Quan điểm của Triết học về nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy; những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý luận.
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Quan điểm của Triết học về nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
1
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Quan điểm của Triết học về nội dung cặp phạm trù
bản chất và hiện tượng
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy; những vấn đề có kết nối
với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học
phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất,
những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ
thống dưới dạng lý luận. Theo Ph.Ăng ghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
Trong lịch sử triết học, các trường phái triết học đã đưa ra cách giải quyết
khác nhau về vấn đề bản chất của phạm trù.
Những người thuộc phái duy thực cho rằng: Phạm trù là những thực thể ý
niệm, tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Ngược lại những
người thuộc phái duy danh lại cho rằng: Phạm trù chỉ là những từ trống rỗng, do
con người tưởng tượng ra, không biểu hiện một cái gì của hiện thực.
Khác với các quan niệm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
Các phạm trù không có sẵn trong bản thân con người một cách bẩm sinh,
cũng không tồn tại sẵn ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người như
quan niệm của những người duy thực, mà được hình thành trong quá trình hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Mỗi phạm trù xuất hiện đều là kết
quả của quá trình nhận thức trước đó, đồng thời lại là bậc thang cho quá trình
nhận thức tiếp theo của con người để tiến gần đến nhận thức đầy đủ hơn bản chất
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
2
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của sự vật. V.I.Lênin viết: "Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự
nhiên. Con người bản năng, con người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên.
Người có ý thức tự tách khỏi tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự
tách khỏi đó, tức là sự nhận thức thế giới. Chúng là những điểm nút của màng
lưới, giúp ta nhận thức và nắm được màng lưới".
Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng
hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật.
Vì vậy nội dung của nó mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định,
mặc dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. V.I.Lênin viết: "Những khái niệm
của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của
chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc,
trong khuynh hướng, trong nguồn gốc".
Các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc
lập với ý thức của con người, mà còn luôn vận động, phát triển, chuyển hoá lẫn
nhau. Mặt khác, khả năng nhận thức của con người cũng thay đổi ở mỗi giai
đoạn lịch sử. Do vậy các phạm trù phản ánh thế giới khách quan cũng phải vận
động và phát triển để có thể phản ánh đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan.
Vì vậy, hệ thống phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là một hệ
thống đóng kín, bất biến, mà nó thường xuyên được bổ sung bằng những phạm
trù mới cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận thức khoa học.
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một
lĩnh vực nhất định. Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
3
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất của toàn
bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, phạm trù
“vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”, v.v phản ánh những mối liên hệ
phổ biến không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội, tư duy của con người. Phạm trù
triết học khác phạm trù của các khoa học khác ở chỗ, nó mang tính quy định về
thế giới quan và tính quy định về phương pháp luận. Phạm trù triết học là công
cụ của nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức của con người.
Trong lịch sử triết học có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của
phạm trù. Có nhà triết học coi phạm trù là có sẵn, có trước con người như
I.Cantơ - nhà triết học người Đức. Các nhà triết học thuộc phái duy thực cho
những khái niệm (phạm trù) có trước các sự vật riêng lẻ, cá biệt và quy định các
sự vật riêng lẻ, cá biệt đó. Các nhà duy danh ngược lại cho rằng, những khái
niệm (phạm trù) chỉ là tên gọi, không có nội dung, chỉ có những sự vật riêng lẻ,
cá biệt là tồn tại thực, v.v. Những quan niệm trên đều chưa đúng.
Theo triết học duy vật biện chứng, phạm trù không có sẵn bẩm sinh, mà
được hình thành trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người,
bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng hoá những thuộc tính, những mối liên
hệ vốn có bên trong bản thân sự vật. Do vậy, nguồn gốc, nội dung phạm trù là
khách quan. Mặc dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. Phạm trù có các tính
chất sau:
Thứ nhất, tính biện chứng, được thể hiện ở nội dung mà phạm trù phản
ánh luôn phát triển, vận động nên phạm trù cũng vận động, thay đổi liên tục,
không đứng im. Phạm trù có thể chuyển hóa lẫn nhau. Tính biện chứng của bản
thân sự vật, hiện tượng mà phạm trù phản ánh quy định biện chứng của phạm
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
4
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trù. Điều này cho chúng ta thấy rằng, cần phải vận dụng, sử dụng phạm trù hết
sức linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo, biện chứng.
Thứ hai, tính khách quan. Mặc dù phạm trù chính là kết quả của sự tư
duy, tuy nhiên nội dung mà các phạm phù phản ánh lại là khách quan do thiện
thực khách quan mà phạm trù phản ánh quy dinh. Có thể giải thích rộng hơn là
phạm trù khách quan về cơ sở, về nguồn gốc, về nội dung, còn hình thức thể hiện
là phản ánh chủ quan của phạm trù.
Khi đã có được nhận thức khá nhiều về các mặt, mối liên hệ tất yếu và
các đặc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thì nhận thức vẫn chưa vươn tới sự
phản ánh đầy đủ về bản chất của nó. Vì vậy, cùng với sự tích lũy tri thức, xuất
hiện nhu cầu nhận thức các mối liên hệ phụ thuộc, qua lại lẫn nhau giữa các mặt,
giữa chính các mối liên hệ đó và dặt chúng trong sự thống nhất biện chứng, coi
chúng là các yếu tố của một thể thoogns nhất hữu cơ. Giải quyết thành công
nhiệm vụ này dẫn nhận thức đạt tới sự phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, hiện
tượng tương ứng.
Bản chất và hiện tượng là một trong sáu cặp phạm trù của triết học. Bản
chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo chủ nghĩa Mac –
Lenin thì quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại
khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản chất không tồn tại thật
sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù
có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại
trong chủ quan con người.
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
5
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ, bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã
hội. Do đó, một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các
mối quan hệ đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống,
quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người
lao động bằng các quy luật như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Một ví dụ khác, bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã
hội lực lượng sản xuất và tính chất chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất.
Hay nói cách khác là sự mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Bản
chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất nghiệp, đời sống
khổ cực của giai cấp vô sản và người lao động, sự giàu có của giai cấp tư sản.
Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những
mặt, những mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Ví dụ, màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ
là hiện tượng, là vẻ bề ngoài.
Tóm lại, bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện
thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ
ra qua những hiện tượng ấy. Trong khi đó, hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
6
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của
bản chất.
Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái
tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của
các sự vật đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản
chất chỉ là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Tức là, tổ hợp những
quy luật quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính là bản chất của sự
vật ấy. Lê-nin viết: “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại
(cùng một bậc), hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…”
Ví dụ, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản. Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, quy luật này cũng là bản chất của chủ nghĩa tư
bản. Bản chất đó cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị
thặng dư càng nhiều càng tốt.
Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất và quy luật không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật.
Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng. Còn bản chất là tổng hợp tất cả
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, tức là ngoài
những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên hệ riêng chỉ nó mới có.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất
vừa đối lập.
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
7
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con
người có nhận thức được hay không. Bởi lẽ, bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên
từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại,
đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối
ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. Sự vật tồn tại khách
quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật,
do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan. Hiện tượng chỉ là sự biểu
hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại
khách quan.
Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên
hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua
hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất
định. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều
hoặc ít. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, không cần
có hiện tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản
chất nào đó. Lê – nin khẳng định: “Bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính bản
chất”.
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi
theo. Chúng sẽ luôn tồn tại cùng nhau, nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng
do nó sinh ra cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì nó lại sản
sinh ra các hiện tượng phù hợp với nó.
Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
8
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy
luật phát triển của những hiện tượng ấy.
Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng,
tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt. Nói cách khác, tuy bản
chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là phù hợp với nhau, nhưng
chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn. Sở dĩ như vậy là vì bản
chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự vật
ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình
tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những
thay đổi nhất định. Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải
là sự biểu hiện y nguyên bản chất.
Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và
hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở
chỗ, bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Vì vậy, cùng một bản
chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến
đổi của của điều kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ
thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản
chất được biểu hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược
lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
9
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan.
Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy. Các hiện
tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có
mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự
của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước
gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn
định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Có tình hình đó
là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự
vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại
của nó với các sự vật xung quanh. Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác
động qua lại của sự vật này với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì
vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra đời
cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với
hiện tượng
Hay nói cách khác, sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
được thể hiện thông qua các yếu tố sau: Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn
hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng. Bản chất là cái bên trong, hiện
tượng là cái bên ngoài. Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận
Qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất và hiện tượng ta rút ra được những
kết luận sau:
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
10
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm bản
chất, không dừng ở hiện tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong hiện tượng, phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan,
tùy tiện. Vì bản chất tồn tại một cách khách quan ở ngay trong bản thân sự vật
nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên
ngoài nó.
Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản chất
phải thông qua tìm hiểu các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong quá trình
nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều
góc độ khác nhau.
Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không chỉ
thay đổi hiện tượng. Bởi thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo.
Có thể thấy, đây là một quá trình vô cùng phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không
chủ quan, nóng vội.
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện
tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác
nhau mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Bản chất của sự vật không được
biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá
trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều
hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự
vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến
bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Theo V.I.Lênin: “Tư
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
11
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.
Mặt khác, bản chất phản ảnh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận
thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng
thì mới có thể đánh giá một cách chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới có
thể cải tạo căn bản sự vật.
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là
phải vạch ra được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa
vào hiện tượng vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn
định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức
không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của
sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác
định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay
xuyên tạc bản chất
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy
tiện. Bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
12
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau. Sở dĩ như vậy vì hiện
tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến, nhiều khi xuyên
tạc bản chất. Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta
không bao giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự
vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong
hoàn cảnh điển hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy
đủ bản chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó.
Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản
chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có
điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết
sức thận trọng. Muốn cải tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không nên
thay đổi hiện tượng. Thay đổi được bản chất, hiện tượng sẽ thay đổi theo. Đây là
quá trình phức tạp, không được chủ quan nóng vội.