PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
Báo cáo chủ đề 1 - NCKH
1. BÁO CÁO CHỦ ĐỀ 1
Nhóm 9:
Bùi Thị Phương Mai – K40.104.067
Nguyễn Thị Họa Mi – K40.104.070
Nội dung trọng tâm
1. Sự khác biệt giữa những nội dung đánh giá sinh viên là gì?
Học theo niên chế: là học theo đơn vị là năm học, mỗi chương trình học của một ngành học được
quy định học trong một số năm nhất định. Sinh viên phải hoàn thành một số lượng kiến thức ấn
định bắt buộc trong năm học đó, các khối kiến thức học được bố trí theo một tỷ lệ nhất định với
đơn vị đo là đơn vị học trình. Ví dụ chương trình học trình độ đại học được cấp bằng cử nhân
thường thời gian tham gia học tập trong 4 năm, cấp bằng kỹ sư được trong 5 năm, cấp bằng bác
sỹ chương trình trong 6 năm. Sinh viên học hết thời gian quy định nếu không bị lưu ban, dừng
tiến độ học tập thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.
Học theo tín chỉ: Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người
học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong
phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và (3)
thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...;. Đào tạo
theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ
2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà
tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một
ngành học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.
Với các khái niệm cơ bản trên, có thể thấy rằng sự khác nhau cơ bản giữ hai hình thức học tập
tập trung các nội dung sau:
(1) Tôn chỉ/ tiêu chí học tập;
(2) Chương trình học;
(3) Phương pháp đánh giá kết quả học tập;
(4) Phương pháp học.
Dựa vào việc phân tích các nội dung này sẽ giúp sinh viên, giảng viên thấy rõ sự khác biệt nhờđó
sẽ có phương pháp học tập và giảng dạy thích hợp khi triển khai đào tạo tín chỉ toàn trường trong
năm học tới. 3. Sự khác biệt cơ bản giữa hai hình thức học tập: Nội dung của phần này sẽ tập
trung vào với so sánh hai hình thức học tập theo niên chế và học theo tín chỉ dựa trên các nội
dung đã nêu ở phần 2. Sử dụng phương pháp lập bảng so sánh có phân tích sự nhằm làm rõ khác
biệt giữa hai hình thức học tập.
2. Niên chế Tín chỉ
Tôn chỉ/tiêu chí: - Người dạy học là trung tâm,
người học xoay quanh quỹ
đạo của người dạy;
Chương trình học, thời
gian, tiến độ và nội dung
thường được ấn định sẳn, sinh
viên thường bị động;
Sinh viên tham gia với vai
trò bị động;
Sinh viên chấp hành tốt các
lịch học, lịch thi, các quy
định, quy chế của nhà trường,
tích cực học tập và rèn luyện
thì sẽ đạt kết quả tốt;
Khuyến khích tự học
nhưng không phải là một
phần bắt buộc theo quy định;
- Người học là trung tâm của quá trình
đào tạo;
Chương trình học linh hoạt hơn, sinh
viên có thể chủ động trong việc sắp thời
gian, tự đăng ký lịch học và số môn học
cho một kỳ;
Sinh viên chủ động tham gia vào môi
trường cộng tác dạy - học;
Sinh viên phải chủ động nghiên cứu
kỹ, nắm chắc các tài liệu của nhà
trường, nắm vững chương trình đào tạo,
các học phần phải học trước, các học
phần học song hành, phần kiến thức
giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo
dục chuyên nghiệp…
Tự học là một thành phần hợp pháp
trong cơ cấu giờ học
Chương trình học: - Tổ chức theo năm học;
- Một năm học có 2 học kỳ;
- Chương trình học được
thiết kế theo năm học và ít
biến động;
- Sinh viên phải hoàn thành
nội dung học đã được ấn định
theo năm học;
- Tổ chức theo học kỳ;
- Một năm học có thể 2 hoặc 3 học kỳ;
- Cấu trúc mô đun, thành những học
phần; lịch trình thực hiện chính xác;
- Sinh viên tích lũy kiến thức theo học
phần, tích lũy số tín chỉ theo học kỳ;
Phương pháp đánh giá kết
quả học tập:
- Kết quả được đánh giá theo
năm học với số đơn vị học
trình được quy định sẳn;
- Có ít môn tự chọn;
- Hoàn thành số đơn vị học
trình (Di) bắt buộc cho từng
ngành học: đại học tương
đương với 200 (đvht);
- Kết quả học tập được đánh giá theo
học kỳ và theo số tín chỉ được tích lũy;
- Có nhiều môn tự chọn;
- Hoàn thành số tín chỉ (Ci) tích lũy tối
thiểu quy định cho từng học kỳ (tối
thiểu 10 TC); SV đại học tích lũy đủ
khoảng 120 TC và cao đẳng khoảng 90
TC;
3. chương trình cao đẳng tương
đương 150 (đvht);
- Thang điểm đánh giá: 10;
- Phân hạng, xếp loại:
Theo học kỳ/năm học (tính
[1]):
Điểm dưới 4:Kém Không
đạt Từ 4 đến cận 5:Yếu
không đạt Từ 5 đến cận
6:Trung bình; Từ 6 đến cận
7:Trung bình khá Từ 7 đến
cận 8:Khá
Từ 8 đến cận 9:Giỏi
Từ 9 đến 10: Xuất sắc
Tổng kết chương trình học
(tính [2]):
Xếp hạng tương tự như trên;
- Thang điểm đánh giá: 4;
- Phân hạng, xếp loại :
Theo kỳ học (tính [3]):
Từ 1,0 dưới 2,00: Yếu
Từ 2,00 đến 2,49: Trung bình; Từ
2,50 đến 3,19: Khá:
Từ 3,20 đến 3,5:: Giỏi:
Từ 3,60 đến 4,00: Xuất sắc:
Điểm tổng kết theo số kỳ (tính [4]):
Xếp hạng tương tự như trên; Giảm
một mức nếu tổng lượng của các học
phần phải thi lại vượt quá 5% so với
tổng số tín chỉ;
2. Sự khác biệt giữa những đề tài nghiên cứu sinh viên là gì?
PHẦN TỰ NGHIÊN CỨU
1. Khoa học là gì? Sự phát triển của khoa học và phân loại nó như thế nào?
_Khoa học là:
Hệ thống những tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa từ thực tiễn vá thực tiễn kiểm
nghiệm; nó phản ánh được dạng logic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những
cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luậtcủa tự nhiên, xã hội và tư duy;
đồng thời khoa học còn bao gồm hệ thống tri thứcvề những biện pháp tác
động có kế hoạch đễn thế giới xung quanh, đến sự nhậnthức và làm biến đổi
thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người.
là hệ thống những tri thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy được tích luỹ
trong lịch sử.
một quá trình nhận thức:tìm tòi, phát hiện các quy luật của sựvật, hiện tượng và vận dụng
các quy luật đó để sang tạo ra nguyên lý các giải pháptác động vào các sự vật hoặc hiện
tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
4. một hình thái ý thức xã hội- một bộ phận hợp thành của ýthức xã hội. Nó
tồn tại mang tính chất độc lập tương đối và phân biệt với các hìnhthái ý thức xã hội khác
ở đối tượng, hình thức phản ánh mang một chức năng xã hộiriêng biệt.
một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp xã hội đặc thù: làhoạt động sản xuất tinh thần
mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ vàđầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã
hội, đặc biệt là sản xuất vật chất thông qua sự
đổi mới hình thức, nội dung, trình độ kỹ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả bản
thân con người trong sản xuất. Xuất phát từ đó, xã hội yêu cầu phải tạo ra chokhoa học
một đội ngũ những người hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyênmôn
nhất định, có phương pháp làm việc theo yêu cầu của từng lĩnh vực hoạt động khoa học.
_Sự phát triển của khoa học:
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, tuỳ theo những yêu cầu của pháttriển của
xã hội mà xu hướng này hay khác nổi lên chiếm ưu thế:
Thời Cổ đại: xã hội loài người còn sơ khai, lao động sản xuất còn đơn giản,những tri
thức mà con người tích luỹ được chủ yếu là tri thức kinh nghiệm. Thời kỳnày, triết học
là khoa học duy nhất chứa đựng tích hợp những tri thức của các khoahọc khác nhau như:
hình học, cơ học, tĩnh học, thiên văn học…
Thời Trung cổ: kéo dài hàng nghìn năm, là thời kỳ thống trị của quan hệsản
xuất phong kiến cùng với nó là sự thống trị của giáo hội và nhà
thờ…(chủnghĩa duy tâm thống trị xã hội) khoa học ở thời kỳ này bị giáo hội bóp nghẹt
mọi tưtưởng khoa học nên chậm phát triển, vai trò của khoa học đối với xã
hội rất hạnchế, khao học trở thành tôi tớ của thần học
Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa (Thế kỷ thứ XV – XVIII - Thời kỳ
Phụchưng): Sự phát triển củaản xuất tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy sự phát
triển của khoa học: khoa học từng bước thoát ly khỏi thần học, sự phân lập các tri
thức khao học càng rõ ràng, nhiềungành khoa học chủ yếu được sử dụng trong
thời kỳ này là phương pháp tư duysiêu hình – cơ sở triết học để giải thích các hiện
tượng xã hội.
5. Thời kỳ Cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất (từ giữa thế kỷ
thứ XVIII đến thế kỷ thứ XIV Đâylà thời kỳ có nhiều phát minh khoa học lớn: định
luật bảo toàn và chuyển hoá nănglượng, thuyết tiến hoá… và xuất hiện nhiều nghiên cứu
khoa học. Sự phát triển củakhoa học đã phá vỡ tư duy siêu hình và thay vào đó là tư duy
biện chứng; khoa họccó sự thâm nhập lẫn nhau để hình thành những môn khoa
học mới như: toán – lý,hoá – sinh, sinh – địa, hoá – lý, toán kinh tế, xã hội học chính
trị…
Thời kỳ Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến nay).Thời kỳ này
Cách mạng khoa học và kỹ thuật phát triển theo hai hướng:
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức của con người trong nghiên cứu các
kết cấu khác nhau của vật chất, khoa học đi sâu vào tìm hiểu thế giới
vi mô,hoàn thiện các lý thuyết về nguyên tử, về điện, song, trường…
và nghiên cứu sựtiến hoá của vũ trụ.
Chuyển kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất một cách nhanh
chóngđồng thời ứng dụng chúng một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội.
-Phân loại khoa học:
Phân loại khoa học là chỉ ra những mối quan hệ tương hỗ giữa các ngànhkhoa học
trên cơ sở những nguyên tắc xác định; là sự phân chia các bộ môn khoahọc thành
nững nhóm bộ môn khao học theo cùng một tiêu thức nào đó để nhậndạng cấu trúc
của hệ thống tri thức, xác định vị trí mỗi bộ môn khoa hỏctong hệthống tri thức, đồng
thời lấy đó làm cơ sở để xác định con đường đi đến khoa học;là ngôn ngữ quan trọng cho các
cuộc đối thoại về nghiên cứu khoa học, thông tin,tư liệu phân ngành đào tạo, tổ chức và
quản lý khoa học, hoạch định chính sáchkhoa học v.v..-
Phân loại khoa học cần tuân theo một số nguyên tắc:
+Nguyên tắc khách quan quy định việc phân loại khoa học phải dựa vào đặcđiểm của đối tượng
nghiên cứu của từng bộ môn khoa học và quá trình vận động,phát triển của từng bộ môn
khoa học gắn với những yêu cầu của thực tiễn, khôngđược tách rời khoa học và đời sống.
+ Nguyên tắc phối thuộc đòi hỏi phân loại khoa học phải theo tiến trình pháttriển của đối tượng
nhận thức của khoa học và mối liên hệ biện chứng, chuyển tiếplẫn nhau giữa chúng.
6. Trong lịch sử phát triển của khoa học có nhiều cách phân loại khác nhau:-
*Cách phân loại của Aristốt
(384 – 322 ton - thời Hy lạp cổ đại) theo mụcđích ứng dụng của khoa học, có
3 loại.
Khoa học lý thuyết gồm: siêu hình học, vật lý học, toán học… với mục đíchtìm hiểu thực
tại.
Khoa học sáng tạo gồm tu từ học, thư pháp, biện chứng pháp…với mục đíchsáng tạo tác
phẩm.
Khoa học thực hành gồm: đạo đức học, kinh tế học, chính trị học, sử học…với mục đích
hướng dẫn đời sống.
*Cách phân loại của C. Mác: có 2 loại
Khoa học tự nhiên: có đối tượng là các dạng vật chất và các hình thức
vậnđộng của các dạng vật chất đó được thể hiện trong giới tự nhiên cùng
những mốiliên hệ và quy luật giữa chúng như: cơ học, toán học, sinh vật học,…
Khoa học xã hội hay khoa học về con người: có đối tượng là những sinh hoạtcủa
con người, những quan hệ xã hội của con người cũng như những
quy luật,những động lực phát triển của xã hội như: sử học, kinh tế học,
triết học, đạo đức học…
*Cách phân loại của B.M.Kêdrôv trong “Triết học bách khoa toàn thư”NXB “Bách
khoa toàn thư liên xô”.Matxcơva, 1964.Có các loại:
Khoa học triết học: biện chứng pháp, logic học…
Khoa học toán học: logic toán học và toán học thực hành.(toán học bao gồm cả điều
khiển học)
Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật
Phân loại theo cơ cấu của hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có:
Khoa học cơ bản
Khoa học cơ sở của chuyên ngành
Khoa học chuyên ngành (chuyên môn)
2.Nghiên cứu khoa học là gì? Bản chất và đặc điểm của nghiên cứu khoa học là gì?
-Nghiên cứu khoa học là:
Quá trình nhận thức chân lý khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp
nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, để chì ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà
con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ) tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức
mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp.
7. -Bản chất của nghiên cứu khoa học là:
Hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới tạo ra hệ thống tri thức có giá
trị để sử dụng vào cải tạo thế giới
-Đặc điểm của nghiên cứu khoa học là:
Nghiên cứu cơ bản: là hoạt động nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và quy luật của các
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, nhờ đó làm thay đổi nhận thức của
con người
Nghiên cứu ứng dụng: là hoạt động nghiên cứu vận dụng các quy luật đã được phát hiện
từ nghiên cứu cơ bản để giải thích sự vật, tạo dựng các nguyên lí công nghệ mới, nguyên
lí sản phẩm mới và nguyên lí dịch vụ mới, áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống.
Nghiên cứu triển khai: là hoạt động nghiên cứu vật dụng các quy luật và các nguyên lí
công nghệ hoặc nguyên lí vật liệu để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kĩ thuật
mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật.
Nghiên cứu thăm dò: là họat động nghiên cứu nhằm xác định hướng nghiên cứu, là dạng
thăm dò thị trường để tìm kiếm cơ hội nghiên cứu.
3. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học:
Phương pháp nghiên cứu khoa học là tích hợp các phương pháp: phương pháp luận, phương
pháp hệ, phương phhap1 nghiên cứu cụ thể và tuân theo quy luật đặc thù của việc nghiên cứu đề
tài khoa học
Phương pháp luận: là lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học thế giới tổng thể, các
thủ thuật nghiên cứu hiện thự (nghĩa rộng) là lý luận tổng quát, là những quan điểm
chung, là cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu (nghĩa hẹp).
Phương pháp hệ: là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực
khoa học hay một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuậthoặc biện pháp để tực hiện có
trình tự, có hiệu quả một công trình nghiên cứu khoa học
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: là tổ hợp các cách thức, các thao tác mà người nghiên
cứu sử dụng để tác động, khám phá đối tượng, để thu thập và xử lý thông tin nhằm xem
xét và lý giải đúng đắn vấn đề nghiên cứu
4. Trình tự nghiên cứu khoa học có thể trình bày ở 6 bước cơ bản sau:
01 Phát hiện vấn đề nghiên cứu
02 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
03 Xây dựng luận chứng
8. 04 Tìm luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn
05 Xử lý thông tin, phân tích
06 Tổng hợp kết quả; Kết luận; Khuyến nghị.
* Bước 1: Phát hiện vấn đề nghiên cứu
Đây là giai đoạn tìm kiếm câu hỏi cần được giải đáp trong quá trình nghiên cứu.
Yêu cầu:
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Tính cấp thiết thể hiện ở mức độ ưu tiên giải đáp những
vấn đề mà lý luận và thực tiễn đặt ra.
2. Có đầy đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài không? Điều kiện nghiên cứu bao
gồm cơ sở thông tin, tư liệu; phương tiện, thiết bị; quỹ thời gian, năng lực, sở trường của những
người tham gia.
* Bước 2: Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Đây là những nhận định sơ bộ về bản chất sự vật, do người nghiên cứu đưa ra, là hướng, theo đó
người nghiên cứu sẽ thực hiện các quan sát hoặc thực nghiệm.
* Bước 3: Xây dựng luận chứng
Là cách thức thu thập và sắp xếp các thông tin thu được. Nội dung cơ bản của xây dựng luận
chứng là dự kiến kế hoạch thu thập và xử lý thông tin, lên phương án chọn mẫu khảo sát; Dự
kiến tiến độ, phương tiện và phương pháp quan sát hoặc thực nghiệm.
* Bước 4: Tìm luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn
Tìm luận cứ lý thuyết là xây dựng cơ sở lý luận của nghiên cứu. Khi xác định được luận cứ lý
thuyết, người nghiên cứu biết được những bộ môn khoa học nào cần được vận dụng để làm chỗ
dựa cho công trình nghiên cứu.
Thu thập dữ liệu để hình thành các luận cứ thực tiễn. Dữ liệu cần thu thập bao gồm những sự
kiện và số liệu cần thiết cho việc hoàn thiện luận cứ để chứng minh giả thuyết. Nếu các sự kiện
và số liệu không đủ thoả mãn nhu cầu chứng minh giả thuyết, phải có kế hoạch thu thập bổ xung
dữ liệu.
* Bước 5: Xử lý thông tin, phân tích và bàn luận kết quả xử lý thông tin.
9. Đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, chỉ ra những sai lệch đã mắc phải trong quan sát, thực nghiệm,
đồng thời đánh giá ảnh hưởng của những sai lệch ấy, mức độ có thể chấp nhận trong kết quả
nghiên cứu.
* Bước 6:Tổng hợp kết quả. Kết luận. Khuyến nghị.
Tổng hợp để đưa ra bức tranh khái quát về kết quả; Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu; Khuyến
nghị khả năng áp dụng kết quả và khuyến nghị việc tiếp tục nghiên cứu hoặc chấm dứt sự nghiên
cứu.