệm:
Biểu tượng nghệ thuật là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa trong
những ngành nghệ thuật khác nhau (hội họa, âm nhạc, văn học…). iểu tượng
nghệ thuật ngôn từ là sự chuyển hóa, sáng tạo lại biểu tượng nhận thức trong
đời sống tâm lí thành biểu tượng biểu đạt trong phạm vi nghệ thuật [25].
Về cơ bản, khi nghiên cứu về biểu tượng, mỗi nhà nghiên cứu sẽ tìm cho
mình những hướng tiếp cận khác nhau, tạo nên những điểm khác nhau trong
việc tạo nên các khái niệm. Do đó, sự tồn tại của nhiều khái niệm về biểu
tượng trong các ngành khoa học khác nhau à điều có thể lý giải được.
23
1.1.2. Đặc đ ểm của biểu tượng
Biểu tượng bao giờ cũng có hai nửa, một nửa luôn có thể tri giác được
một cách dễ dàng còn một nửa ẩn chìm, khuất lấp và khó nắm bắt. Về phương
diện này, mặt tri giác được ở biểu tượng được gọi là cái biểu trưng, còn cái bị
chìm sâu, cần khai mở gọi à cái được biểu trưng. Việc giải mã các biểu tượng
là việc tìm ra và lí giải được những nội dung nghĩa ở phần chìm lấp, bị che
khuất. Vì vậy, biểu tượng thường được hiểu rộng hơn nghĩa được gán cho nó.
Biểu tượng có một số những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, biểu tượng có tính chất sống động, khó nắm bắt, khó xác định.
Biểu tượng có mặt ở nhiều phương diện của đời sống bởi mọi vật đều có thể
mang giá trị biểu tượng, dù là vật tự nhiên hay trừu tượng. Đó có thể là các
hình tượng nghệ thuật, các mô thức ứng xử trong lối sống, phong tục, tập
quán, huyền thoại, chiêm mộng… Giá trị của biểu tượng được xác định trong
chính trong sự chuyển vượt từ cái đã biết sang cái chưa biết, từ cái đã diễn đạt
sang khó tả nên lời. Tính sống động, khó nắm bắt của biểu tượng được biểu
hiện ở điểm: “Biểu tượng vẫn nằm trong lịch sử, nó không xóa bỏ hiện thực,
nó không phá hủy dấu hiệu. Nó t êm vào đó một chiều nữa, là chiều nổi,
chiều thẳng đứng; từ sự kiện đồ v t, dấu hiệu, nó thiết l p những m i quan hệ
ngoại-lý trí, g àu tưởng tượng, giữa các cấp độ tồn tại và giữa các thế giớ vũ
trụ, con người, thần thánh” [2;xxvi]. Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định
cái được coi là biểu tượng và cái không phải là biểu tượng nhiều khi gặp
nhiều khó khăn. Nếu một đối tượng nào đó được coi là biểu tượng thì cái mà
nó biểu trưng uôn được người ta suy luận ra một cách hợp lý.
Thứ hai, biểu tượng có tính chất ổn định tương đối. Một yếu tố hay một
thực thể nào đó trở thành biểu tượng, trước hết nó phải có tính ổn định. Sự ổn
định này, về cơ bản được xem xét dưới góc độ mối liên hệ giữa cái biểu trưng
và cái được biểu trưng. Tính ổn định thể hiện ở sự không thay đổi hoặc ít thay
đổi trong một thời gian nào đó. Nhờ có tính ổn định này mà việc khám phá
24
biểu tượng mới có nghĩa. Chẳng hạn, “… n c ếc chén l t ngược, biểu
tượng bầu trời, biểu đạt, không chỉ sự gi ng nhau dễ thấy của cùng một hình
nét mà là tất cả những gì bầu trời gợi lên trong vô thức: sự bình an, sự bao
bọc, nơ cư ngụ của các thánh thần, cội nguồn của thịn vượng và hiền
m n …” [2, xxviii]. Như vậy, một mặt biểu tượng vừa có tính sống động, khó
nắm bắt, mặt khác biểu tượng cũng có tính ổn định tương đối trong thời gian
dài và không gian rộng.
Thứ ba, “biểu tượng có thể lý giả được nhờ những liên hệ, hỗ trợ với
những yếu t trong một trường l ên tưởng” [13, tr.67]. “Hễ xuất hiện một
tương quan về cấp độ giữa hai hình ảnh hay hai thực tế, một m i liên hệ về
tôn ti bất kỳ, có ay k ông có cơ sở trên một sự phân tích duy lý, thì một biểu
tượng sẽ được hình thành một cách tiềm tàng” [2, xxviii]. Như vậy có thể
thấy, để được xác định là một biểu tượng thì một yếu tố nào đó phải đảm bảo
hai điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần là nó phải được đặt trong một hệ thống
đã được xác lập bởi những tiêu chí nhất định; điều kiện đủ là nó phải có
những điểm tương quan hay mối liên hệ với chính hệ thống mà nó được đặt
vào. Nhờ những mối liên hệ mà biểu tượng có chức năng trung gian.
Thứ tư, biểu tượng luôn mang tính quan niệm. Nó thực sự không nằm ở
bề mặt của các sự vật, hiện tượng mà chìm sâu trong các lớp nghĩa của các sự
vật, hiện tượng đó. “Quan niệm của người ta về muôn v t n ư t ế nào sẽ bộc
lộ qua hệ th ng các biểu tượng phản ánh quan niệm đó và qua ệ th ng các
biểu tượng của một cộng đồng dân tộc nào đó có t ể hiểu được quan niệm
của cộng đồng đó về vũ trụ, tự n ên, con ngườ …” [13, tr.72]. Tuy nhiên, sự
xâm nhập giữa biểu tượng và cái được biểu trưng không phải bao giờ cũng
chỉ có một cấp độ. Ngược lại chúng có nhiều cấp độ khác nhau. Những cấp độ
xâm nhập này ít nhiều bị chế định bởi trình độ tư duy và quan niệm về nghệ
thuật của con người trong những thời đại khác nhau, thậm chí những tầng lớp
25
và cá nhân khác nhau. Trong đó, những biểu tượng đơn giản nhất bao giờ
cũng có sự gần gũi với thực tế.
1.1.3. Phân biệt biểu tượng văn ọc với ẩn dụ, n tượng
1.1.3.1. Phân biệt biểu tượng văn học với ẩn dụ
Giữa biểu tượng văn học với ẩn dụ có những điểm chung. Điểm chung
này được thể hiện ở chỗ, cả ẩn dụ và biểu tượng đều được hình thành trên cơ
sở đối chiếu so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía
cạnh, những đặc điểm gần gũi tương đồng nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra
một ý niệm cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối tượng đó.
Theo từ điển “Thu t ngữ văn ọc”, “Ẩn dụ là p ương t ức tu từ dựa trên
cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia, mà bản
t ân c u được nói tới thì giấu đ một c c kín đ o” [16, tr.11].
PGS. TS. Phạm Thu Yến, trong một bài nghiên cứu cũng đã đưa ra những
nhận định nhằm phân biệt biểu tượng với ẩn dụ: Biểu tượng mang tính ký hiệu,
tính quy ước, nghĩa à chỉ cần nêu lên hình ảnh biểu tượng ên người đọc đã
hiểu cái mà nó biểu trưng, còn ẩn dụ tự do hơn, thường được tạo ra không phải
chỉ bằng một hai hình ảnh mà phải bằng vài ba hình ảnh. Vì thế, các yếu tố cần
phải dựa vào nhau để giải mã ẩn dụ. Ẩn dụ linh hoạt, trường iên tưởng rộng rãi
hơn biểu tượng, nhưng không bền vững bằng biểu tượng [84].
Khi xét một hình ảnh nghệ thuật cụ thể nào đó để xem đó à một biểu
tượng hay ẩn dụ, có thể dựa trên một số những căn cứ sau: Thứ nhất, căn cứ
vào tần số xuất hiện của hình ảnh đó, hình ảnh đó có quen thuộc không. Thứ
hai, căn cứ vào tính quy ước của hình ảnh. Nghĩa à, khi xem xét hình ảnh nào
đó, người đọc có thể nhận biết ngay được giá trị biểu trưng của nó hay là phải
cần có mối iên tưởng nào đó mới có thể giải mã được. Thứ ba, căn cứ vào
tính bền vững của nghĩa biểu trưng. Nghĩa à nghĩa của một hình ảnh nào
đó có sự biến đổi trong những văn cảnh khác nhau hay không, hay những ý
26
nghĩa biểu trưng ấy có tính bền vững trong mọi trường hợp. Như vậy, có thể
thấy rằng, biểu tượng là ẩn dụ được sử dụng ở tần xuất cao khi mà bản thân ý
nghĩa của nó đã mang tính quy ước cố định, giá trị biểu tượng của hình ảnh đã
được cố định trong cách hiểu.
1.1.3.2. Phân biệt giữa biểu tượng với hình tượng
Theo “Từ đ ển thu t ngữ văn ọc”, “H n tượng nghệ thu t chính là các
khách thể đời s ng được nghệ sĩ t ện bằng tưởng tượng sáng tạo trong
những tác phẩm nghệ thu t” [16, tr.147].
Hình tượng nghệ thuật có một số đặc điểm giống biểu tượng văn học. Thứ
nhất, cả hình tượng nghệ thuật và biểu tượng văn học đều được biểu hiện
bằng giá trị nhận thức, cảm tính, chủ quan của người nghệ sĩ trong việc phản
ánh thực tại khách quan. Thứ hai, cả hình tượng và biểu tượng đều sử dụng
những phương tiện biểu đạt chung là ngôn ngữ.
Tuy nhiên, giữa biểu tượng với hình tượng có những điểm khác nhau cơ
bản nhằm phân biệt chúng với nhau. Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật
không bao giờ vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể; ngược lại,
biểu tượng uôn vượt quá khuôn khổ và giới hạn của sự biểu đạt, biểu nghĩa.
Hình tượng nghệ thuật thường chuyên chở một nghĩa biểu đạt duy nhất theo
dụng ý của người nghệ sĩ; biểu tượng có năng ực biểu hiện rộng hơn nghĩa
mà con người gán ghép cho nó. Ngoài ra, nếu như hình tượng nghệ thuật
hướng đến sự tự do, toàn mĩ, độc đáo, không trùng ặp thì ở biểu tượng, các
giá trị nhận thức của con người uôn được nhận thức trong cái tổng thể rộng
lớn mang tính thống nhất và phổ biến.
Trên đây à những nét tương đồng và dị biệt giữa biểu tượng văn học với
ẩn dụ và hình tượng. Bên cạnh đó, cần thấy rằng mọi sự phân định chỉ mang ý
nghĩa tương đối. Mặc dù vậy, sự phân định này sẽ à cơ sở để tiến hành phân
27
loại nhằm hiểu sâu hơn bản chất của biểu tượng nói chung, biểu tượng khèn
trong dân ca Mông nói riêng.
1.2. Biểu tƣợng trong văn hóa và văn học dân gian
1.2.1. Một s khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm văn hóa
Nhà nghiên cứu Asa Briggs cho rằng, “khái niệm văn óa có xuất xứ nông
nghiệp: đầu tiên nó liên quan đến sự c ăm sóc ay “can t c” mùa màng”
[61,tr.357]. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nó, thuật ngữ này đã tiếp
nhận những nghĩa mới xa dần với những xuất xứ mờ nhạt của nó. Ở Việt
Nam, hiện tại đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa khá tiêu biểu,
được sử dụng rộng rãi như: “Cơ sở văn óa V ệt Nam” của Trần Ngọc Thêm;
“Cơ sở văn óa V ệt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên); “Bản sắc văn
hóa Việt Nam” của Phan Ngọc…
Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, “Văn óa là một hệ th ng hữu cơ
các giá trị v t chất và tinh thần do con người sáng tạo và tíc lũy qua qu
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương t c g ữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [60, tr.10]. Định nghĩa này đã nêu bật được bốn
đặc trưng quan trọng của văn hóa như: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch
sử, tính nhân sinh.
Theo định nghĩa của Unesco, “Văn óa […] có t ể coi là tổng thể những
nét riêng biệt tinh thần và v t chất, trí tuệ và xác cảm quyết định tính cách
của một xã hội hay của một n óm người trong xã hộ . Văn hóa bao gồm nghệ
thu t và văn c ương, n ững l i s ng, những quyền cơ bản của con người,
những hệ th ng các giá trị, những t p tục và những tín ngưỡng…” [Dẫn theo
Trần Quốc Vượng, 79].
Theo PGS.TS. Nguyễn Bích Hà, “Văn óa là p ức thể các giá trị v t
chất, tinh thần do con ngườ t c động đến tự nhiên, xã hội và bản thân trong
28
quá trình lịch sử lâu dài mà tạo nên. Nó tích tụ và thể hiện diện mạo, bản sắc
riêng của mỗi cộng đồng” [13; tr.20].
Như vậy, nhìn chung các ý kiến đưa ra đều gặp nhau ở một điểm chung,
đó à văn hóa không phải là một ĩnh vực riêng biệt. Văn hóa à tổng thể nói
chung những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình phát triển.
1.2.1.2. Văn hóa dân gian
Khi nói đến văn hóa, không thể không nhắc tới những bộ phận cấu thành
nên văn hóa cũng như những đặc trưng của nó. Trong đó, văn hóa dân gian
được coi là một bộ phận quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tạo nên
những sắc màu riêng biệt của mỗi nền văn hóa.
Theo PGS.TS. Nguyễn Bích Hà: “Nhìn từ góc độ văn óa, t văn óa
dân gian là những giá trị v t thể và phi v t thể mang quan niệm dân gian, do
nhân dân sáng tạo nên từ thời tiền sử và sơ sử” [13; tr.30].
GS.TS. Vũ Anh Tuấn đã đưa ra cách hiểu về văn hóa dân gian ứng với
khái niệm folklore khi xem xét theo nghĩa rộng: “Văn óa dân g an […] bao
gồm toàn bộ các giá trị văn óa v t chất, văn hóa tinh thần được nhân dân
sáng tạo, bảo tồn và lưu c uyển qua các thế hệ, trở thành các giá trị truyền
th ng của một dân tộc, trong đó có văn óa ng ệ thu t phi chính th ng ở mọi
thờ đại” [75, tr.7].
Các định nghĩa về văn hóa dân gian đã đề cập phía trên tuy được xem
xét ở những góc độ khác nhau nhưng đều có chung một điểm: coi văn hóa
dân gian là những giá trị thuộc về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần,
được nhân dân sáng tạo, ưu truyền và trở thành tài sản quý báu của nhiều
thế hệ. Ở Việt Nam, văn hóa dân gian tồn tại với tư cách à một bộ phận
tiêu biểu, đặc trưng nhất trong việc kiến tạo nên nền văn hóa của những cư
dân nông nghiệp.
29
1.2.1.3. Văn học dân gian
Giữa văn hóa và truyền thống có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau.
Theo quan niệm của Herder “… văn óa và truyền th ng được thể hiện nhiều
nhất và trung thực nhất trong thi ca của dân gian, trong các bài dân ca và
văn ọc dân gian” [61, tr.379].
Theo nhóm tác giả trong cuốn giáo trình “Văn ọc dân gian” do GS.
Đinh Gia Khánh chủ biên, “Văn ọc dân gian là những sáng tác t p thể,
truyền miệng của n ân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy,
trải qua các thời kỳ phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp,
tiếp tục tồn tại trong thờ đại hiện nay” [34, tr.7].
Theo GS.TS. Vũ Anh Tuấn, “Văn ọc dân gian cổ truyền là toàn bộ các
thể loại sáng tác nghệ thu t ngôn từ truyền miệng, được sáng tác và không
ngừng tái tạo lại theo phương t ức t p thể qua nhiều đời chọn lọc và gọt g ũa
của nhân dân, có vị trí n ư một thành t quan trọng trong chỉnh thể văn óa
và văn ng ệ dân gian của cộng đồng dân tộc, có tính nguyên hợp” [75, tr.8].
GS.TS. Lê Chí Quế cho rằng “Văn ọc dân g an […] dùng để chỉ những
thể loạ s ng t c dân g an trong đó t àn p ần nghệ thu t ngôn từ (tức thành
phần văn ọc) chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ nó cũng có m i quan hệ
hữu cơ với các thành phần nghệ thu t và phi nghệ thu t khác” [39, tr.11].
Như vậy, các định nghĩa trên cơ bản cùng giống nhau ở chỗ cho rằng văn
học dân gian là một bộ phận của văn hóa dân gian, ấy ngôn từ àm phương
tiện cơ bản nhằm thể hiện những quan niệm của quần chúng nhân dân thông
qua những hình tượng nghệ thuật khác nhau. Văn học dân gian, do là một
thành tố thuộc về văn hóa dân gian nên dù do vô thức hoặc tự ý thức, nó có cơ
hội thẩm thấu những quan niệm khác nhau của văn hóa như: phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Chính điều này làm cho văn học dân gian có chiều
sâu và kết tinh được những giá trị tiêu biểu của văn hóa truyền thống: “Hàng
30
loạt những m văn óa đ òa n p cùng tín ngưỡng, náu mình trong thần
tích, kí thác ở tâm linh, ẩn tàng trong phong tục t p quán, thẩm thấu vào
VHDG ... Riêng với VHDG, nhiều chi tiết trong đó c ín là nơ lưu g ữ một
cách hồn nhiên và trung thực các tín hiệu văn óa, n ư một bảo tàng văn
hóa” [13, tr.35].
1.2.1.4. Dân ca
Hiện tại, ở Việt Nam, khái niệm về dân ca đã được rất nhiều công trình
nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, để phù hợp với mục tiêu của đề tài, chúng
tôi sẽ tập trung vào khái niệm dân ca các dân tộc thiểu số (DTTS).
GS.TSKH. Phan Đăng Nhật đã nêu định nghĩa về dân ca các DTTS như
sau: “dân ca là một loại hình sáng tác dân gian chủ yếu có tính chất trữ tình
dưới hình thức ngôn ngữ có vần đ ệu gắn liền với ca hát” [80, tr.18].
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng dân ca (DTTS) à “những bài hát
ngâm hay kể bằng văn vần, hoặc độc l p, hoặc kèm theo nhạc, đ ệu múa, trò
c ơ , oặc tự một người thể hiện hay một t p thể cùng tham gia… Đó là bài
hát ngắn dăm bảy câu đến àng trăm, àng ngàn câu cắt ra từng khúc, từng
đoạn” [80, tr.18].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, dân ca các DTTS là
một bộ phận phong phú, đa dạng của văn học dân gian các DTTS Việt Nam.
Đó à nơi thể hiện một cách sinh động nhất những nét đặc trưng riêng biệt của
văn hóa từng dân tộc, là những mảng màu riêng biệt trong bức tranh đa sắc
màu của nền văn hóa Việt Nam.
1.2.2. Đặc đ ểm của biểu tượng trong văn óa và văn ọc dân gian
Dễ nhận thấy, biểu tượng tồn tại trong mọi ĩnh vực của đời sống con
người. Trong bất cứ khía cạnh nào của đời sống, con người cũng có thể bắt
gặp biểu tượng. Tuy nhiên, ở mỗi ĩnh vực cụ thể, biểu tượng lại biểu hiện
dưới những hình thức khác nhau. Do đó, tuy à một thực thể khó nắm bắt,
31
nhưng ứng với mỗi ĩnh vực khác nhau, biểu tượng sẽ được nhận biết, giải mã
bằng những phương thức khác nhau. Trong văn học, biểu tượng có tồn tại.
Tuy nhiên, có một điều cần nhận thấy, văn học là một loại hình nghệ thuật
ngôn từ nên biểu tượng của văn học tất yếu có iên quan đến ngôn từ.
Biểu tượng xuất hiện trước hết do nhu cầu của con người trong quá trình
khám phá và lý giải thế giới. Vì vậy, biểu tượng sớm tồn tại trong tư duy của
con người và được coi là một thành tố, một hạt nhân cơ bản của mọi nền văn
hóa. Từ địa hạt của đời sống văn hóa gắn với những phong tục, tín ngưỡng,
nghi lễ khác nhau…, biểu tượng dần tiệm cận vào đời sống nghệ thuậtvăn
chương. Sớm nhất và giàu nghĩa nhất, trước hết phải kể đến nền văn học
dân gian. Trong văn học dân gian, biểu tượng luôn có sự hòa quyện giữa các
đặc trưng của văn hóa với các đặc trưng của văn học dân gian.
Về cơ bản, biểu tượng văn học dân gian có những đặc trưng sau:
Một là, biểu tượng văn học dân gian là biểu tượng đa nghĩa, được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hai là, biểu tượng văn học dân gian mang bản chất của biểu tượng ngôn
từ nghệ thuật.
Ba là, biểu tượng văn học dân gian chịu ảnh hưởng của đặc điểm thế loại.
Bốn là, biểu tượng của văn học dân gian mang đặc điểm ưỡng phân,
ưỡng hợp.
Năm à, biểu tượng văn học dân gian mang đậm đà bản sắc văn hóa của
tộc người. [21]
Trong nền văn hóa, văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng vô cùng phong
phú, đa dạng cả về số ượng, hình thức và nghĩa biểu hiện. Do đó, một mặt,
biểu tượng vừa gần gũi nhưng mặt khác, biểu tượng vô cùng khó nắm bắt. Tuy
vậy, để có thể hình dung một cách khái quát nhất về biểu tượng, các nhà nghiên
cứu đã sắp xếp chúng vào những nhóm nhỏ mà tiêu biểu hơn cả là nhóm biểu
32
tượng thuộc về tín ngưỡng và nhóm biểu tượng thuộc về phong tục tập quán
[13]. Có thể thấy dù là có cội nguồn từ đâu đi chăng nữa thì biểu tượng vẫn
luôn tồn tại trong ký ức văn hóa của con người nói chung, người Việt nói riêng.
Những biểu tượng này không chỉ àm cho văn hóa có được chiều sâu, mang
đậm tính bản sắc mà nó còn góp phần biểu hiện thế giới tinh thần của con
người và những quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan. Khi tiến vào địa
hạt của văn chương, biểu tượng này trở nên cụ thể hơn bởi được gắn vào những
ngữ cảnh khác nhau. Cũng chính vì thế mà nghĩa biểu đạt của biểu tượng bao
giờ cũng trọn vẹn, đầy đủ và dễ dàng nắm bắt hơn.
1.3. Dân ca Mông và biểu tƣợng khèn trong đời sống văn hóa Mông
1.3.1. Dân ca Mông
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc Mông là một thành
viên quan trọng trong cộng đồng anh em các dân tộc thiểu số. Cùng với chiều
dài lịch sử, dân tộc Mông vốn có một nền văn học dân gian phong phú, đa
dạng, phản ánh đời sống văn hóa cũng như tâm nguyện của cả cộng đồng.
Các thể loại văn học dân gian của dân tộc Mông cũng giống như các dân tộc
khác, khá đa dạng và phong phú, bao gồm: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
truyện thơ dân gian… và đặc biệt à thơ ca dân gian. Trong thơ ca dân gian,
dân ca được coi như à một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đồng
bào Mông. Nó giống như món mèn mén, chén rượu ngô thấm đẫm vào tâm
hồn mỗi người Mông, làm cho cuộc sống nơi rẻo cao trở nên say nồng và
đượm thắm.
Đối với người Mông, dân ca bao trùm lên toàn bộ các ĩnh vực khác nhau
của đời sống, nó gắn với con người trong những giai đoạn khác nhau của đời
người. Căn cứ vào nội dung, hiện nay dân ca Mông được phân loại theo nhiều
cách khác nhau. Tuy nhiên, dựa trên việc kế thừa những thành tựu của các
nhà nghiên cứu đi trước, căn cứ vào thực tế các tài liệu trong phạm vi khảo
33
sát, chúng đôi tán thành với cách phân loại dân ca Mông của nhà sưu tầm
Doãn Thanh, chia dân ca Mông thành năm nhóm ớn:
Nhóm thứ nhất, tiếng hát mồ côi (gâux tuz juôs). Nhóm này gồm những
bài hát mô tả nỗi khổ đau, cơ cực của những người bất hạnh, cha mẹ mất sớm.
Nội dung của những bài Tiếng hát mồ côi không chỉ nêu lên nghịch cảnh và
tâm sự của kẻ mồ côi mà còn tố cáo sự bất công của xã hội cũ đối với những
kẻ thân cô thế cô, mất cha mất mẹ. Bên cạnh nội dung tố cáo, Tiếng hát mồ
côi cũng nói ên được phần nào tinh thần tự tin của những con người mồ côi.
Nỗi thống khổ đã biến thành ý thức phản kháng quyết liệt, thể hiện khát vọng
tự do và vươn ra ánh sáng của những thân phận bất hạnh.
Nhóm thứ hai, tiếng hát tình yêu (gâux plênhz). Nhóm này gồm những bài
hát phong phú và đa dạng nhất trong kho tàng dân ca của người Mông, khắc
hoạ một cách rõ nét mọi cung bậc tình cảm trong tình yêu của con người
Mông. Giá trị chủ yếu của Tiếng hát tình yêu là ở chỗ nó đã phản ánh được
những ước mơ giản dị, trong sáng của những chàng trai, cô gái Mông... Tuy
vậy, cũng có thể nhận thấy rằng, trong nhóm này có nhiều bài hướng vào phê
phán những khía cạnh tiêu cực trong tình yêu.
Nhóm thứ ba, tiếng hát cưới xin (gâux yôngz). Đây à nhóm gồm những
bài hát do nam giới hát trong những dịp đám cưới, gồm hát nghi thức và hát
vui chơi. Thông thường, các bài hát này mang tính chất nghi thức nên tính
chất dân gian của nó có phần hạn chế. Loại hát vui chơi trong đám cưới thể
hiện đầy đủ hơn những nội dung của các bài ca Tiếng hát cưới xin. Cùng với
Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát cưới xin là một trong những nhu cầu thuộc về
đời sống tinh thần phong phú của người Mông.
Nhóm thứ tư, tiếng hát làm dâu (gâux uô nhangs). Nhóm này gồm những
bài diễn tả những nỗi đau khổ, uất ức của người phụ nữ Môngtrong xã hội cũ.
Tiếng hát àm dâu được coi như một bức tranh tái hiện cuộc đời đầy bi kịch
34
của những người phụ nữ không có quyền tự do. Ở họ nổi lên là sự dập vùi cả
về mặt tinh thần và thể xác, cuộc đời họ buồn tẻ như được số phận định sẵn:
làm con gái, làm vợ, làm mẹ, làm bà và rồi âm thầm trở về với đất. Tuy nhiên,
Tiếng hát àm dâu đã chứa đựng những mầm mống nhỏ nhoi của sự phản
kháng những mong thoát khỏi lễ giáo phong kiến của người phụ nữ Mông.
Thứ năm, tiếng hát cúng ma (gâux tuôs). Đây à nhóm những bài hát đặc
biệt chỉ dùng trong đám ma. Loại này không phổ biến trong đời sống sinh
hoạt thường ngày của nhân dân, mà khi già, cần thiết thì người ta mới học.
Tiếng hát cúng ma có thể chia thành: bài hát chỉ đường, các bài hát àm đám
cúng ma. Phần lớn các bài hát trong Tiếng hát cúng ma có nội dung kể lại
công ơn của cha mẹ đối với con cháu, kể lại nguồn gốc tổ tiên và các bài
khèn khóc người chết. Từ những bài hát này, nhân sinh quan, thế giới quan
của người Mông được bộc lộ khá sâu sắc; nhiều tính chất giáo huấn luân lý
tiến bộ; bộc lộ một phần nào đó những phong tục tập quán độc đáo của
người Mông.
Với dân ca, người Mông đã bộc lộ tư duy trực quan sinh động qua những
hình quen thuộc của núi rừng, ưa so sánh, ví von, bằng ngôn từ mộc mạc, dễ
nghe và dễ hiểu, nhiều bài có những điệp khúc được nhắc lại như một cách để
nhấn mạnh những ẩn ý mà nó chứa đựng... Đặc biệt, hệ thống biểu tượng
trong dân ca Mông vô cùng phong phú, hàm chứa những nội dung đầy ý
nghĩa và vô cùng độc đáo. Chính điều này làm cho dân ca Mông có sức hút
mạnh mẽ đối với nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, trong đó nổi bật à văn
học và văn hóa.
1.3.2. Biểu tượng k èn trong đời s ng văn óa Mông
Dễ nhận thấy, nguồn gốc tộc người, môi trường sinh sống và các cuộc
thiên di tự do trong lịch sử đã tạo cho người Mông một đời sống văn hoá vô
cùng phong phú. Có thể ví đời sống văn hoá của họ như một dòng chảy ngầm
35
mà trong đó iên tục diễn ra các quá trình chống lại sự xâm hại của các điều
kiện tự nhiên và lịch sử với các giá trị đã được xác định trong truyền thống.
Con cháu của người Mông xa xưa khi di cư đến Việt Nam đã mang theo
những suy tư và niềm khát khao dằng dặc của cha ông mình. Trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, họ vẫn tìm thấy niềm an ủi và đồng vọng với những
tâm tư, tình cảm của mình trong di sản văn hoá của cha ông. Góp phần vào
làm phong phú thêm đời sống văn hoá dân tộc Mông, ngoài các tác phẩm văn
học dân gian, cần phải kể đến hệ thống âm nhạc vô cùng đặc sắc. Trong đó phải
kể đến các nhạc cụ: khèn, sáo, tiêu, kèn á, đàn môi... mà trong đó khèn được coi
là nhạc cụ đặc trưng tiêu biểu của người Mông nói chung.
Về cấu tạo, khèn Mông có ba phần: thân khèn là một dóng gỗ dài có lỗ nhận
hơi nén xuống; bầu khèn là phần trọng tâm của cả cây khèn, à đoạn gỗ phình to
như quả hoa chuối, hai đầu thon nhọn. Bầu khèn để sáu dóng trúc to, nhỏ ngắn
dài luồn qua. Sáu dóng trúc thả hơi à phần để các ngón tay người dùng bấm, tạo
âm thanh khi thổi khèn. Như vậy, có thể thấy khèn nằm trong bộ hơi, được cấu
tạo từ nguyên liệu gỗ và các dóng trúc có các lỗ thoát hơi, phát ra những âm
thanh nhờ sự điều chỉnh của hơi.
Trong đời sống của người Mông, bên cạnh những nhạc cụ khác, khèn chiếm
một vị trí vô cùng quan trọng. Trước hết, sự quan trọng của khèn được thể hiện
trong nghi lễ tang ma. Trong quan niệm của người Mông, tang ma luôn phải tiến
hành qua hai giai đoạn là nghi lễ àm ma tươi và nghi ễ làm ma khô. Với nghi lễ
ma tươi, khi gia đình có người chết, người ta bắn lên trời ba phát súng kíp để báo
hiệu cho làng bản biết và gọi thầy khèn, thầy cúng tới. Sau khi tắm và mặc quần
áo cho người chết, người ta sẽ tiến hành phần lễ với việc thầy cúng đọc bài ca
“chỉ đường” cho người chết tìm về với tổ tiên. Suốt thời gian đó, gia chủ mỗi
bữa đều phải làm lễ cúng cơm. Khèn, trống được thổi suốt trong nghi lễ làm ma
tươi cho đến khi mang người chết đi chôn. Nhìn chung, nghi lễ àm ma tươi diễn
36
ra nhanh chóng và ở mỗi nghi thức quan trọng của buổi lễ thì đều có những
bài khèn tương ứng. Sau khi chôn cất 13 ngày, hoặc tùy theo điều kiện của gia
chủ, người ta phải tiến hành làm lễ ma khô cho người chết vì theo quan niệm
của người Mông, khi chưa àm ễ ma khô thì tội lỗi của người chết chưa thể
được rửa sạch và chưa thể hóa kiếp được. Lễ ma khô của người Mông được
chuẩn bị cực kỳ chu đáo và không thể thiếu thầy khèn, thầy trống. Trong lễ
làm ma khô, con cháu của người chết sẽ làm một hình nộm để tượng trưng
cho người chết. Nhìn chung, trong cả hai giai đoạn tiến hành tang ma, khèn là
nhạc cụ không thể thiếu.
Trong hội hè, các dịp sinh hoạt cộng đồng, khèn đóng một vai trò quan
trọng. Không chỉ góp phần làm nên bản sắc trong đời sống tâm linh, khèn còn
được xem là vật tượng trưng cho tâm hồn, khát vọng, tình yêu, tuổi trẻ của người
Mông, đặc biệt là các chàng trai. Trong những lễ hội của người Mông, nếu như
những cô gái với phục trang cầu kỳ, tay cầm chiếc ô mới, miệng nở nụ cười tươi
đùa vui thành từng nhóm thì những chàng trai, với thân hình vạm vỡ lại tụ tập
nhau để múa khèn, thổi khèn. Ở những dãy núi sừng sững ấy, âm thanh của khèn
nhẹ nhàng lả ướt như một àn sương mỏng, đậm chất dân dã như chính tâm hồn
người Mông àm người nghe thao thiết muốn tìm về mãi mãi. Tiếng khèn thấm
sâu vào máu thịt người Mông, thân quen như miếng mèn mén hay bát thắng cố
còn nghi ngút khói bên những chum rượu ấm lòng trong những ngày lễ tết.
Với người Mông, cây khèn không chỉ là nhạc cụ để giải trí hay công cụ để
đưa inh mà còn có chức năng giáo dục. Khi xét về nguồn gốc, cây khèn là biểu
tượng cho lòng hiếu thảo của những chàng trai Mông. Vì thương nhớ bố, người
con trai đã ấy dao chặt trúc và thổi, những đoạn trúc ngắn dài hợp lại đã tạo ra
những âm thanh kì thú. Sau khi chàng trai này chết những người đời sau đã học
tập và dùng khèn thổi trong những đám tang để tỏ lòng hiếu thảo. Do vậy, với
người Mông, hàm chứa đằng sau chiếc khèn còn là bài học về tấm lòng hiếu thảo
37
của con cái đối với cha mẹ. Ngoài ra, việc truyền dạy từ những người cha, người
anh cho thế hệ sau những bài khèn truyền thống của dân tộc với nội dung
phong phú đa dạng cũng được coi là một sự giáo dục có tính truyền thống.
Những chàng trai chăm học khèn và biết thổi khèn hay múa khèn khéo sẽ là
những người đàn ông giỏi giang, biết lo toan sắp xếp gia đình vì họ có ý thức
trách nhiệm giữ gìn phong tục, tập quán của tổ tiên.
* Tiểu kết
Biểu tượng, với tư cách à hạt nhân của văn hóa đã chứa đựng những quan
niệm về nhân sinh quan, thế giới quan của con người ở nhiều thế hệ khác
nhau. Ứng với mỗi nền văn hóa, những đặc trưng tiêu biểu nhất, những đặc
điểm phản ánh rõ nét nhất tâm thức cộng đồng, dù ít hay nhiều cũng đã khúc
xạ vào thế giới biểu tượng và làm cho nó ngày càng trở nên phong phú hơn.
Vì lẽ đó, biểu tượng nằm ở vị trí trung tâm của văn hóa và được coi như chìa
khóa để có thể tiến hành khai mở và giải các mã văn hóa. Trong nền văn hóa
dân gian Việt Nam nói chung, thế giới biểu tượng vô cùng phong phú. Riêng
với bộ phận văn học dân gian, các biểu tượng được hình thành và tồn tại dựa
trên một hệ thống các giá trị đã được xác lập theo những chuẩn mực và tiêu
chí nhất định. Trong bức tranh nhiều màu sắc của văn học dân gian các dân
tộc thiểu số, dân ca Mông được coi à nơi chứa đựng những biểu tượng vô
cùng độc đáo. Trong đó, khèn được coi là một trong những biểu tượng tiêu
biểu nhất. Những biểu tượng này không chỉ góp phần thể hiện đời sống văn
hóa vật chất mà còn thể hiện đời sống tâm inh, tín ngưỡng cùng những quan
niệm sâu sắc về thế giới và con người của đồng bào Mông.
38
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG
2.1. Nh ng định hƣớng chung trong khảo sát, thống kê, phân loại
2.1.1. Mục đíc
Biểu tượng vốn là một thực thể vô cùng sống động và khó nắm bắt. Mỗi ý
nghĩa biểu tượng lại nói lên một mặt biểu hiện của đời sống xã hội, có bao
nhiêu biểu hiện của đời sống xã hội là có bấy nhiêu nghĩa tương ứng có
trong từng biểu tượng. Do vậy, có thể thấy rằng mỗi một biểu tượng thường
hàm chứa không phải chỉ là một, mà là nhiều nghĩa biểu trưng khác nhau.
Điều này làm cho biểu tượng vừa khó nắm bắt nhưng không kém phần hấp dẫn.
Trong dân ca Mông, khèn được coi là biểu tượng đã nghĩa, đa dạng; được
biểu hiện trong nhiều trường hợp cụ thể khác nhau. Ở biểu tượng khèn, tính
phức hợp của các hình thái nghĩa đã hướng con người đến nhiều khía cạnh
khác nhau của đời sống văn hóa, tâm inh của cộng đồng người Mông. Tuy
nhiên, việc nắm bắt và lý giải những cội nguồn của những hướng nghĩa này
không phải à điều dễ dàng bởi biểu tượng vốn vô cùng khó nắm bắt. Để có
cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể về biểu tượng khèn, khi tìm hiểu biểu
tượng khèn trong dân ca Mông, luận văn sẽ thực hiện các thao tác thống kê,
phân loại các hình thức biểu hiện của biểu tượng này. Từ đó, uận văn sẽ gợi
mở ra những hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng này trong dân ca Mông. Kết
quả của quá trình này sẽ à cơ sở để luận văn đưa ra những kết luận có tính
thực tiễn và tính thuyết phục trong việc giải mã biểu tượng khèn trong chương
III. Xuất phát từ mục đích đã đề ra, luận văn được định hướng với các nhiệm
vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn sẽ tiến hành khảo sát và thống kê tần số xuất hiện của
biểu tượng khèn trong dân ca Mông ở từng tài liệu cụ thể. Đồng thời, căn cứ
vào kết quả khảo sát thu được, luận văn sẽ tiến hành đối chiếu với một số loại
biểu tượng đồ vật khác được khảo sát trong dân ca Mông như: trống, đàn môi,
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf
NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngChamcham239
 
Cơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namCơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namLinh Le
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaNguyễn Duy Bình
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngPham Van Tam
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Was ist angesagt? (20)

[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người TàyThi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
 
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
Cơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namCơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt nam
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 

Ähnlich wie NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf

Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdf
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdfLV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdf
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdfthuhuynhp1
 
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945anh hieu
 

Ähnlich wie NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf (20)

Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
 
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đLuận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
 
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đLuận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAYLuận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
 
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh BìnhĐề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
 
Thế giới nghệ thuật trong truyện thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn
Thế giới nghệ thuật trong truyện thiếu nhi của Phan Thị Thanh NhànThế giới nghệ thuật trong truyện thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn
Thế giới nghệ thuật trong truyện thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn
 
Luận văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện của Phan Thị Thanh Nhàn
Luận văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện của Phan Thị Thanh NhànLuận văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện của Phan Thị Thanh Nhàn
Luận văn: Thế giới nghệ thuật trong truyện của Phan Thị Thanh Nhàn
 
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdf
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdfLV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdf
LV thạc sĩ. NNH. TGNT TRONG CHÙA ĐÀN.2023.pdf
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 

Mehr von NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 

Mehr von NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Kürzlich hochgeladen

Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem Số Mệnh
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"LaiHoang6
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiTruongThiDiemQuynhQP
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfGieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfXem Số Mệnh
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hardBookoTime
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem Số Mệnh
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ haoBookoTime
 

Kürzlich hochgeladen (20)

Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfGieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
 
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
 

NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG THỊ THÙY ANH NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian Hà Nội - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG THỊ THÙY ANH NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG TỪ VĂN HÓA ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian Mã số: 60 22 01 25 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Chí Quế Hà Nội - 2014
  • 3. LỜI CẢM ƠN Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Lê Chí Quế - ngườ đ t n t n ướng dẫn em trong su t qu tr n t ực hiện lu n văn. Em xin gửi lời cảm ơn c ân thành tới Ban Giám hiệu, P òng Đào tạo sau đại học, Trường ĐH KXHX&NV – ĐH Qu c gia Hà Nội; Ban Chủ nhiệm k oa Văn ọc, các thầy cô giáo trong tổ văn ọc dân g an đ tạo đ ều kiện cho em trong su t quá trình học t p. Em cũng x n c ân t àn cảm ơn c c t ầy cô g o, đồng nghiệp thuộc Khoa Giáo dục Mầm non, Trường ĐH Sư p ạm – ĐH T Nguyên đ g úp đỡ và tạo đ ều kiện thu n lợ c o em trong qu tr n công t c để em có thể hoàn thiện lu n văn t eo t ờ g an quy định. Cu i cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến g a đình, bạn bè, những người luôn bên cạn , động viên em trong quá trình thực hiện lu n văn. Hà Nộ , ngày t ng năm 2014 Trƣơng Thị Thùy Anh
  • 4. 2 MỤC LỤC Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng, các hình Mở đầu ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 3 3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ......................... 17 4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 19 5. Đóng góp mới của luận văn ................................................................. 20 6. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 20 Chƣơng : Một số vấn đề uận chung về biểu tƣợng và nh ng vấn đề liên quan............................................................................................ 21 1.1. Một số vấn đề uận chung về biểu tượng...................................... 21 1.1.1. Khái niệm biểu tượng..................................................................... 21 1.1.2. Đặc điểm của biểu tượng ............................................................... 23 1.1.3. Phân biệt biểu tượng văn học với ẩn dụ, hình tượng..................... 25 1.2. Biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian................................. 27 1.2.1. Một vài khái niệm .......................................................................... 27 1.2.2. Đặc điểm của biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian...... 30 1.3. Dân ca và biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mông............... 32 1.3.1. Dân ca Mông.................................................................................. 32 1.3.2. Biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mông ............................ 34 Chƣơng 2: Khảo sát biểu tƣợng khèn trong dân ca Mông ................ 38 2.1. Những định hướng chung trong khảo sát, thống kê, phân loại......... 38 2.1.1. Mục đích......................................................................................... 38 2.1.2. Nguyên tắc thống kê ...................................................................... 39 2.1.3. Tư iệu khảo sát, thống kê.............................................................. 40
  • 5. 3 2.2. Thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông so với một số biểu tượng đồ vật khác....................................................... 41 2.2.1. Bảng thống kê ................................................................................ 41 2.2.2. Biểu đồ ........................................................................................... 42 2.2.3. Nhận xét ......................................................................................... 45 2.3. Thống kê tần số xuất hiện của các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông ...................................................................... 56 2.3.1. Bảng thống kê ................................................................................ 57 2.3.2. Biểu đồ ........................................................................................... 58 2.3.3. Nhận xét ......................................................................................... 59 Chƣơng 3: Giải mã một số hƣớng nghĩa cơ bản của biểu tƣợng khèn trong dân ca Mông.............................................................................. 67 3.1. Khèn – biểu tượng vật thiêng trong nghi lễ tang ma ........................ 67 3.1.1. Khèn – vật dẫn đường người chết về thế giới mường ma ............. 67 3.1.2. Khèn – vật trung gian giao tiếp giữa người sống với người chết .. 71 3.2. Khèn – biểu tượng tình nam.............................................................. 78 3.2.1. Tính nam biểu hiện trong vẻ đẹp thể chất và tâm hồn người đàn ông Mông................................................................................................................................. 78 3.2.2. Tính nam biểu hiện trong các phẩm chất thuộc về ý chí của người đàn ông Mông ....................................................................................... 83 3.2.3. Tính nam biểu hiện trong tình yêu đôi ứa..................................... 84 3.3. Một số hướng nghĩa biểu trưng khác của biểu tượng khèn .............. 87 3.3.1. Khèn – dấu hiệu phân biệt thế giới con người............................... 88 3.3.2. Khèn – biểu trưng cho thân phận con người.................................. 90 3.3.3. Khèn – biểu trưng cho hai trạng thái trong tình yêu...................... 91 Kết luận................................................................................................... 99 Tài liệu tham khảo ................................................................................ 103 Phụ lục
  • 6. 4 ANH MỤC C C ẢNG Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông............................................................................................. 41 Bảng 2.2. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn so với một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông.................................. 42 àng 2.3. ảng thống kê các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông ............................................................................ 57 ANH MỤC C C H NH Hình 2.1. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn trong các tác phẩm...................................................................................... 43 Hình 2.2. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn trong các tác phẩm ............................................................................ 43 Hình 2.3. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông...................... 44 Hình 2.4. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông...................... 44 Hình 2.5. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông .................................. 58 Hình 2.6. Biểu đồ hình tròn thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông .................................. 58
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn hóa à một bộ phận được hình thành nhờ sự tập hợp các thành tố nảy sinh song song với quá trình phát triển của xã hội oài người. Văn hóa được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau, nhưng dễ thấy nhất là khi nó tồn tại dưới hình thức các biểu tượng. Biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm, và được coi là tế bào của văn hóa. Hay nói cách khác, biểu tượng chính là sự mã hóa những giá trị thuộc về tinh thần của oài người dọc theo trục thời gian. Muốn hiểu được nghĩa của biểu tượng, người ta cần phải giải mã nghĩa của những biểu tượng đó. Việc giải mã biểu tượng không chỉ nhằm khám phá ra những giá trị văn hóa vĩnh hằng còn nằm ẩn trong đời sống cộng đồng mà còn hướng tới mở ra nhiều tầng nghĩa mới. Điều này xuất phát từ chỗ biểu tượng là một thực thể sống động, luôn có sự đắp đổi ý nghĩa. iểu tượng được sinh ra từ sự tư duy và tưởng tượng của con người nên trong quá trình phát triển, biểu tượng không ngừng được bồi đắp, àm đầy. Chính vì thế, ở nền văn học được thai nghén và sản sinh trong thời kỳ đầu tiên của xã hội oài người đã ẩn chứa những biểu tượng văn hóa vô cùng độc đáo. 1.2. Văn học dân gian, từ âu được ví như một kho báu khổng lồ bởi nó chứa đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú. Những tri thức này, về cơ bản được đúc kết dựa trên những trải nghiệm, kinh nghiệm thực tế và được truyền lại qua nhiều thế hệ. Vì lẽ đó, bức tranh văn học dân gian Việt Nam, thực chất là sự kết hợp của rất nhiều tri thức dân gian đã được nghệ thuật hóa với những gam màu riêng biệt. Tuy nhiên, cần thấy rằng trong quá trình vận động và phát triển, kho tàng văn học dân gian Việt Nam có sự cộng gộp của hai mảng lớn à văn học dân gian người Việt và văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Do vậy, khi nhắc đến những thành tựu của văn học dân gian của người Việt, cũng cần chú đến những đóng góp của văn học dân gian các dân
  • 8. 2 tộc thiểu số. Trong đó, cùng với văn học dân gian của các dân tộc Tày, Thái, Mường…, văn học dân gian của người Mông được coi là một trong những nền văn học vô cùng đặc sắc. Trong đó, dân ca được nhắc đến như một thành tố quan trọng nhất, cấu thành những sắc màu riêng biệt. Dân ca Mông tích hợp nhiều hình thức diễn xướng khác nhau, thể hiện những quan niệm riêng về cách cảm của người dân Mông về thế giới xung quanh. Thế nhưng, dù được thể hiện ở môi trường diễn xướng nào thì dân ca Mông vẫn là sự thể hiện sâu sắc những tri nhận về thiên nhiên, xã hội, con người... Và sâu hơn nữa, nó à nơi ưu giữ những biểu tượng gắn bó mật thiết với con người trong đời sống sinh hoạt và tâm linh. 1.3. Cũng như một số dân tộc khác, khèn là một trong những nhạc cụ gắn bó mật thiết đối với người Mông nói chung. Trước hết, khèn có nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống tâm inh, tín ngưỡng. Tiếng khèn không chỉ là sợi dây nối giữa con người với thế giới thần linh, giữa người đang sống với tổ tiên dòng họ, tiếng khèn còn là vật chỉ đường cho người chết tìm về với tổ tiên, là tiếng lòng của người sống với người chết… ên cạnh đó, tiếng khèn còn là khúc tâm tình của người bạn trai gửi tới người bạn gái, tiếng khèn giúp họ kết đôi, giúp họ xây dựng một gia đình hạnh phúc... Chính vì có nghĩa vô cùng quan trọng như vậy nên tiếng khèn Mông, dù trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, vẫn được ưu truyền qua nhiều thế hệ và tồn tại trong dân ca với tư cách à một biểu tượng vô cùng độc đáo. 1.4. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ng ên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông từ văn óa đến văn ọc dân gian”. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn tìm ra một hướng đi khả dụng nhằm tiệm cận với đời sống tinh thần của cộng đồng người Mông trong quá trình hình thành và phát triển; đồng thời hé mở cánh cửa bản sắc văn hóa vô cùng độc đáo của dân tộc này thông qua biểu tượng khèn.
  • 9. 3 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Lịch sử nghiên cứu biểu tượng trong dân ca Mông chịu sự tác động và chi phối bởi nhiều ĩnh vực khác như: nhân học biểu tượng, biểu tượng văn hoá, văn hoá dân gian, tín ngưỡng dân gian… Do đó, trước khi đề cập đến lịch sử nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, chúng tôi xin được điểm qua những công trình, bài viết ít nhiều có liên quan đến vấn đề nghiên cứu: 2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam Ở Việt Nam, việc nghiên cứu biểu tượng cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới. Xét về phương diện văn hóa, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: 2.1.1. Công trình “Nguồn g c và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn” của nhà nghiên cứu Tạ Đức (1999) đã đề cập đến biểu tượng trong kiến trúc cổ truyền của Việt Nam trong cái nhìn bao quát toàn cảnh Đông Nam Á; cũng như nguồn gốc và quá trình phát triển của các biểu tượng trong kiến trúc Đông Sơn [8]. 2.1.2. Bài nghiên cứu “Biểu tượng rùa trong văn óa V ệt Nam và thế giới” của tác giả Chu Thị Quỳnh Giao đã cho thấy rùa là con vật mang ý nghĩa biểu trưng khá độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam và trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới [11]. 2.1.3. Ngoài ra, có thể kể đến tên một số công trình của các nhà nghiên cứu khác như: Phạm Đức Dương (2002) với bài viết “Thế giới biểu tượng tiếp c n từ góc độ văn óa ọc” [6]; Hồ Sĩ Vịnh (2004) với bài viết “Biểu tượng hình học trong thần thoại là gì” [78]; Đinh Hồng Hải với “Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp c n nhân học biểu tượng ở Việt Nam” [14]. Trong những nghiên cứu này, các tác giả không chỉ dừng lại ở việc tô đậm khung lý thuyết về biểu tượng mà còn áp dụng nó vào từng trường hợp cụ thể. Mặc dù khác nhau về đối tượng cũng như phương pháp giải mã biểu tượng nhưng nhìn
  • 10. 4 chung, đây à những công trình nghiên cứu khá toàn diện về biểu tượng trong văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, ở Việt Nam, biểu tượng còn được nghiên cứu lồng ghép trong nhiều công trình nghiên cứu đến văn hóa, văn học dân gian như: 2.1.4. Chuyên luận “Nghiên cứu văn ọc dân gian từ m văn óa dân gian” của PGS.TS. Nguyễn Thị ích Hà được coi là một trong những công trình nghiên cứu về biểu tượng có tính quy mô và hệ thống. Chuyên luận bao gồm hai phần khác nhau. Trong đó, phần I là những vấn đề ý thuyết, gồm những vấn đề có iên quan đến đề tài như: phương pháp uận nghiên cứu văn học dân gian và phương pháp nghiên cứu văn học dân gian qua các mã văn hoá dân gian; quan niệm về văn hoá, mã văn hoá; mối quan hệ giữa văn hoá, văn hoá dân gian và văn học dân gian; các khái niệm: tín ngưỡng, mã tín ngưỡng, phong tục tập quán; các thao tác nghiên cứu văn học dân gian qua các mã văn hoá dân gian. Phần II của chuyên luận trình bày một số những nghiên cứu cụ thể theo hướng lý thuyết trên. Nhìn chung, chuyên luận là một tài liệu tham khảo có giá trị, đặc biệt phù hợp với hướng tiếp cận biểu tượng trong văn học dân gian từ các mã văn hóa dân gian [13]. 2.1.5. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính trong chuyên đề “Thi pháp ca dao” đã dành trọn một chương để viết về một số biểu tượng, hình ảnh tiêu biểu trong ca dao. Trong chương này, bên cạnh việc giới thiệu khái ược những nội dung cơ bản của biểu tượng, tác giả đã phân tích một số những biểu tượng cơ bản trong ca dao Việt Nam qua sự đối sánh với văn chương bác học. Những biểu tượng này thuộc hai nhóm lớn: nhóm thực vật gồm các biểu tượng khá phổ biến và quen thuộc như: biểu tượng cây trúc, cây mai, biểu tượng hoa nhài…; nhóm động vật gồm: biểu tượng con bống, con cò… Nhìn chung, tuy à một chuyên luận có trọng tâm nghiêng về thi pháp hơn nội dung nhưng trong
  • 11. 5 nghiên cứu của mình, tác giả đã cố gắng giải mã những nét nghĩa chủ đạo của một số loại biểu tượng trên [33]. 2.1.6. GS.TS. Vũ Anh Tuấn (1984) trong bài nghiên cứu “Về một s biểu tượng văn ọc dân gian miền núi” đã nghiên cứu về một số biểu tượng văn học dân gian của các dân tộc miền núi, trong đó, tác giả đặc biệt quan tâm tới hệ thống biểu tượng trong văn học dân gian dân tộc Tày [74]. 2.1.7. TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong bài viết “Thế giới biểu tượng sóng đô trong ca dao người Việt” in trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 3(75)/2001 đã cho rằng: “Biểu tượng tồn tại trong ca dao không phải với tính chất là những yếu t đơn lẻ rời rạc, mà đ n t àn nên một hệ th ng khá hoàn chỉn …” [7]. Với những dẫn chứng cụ thể, bài nghiên cứu đã góp phần khẳng định rằng hệ thống biểu tượng sóng đôi trong ca dao người Việt vô cùng phong phú, bao gồm: các hiện tượng tự nhiên, thế giới động vật, thực vật, các thực thể nhân tạo, thế giới con người… Nghiên cứu các biểu tượng sóng đôi trong ca dao người Việt, tác giả đã chỉ ra được nguồn gốc sinh thành, cấu tạo và chức năng của các biểu tượng này trong việc thể hiện những khía cạnh khác nhau của đời sống văn hoá dân tộc. 2.1.8. TS. Nguyễn Thị Hồng Thu trong bài nghiên cứu “Trăng trong t ơ ca dân gian Việt Nam” in trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 3-2006 đã nhấn mạnh: trăng à một biểu tượng tích hợp nhiều yếu tố văn hóa khi nó gắn với những đặc thù văn hóa của dân tộc, cũng như có sự tiếp biến với các vùng văn hóa xung quanh. Vì vậy, biểu tượng trăng trong ca dao gắn với nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng về cơ bản “… trăng c ủ yếu được sử dụng trong mảng ca dao nói về t n yêu đô lứa” [63]. Với việc chỉ ra các nhóm có tính khái quát (nhóm mang tính chất tích cực, nhóm mang tính chất trung tính, nhóm mang tính chất tiêu cực), bài nghiên cứu đã chỉ ra được trạng thái chủ đạo được biểu hiện qua biểu tượng trăng à cảm xúc buồn.
  • 12. 6 2.1.9. TS. Trần Minh Hường trong bài nghiên cứu “Tiếp c n truyền thuyết Con rồng cháu tiên từ góc độ biểu tượng nghệ thu t” in trên Tạp chí văn hoá dân gian số 3 (111)/2007 đã chỉ ra những khía cạnh cơ bản xung quanh khái niệm biểu tượng. Dựa trên những kiến thức cơ bản đó, tác giả đã tìm hiểu một số biểu tượng được phân xuất ra từ truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”. Tác giả có viết rằng: “… truyền thuyết Con rồng cháu Tiên chứa đựng hai loại biểu tượng quan trọng: Rồng – Tiên thuộc loại biểu tượng cặp đô và Bọc trứng (s n ra trăm con) t uộc loại biểu tượng đơn” [22]. Với những dẫn chứng phong phú, tiêu biểu, bài nghiên cứu không chỉ làm sáng tỏ con đường hình thành biểu tượng Rồng – Tiên và Bọc trứng mà còn lý giải được nghĩa văn hoá của những biểu tượng này. 2.1.10. Nhà nghiên cứu Lê Đức Luận với “Biểu tượng oa trong văn ọc dân gian” in trên Tạp chí VHNT số 328-2011 cho rằng: “… oa trong văn học dân gian trở thành hình ảnh biểu trưng c o vẻ đẹp n ân văn của con ngườ … ” [27]. Bài nghiên cứu đã giải nghĩa của biểu tượng hoa trong tục ngữ, ca dao qua việc phân tích những lớp nghĩa biểu trưng trong từng hoàn cảnh cụ thể: hoa thơm biểu trưng cho người khôn, kẻ giỏi; màu sắc của hoa biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân; hương thơm và vẻ đẹp của hoa tượng trưng cho nét đẹp của người phụ nữ. Với những minh chứng rõ nét, bài nghiên cứu đã góp phần khẳng định rằng, biểu tượng hoa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt nói chung: “Hoa đ từ tâm thức tín ngưỡng thiên sinh về con ngườ đến vẻ đẹp n ân s n …” [27]. 2.1.11. Trong vài nghiên cứu “Biểu tượng long – rồng trong văn ọc dân g an người Việt” in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 331-2012, nhà nghiên cứu Lê Đức Luận cho rằng biểu tượng long - rồng có những nghĩa cơ bản sau: biểu trưng cho nguồn gốc cao sang của các nhân vật trong lịch sử; biểu trưng cho sự phù trợ của truyền thống tổ tiên với các nhân vật lịch sử; biểu tượng
  • 13. 7 cho hình thể núi sông dân tộc; biểu trưng cho sự sang trọng, giàu sang, tôn kính; biểu trưng cho vương quyền và sự thịnh đạt của vua chúa; cặp đôi rồng – phượng biểu trưng tình yêu nam nữ đẹp đẽ; biểu trưng cho sự gian khó [28]. Với nhiều dẫn chứng tiêu biểu, bài nghiên cứu đã chứng minh được những lớp nghĩa tồn tại ẩn mình dưới biểu tượng long – rồng trong tâm thức và trong văn học dân gian người Việt à hoàn toàn có cơ sở. 2.1.12. Nhà nghiên cứu Triều Nguyên trong bài “Về biểu tượng con chim quyên trong ca dao” in trên Tạp chí văn hoá dân gian số 3(59)/1997 đã có sự thống kê tương đối chi tiết tần số xuất hiện của chim quyên trong ca dao. Với những số iệu thu được, tác giả đưa ra kết luận: “Về s lượng, biểu tượng con chim quyên có tần xuất thấp ơn con cò 3,7 lần” [30]. Từ những kết quả đã khảo sát được, tác giả tiến hành lý giải nghĩa của biểu tượng con chim quyên trong ca dao thông qua sự so sánh với biểu tượng con cò. Từ đó, tác giả đi đến kết luận về lớp nghĩa biểu trưng của biểu tượng con chim quyên trong ca dao: “Con chim quyên là một biểu tượng chỉ người, có thể nam hay nữ, trong quan hệ lứa đô ” [30]. 2.1.13. Bùi Xuân Tiệp trong bài “Bước đầu giải mã một s biểu tượng trong lễ hội Gầu Tào (LHGT) và dân ca giao duyên (DCGD) dân tộc Hmông” in trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 3(99)/2005 cho rằng: “Thế giới biểu tượng trong DCGD Mông rất phong phú. Từ những sự v t, hiện tượng tự n ên n ư l ngón, c m d l , nú đồi, mặt trăng, mặt trờ … đến những v t nhân tạo n ư cây nêu, vải, lanh, cái cày, chiếc nhẫn, vòng bạc…” [72]. Thông qua việc giải mã nghĩa của các biểu tượng cây nêu, biểu tượng vải lanh, biểu tượng mặt trăng – mặt trời, tác giả đã từng bước bóc tách những lớp văn hóa, tín ngưỡng dân gian của đồng bào Mông. Những biểu tượng này, một mặt chúng tồn tại một cách độc lập tương đối trong việc thể hiện chiều sâu
  • 14. 8 văn hóa; mặt khác, chúng có tác động qua lại lẫn nhau, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào Mông nói chung. 2.1.14. TS. Đặng Diệu Trang trong bài nghiên cứu “Thiên nhiên với thế giới nghệ thu t ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao dân ca” in trên Tạp chí văn hoá dân gian số 1-2006 cho rằng: “Một trong những đặc đ ểm của t ơ ca trữ tình dân gian là hình thức sử dụng các hình ản t ên n ên k ông t eo ng ĩa trực tiếp, ng ĩa đen, ng ĩa b ểu v t mà t eo ng ĩa g n t ếp vớ ng ĩa bóng, ng ĩa b ểu cảm tạo nên c c n tượng ẩn dụ và biểu tượng để diễn tả cảm xúc” [73]. Trong bài nghiên cứu, tác giả cũng chỉ ra một số những hình tượng ẩn dụ được sử dụng thường xuyên đã được chuyển hóa thành biểu tượng. Trong đó, những loại biểu tượng đơn tiêu biểu à: chim, hoa, trăng… và biểu tượng sóng đôi tiêu biểu là: loan – phượng, bướm – hoa… Dựa trên những nội dung đó, tác giả đã tiến hành tìm hiểu các hình tượng ẩn dụ và biểu tượng trong sự so sánh ca dao dân ca các miền. Nhìn chung, bài nghiên cứu đã khái quát được những nét cơ bản nhất về hình tượng ẩn dụ và biểu tượng trong kho tàng ca dao dân ca. 2.1.15. PGS.TS. Phạm Thu Yến trong bài nghiên cứu “Vấn đề nghiên cứu biểu tượng trong t ơ ca dân g an”, ngoài việc đưa ra những nhận xét khái quát về việc nghiên cứu biểu tượng trong ca dao của một số tác giả, đã xem xét và nghiên cứu về biểu tượng trong thơ ca trữ tình dân gian ở ba nội dung: xác định ranh giới giữa ẩn dụ và biểu tượng; biểu tượng thơ ca dân gian với đặc trưng thể loại; sự hình thành và phát triển của biểu tượng trong thơ ca dân gian [84]. 2.1.16. GS.TSKH. Phan Đăng Nhật trong bài nghiên cứu “Ngữ ng ĩa của hệ th ng biểu tượng trong nghi lễ Êđê” đã nghiên cứu hệ thống các biểu tượng đơn ập và ưỡng lập trong các bài cúng mà thầy cúng dùng trong nhiều hoạt động khác nhau của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào đê.
  • 15. 9 Trong đó, tác giả cho rằng biểu tượng đơn ập bao gồm những biểu tượng trong nghi lễ về rừng, biểu tượng trong nghi lễ về trồng trọt, biểu tượng trong nghi lễ về đời người; biểu tượng ưỡng lập được thể hiện rõ nét nhất trong lễ cưới và sự điều hòa nam/nữ, lễ tang và sự điều hòa sống/chết [85]. 2.1.17. Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, biểu tượng còn đuợc đề cập đến trong nhiều luận văn, uận án. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu: - ùi Văn Thành (2000), Thế giới biểu tượng thần thoạ trong Mo Mường, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Đặng Thị Oanh (2006), Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca dân tộc H’Mông, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Nguyễn Thị Minh (2008), Giải mã biểu tượng dòng sông trong bài ca tang lễ một s dân tộc vùng Bắc Bộ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Cầm Bá Phượng (2010), Giải mã một s biểu tượng trong ca dao – dân ca dân tộc Thái, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian, Truờng ĐH KHXH&NV – ĐH QGHN. - Nguyễn Thị Minh Thành (2010), Giải mã biểu tượng con thuyền trong kho tàng ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Phạm Thị Hoàng Oanh (2010), Biểu tượng cây đa trong ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Nguyễn Minh Thu (2011), Biểu tượng trăng trong ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Dương Thị Hồng Thúy (2011), Biểu tượng mưa trong ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  • 16. 10 - Đặng Thị Oanh (2012), Biểu tượng nước từ văn óa đến văn ọc dân gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. - Lê Thị Minh Huệ (2013), Biểu tượng c trong k o tàng ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ngoài được coi là một đối tượng nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn học dân gian, biểu tượng còn được coi là một đối tượng khá thú khi nó được xem xét từ góc độ văn học hiện đại. Hiện cũng đã có rất nhiều những nghiên cứu xoay quanh biểu tượng thông qua việc tìm hiểu, giải các tác phẩm văn học hiện đại. Có thể kể đến như: ùi Thị Nguyệt Hồng (2003), Biểu tượng nghệ thu t trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thanh Xuân (2009), Hệ biểu tượng về chủ đề quê ương trong t ơ Hoàng Cầm, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Duyên (2010), Biểu tượng đô t ị trong T ơ mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Bảy (2011), Hệ th ng biểu tượng trong t ơ Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Dương Ngọc Hải (2011), Biểu tượng nghệ thu t trong t ơ Xuân Quỳnh, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Ngô Thị Tuyết (2013), Thế giới biểu tượng trong Di cảo t ơ của Chế Lan Viên, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội... Nhìn chung, những công trình, bài viết trên đây đã nghiên cứu biểu tượng trên nhiều phương diện, ĩnh vực khác nhau. Có bài viết nghiên cứu về phương diện nghĩa biểu trưng của các biểu tượng đặc thù trong các nền văn hóa; có bài viết trình bày những nghiên cứu về mặt lý thuyết hoặc đưa ra con đường, biện pháp tiếp cận biểu tượng văn hóa. Với từng trường hợp, các tác
  • 17. 11 giả cũng đã cố gắng lý giải nghĩa của biểu tượng qua việc gắn với những hoàn cảnh cụ thể, nhằm khai thác triệt để những giá trị thẩm mĩ chứa đựng trong biểu tượng. 2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông Trong kho tàng văn học dân gian của người Mông, dân ca được coi là một bộ phận vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc phản ánh tâm hồn, tính cách và số phận của người Mông trong suốt chiều dài thăng trầm của lịch sử. Không những thế, dân ca Mông còn góp phần tạo nên chiều sâu của bản sắc văn hóa tộc người đã được đúc kết qua hàng nghìn năm. Hiện nay, việc nghiên cứu dân ca Mông đã đạt được những thành tựu nhất định. Đầu tiên, phải kể đến cuốn “Dân ca Mèo” của tác giả Doãn Thanh, xuất bản năm 1967. Đây à cuốn sách giới thiệu khá đầy đủ diện mạo dân ca Mông với năm oại chính. Cuốn sách được dịch ra tiếng Việt với chú thích kỹ ưỡng, đảm bảo được nghĩa cơ bản. Năm 1974, tác giả Doãn Thanh tiếp tục cho ra mắt cuốn “Dân ca Mèo Lào Cai” gồm 45 bài. Cuốn sách tuy mỏng nhưng có giá trị ở chỗ giúp cho người đọc có thể đối chiếu phần lời Việt và phần lời bằng tiếng Mông. Năm 1984, các tác giả Doãn Thanh, Hoàng Thao đã tiến hành tuyển chọn, chỉnh lý, bổ sung một số bài dân ca Mông đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí và cho ra mắt cuốn “Dân ca Hmông” mới với lời giới thiệu của Chế Lan Viên. Cuốn sách tuyển đủ năm oại hát của dân ca Mông với lời dịch có phần khá trau chuốt. Đến năm 1994, tác giả người dân tộc Mông à Hùng Đình Qu cho ra mắt cuốn Dân ca Mông Hà Giang, gồm ba tập, bao gồm những bài dân ca được sưu tập tại Hà Giang. Ngoài ra, từ những năm 90 trở lại đây, ở một số tỉnh có người Mông cư trú như Yên ái, Lai Châu, Hà Giang, Lào Cai… người ta cũng tiến hành sưu tầm dân ca Mông và in rải rác trên các sách báo trung ương và địa phương. Nhìn chung, công tác sưu tầm dân ca Mông nói chung trong hơn 40 năm qua đã đạt được thành
  • 18. 12 tựu cả về số ượng và chất ượng. Đó à những tư iệu quý giá cho luận văn trong quá trình tiến hành khảo sát, giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông. Có thể thấy rằng, trong đời sống của đồng bào Mông nói chung, khèn được coi là một nhạc cụ đặc biệt. Vì lẽ đó, trong dân ca Mông, khèn được coi như một biểu tượng có sức sống vô cùng mạnh mẽ. Trong khi một số biểu tượng khác đã được khảo sát và nghiên cứu, giải mã thì biểu tượng khèn dường như chưa được quan tâm đúng mức. Trong những nghiên cứu về vấn đề khác, biểu tượng khèn mới chỉ được đề cập ở mức quá sơ ược. Trong khả năng cho phép, uận văn xin được điểm qua một số công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề nghiên cứu. 2.2.1. Mở đầu cuốn “Văn o dân tộc Mông Hà Giang”, Trường Lưu và Hùng Đình Qu có cho rằng “… nó đến văn óa Mông ở Hà Giang, không ai không biết đến tiếng k èn vơ âm t an trầm trầm dìu dặt, vớ c c làn đ ệu dân ca trữ tình, duyên dáng và hồn n ên…” [45, tr.15]. Trong đời sống văn hoá tinh thần của đại bộ phận người Mông, khèn được coi là “nhạc cụ đặc trưng văn óa t êu b ểu…” [45, tr.62]. Cũng trong cuốn sách này, ở một phần khác tác giả có cho rằng khèn thuộc nhóm dụng cụ sinh hoạt tinh thần của người Mông và đây “là nhạc cụ được dùng phổ biến nhất ở vùng người Mông. Có lẽ không một chàng trai Mông nào lại không làm quen với cây k èn. K èn được dùng trong tang lễ và trong sinh hoạt vu c ơ múa t” [45, tr.126]. Thêm vào đó, cùng với việc giới thiệu một cách sơ ược đặc điểm của các loại nhạc cụ khác, tác giả cũng đã đề cập đến cấu tạo cơ bản của khèn Mông và nhấn mạnh: “Tiếng khèn biểu đạt các bài dân ca Mông rất s ng động, chính thế nó làm đắm say lòng người” [45, tr.126]. Nhìn chung, công trình nghiên cứu đã đề cập đến cây khèn ở nhiều phương diện khác nhau nhưng về cơ bản mới chỉ dừng ở việc nêu ra những khía cạnh cơ bản nhất về giá trị, vai trò và cấu tạo của cây khèn trong đời sống văn hoá của người Mông.
  • 19. 13 2.2.2. Trong bài viết “Một s biểu tượng văn óa dân g an Hmông” trên Tạp chí văn học nghệ thuật Lào Cai, TS. Trần Hữu Sơn đã dựa trên những kiến thức về văn hóa, phong tục tập quán để giải mã một số biểu tượng trong văn hóa, dân ca Mông: cây tre, cây lanh, con gà, con lợn. Với những tri thức, trải nghiệm được tích ũy nhờ sự gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa của đồng bào Mông, tác giả cho rằng lễ hội Gầu Tào: “… tíc ợp nhiều yếu t văn o , t p hợp một s biểu tượng nổi trội mang đ m sắc t văn o Hmông n ư b ểu tượng cây tre (mai, vầu), biểu tượng mảnh vải lanh, quả bầu đựng rượu, cây khèn... Các biểu tượng này nhằm phản n tín ngưỡng cổ truyền cũng n ư ước vọng của cộng đồng” [50]. Tuy đã nhắc đến cây khèn với tư cách à một biểu tượng trong dân ca Mông nhưng trong bài viết của mình, tác giả chưa tiến hành giải mã nghĩa của biểu tượng này. 2.2.3. Nhà nghiên cứu âm nhạc Hồng Thao trong cuốn “Âm nhạc dân tộc H’mông” đã đề cập đến những bài hát và nhạc cụ độc đáo của dân tộc Mông cũng như những điệu hát, những nhạc cụ đã được dân tộc Mông “tự giác tiếp thu” của những dân tộc khác. Trong số những nhạc cụ đã được đề cập, tác giả cho rằng: “Những chàng trai Mông va đeo gù , tay cầm khèn, tay cầm lồng chim là hình ản đ ển hình trên rẻo cao…” [58, tr.18]. Ngoài ra, trong cuốn sách này, tác giả cũng đề cập tới âm vực của cây khèn, qua đó nói ên tầm quan trọng của khèn trong nghi lễ tang ma của người Mông: “…Riêng trong nghi lễ tang ma […] mỗ trường hợp, mỗi cách chết phả được thổi bằng những bài khèn riêng” [58, tr.106]. Tuy nhiên, mục tiêu chính của công trình chủ yếu hướng tới việc sưu tầm, ghi chép những bài khèn Mông dưới dạng các bài nhạc nên tác giả không khai phá những tầng nghĩa sâu của biểu tượng khèn. Những nhận định sơ ược và có phần gián đoạn về cây khèn trong dân ca Mông mà tác giả đã đề cập, thực chất là những phương diện thuộc về ý nghĩa, tầm quan trọng của biểu tượng này trong đời sống của người Mông.
  • 20. 14 2.2.4. Trong lời tựa cho cuốn “Dân ca H’mông”, Chế Lan Viên có nhắc tới cây khèn và nhấn mạnh đây à một loại nhạc cụ phổ biến đối với người Mông: “Người Mông rất yêu nền văn ng ệ của mình, tiếng hát của mình. Phần đông người Mông đều biết một trong ba loại nhạc cụ này: sáo, khèn, đàn mô …” [57, tr.36]. Do chỉ là những lời giới thiệu về cả tập dân ca nên trong hơn hai mươi trang viết, tác giả chỉ duy nhất một lần nhắc đến khèn với tư cách à một nhạc cụ của người Mông, chưa có những kiến giải về mặt ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng này. Ngoài ra, biểu tượng khèn cũng được đề cập tới với những mức độ khác nhau trong những luận văn, uận án mà chúng tôi có điều kiện khảo sát. Có thể kể đến như: 2.2.5. Vũ Hồng Cường trong luận văn thạc sĩ Văn học Việt Nam “Tiếng hát tình yêu lứa đô trong dân ca H’mông Hà G ang” ít nhiều cũng đã có những nhận định về biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa, tâm inh của đồng bào Mông. Trong luận văn này, tác giả tập trung phân tích những nội dung và nghệ thuật cơ bản của Tiếng hát tình yêu đôi ứa trong dân ca Mông Hà Giang. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác giả cũng đã có một phần rất nhỏ đề cập đến biểu tượng. Trong đó, tác giả có cho rằng, biểu tuợng đàn môi à một biểu tuợng đặc trưng cho tình yêu đôi ứa. Ngược lại, tác giả cho rằng “thực tế, trong quá khứ của nguờ H’mông ở Hà Giang chỉ dùng k èn để thổi và múa trong những nghi lễ tang ma, thờ cúng” [3, tr.91]. 2.2.6. Vương Thị Thủy trong luận văn thạc sĩ Khoa học Ngữ văn “Dân ca nghi lễ cúng trong chu kỳ vòng đời của nguời Mông ở Mèo Vạc, Hà Giang” đã có những kiến giải tương đối chi tiết về nghĩa chủ đạo của biểu tuợng khèn. Luận văn đã trình bày được những nội dung cơ bản của dân ca nghi lễ cúng trong chu kỳ vòng đời của nguời Mông cũng như các phương thức diễn xướng của các bài dân ca này. Trong chương 3, tác giả có đề cập đến việc
  • 21. 15 nghiên cứu biểu tượng trong một mục nhỏ với các biểu tượng như: biểu tượng lanh, biểu tượng khèn và biểu tượng con gà. Trong đó, khi viết về biểu tượng khèn, tác giả có cho rằng: “Tiếng k èn tượng trưng c o lời chàng trai, lúc nhẹ nhàng tha thiết, khi sôi nổi mãnh liệt, tiếng khèn giữ chức năng n ư một tín hiệu tình yêu của đô tra g Mông, d ễn tả mọi cung b c cảm xúc của tâm hồn, không chỉ là xứ giả âm thanh của tình yêu mà còn là cầu n i hai tâm hồn đồng đ ệu giữa núi rừng rộng lớn” [68, tr.110]. Bên cạnh đó, tác giả còn khẳng định cả vai trò của biểu tượng khèn trong nghi lễ tang ma của người Mông: “Trong c c đ m tang, dù c ỉ là đ m ma k ô ay ma tưo t cây k èn là một nhạc cụ không thể thiếu để tiễn đưa ồn người chết về thế giới bên kia, tiếng khèn tang ma còn mang xứ mệnh thiêng liêng là nhắc người Mông nhớ tới nguồn dòng tộc” [68, tr.111]. Từ những phân tích khá chi tiết và những dẫn chứng tiêu biểu, cuối cùng tác giả nhấn mạnh rằng: “… cây k èn trở thành biểu tượng đặc sắc của tâm hồn, tình cảm và dấu ấn sắc tộc của người Mông” [68, tr.111]. Với những nhận định, kiến giải có tính chất gợi mở về biểu tượng khèn, uận văn của tác giả Vương Thị Thủy được coi à một trong những tư iệu tham khảo có giá trị, gắn với xu hướng tiệm cận văn hóa truyền thống trong đời sống, đặc biệt à đời sống tinh thần của đồng bào Mông. 2.2.7. Trần Duy Hưng trong uận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam “Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà Giang” cũng đã có những kiến giải khá cụ thể về biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa của đồng bào Mông. Trước hết, tác giả đã khái quát được cấu tạo của khèn và những nghi lễ iên quan đến việc sử dụng khèn, bao gồm nghi lễ àm ma tươi và nghi lễ làm ma khô. Qua đó, tác giả cũng nhấn mạnh: “dù là tục lệ gì n ưng k có người chết thì khèn luôn gắn bó m t thiết với nghi lễ và truyền tải những t ông đ ệp quan trọng tớ người chết” [21, tr.26]. Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã tiến hành khảo sát và giải mã một số biểu tượng trong
  • 22. 16 dân ca nghi lễ tang ma của người Mông như: biểu tuợng “gầu khèn đrâu trống” và “hoa khèn, hoa mưa, hoa nắng, hoa trống”. Tuy có những luận giải khác nhau nhưng về cơ bản, tác giả đã nhấn mạnh đến đặc điểm giới tính trong những biểu tượng này. Từ những kiến giải, phân tích và những dẫn chứng tiêu biểu, tác giả khẳng định: “Từ hệ th ng những biểu tượng luôn đ song àn cùng n au và đều là những biểu tượng có đầy đủ cả hai giới nam và nữ trong cùng một tên gọi, chúng ta có thể nh n thấy tư tuởng tiến bộ, dân chủ man n a trong văn óa Mông” [21, tr.51]. 2.2.8. Hoàng Thị Thủy trong luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam “Dân ca nghi lễ dân tộc H’Mông” cũng đã đề cập đến biểu tượng khèn, tuy mới ở mức độ rất sơ ược. Trong chuơng 4 – một số phương diện nghệ thuật trong dân ca nghi lễ dân tộc Mông, tác giả đã àm rõ những nét cơ bản nhất về khái niệm biểu tượng. Từ đó, tác giả đi đến giải mã nghĩa của một số biểu tượng trong dân ca Mông như biểu tượng con gà, biểu tượng lanh. Khi nhắc tới khèn trong đời sống văn hóa nói chung, nghi ễ tang ma nói riêng, tác giả nhấn mạnh: “Trong việc thực hiện các nghi lễ, vai trò của khèn, tr ng hết sức cần thiết […]. Từ lúc bắt đầu đ m ma c o đến k người chết đ c ôn, ầu n ư k ông bao giờ vắng tiếng khèn, tr ng. Các bài khèn này có nộ dung và được thể hiện phù hợp với từng nghi thức của tang lễ” [67, tr.112]. Với một cái nhìn tương đối bao quát, tác giả cho rằng: “Văn ọc dân gian dân tộc Mông phong phú với nhiều thể loạ mang đ m bản sắc văn óa rất riêng của đồng bào, trong đó mảng dân ca nghi lễ xuất hiện nhiều hệ th ng biểu tượng đặc thù n ư b ểu tượng về hệ th ng loài v t, biểu tượng về hệ th ng đồ v t, biểu tượng về hệ th ng cây c i, con s …” [67, tr.171]. Nhìn chung, đây à một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về dân ca nghi ễ dân tộc Mông, nhưng do mục tiêu hướng tới không phải à biểu tượng nên ít nhiều biểu tượng chưa được quan tâm một cách đúng mực, nhất à biểu tượng khèn.
  • 23. 17 Mặc dù là một nhạc cụ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và xuất hiện khá nhiều trong dân ca Mông, nhưng cho đến nay việc nghiên cứu về biểu tượng này vẫn còn là một khoảng trống lớn. Qua quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi được biết, hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về biểu tượng khèn trong dân ca Mông một cách hệ thống; không kể những nghiên cứu mang tính chất gợi mở và có tính xen kẽ. Vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn biểu tượng khèn trong dân ca Mông để giải mã. 3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đ tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là biểu tượng khèn trong dân ca Mông. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu biểu tượng khèn với một số biểu tượng khác trong dân ca Mông để có được những đánh giá và kết luận đúng đắn, khách quan hơn. 3.2. Mục đíc ng ên cứu Biểu tượng khèn là một loại biểu tượng độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc Mông. Tiến hành giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông, chúng tôi hướng tới các mục đích cơ bản sau đây: - Thứ nhất, chỉ ra được tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông, cũng như so sánh được số lần xuất hiện của biểu tượng khèn với một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mông. - Thứ hai, chỉ ra các giá trị thuộc về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử cũng như toàn bộ bức tranh kinh tế, chính trị của đồng bào Mông đã và đang được ưu giữ trong biểu tượng khèn. - Thứ ba, giải mã nghĩa của biểu tượng khèn trong dân ca Mông nhằm góp phần khẳng định hướng nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Mông thông qua việc giải mã các biểu tượng là một hướng đi đúng, hiệu quả và phù hợp với đặc trưng của loại hình văn hóa, văn học này.
  • 24. 18 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài sẽ đưa ra các vấn đề lý luận và thực tiễn có iên quan đến vấn đề nghiên cứu như: thuyết về biểu tượng, những nét cơ bản về biểu tượng trong văn học dân gian Việt Nam, những nét khái quát về dân ca Mông, biểu tượng khèn trong đời sống của đồng bào Mông. Thống kê, phân loại các hình thức biểu hiện và nghĩa biểu trưng của biểu tượng khèn trong dân ca Mông để thấy được tần số của các hình thức biểu hiện và các hướng nghĩa của biểu tượng lanh. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu để giải mã biểu tượng khèn trong những ngữ cảnh cụ thể. Từ đó, tổng hợp các nghĩa biểu trưng ại với nhau để thấy được những lớp nghĩa cơ bản nhất của biểu tượng khèn. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông dựa trên các văn bản sau: - Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, Hà Nội. - Doãn Thanh (1974), Dân ca Mèo, Hội văn học nghệ thuật Lào Cai. - Doãn Thanh - Hoàng Thao - Chế Lan Viên (1984), Dân ca H’mông, Nxb Văn học, Hà Nội. - Hùng Đình Qu (2001), Dân ca Mông Hà Giang (t p 1), Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang - Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (t p 2), Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang. - Hùng Đình Qu (2003), Dân ca Mông Hà Giang (t p 3), Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang. - Hùng Đình Qu (2005), Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang, Nxb KHXH. - Viện nghiên cứu văn hóa (2008), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc thiểu s Việt Nam, (tập 17), Nxb KHXH.
  • 25. 19 - Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc thiểu s Việt Nam (tập 18), Nxb KHXH. - Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng t p văn ọc dân gian các dân tộc thiểu s Việt Nam (tập 19), Nxb KHXH. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. P ương p p ng ên cứu liên ngành Việc giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mông cần có sự phối kết hợp kiến thức chuyên môn của nhiều ngành khoa học khác nhau như: xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, lịch sử học, nhân học… ởi vậy, phương pháp nghiên cứu iên ngành đóng vai trò then chốt, là chìa khóa hữu cơ để giải mã những thông điệp khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu. 4.2. P ương p p t ng kê phân loại Để có một cái nhìn toàn diện và rõ ràng về những khía cạnh khác nhau của biểu tượng khèn trong dân ca Mông - nhất là số lần xuất hiện cũng như các hình thức biểu hiện của biểu tượng này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê phân loại để nghiên cứu các vấn đề một cách khoa học và cụ thể. 4.3. P ương p p đ ền dã Nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, thực chất là nghiên cứu một hiện tượng, một vấn đề của văn học dân gian đã và đang tồn tại trong môi trường diễn xướng đích thực của nó. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp điền dã nhằm quan sát và khảo sát một số trường hợp cụ thể. 4.4. P ương p p p ân tíc , tổng hợp, so sánh Đây à một phương pháp không thể thiếu khi nghiên cứu tác phẩm văn học. Các phương pháp này giúp quá trình giải mã biểu tượng khèn được sâu sắc, toàn diện và khách quan hơn. Tuy các phương pháp nghiên cứu trên được thống kê và chia tách một cách rõ ràng, gắn với từng mục đích nghiên cứu nhất định nhưng trong quá
  • 26. 20 trình thực hiện luận văn, các phương pháp trên được sử dụng kết hợp với nhau. Ngoài ra, khi thực hiện luận văn, chúng tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác. 5. Đóng góp mới của luận văn Qua thống kê, phân loại biểu tượng khèn trong dân ca Mông, luận văn chỉ ra tần số xuất hiện và một số hình thức biểu hiện, nghĩa cũng như giá trị thẩm mỹ của biểu tượng khèn với tư cách à một trong những biểu tượng nghệ thuật trong dân ca Mông. Từ đó, uận văn góp phần khẳng định một cách sâu sắc hơn giá trị của biểu tượng khèn trong đời sống văn hoá, tinh thần và đặc biệt là trong dân ca Mông. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và mục Tài liệu tham khảo, luận văn gồm: Chương 1. Một số vấn đề uận chung về biểu tượng và nhữngvấn đề liên quan Chương 2. Khảo sát biểu tượng khèn trong dân ca Mông Chương 3. Giải mã một số hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong dân ca Mông
  • 27. 21 CHƢƠNG : MỘT S VẤN ĐỀ UẬN CHUNG VỀ BIỂU TƢỢNG VÀ NH NG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 1.1. Nh ng vấn đề chung về biểu tƣợng 1.1.1. Khái niệm biểu tượng Khi nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa, biểu tượng là một thành tố không thể thiếu. Ngay từ thời nguyên thủy, khi con nguời biết ao động và hình thành nên ngôn ngữ thì cùng úc đó con nguời đã gián tiếp hình thành trong tư duy một hệ thống những biểu tuợng. Hệ thống biểu tượng này vô cùng phong phú, đa dạng và con nguời dựa vào nó để tiến hành các hoạt động nhằm khám phá thế giới khách quan. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu biểu tượng đã được chú ý đến rất sớm, và cho đến nay đã đạt được rất nhiều thành tựu. Từ phương diện văn hóa, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có rất nhiều khái niệm về biểu tượng đã được đưa ra. GS. A. A. Radugin trong “Từ đ ển b c k oa văn óa ọc” đưa ra khái niệm: Biểu tượng là một loại ký hiệu để thể hiện nội dung thực tế của một điều nào đó. Tuy nhiên, biểu tượng văn hóa khác kí hiệu thông thường ở chỗ chứa đựng mối liên hệ tâm lý với tồn tại mà nó biểu trưng [46]. Nguyễn Văn Hậu trong Luận án Tiến sĩ ịch sử “Về biểu tượng trong lễ hội dân gian truyền th ng” đã tổng kết: Biểu tượng là một hình thái biểu hiện của văn hóa – ký hiệu hàm nghĩa. Nó được sáng tạo ra nhờ vào những năng lực “biểu tượng hóa” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ nghĩa kia, nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu xuất nào đó. Biểu tượng được xem như à “đơn vị cơ bản của văn hóa” và à hạt nhân di truyền xã hội đầu tiên của oài người [17]. PGS. TS. Nguyễn Bích Hà trong chuyên luận “Nghiên cứu văn ọc dân gian từ m văn óa dân g an” cho rằng: “Biểu tượng là một loại tín hiệu riêng, có chiều sâu và p ong p ú ơn tín ệu, giữa biểu tượng và c được
  • 28. 22 biểu trưng t ường không có quan hệ phổ biến, liên tục. Nó chính là cái nhìn thấy được để dẫn ta đến với cái không nhìn thấy được, nó là c được cảm nh n cho ta liên hệ vớ c đang còn mơ ồ, khó nắm bắt. Thời gian và không gian làm cho tính biểu tượng bị mờ đ , k uất lấp nên phải biết chìa khóa (mã) mới khai mở được và hầu n ư k ông t ể giải mã một lần là xong” [13; tr.63]. Từ phương diện ngôn ngữ học, văn học, các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều cách nhìn nhận về biểu tượng: Các tác giả trong cuốn “Từ đ ển thu t ngữ văn ọc” cho rằng: “Biểu tượng là một p ương t ức chuyển ng ĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thu t đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa k qu t được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời” [16; tr.24]. Các tác giả trong cuốn “Từ đ ển Tiếng Việt” cho rằng: “Biểu tượng là hình thức, cao ơn cảm giác, cho ta hình ảnh về sự v t còn lưu g ữ lạ trong đầu óc sau k t c động của sự v t vào g c quan ta đ c ấm dứt” [37; tr.64]. Nguyễn Thị Ngân Hoa trong Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học đã quan niệm: Biểu tượng nghệ thuật là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa trong những ngành nghệ thuật khác nhau (hội họa, âm nhạc, văn học…). iểu tượng nghệ thuật ngôn từ là sự chuyển hóa, sáng tạo lại biểu tượng nhận thức trong đời sống tâm lí thành biểu tượng biểu đạt trong phạm vi nghệ thuật [25]. Về cơ bản, khi nghiên cứu về biểu tượng, mỗi nhà nghiên cứu sẽ tìm cho mình những hướng tiếp cận khác nhau, tạo nên những điểm khác nhau trong việc tạo nên các khái niệm. Do đó, sự tồn tại của nhiều khái niệm về biểu tượng trong các ngành khoa học khác nhau à điều có thể lý giải được.
  • 29. 23 1.1.2. Đặc đ ểm của biểu tượng Biểu tượng bao giờ cũng có hai nửa, một nửa luôn có thể tri giác được một cách dễ dàng còn một nửa ẩn chìm, khuất lấp và khó nắm bắt. Về phương diện này, mặt tri giác được ở biểu tượng được gọi là cái biểu trưng, còn cái bị chìm sâu, cần khai mở gọi à cái được biểu trưng. Việc giải mã các biểu tượng là việc tìm ra và lí giải được những nội dung nghĩa ở phần chìm lấp, bị che khuất. Vì vậy, biểu tượng thường được hiểu rộng hơn nghĩa được gán cho nó. Biểu tượng có một số những đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, biểu tượng có tính chất sống động, khó nắm bắt, khó xác định. Biểu tượng có mặt ở nhiều phương diện của đời sống bởi mọi vật đều có thể mang giá trị biểu tượng, dù là vật tự nhiên hay trừu tượng. Đó có thể là các hình tượng nghệ thuật, các mô thức ứng xử trong lối sống, phong tục, tập quán, huyền thoại, chiêm mộng… Giá trị của biểu tượng được xác định trong chính trong sự chuyển vượt từ cái đã biết sang cái chưa biết, từ cái đã diễn đạt sang khó tả nên lời. Tính sống động, khó nắm bắt của biểu tượng được biểu hiện ở điểm: “Biểu tượng vẫn nằm trong lịch sử, nó không xóa bỏ hiện thực, nó không phá hủy dấu hiệu. Nó t êm vào đó một chiều nữa, là chiều nổi, chiều thẳng đứng; từ sự kiện đồ v t, dấu hiệu, nó thiết l p những m i quan hệ ngoại-lý trí, g àu tưởng tượng, giữa các cấp độ tồn tại và giữa các thế giớ vũ trụ, con người, thần thánh” [2;xxvi]. Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định cái được coi là biểu tượng và cái không phải là biểu tượng nhiều khi gặp nhiều khó khăn. Nếu một đối tượng nào đó được coi là biểu tượng thì cái mà nó biểu trưng uôn được người ta suy luận ra một cách hợp lý. Thứ hai, biểu tượng có tính chất ổn định tương đối. Một yếu tố hay một thực thể nào đó trở thành biểu tượng, trước hết nó phải có tính ổn định. Sự ổn định này, về cơ bản được xem xét dưới góc độ mối liên hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Tính ổn định thể hiện ở sự không thay đổi hoặc ít thay đổi trong một thời gian nào đó. Nhờ có tính ổn định này mà việc khám phá
  • 30. 24 biểu tượng mới có nghĩa. Chẳng hạn, “… n c ếc chén l t ngược, biểu tượng bầu trời, biểu đạt, không chỉ sự gi ng nhau dễ thấy của cùng một hình nét mà là tất cả những gì bầu trời gợi lên trong vô thức: sự bình an, sự bao bọc, nơ cư ngụ của các thánh thần, cội nguồn của thịn vượng và hiền m n …” [2, xxviii]. Như vậy, một mặt biểu tượng vừa có tính sống động, khó nắm bắt, mặt khác biểu tượng cũng có tính ổn định tương đối trong thời gian dài và không gian rộng. Thứ ba, “biểu tượng có thể lý giả được nhờ những liên hệ, hỗ trợ với những yếu t trong một trường l ên tưởng” [13, tr.67]. “Hễ xuất hiện một tương quan về cấp độ giữa hai hình ảnh hay hai thực tế, một m i liên hệ về tôn ti bất kỳ, có ay k ông có cơ sở trên một sự phân tích duy lý, thì một biểu tượng sẽ được hình thành một cách tiềm tàng” [2, xxviii]. Như vậy có thể thấy, để được xác định là một biểu tượng thì một yếu tố nào đó phải đảm bảo hai điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần là nó phải được đặt trong một hệ thống đã được xác lập bởi những tiêu chí nhất định; điều kiện đủ là nó phải có những điểm tương quan hay mối liên hệ với chính hệ thống mà nó được đặt vào. Nhờ những mối liên hệ mà biểu tượng có chức năng trung gian. Thứ tư, biểu tượng luôn mang tính quan niệm. Nó thực sự không nằm ở bề mặt của các sự vật, hiện tượng mà chìm sâu trong các lớp nghĩa của các sự vật, hiện tượng đó. “Quan niệm của người ta về muôn v t n ư t ế nào sẽ bộc lộ qua hệ th ng các biểu tượng phản ánh quan niệm đó và qua ệ th ng các biểu tượng của một cộng đồng dân tộc nào đó có t ể hiểu được quan niệm của cộng đồng đó về vũ trụ, tự n ên, con ngườ …” [13, tr.72]. Tuy nhiên, sự xâm nhập giữa biểu tượng và cái được biểu trưng không phải bao giờ cũng chỉ có một cấp độ. Ngược lại chúng có nhiều cấp độ khác nhau. Những cấp độ xâm nhập này ít nhiều bị chế định bởi trình độ tư duy và quan niệm về nghệ thuật của con người trong những thời đại khác nhau, thậm chí những tầng lớp
  • 31. 25 và cá nhân khác nhau. Trong đó, những biểu tượng đơn giản nhất bao giờ cũng có sự gần gũi với thực tế. 1.1.3. Phân biệt biểu tượng văn ọc với ẩn dụ, n tượng 1.1.3.1. Phân biệt biểu tượng văn học với ẩn dụ Giữa biểu tượng văn học với ẩn dụ có những điểm chung. Điểm chung này được thể hiện ở chỗ, cả ẩn dụ và biểu tượng đều được hình thành trên cơ sở đối chiếu so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh, những đặc điểm gần gũi tương đồng nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý niệm cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối tượng đó. Theo từ điển “Thu t ngữ văn ọc”, “Ẩn dụ là p ương t ức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia, mà bản t ân c u được nói tới thì giấu đ một c c kín đ o” [16, tr.11]. PGS. TS. Phạm Thu Yến, trong một bài nghiên cứu cũng đã đưa ra những nhận định nhằm phân biệt biểu tượng với ẩn dụ: Biểu tượng mang tính ký hiệu, tính quy ước, nghĩa à chỉ cần nêu lên hình ảnh biểu tượng ên người đọc đã hiểu cái mà nó biểu trưng, còn ẩn dụ tự do hơn, thường được tạo ra không phải chỉ bằng một hai hình ảnh mà phải bằng vài ba hình ảnh. Vì thế, các yếu tố cần phải dựa vào nhau để giải mã ẩn dụ. Ẩn dụ linh hoạt, trường iên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, nhưng không bền vững bằng biểu tượng [84]. Khi xét một hình ảnh nghệ thuật cụ thể nào đó để xem đó à một biểu tượng hay ẩn dụ, có thể dựa trên một số những căn cứ sau: Thứ nhất, căn cứ vào tần số xuất hiện của hình ảnh đó, hình ảnh đó có quen thuộc không. Thứ hai, căn cứ vào tính quy ước của hình ảnh. Nghĩa à, khi xem xét hình ảnh nào đó, người đọc có thể nhận biết ngay được giá trị biểu trưng của nó hay là phải cần có mối iên tưởng nào đó mới có thể giải mã được. Thứ ba, căn cứ vào tính bền vững của nghĩa biểu trưng. Nghĩa à nghĩa của một hình ảnh nào đó có sự biến đổi trong những văn cảnh khác nhau hay không, hay những ý
  • 32. 26 nghĩa biểu trưng ấy có tính bền vững trong mọi trường hợp. Như vậy, có thể thấy rằng, biểu tượng là ẩn dụ được sử dụng ở tần xuất cao khi mà bản thân ý nghĩa của nó đã mang tính quy ước cố định, giá trị biểu tượng của hình ảnh đã được cố định trong cách hiểu. 1.1.3.2. Phân biệt giữa biểu tượng với hình tượng Theo “Từ đ ển thu t ngữ văn ọc”, “H n tượng nghệ thu t chính là các khách thể đời s ng được nghệ sĩ t ện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thu t” [16, tr.147]. Hình tượng nghệ thuật có một số đặc điểm giống biểu tượng văn học. Thứ nhất, cả hình tượng nghệ thuật và biểu tượng văn học đều được biểu hiện bằng giá trị nhận thức, cảm tính, chủ quan của người nghệ sĩ trong việc phản ánh thực tại khách quan. Thứ hai, cả hình tượng và biểu tượng đều sử dụng những phương tiện biểu đạt chung là ngôn ngữ. Tuy nhiên, giữa biểu tượng với hình tượng có những điểm khác nhau cơ bản nhằm phân biệt chúng với nhau. Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không bao giờ vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể; ngược lại, biểu tượng uôn vượt quá khuôn khổ và giới hạn của sự biểu đạt, biểu nghĩa. Hình tượng nghệ thuật thường chuyên chở một nghĩa biểu đạt duy nhất theo dụng ý của người nghệ sĩ; biểu tượng có năng ực biểu hiện rộng hơn nghĩa mà con người gán ghép cho nó. Ngoài ra, nếu như hình tượng nghệ thuật hướng đến sự tự do, toàn mĩ, độc đáo, không trùng ặp thì ở biểu tượng, các giá trị nhận thức của con người uôn được nhận thức trong cái tổng thể rộng lớn mang tính thống nhất và phổ biến. Trên đây à những nét tương đồng và dị biệt giữa biểu tượng văn học với ẩn dụ và hình tượng. Bên cạnh đó, cần thấy rằng mọi sự phân định chỉ mang ý nghĩa tương đối. Mặc dù vậy, sự phân định này sẽ à cơ sở để tiến hành phân
  • 33. 27 loại nhằm hiểu sâu hơn bản chất của biểu tượng nói chung, biểu tượng khèn trong dân ca Mông nói riêng. 1.2. Biểu tƣợng trong văn hóa và văn học dân gian 1.2.1. Một s khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm văn hóa Nhà nghiên cứu Asa Briggs cho rằng, “khái niệm văn óa có xuất xứ nông nghiệp: đầu tiên nó liên quan đến sự c ăm sóc ay “can t c” mùa màng” [61,tr.357]. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nó, thuật ngữ này đã tiếp nhận những nghĩa mới xa dần với những xuất xứ mờ nhạt của nó. Ở Việt Nam, hiện tại đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa khá tiêu biểu, được sử dụng rộng rãi như: “Cơ sở văn óa V ệt Nam” của Trần Ngọc Thêm; “Cơ sở văn óa V ệt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên); “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc… Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, “Văn óa là một hệ th ng hữu cơ các giá trị v t chất và tinh thần do con người sáng tạo và tíc lũy qua qu trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương t c g ữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [60, tr.10]. Định nghĩa này đã nêu bật được bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa như: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Theo định nghĩa của Unesco, “Văn óa […] có t ể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và v t chất, trí tuệ và xác cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một n óm người trong xã hộ . Văn hóa bao gồm nghệ thu t và văn c ương, n ững l i s ng, những quyền cơ bản của con người, những hệ th ng các giá trị, những t p tục và những tín ngưỡng…” [Dẫn theo Trần Quốc Vượng, 79]. Theo PGS.TS. Nguyễn Bích Hà, “Văn óa là p ức thể các giá trị v t chất, tinh thần do con ngườ t c động đến tự nhiên, xã hội và bản thân trong
  • 34. 28 quá trình lịch sử lâu dài mà tạo nên. Nó tích tụ và thể hiện diện mạo, bản sắc riêng của mỗi cộng đồng” [13; tr.20]. Như vậy, nhìn chung các ý kiến đưa ra đều gặp nhau ở một điểm chung, đó à văn hóa không phải là một ĩnh vực riêng biệt. Văn hóa à tổng thể nói chung những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển. 1.2.1.2. Văn hóa dân gian Khi nói đến văn hóa, không thể không nhắc tới những bộ phận cấu thành nên văn hóa cũng như những đặc trưng của nó. Trong đó, văn hóa dân gian được coi là một bộ phận quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tạo nên những sắc màu riêng biệt của mỗi nền văn hóa. Theo PGS.TS. Nguyễn Bích Hà: “Nhìn từ góc độ văn óa, t văn óa dân gian là những giá trị v t thể và phi v t thể mang quan niệm dân gian, do nhân dân sáng tạo nên từ thời tiền sử và sơ sử” [13; tr.30]. GS.TS. Vũ Anh Tuấn đã đưa ra cách hiểu về văn hóa dân gian ứng với khái niệm folklore khi xem xét theo nghĩa rộng: “Văn óa dân g an […] bao gồm toàn bộ các giá trị văn óa v t chất, văn hóa tinh thần được nhân dân sáng tạo, bảo tồn và lưu c uyển qua các thế hệ, trở thành các giá trị truyền th ng của một dân tộc, trong đó có văn óa ng ệ thu t phi chính th ng ở mọi thờ đại” [75, tr.7]. Các định nghĩa về văn hóa dân gian đã đề cập phía trên tuy được xem xét ở những góc độ khác nhau nhưng đều có chung một điểm: coi văn hóa dân gian là những giá trị thuộc về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, được nhân dân sáng tạo, ưu truyền và trở thành tài sản quý báu của nhiều thế hệ. Ở Việt Nam, văn hóa dân gian tồn tại với tư cách à một bộ phận tiêu biểu, đặc trưng nhất trong việc kiến tạo nên nền văn hóa của những cư dân nông nghiệp.
  • 35. 29 1.2.1.3. Văn học dân gian Giữa văn hóa và truyền thống có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau. Theo quan niệm của Herder “… văn óa và truyền th ng được thể hiện nhiều nhất và trung thực nhất trong thi ca của dân gian, trong các bài dân ca và văn ọc dân gian” [61, tr.379]. Theo nhóm tác giả trong cuốn giáo trình “Văn ọc dân gian” do GS. Đinh Gia Khánh chủ biên, “Văn ọc dân gian là những sáng tác t p thể, truyền miệng của n ân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các thời kỳ phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thờ đại hiện nay” [34, tr.7]. Theo GS.TS. Vũ Anh Tuấn, “Văn ọc dân gian cổ truyền là toàn bộ các thể loại sáng tác nghệ thu t ngôn từ truyền miệng, được sáng tác và không ngừng tái tạo lại theo phương t ức t p thể qua nhiều đời chọn lọc và gọt g ũa của nhân dân, có vị trí n ư một thành t quan trọng trong chỉnh thể văn óa và văn ng ệ dân gian của cộng đồng dân tộc, có tính nguyên hợp” [75, tr.8]. GS.TS. Lê Chí Quế cho rằng “Văn ọc dân g an […] dùng để chỉ những thể loạ s ng t c dân g an trong đó t àn p ần nghệ thu t ngôn từ (tức thành phần văn ọc) chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ nó cũng có m i quan hệ hữu cơ với các thành phần nghệ thu t và phi nghệ thu t khác” [39, tr.11]. Như vậy, các định nghĩa trên cơ bản cùng giống nhau ở chỗ cho rằng văn học dân gian là một bộ phận của văn hóa dân gian, ấy ngôn từ àm phương tiện cơ bản nhằm thể hiện những quan niệm của quần chúng nhân dân thông qua những hình tượng nghệ thuật khác nhau. Văn học dân gian, do là một thành tố thuộc về văn hóa dân gian nên dù do vô thức hoặc tự ý thức, nó có cơ hội thẩm thấu những quan niệm khác nhau của văn hóa như: phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Chính điều này làm cho văn học dân gian có chiều sâu và kết tinh được những giá trị tiêu biểu của văn hóa truyền thống: “Hàng
  • 36. 30 loạt những m văn óa đ òa n p cùng tín ngưỡng, náu mình trong thần tích, kí thác ở tâm linh, ẩn tàng trong phong tục t p quán, thẩm thấu vào VHDG ... Riêng với VHDG, nhiều chi tiết trong đó c ín là nơ lưu g ữ một cách hồn nhiên và trung thực các tín hiệu văn óa, n ư một bảo tàng văn hóa” [13, tr.35]. 1.2.1.4. Dân ca Hiện tại, ở Việt Nam, khái niệm về dân ca đã được rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, để phù hợp với mục tiêu của đề tài, chúng tôi sẽ tập trung vào khái niệm dân ca các dân tộc thiểu số (DTTS). GS.TSKH. Phan Đăng Nhật đã nêu định nghĩa về dân ca các DTTS như sau: “dân ca là một loại hình sáng tác dân gian chủ yếu có tính chất trữ tình dưới hình thức ngôn ngữ có vần đ ệu gắn liền với ca hát” [80, tr.18]. Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng dân ca (DTTS) à “những bài hát ngâm hay kể bằng văn vần, hoặc độc l p, hoặc kèm theo nhạc, đ ệu múa, trò c ơ , oặc tự một người thể hiện hay một t p thể cùng tham gia… Đó là bài hát ngắn dăm bảy câu đến àng trăm, àng ngàn câu cắt ra từng khúc, từng đoạn” [80, tr.18]. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, dân ca các DTTS là một bộ phận phong phú, đa dạng của văn học dân gian các DTTS Việt Nam. Đó à nơi thể hiện một cách sinh động nhất những nét đặc trưng riêng biệt của văn hóa từng dân tộc, là những mảng màu riêng biệt trong bức tranh đa sắc màu của nền văn hóa Việt Nam. 1.2.2. Đặc đ ểm của biểu tượng trong văn óa và văn ọc dân gian Dễ nhận thấy, biểu tượng tồn tại trong mọi ĩnh vực của đời sống con người. Trong bất cứ khía cạnh nào của đời sống, con người cũng có thể bắt gặp biểu tượng. Tuy nhiên, ở mỗi ĩnh vực cụ thể, biểu tượng lại biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Do đó, tuy à một thực thể khó nắm bắt,
  • 37. 31 nhưng ứng với mỗi ĩnh vực khác nhau, biểu tượng sẽ được nhận biết, giải mã bằng những phương thức khác nhau. Trong văn học, biểu tượng có tồn tại. Tuy nhiên, có một điều cần nhận thấy, văn học là một loại hình nghệ thuật ngôn từ nên biểu tượng của văn học tất yếu có iên quan đến ngôn từ. Biểu tượng xuất hiện trước hết do nhu cầu của con người trong quá trình khám phá và lý giải thế giới. Vì vậy, biểu tượng sớm tồn tại trong tư duy của con người và được coi là một thành tố, một hạt nhân cơ bản của mọi nền văn hóa. Từ địa hạt của đời sống văn hóa gắn với những phong tục, tín ngưỡng, nghi lễ khác nhau…, biểu tượng dần tiệm cận vào đời sống nghệ thuậtvăn chương. Sớm nhất và giàu nghĩa nhất, trước hết phải kể đến nền văn học dân gian. Trong văn học dân gian, biểu tượng luôn có sự hòa quyện giữa các đặc trưng của văn hóa với các đặc trưng của văn học dân gian. Về cơ bản, biểu tượng văn học dân gian có những đặc trưng sau: Một là, biểu tượng văn học dân gian là biểu tượng đa nghĩa, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Hai là, biểu tượng văn học dân gian mang bản chất của biểu tượng ngôn từ nghệ thuật. Ba là, biểu tượng văn học dân gian chịu ảnh hưởng của đặc điểm thế loại. Bốn là, biểu tượng của văn học dân gian mang đặc điểm ưỡng phân, ưỡng hợp. Năm à, biểu tượng văn học dân gian mang đậm đà bản sắc văn hóa của tộc người. [21] Trong nền văn hóa, văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng cả về số ượng, hình thức và nghĩa biểu hiện. Do đó, một mặt, biểu tượng vừa gần gũi nhưng mặt khác, biểu tượng vô cùng khó nắm bắt. Tuy vậy, để có thể hình dung một cách khái quát nhất về biểu tượng, các nhà nghiên cứu đã sắp xếp chúng vào những nhóm nhỏ mà tiêu biểu hơn cả là nhóm biểu
  • 38. 32 tượng thuộc về tín ngưỡng và nhóm biểu tượng thuộc về phong tục tập quán [13]. Có thể thấy dù là có cội nguồn từ đâu đi chăng nữa thì biểu tượng vẫn luôn tồn tại trong ký ức văn hóa của con người nói chung, người Việt nói riêng. Những biểu tượng này không chỉ àm cho văn hóa có được chiều sâu, mang đậm tính bản sắc mà nó còn góp phần biểu hiện thế giới tinh thần của con người và những quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan. Khi tiến vào địa hạt của văn chương, biểu tượng này trở nên cụ thể hơn bởi được gắn vào những ngữ cảnh khác nhau. Cũng chính vì thế mà nghĩa biểu đạt của biểu tượng bao giờ cũng trọn vẹn, đầy đủ và dễ dàng nắm bắt hơn. 1.3. Dân ca Mông và biểu tƣợng khèn trong đời sống văn hóa Mông 1.3.1. Dân ca Mông Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc Mông là một thành viên quan trọng trong cộng đồng anh em các dân tộc thiểu số. Cùng với chiều dài lịch sử, dân tộc Mông vốn có một nền văn học dân gian phong phú, đa dạng, phản ánh đời sống văn hóa cũng như tâm nguyện của cả cộng đồng. Các thể loại văn học dân gian của dân tộc Mông cũng giống như các dân tộc khác, khá đa dạng và phong phú, bao gồm: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ dân gian… và đặc biệt à thơ ca dân gian. Trong thơ ca dân gian, dân ca được coi như à một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đồng bào Mông. Nó giống như món mèn mén, chén rượu ngô thấm đẫm vào tâm hồn mỗi người Mông, làm cho cuộc sống nơi rẻo cao trở nên say nồng và đượm thắm. Đối với người Mông, dân ca bao trùm lên toàn bộ các ĩnh vực khác nhau của đời sống, nó gắn với con người trong những giai đoạn khác nhau của đời người. Căn cứ vào nội dung, hiện nay dân ca Mông được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, dựa trên việc kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, căn cứ vào thực tế các tài liệu trong phạm vi khảo
  • 39. 33 sát, chúng đôi tán thành với cách phân loại dân ca Mông của nhà sưu tầm Doãn Thanh, chia dân ca Mông thành năm nhóm ớn: Nhóm thứ nhất, tiếng hát mồ côi (gâux tuz juôs). Nhóm này gồm những bài hát mô tả nỗi khổ đau, cơ cực của những người bất hạnh, cha mẹ mất sớm. Nội dung của những bài Tiếng hát mồ côi không chỉ nêu lên nghịch cảnh và tâm sự của kẻ mồ côi mà còn tố cáo sự bất công của xã hội cũ đối với những kẻ thân cô thế cô, mất cha mất mẹ. Bên cạnh nội dung tố cáo, Tiếng hát mồ côi cũng nói ên được phần nào tinh thần tự tin của những con người mồ côi. Nỗi thống khổ đã biến thành ý thức phản kháng quyết liệt, thể hiện khát vọng tự do và vươn ra ánh sáng của những thân phận bất hạnh. Nhóm thứ hai, tiếng hát tình yêu (gâux plênhz). Nhóm này gồm những bài hát phong phú và đa dạng nhất trong kho tàng dân ca của người Mông, khắc hoạ một cách rõ nét mọi cung bậc tình cảm trong tình yêu của con người Mông. Giá trị chủ yếu của Tiếng hát tình yêu là ở chỗ nó đã phản ánh được những ước mơ giản dị, trong sáng của những chàng trai, cô gái Mông... Tuy vậy, cũng có thể nhận thấy rằng, trong nhóm này có nhiều bài hướng vào phê phán những khía cạnh tiêu cực trong tình yêu. Nhóm thứ ba, tiếng hát cưới xin (gâux yôngz). Đây à nhóm gồm những bài hát do nam giới hát trong những dịp đám cưới, gồm hát nghi thức và hát vui chơi. Thông thường, các bài hát này mang tính chất nghi thức nên tính chất dân gian của nó có phần hạn chế. Loại hát vui chơi trong đám cưới thể hiện đầy đủ hơn những nội dung của các bài ca Tiếng hát cưới xin. Cùng với Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát cưới xin là một trong những nhu cầu thuộc về đời sống tinh thần phong phú của người Mông. Nhóm thứ tư, tiếng hát làm dâu (gâux uô nhangs). Nhóm này gồm những bài diễn tả những nỗi đau khổ, uất ức của người phụ nữ Môngtrong xã hội cũ. Tiếng hát àm dâu được coi như một bức tranh tái hiện cuộc đời đầy bi kịch
  • 40. 34 của những người phụ nữ không có quyền tự do. Ở họ nổi lên là sự dập vùi cả về mặt tinh thần và thể xác, cuộc đời họ buồn tẻ như được số phận định sẵn: làm con gái, làm vợ, làm mẹ, làm bà và rồi âm thầm trở về với đất. Tuy nhiên, Tiếng hát àm dâu đã chứa đựng những mầm mống nhỏ nhoi của sự phản kháng những mong thoát khỏi lễ giáo phong kiến của người phụ nữ Mông. Thứ năm, tiếng hát cúng ma (gâux tuôs). Đây à nhóm những bài hát đặc biệt chỉ dùng trong đám ma. Loại này không phổ biến trong đời sống sinh hoạt thường ngày của nhân dân, mà khi già, cần thiết thì người ta mới học. Tiếng hát cúng ma có thể chia thành: bài hát chỉ đường, các bài hát àm đám cúng ma. Phần lớn các bài hát trong Tiếng hát cúng ma có nội dung kể lại công ơn của cha mẹ đối với con cháu, kể lại nguồn gốc tổ tiên và các bài khèn khóc người chết. Từ những bài hát này, nhân sinh quan, thế giới quan của người Mông được bộc lộ khá sâu sắc; nhiều tính chất giáo huấn luân lý tiến bộ; bộc lộ một phần nào đó những phong tục tập quán độc đáo của người Mông. Với dân ca, người Mông đã bộc lộ tư duy trực quan sinh động qua những hình quen thuộc của núi rừng, ưa so sánh, ví von, bằng ngôn từ mộc mạc, dễ nghe và dễ hiểu, nhiều bài có những điệp khúc được nhắc lại như một cách để nhấn mạnh những ẩn ý mà nó chứa đựng... Đặc biệt, hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông vô cùng phong phú, hàm chứa những nội dung đầy ý nghĩa và vô cùng độc đáo. Chính điều này làm cho dân ca Mông có sức hút mạnh mẽ đối với nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, trong đó nổi bật à văn học và văn hóa. 1.3.2. Biểu tượng k èn trong đời s ng văn óa Mông Dễ nhận thấy, nguồn gốc tộc người, môi trường sinh sống và các cuộc thiên di tự do trong lịch sử đã tạo cho người Mông một đời sống văn hoá vô cùng phong phú. Có thể ví đời sống văn hoá của họ như một dòng chảy ngầm
  • 41. 35 mà trong đó iên tục diễn ra các quá trình chống lại sự xâm hại của các điều kiện tự nhiên và lịch sử với các giá trị đã được xác định trong truyền thống. Con cháu của người Mông xa xưa khi di cư đến Việt Nam đã mang theo những suy tư và niềm khát khao dằng dặc của cha ông mình. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, họ vẫn tìm thấy niềm an ủi và đồng vọng với những tâm tư, tình cảm của mình trong di sản văn hoá của cha ông. Góp phần vào làm phong phú thêm đời sống văn hoá dân tộc Mông, ngoài các tác phẩm văn học dân gian, cần phải kể đến hệ thống âm nhạc vô cùng đặc sắc. Trong đó phải kể đến các nhạc cụ: khèn, sáo, tiêu, kèn á, đàn môi... mà trong đó khèn được coi là nhạc cụ đặc trưng tiêu biểu của người Mông nói chung. Về cấu tạo, khèn Mông có ba phần: thân khèn là một dóng gỗ dài có lỗ nhận hơi nén xuống; bầu khèn là phần trọng tâm của cả cây khèn, à đoạn gỗ phình to như quả hoa chuối, hai đầu thon nhọn. Bầu khèn để sáu dóng trúc to, nhỏ ngắn dài luồn qua. Sáu dóng trúc thả hơi à phần để các ngón tay người dùng bấm, tạo âm thanh khi thổi khèn. Như vậy, có thể thấy khèn nằm trong bộ hơi, được cấu tạo từ nguyên liệu gỗ và các dóng trúc có các lỗ thoát hơi, phát ra những âm thanh nhờ sự điều chỉnh của hơi. Trong đời sống của người Mông, bên cạnh những nhạc cụ khác, khèn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Trước hết, sự quan trọng của khèn được thể hiện trong nghi lễ tang ma. Trong quan niệm của người Mông, tang ma luôn phải tiến hành qua hai giai đoạn là nghi lễ àm ma tươi và nghi ễ làm ma khô. Với nghi lễ ma tươi, khi gia đình có người chết, người ta bắn lên trời ba phát súng kíp để báo hiệu cho làng bản biết và gọi thầy khèn, thầy cúng tới. Sau khi tắm và mặc quần áo cho người chết, người ta sẽ tiến hành phần lễ với việc thầy cúng đọc bài ca “chỉ đường” cho người chết tìm về với tổ tiên. Suốt thời gian đó, gia chủ mỗi bữa đều phải làm lễ cúng cơm. Khèn, trống được thổi suốt trong nghi lễ làm ma tươi cho đến khi mang người chết đi chôn. Nhìn chung, nghi lễ àm ma tươi diễn
  • 42. 36 ra nhanh chóng và ở mỗi nghi thức quan trọng của buổi lễ thì đều có những bài khèn tương ứng. Sau khi chôn cất 13 ngày, hoặc tùy theo điều kiện của gia chủ, người ta phải tiến hành làm lễ ma khô cho người chết vì theo quan niệm của người Mông, khi chưa àm ễ ma khô thì tội lỗi của người chết chưa thể được rửa sạch và chưa thể hóa kiếp được. Lễ ma khô của người Mông được chuẩn bị cực kỳ chu đáo và không thể thiếu thầy khèn, thầy trống. Trong lễ làm ma khô, con cháu của người chết sẽ làm một hình nộm để tượng trưng cho người chết. Nhìn chung, trong cả hai giai đoạn tiến hành tang ma, khèn là nhạc cụ không thể thiếu. Trong hội hè, các dịp sinh hoạt cộng đồng, khèn đóng một vai trò quan trọng. Không chỉ góp phần làm nên bản sắc trong đời sống tâm linh, khèn còn được xem là vật tượng trưng cho tâm hồn, khát vọng, tình yêu, tuổi trẻ của người Mông, đặc biệt là các chàng trai. Trong những lễ hội của người Mông, nếu như những cô gái với phục trang cầu kỳ, tay cầm chiếc ô mới, miệng nở nụ cười tươi đùa vui thành từng nhóm thì những chàng trai, với thân hình vạm vỡ lại tụ tập nhau để múa khèn, thổi khèn. Ở những dãy núi sừng sững ấy, âm thanh của khèn nhẹ nhàng lả ướt như một àn sương mỏng, đậm chất dân dã như chính tâm hồn người Mông àm người nghe thao thiết muốn tìm về mãi mãi. Tiếng khèn thấm sâu vào máu thịt người Mông, thân quen như miếng mèn mén hay bát thắng cố còn nghi ngút khói bên những chum rượu ấm lòng trong những ngày lễ tết. Với người Mông, cây khèn không chỉ là nhạc cụ để giải trí hay công cụ để đưa inh mà còn có chức năng giáo dục. Khi xét về nguồn gốc, cây khèn là biểu tượng cho lòng hiếu thảo của những chàng trai Mông. Vì thương nhớ bố, người con trai đã ấy dao chặt trúc và thổi, những đoạn trúc ngắn dài hợp lại đã tạo ra những âm thanh kì thú. Sau khi chàng trai này chết những người đời sau đã học tập và dùng khèn thổi trong những đám tang để tỏ lòng hiếu thảo. Do vậy, với người Mông, hàm chứa đằng sau chiếc khèn còn là bài học về tấm lòng hiếu thảo
  • 43. 37 của con cái đối với cha mẹ. Ngoài ra, việc truyền dạy từ những người cha, người anh cho thế hệ sau những bài khèn truyền thống của dân tộc với nội dung phong phú đa dạng cũng được coi là một sự giáo dục có tính truyền thống. Những chàng trai chăm học khèn và biết thổi khèn hay múa khèn khéo sẽ là những người đàn ông giỏi giang, biết lo toan sắp xếp gia đình vì họ có ý thức trách nhiệm giữ gìn phong tục, tập quán của tổ tiên. * Tiểu kết Biểu tượng, với tư cách à hạt nhân của văn hóa đã chứa đựng những quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan của con người ở nhiều thế hệ khác nhau. Ứng với mỗi nền văn hóa, những đặc trưng tiêu biểu nhất, những đặc điểm phản ánh rõ nét nhất tâm thức cộng đồng, dù ít hay nhiều cũng đã khúc xạ vào thế giới biểu tượng và làm cho nó ngày càng trở nên phong phú hơn. Vì lẽ đó, biểu tượng nằm ở vị trí trung tâm của văn hóa và được coi như chìa khóa để có thể tiến hành khai mở và giải các mã văn hóa. Trong nền văn hóa dân gian Việt Nam nói chung, thế giới biểu tượng vô cùng phong phú. Riêng với bộ phận văn học dân gian, các biểu tượng được hình thành và tồn tại dựa trên một hệ thống các giá trị đã được xác lập theo những chuẩn mực và tiêu chí nhất định. Trong bức tranh nhiều màu sắc của văn học dân gian các dân tộc thiểu số, dân ca Mông được coi à nơi chứa đựng những biểu tượng vô cùng độc đáo. Trong đó, khèn được coi là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất. Những biểu tượng này không chỉ góp phần thể hiện đời sống văn hóa vật chất mà còn thể hiện đời sống tâm inh, tín ngưỡng cùng những quan niệm sâu sắc về thế giới và con người của đồng bào Mông.
  • 44. 38 CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT BIỂU TƢỢNG KHÈN TRONG DÂN CA MÔNG 2.1. Nh ng định hƣớng chung trong khảo sát, thống kê, phân loại 2.1.1. Mục đíc Biểu tượng vốn là một thực thể vô cùng sống động và khó nắm bắt. Mỗi ý nghĩa biểu tượng lại nói lên một mặt biểu hiện của đời sống xã hội, có bao nhiêu biểu hiện của đời sống xã hội là có bấy nhiêu nghĩa tương ứng có trong từng biểu tượng. Do vậy, có thể thấy rằng mỗi một biểu tượng thường hàm chứa không phải chỉ là một, mà là nhiều nghĩa biểu trưng khác nhau. Điều này làm cho biểu tượng vừa khó nắm bắt nhưng không kém phần hấp dẫn. Trong dân ca Mông, khèn được coi là biểu tượng đã nghĩa, đa dạng; được biểu hiện trong nhiều trường hợp cụ thể khác nhau. Ở biểu tượng khèn, tính phức hợp của các hình thái nghĩa đã hướng con người đến nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống văn hóa, tâm inh của cộng đồng người Mông. Tuy nhiên, việc nắm bắt và lý giải những cội nguồn của những hướng nghĩa này không phải à điều dễ dàng bởi biểu tượng vốn vô cùng khó nắm bắt. Để có cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể về biểu tượng khèn, khi tìm hiểu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, luận văn sẽ thực hiện các thao tác thống kê, phân loại các hình thức biểu hiện của biểu tượng này. Từ đó, uận văn sẽ gợi mở ra những hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng này trong dân ca Mông. Kết quả của quá trình này sẽ à cơ sở để luận văn đưa ra những kết luận có tính thực tiễn và tính thuyết phục trong việc giải mã biểu tượng khèn trong chương III. Xuất phát từ mục đích đã đề ra, luận văn được định hướng với các nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, luận văn sẽ tiến hành khảo sát và thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông ở từng tài liệu cụ thể. Đồng thời, căn cứ vào kết quả khảo sát thu được, luận văn sẽ tiến hành đối chiếu với một số loại biểu tượng đồ vật khác được khảo sát trong dân ca Mông như: trống, đàn môi,