1. Được thục hiện bởi nhóm 3 - ql24.52
RA QUYẾT ĐỊNH
TRONG KINH
DOANH
2. Nhóm 3
Chào mọi người, nhóm chúng mình là nhóm 3 lớp QL24.52, bao gồm các thành viên
3. Ở thời điểm hiện
tại Việt Nam có
thể triển khai các
giải pháp về năng
lượng sạch chưa?
Tại sao?
4. Mặc dù Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn
về nguồn năng lượng tái tạo, nhưng cho đến
nay, số các dự án thực hiện còn rất ít, tỷ trọng
điện tái tạo trong tổng lượng điện sản xuất là
không đáng kể là do: Thiếu chính sách đủ mạnh,
đồng bộ bao gồm từ điều tra, đánh giá tiềm năng
đến khai thác và sử dụng; Thiếu cơ chế tài chính
hiệu quả cho việc đầu tư, quản lý, vận hành các
dự án điện tái tạo tại khu vực vùng sâu, vùng xa
ngoài lưới; Thiếu một quy hoạch tổng thể phát
triển điện tái tạo quốc gia; Thiếu một cơ quan
đầu mối tập trung, với chức năng đủ mạnh để
điều hành. Cụ thể hơn là các lý do về thách thức
sau:
Câu trả lời của nhóm 3 là:
KHÔNG
5. Thứ nhất: Thách thức về cơ chế chính
sách:
Cả cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà đầu tư đều cho rằng, những quy định
tại Luật Quy hoạch có hiệu lực từ ngày 1/1/2019 cho thấy rõ những thách thức về tiến độ
dự án phải đáp ứng, bởi thời gian triển khai và hoàn thành các dự án điện gió để có thể
được hưởng chính sách ưu đãi giá điện theo Quyết định 39/2018/QĐ-TTg không còn
nhiều. Quyết định này quy định giá mua điện đối với dự án điện gió trong đất liền nối lưới
là 1.928 đồng/kWh (8,5 Uscents/kWh) và đối với các dự án điện gió trên biển nối lưới là
2.223 đồng/kWh (9,8 Uscents/kWh) được áp dụng cho một phần, hoặc toàn bộ nhà máy
điện gió nối lưới có ngày vận hành thương mại trước ngày 1/11/2021.
Hiện tại, cơ chế ưu đãi về vốn đầu tư thuế, về đất đai, giá mua điện mặt trời theo Quyết
định 11/2017/QĐ-TTg với giá mua 2.086 đồng/kWh (tương đương 9,35 Uscents/kWh)
chỉ áp dụng cho ác dự án nối lưới có hiệu suất của tế bào quang điện (solar cell) lớn hơn
16%, hoặc module lớn hơn 15% đã hết hiệu lực từ ngày 30/6/2019. Do đó, không biết
các dự án điện mặt trời tương lai sẽ như thế nào.
6. Các rào cản về thông tin đối với các công nghệ năng lượng tái
tạo như điện thuỷ triều và điện sóng còn thiếu. Mặc dù các công
nghệ này hiện nay đã gần đến mức thương mại hoá, nhưng
chưa có sự hỗ trợ đáng kể cho việc điều tra các nguồn này và
tìm kiếm các địa điểm để khai thác.
Hiện nay ở Việt Nam còn thiếu các doanh nghiệp thương mại
cung cấp các thiết bị năng lượng tái tạo và dịch vụ điện liên
quan đến nguồn điện này. Do vậy, các công nghệ năng lượng
tái tạo phần lớn chưa chế tạo được trong nước mà phải nhập
khẩu. Các dịch vụ sau lắp đặt chưa có, đặc biệt là ở vùng nông
thôn và vùng sâu, vùng xa.
Đối với Việt Nam, cho đến nay chưa có công nghệ hoàn chỉnh
nào được thử nghiệm ở các điều kiện khí hậu đặc trưng (như
bão, độ ẩm cao, các thông số khí quyển…). Ngoài ra, còn thiếu
kinh nghiệm về lựa chọn thiết bị đồng bộ, kỹ năng khai thác, vận
hành và bảo dưỡng.
Hiện nay, không có các công ty trong nước cung cấp các
công nghệ điện sinh khối, hầu hết đều phải nhập khẩu. Các
dịch vụ tư vấn, kỹ thuật đối với các công nghệ điện sinh khối
còn hạn chế, đặc biệt là dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa sau
khi lắp đặt.
Thứ hai: Thách thức về công
nghệ, kỹ thuật:
Về điện gió gặp phải những khó khăn, thách thức như:
1/ Thiếu số liệu cần thiết và tin cậy về tốc độ gió cho nghiên cứu phát
triển nguồn điện gió ở các khu vực khác nhau.
2/ Thiết bị nhà máy điện gió đều là thiết bị siêu trường, siêu trọng
trong khi cơ sở hạ tầng đường, cảng còn thô sơ dẫn đến rủi ro cao và
không đảm bảo an toàn;.
3/ Thiếu năng lực quản lý, vận hành và bảo dưỡng sửa chữa các dự án
điện gió.
4/ Thiếu tiêu chuẩn hòa lưới điện quốc gia áp dụng với điện gió trên
bờ, gần bờ, ngoài khơi và hòa lưới điện độc lập dẫn đến quá trình đàm
phán đấu nối lưới điện kéo dài.
5/ Thiếu thông tin đánh giá về tiềm năng điện gió ngoài khơi, cũng như
khả năng nối lưới các dự án sau khi hoàn thành.
6/ Các dự án điện gió ở vùng đất bãi bồi ven biển có địa hình, địa chất
tương đối phức tạp và chịu ảnh hưởng thời tiết khắc nghiệt mưa, bão,
sóng to, gió lớn kết hợp chế độ thủy triều không ổn định sẽ dẫn đến
nhiều thách thức trong quá trình thi công lắp đặt thiết bị.
7/ Công nghệ mới và kỹ thuật phức tạp, các nhà thầu trong nước chưa
có nhiều kinh nghiệm trong việc thi công xây dựng, lắp đặt tua bin gió
trên biển.
7. Thứ ba: Thách thức về kinh tế, tài chính:
Thách thức lớn nhất đối với
phát triển năng lượng tái tạo
nằm ở vốn đầu tư và khả năng
thu xếp vốn của chủ đầu tư.
Rào cản tài chính cản trở việc
thực hiện một dự án kinh tế do
thiếu tiếp cận với nguồn tài
chính phù hợp, hoặc thiếu cơ
chế bền vững cung cấp tài trợ.
Phát triển năng lượng tái tạo ở
Việt Nam hiện nay bị hạn chế
bởi cả hai rào cản này.
Thiếu tiếp cận với nguồn tài chính
phù hợp là vấn đề thời hạn vay.
Cường độ vốn đầu tư của năng
lượng tái tạo cao nên tài khoản vốn
đầu tư cho tổng chi phí phải lớn
hơn nhiều so với nguồn nhiệt điện,
có nghĩa là dòng vốn của các nhà
phát triển phụ thuộc nhiều vào thời
hạn vay. Hiện nay thời hạn đặc
trưng là 5-8 năm trong hệ thống
ngân hàng thương mại thì dòng
tiền đến các nhà đầu tư trong
những năm đầu là nhỏ nhất làm
kéo dài thời gian hoàn vốn và do
đó không khuyến khích các nhà
đầu tư góp cổ phần.
Trong Chiến lược phát triển năng
lượng quốc gia cũng đã chỉ ra sự
thiếu tiếp cận tài chính cho năng
lượng tái tạo, vì thế một trong
những biện pháp cho các giải
pháp tài chính, huy động vốn được
đề cập là ưu tiên phân bổ vốn tín
dụng ưu đãi từ nguồn vốn ODA và
vốn vay theo hiệp định song
phương cho đầu tư vào các dự án
như thăm dò, phát triển năng
lượng tái tạo.
9. • Nhận dạng và xác định vấn đề
Nhìn nhận vấn đề là bước đầu tiên có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với việc ra quyết định
hiệu quả. Bước đầu tiên thực hiện thiếu chính
xác thì các bước tiếp theo sẽ trở nên vô
nghĩa. Cũng như một SMEs muốn khởi
nghiệp trong lĩnh vực năng lượng sạch thì
cần biết rõ nguồn gốc, hạn chế, và kết luận
vấn đề tại sao lĩnh vực này vẫn chưa phát
triển ở VN
3. Xây dựng các phương án:
Nếu chúng ta chỉ có một phương án, mọi
người sẽ chỉ có một lựa chọn: hoặc "có",
hoặc "không", bởi vì chỉ có duy nhất một
câu hỏi: "Chúng ta nên làm điều này
không?". Tuy nhiên, điều này hiếm khi dẫn
đến một quyết định hiệu quả . Vì vậy, SMEs
cần có các phương án khác nhau đại diện
cho nhiều khả năng khác nhau
2. Xác định mục tiêu
Sau khi người ra quyết định đã xác định được
vấn đề cần giải quyết thì có thế đặt ra các mục
tiêu cần đạt được.Đặt ra mục tiêu giúp cho nhà
quản trị biết được cái mình cần đạt được và
làm sao để đạt được. Cũng như một SMEs
muốn phát triển mảng năng lượng sạch thì cần
: chính sách đủ mạnh, cơ quan đầu mối tập
trung...
5. Đánh giá các phương án
Để đánh giá tính khả thi của phương án, SMEs
cần dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá về:
Chi phí, lợi ích, tác đọng tài chính, các biến số
vô hình, thời gian, tính khả thi, nguồn lực, rủi ro,
đạo đức.
10. Sau khi đã đánh giá toàn bộ phương
án, bước kế tiếp của nhà quản trị là
chọn ra phương án có điểm cao nhất
theo tiêu chuẩn đã nêu. Việc lựa chọn
phương án nên có sự tham gia của tập
thể , của những chuyên gia có kinh
nghiệm, thậm chí của cấp trên.Những ý
kiến của họ có ý nghĩa rất lớn giúp
người ra quyết định chọn được phương
án tối ưu nhất.
5. Lựa chọn và ra quyết định
6. Đánh giá và kiểm tra kết
quả:
Kiểm tra việc thực hiên quyết định Điều chỉnh quyết
định tổng kết thực hiện quyết định.
- Kiểm tra việc thực hiện quyết định:
+ Kiểm tra tới tác động hành vi con người, nâng cao
trách nhiệm của họ và động viên họ thực hiện hoạt
động nằm trong kế hoạch đã vạch ra.
+Tiến hành kiểm tra thúc đẩy sự thực hiện kịp thời.
- Điều chỉnh quyết định:Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến phải điều chỉnh quyết định trong quá trình thực
hiện chúng- các nguyên nhân đó là:
+ Có những thay đổi đột ngột do nguyên nhân bên
ngoài gây ra
+ Có sai lầm nghiêm trọng bản thân quyết định, và
một số nguyên nhân khác Không nên do dự trong
việc điều chỉnh quyết định khi xuất hiện tình huống
làm cho quyết định trước đây hết hiệu lực
11. Làm sao để hội tụ được các yếu tố
cần thiết cho ngành khởi sắc ( thiên
thời địa lợi nhân hòa)
12. 1. Tăng cường an ninh năng lượng
từ việc bao gồm khí đốt tự nhiên,
hiệu quả năng lượng và tái tạo
năng lượng trong hệ thống năng
lượng. Dự phòng và đa dạng hóa là
chìa khóa cho an ninh và khả năng
phục hồi hệ thống năng lượng.
2. Giảm chi phí hệ thống điện so
với kế hoạch năng lượng tập trung
vào than bằng cách hạn chế tính
dễ bị tổn thương đối với thị trường
than biến động, tránh các khoản
nợ tài chính của tài sản bị mắc kẹt
và giảm chi phí liên quan đến sức
khỏe cộng đồng và tác động môi
trường.
3. Thu hút được nhiều đầu tư tư
nhân hơn vào các dự án năng
lượng tái tạo, nhờ đó giảm bớt áp
lực về công suất điện cho EVN và
chia sẻ trách nhiệm này với nhiều
đối tượng sử dụng điện cũng như
đơn vị sản xuất điện trong mô
hình sản xuất phân tán.
4. “Xã hội hoá” thị trường điện để
bảo vệ những hộ gia đình có hoàn
cảnh khó khăn có khả năng chi
trả thấp nhất, đảm bảo EVN hoạt
động bền vững về tài chính và
phản ánh bước dịch chuyển
hướng tới định giá theo thị
trường trong khuôn khổ TSĐ VIII.
5. Giảm mức phát thải khí nhà
kính, ô nhiễm không khí và các chi
phí khác so với kế hoạch năng
lượng dựa vào than đá, phù hợp
với các cam kết NDC của Việt
Nam.
6. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ và các sáng kiến công nghiệp
tư nhân khác làm giảm cường độ
năng lượng, cho phép sử dụng
năng lượng mặt trời trên mái nhà
dân cư và tăng hiệu quả sử dụng
năng lượng thông qua giáo dục
công cộng và các quy trình pháp
lý