Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay.doc
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH HẢI
QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH HẢI
QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số :60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
Hà Nội
ii
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thanh Hải
iii
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự năm 2005 : BLDS
Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 : BLTTDS
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : CHXHCN
Hội đồng xét xử : HĐXX
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao : HĐTPTANDTC
Tòa án nhân dân : TAND
Tòa án nhân dân Tối cao : TANDTC
Tố tụng dân sự : TTDS
Luật Hôn nhân và Gia đình : Luật HN và GĐ
Vụ án dân sự : VADS
Viện kiểm sát : VKS
iv
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................1
Chƣơng 1 .........................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT .. 8
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ....................8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ..........................................................................................8
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp
luật tố tụng dân sự.........................................................................................14
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam . 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1.............................................................................29
Chƣơng 2 .......................................................................................................30
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN30
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ....................................................................................................................30
2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự
31
2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập....................39
2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải và tự
thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự..............................................................47
2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu kháng cáo.....................................................................54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2.............................................................................63
Chƣơng 3 .......................................................................................................64
v
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT............................64
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ .......64
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay ....................................................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và triển khai thực hiện
có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở nƣớc ta hiện nay.......................................................73
KẾT LUẬN ....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
vi
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự được xem là một
quyền tố tụng đặc biệt quan trọng, chi phối quá trình tố tụng dân sự và tạo nên
đặc trưng cơ bản của tố tụng dân sự so với các loại hình tố tụng khác như tố
tụng hình sự, tố tụng hành chính. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống
dân sự không phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải là tội
phạm được pháp luật hình sự điều chỉnh, vì vậy pháp luật quy định và bảo
đảm cho đương sự có quyền định đoạt trong việc giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp đó. Quyền tự định đoạt của đương sự chính là quyền tự do ý chí
của đương sự, trong đó đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải
quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự là bảo đảm cho đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ trước Tòa án theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những hoạt
động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền
dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Đặc biệt,
trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của đời sống kinh tế
- xã hội như hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội ngày càng được quan tâm, điều chỉnh
bởi pháp luật.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã
hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
1
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2004 (BLTTDS) được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 29/3/2011 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố
tụng dân sự là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp
thời, công bằng, đúng pháp luật.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong đó quy định Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ
chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều nội dung
quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa đổi. Các
quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm, chủ
trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa một
bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định của
Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói
chung và Bô ̣luâṭtốtung̣ dân sư ̣nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, bên cạnh sự phát triển ngày càng sâu rộng về
mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 25/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa
XIII, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm
2015 được ban hành đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật tổ chức
2
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành
án dân sự và các luật khác có liên quan; góp phần khắc phục các tồn tại, bất cập
sau thực tiễn mười (10) năm thi hành Bô ̣luâṭtốtung̣ dân sư ̣năm2004; bảo đảm
việc giải quyết các vụ việc dân sự một cách dân chủ, bình đẳng, công khai, công
bằng, minh bạch; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa
án; từ đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện
nay, thông qua việc nước ta trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn
và tham gia vào các điều ước quốc tế khi chúng ta là thành viên.
Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và những quy định của
pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án ở Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và ổn định
trật tự xã hội. Gắn lý luận với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực tế, qua
đó rút ra được những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và
đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như tổ
chức thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề
tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp
lý đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Có thể
kể đến một số công trình khoa học như: Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Tiến Trung, năm 1997 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Cung, năm 1997 với đề tài
“Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của
3
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nguyễn Văn Tuyết, năm 2011 với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS” của Đỗ Văn Đại năm 1997; Khóa luận
tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Ngần, năm 2012 với đề tài “Quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Bên cạnh đó, còn có một số sách chuyên khảo như: “Pháp luật TTDS
và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Phương Hạnh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm
2012.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 5/2005; “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại
phiên tòa sơ thẩm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2007; “Sự
thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của tác giả Bùi
Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 4/2009; “Một số vướng mắc trong
quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số 02,
tháng 01/2010; “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng
6/2010; “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ
luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà,
Tạp chí TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/2011…
4
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã có đề cập đến quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS nói chung, một số công trình đã chỉ ra
được những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự được
quy định trong pháp luật TTDS hiện hành hoặc đi sâu tìm hiểu về một nội
dung nào đó của quyền tự định đoạt; một số công trình lại đề cập đến nội
dung quyền tự định đoạt của đương sự như là một phần của công trình nghiên
cứu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình… Tuy nhiên, các
nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ quyền tự định của đương sự dưới góc độ
là một nguyên tắc của TTDS, hoặc tìm hiểu quyền tự định đoạt của đương sự
thông qua một số quyền tố tụng cụ thể và phần lớn còn nghiên cứu trong giai
đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chưa được sửa đổi, bổ sung…
Với mong muốn tiếp cận, đi sâu tìm hiểu một cách tổng quát quyền tự
định đoạt của đương sự dưới dạng các quyền cụ thể trong phạm vi giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ
sung năm 2011 và tiếp cận một số sửa đổi cơ bản về vấn đề này của BLTTDS
năm 2015, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài của tác giả không trùng lặp với
các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; các quy định
của Bộ luật TTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự; thực tiễn thực hiện các
quy định này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề
lớn với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này, việc
nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
5
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu
về quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục việc dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,
để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung
các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các
quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn đã hoàn thành một số nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS;
- Nghiên cứu các quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam có liên quan
tới quyền tự định đoạt của đương sự, tìm hiểu thực tiễn xét xử đảm bảo thực
hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Từ đó chỉ ra
những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS;
- Đề xuất một giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
6
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và
chuyên sâu về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành nên có những điểm mới khoa học sau:
- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự;
- Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và
những điểm mới trong Bộ luật TTDS sửa đổi năm 2015;
- Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại các Tòa án
trong giai đoạn hiện nay.
- Chỉ ra được những điểm còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị về
việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự và kiến nghị.
7
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Chƣơng 2
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong những
quyền năng cơ bản, quan trọng của quyền con người, là cơ sở bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Quyền tự định đoạt có nguồn gốc từ quyền tự
do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của chủ thể trong các quan hệ dân sự.
Trong quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể có toàn quyền quyết định
trong việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ, nội dung của quan hệ,
cũng như các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua việc
giao kết hợp đồng dân sự. Khi có tranh chấp phát sinh, họ có quyền quyết
định tham gia hay không tham gia tố tụng yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi
cho mình, hay tự mình thỏa thuận với bên kia để giải quyết vụ việc. Họ cũng
có quyền quyết định các quyền và lợi ích của mình như yêu cầu phía bên kia
giải quyết quyền lợi gì, phạm vi giải quyết đến đâu. Quyền này được thể hiện
trong việc khởi kiện vụ án dân sự; trong việc thay đổi bổ sung và rút yêu cầu;
trong việc hòa giải và tự hòa giải; trong việc kháng cáo, thay đổi bổ sung và
rút yêu cầu kháng cáo.
Mặc dù có nguồn gốc từ tính chất của các quan hệ pháp luật nội dung
nhưng quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS (pháp luật hình thức)
cũng có sự khác biệt. Quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thể hiện sự tự
do ý chí, cam kết thỏa thuận giữa các chủ thể còn sự tự định đoạt của đương
sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự được thực hiện thông qua Tòa án.
Chính vì vậy, Pháp luật TTDS một mặt ghi nhận quyền tự định đoạt của các
đương sự nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động của họ trong việc giải
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyết tranh chấp, nhưng mặt khác cũng đặt ra trách nhiệm của Tòa án trong
việc bảo đảm cho các đương sự thực sự thực hiện được quyền tự định đoạt
của mình.
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án
dân sự
2.1.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc khởi kiện
Việc khởi kiện là yếu tố đầu tiên thể hiện rõ nhất quyền tự định đoạt
của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự và cũng là cơ sở để thực hiện các
quyền tự định đoạt khác của đương sự trong quá trình tiến hành tố tụng.
Trong các biện pháp bảo vệ các quyền dân sự của các chủ thể thì khởi
kiện vụ án dân sự là một trong các biện pháp bảo vệ hữu hiệu, có tính khả thi
cao. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền
con người, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế. Tại Điều 8 Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948 có nêu “Mọi người đều có quyền được bảo vệ
bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực
chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và
pháp luật công nhận”. Đây cũng là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền
này trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói
riêng.
Điều 161 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 (BLTTDS), quy định:
“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án
có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Như
vậy, đương sự là nguyên đơn có toàn quyền trong việc có quyết định khởi
kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến mức độ nào. Nguyên đơn cũng có
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền khởi kiện một hoặc nhiều bị đơn ra Tòa án, về một quan hệ pháp luật
hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau để giải quyết trong một vụ
án. Nhìn chung chỉ có nguyên đơn mới có quyền khởi kiện và Tòa án chỉ thụ
lý giải quyết khi có đơn khởi kiện và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện của đương sự.
Trong trường hợp đương sự có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì
đương sự có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của mình
hoặc ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc khởi kiện nếu xét thấy cần
thiết. Trường hợp không đủ năng lực hành vi TTDS thì người đại diện theo
pháp luật của đương sự sẽ thay họ khởi kiện. Đối với các chủ thể là pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì việc khởi kiện sẽ do người đại diện theo pháp
luật của họ thực hiện.
Theo Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) Hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS, thì thông thường, đương sự hoặc người đại
diện hợp pháp của đương sự sẽ trực tiếp làm đơn khởi kiện. Tuy nhiên, để tạo
điều kiện thuận lợi cho đương sự trong những trường hợp như đương sự
không biết chữ, có khuyết tật, mức độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế…
pháp luật đã cho phép việc đương sự “nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện
vụ án”, qua đó có thể phản ánh được một cách đầy đủ những nội dung mà
đương sự muốn đề nghị Tòa án giải quyết, mặt khác cũng giúp Tòa án xác
định được rõ ràng phạm vi và vấn đề mà đương sự khởi kiện, làm căn cứ cho
việc thực hiện các bước tiếp theo của quá trình tố tụng cũng như giải quyết
chính đáng các nội dung mà đương sự đề nghị. Trong trường hợp nhờ người
khác làm hộ đơn khởi kiện cho mình thì tại mục tên, địa chỉ của người khởi
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
kiện trong đơn vẫn phải ghi họ tên, địa chỉ của đương sự hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự, đồng thời phần cuối đơn phải có chữ kí hoặc điểm
chỉ của những người này. Như vậy, có thể thấy, dù đương sự hay người đại
diện hợp pháp của đương sự trực tiếp hay nhờ người khác làm hộ đơn khởi
kiện thì ý chí của họ cũng vẫn phải được thể hiện trong đơn, qua đó nhấn
mạnh quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự.
Bên cạnh quyền khởi kiện của đương sự, một số cơ quan, tổ chức khác
trong xã hội cũng có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Theo đó, Điều 162
BLTTDS quy định:
1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ
án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật Hôn nhân và
gia đình quy định.
2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện
vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
BLTTDS sửa đổi năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015
và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, đã quy định theo hướng mở rộng
đối tượng dù không phải là đương sự nhưng vẫn có quyền khởi kiện ra Tòa án
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi
ích của Nhà nước, theo đó:
1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà
nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và
gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
2. Tổ chức đại diện tập thể người lao động cơ sở, tổ chức đại
diện tập thể người lao động cấp trên trực tiếp nơi chưa thành lập tổ
chức đại diện tập thể người lao động cơ sở có quyền khởi kiện vụ án
lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể người lao động, có quyền khởi kiện vụ án lao động khi
được người lao động ủy quyền theo quy định của Luật Công đoàn.
3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo
quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách
hoặc theo quy định của pháp luật.
5. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình. [7, Điều 187]
Quy định này xuất phát từ tính đặc thù của một số đối tượng trong xã
hội như: phụ nữ, trẻ em, người lao động… là những đối tượng dễ bị xâm hại
về quyền lợi nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà họ đã không biết hoặc không
dám khởi kiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Vì vậy, cần phải có các
cơ quan, tổ chức đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Bên cạnh đó, đối với các
lợi ích chung, lợi ích công cộng mang tính chất xã hội cũng cần phải có một
cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cộng
đồng, nhà nước. Các cơ quan, tổ chức này khi khởi kiện để bảo vệ quyền và
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
lợi ích của người khác hoặc vì lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước mà không
phải vì lợi ích của mình vẫn được coi là không vi phạm quyền tự định đoạt
của đương sự. Qua đây cũng có thể nhận thấy sự phát triển của pháp luật
TTDS nhắm hướng tới bảo vệ ngày càng tốt hơn và đầy đủ hơn các đối tượng
cần được bảo vệ trong xã hội, tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện các quy định
của pháp luật có liên quan.
Điều 163 BLTTDS quy định về phạm vi khởi kiện, theo đó cá nhân, cơ
quan, tổ chức cùng một khoảng thời gian nhất định có thể tham gia một hoặc
nhiều quan hệ dân sự khác nhau, khi các tranh chấp đồng thời phát sinh từ các
quan hệ dân sự đó thì đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết:
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều
quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng
một vụ án;
2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá
nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong
cùng một vụ án.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy
định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật
có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
Bản chất quy định này nhằm mở rộng quyền khởi kiện cho đương sự.
Do đó đương sự có thể khởi kiện một hoặc nhiều vấn đề về một hoặc nhiều
quan hệ pháp luật nhưng phải có liên quan đến nhau để giải quyết trong cùng
một vụ án dân sự. Để thực hiện được điều này, đương sự phải đảm bảo được
các điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật. Cụ thể, tại Điều 4 Nghị quyết số
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC Hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, hướng dẫn như sau:
Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để
giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết
đồng thời quan hệ pháp luật khác;
b) Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về
cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một
trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
Như vậy, các yêu cầu liên quan đến nhau là những yêu cầu phát sinh từ
một quan hệ pháp luật hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau và
được giải quyết trong cùng một vụ án dân sự. Trong trường hợp đương sự
khởi kiện về những yêu cầu không liên quan đến nhau thì Tòa án phải thụ lý
giải quyết các yêu cầu của họ trong những vụ án riêng.
2.1.2. Quyền tự định đoạt của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu phản tố
Trước những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu
phản tố (Khoản 4 Điều 60 BLTTDS).
Có thể hiểu, yêu cầu phản tố là việc bị đơn kiện ngược lại nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập về một quan hệ
pháp luật khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã yêu cầu Tòa án giải quyết (đối tượng
khác nhau), nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi
kiện. Nói cách khác, chỉ được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn nếu yêu cầu
29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đó đảm bảo tiêu chí độc lập và không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn mới, không liên quan đến yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành vụ án riêng.
Yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ được chấp nhận khi thỏa mãn một trong các
trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 176 BLTTDS:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu
được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh hơn.
2.1.3. Quyền tự định đoạt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan trong việc đưa ra yêu cầu độc lập
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người
tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu
của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự không khởi kiện như nguyên đơn, không bị kiện
như bị đơn mà là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa nguyên
đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Việc tham gia tố tụng
của họ trong vụ án dân sự là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
dân sự. Điểm b Khoản 1 Điều 61 BLTTDS quy định người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có quyền: “Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố
31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn” và khi “người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên
đơn…”. Về nguyên tắc, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện
một vụ án dân sự độc lập nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên
đơn, bị đơn nên việc tham gia luôn vào vụ kiện giữa nguyên đơn và bị đơn sẽ
có nhiều thuận lợi hơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giúp
rút ngắn được các thủ tục tố tụng khi tiến hành khởi kiện một vụ án mới và có
thể bảo vệ lợi ích của mình một cách kịp thời và hiệu quả nhất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tham gia tố tụng một
cách độc lập hoặc với vai trò phụ thuộc (đứng về phía nguyên đơn hoặc bị
đơn). Khi tham gia tố tụng với tư cách phụ thuộc thì lợi ích hợp pháp của họ
luôn gắn liền với lợi ích pháp lý của nguyên đơn hoặc bị đơn, vì vậy họ không
thể đưa ra yêu cầu độc lập, do đó cũng không có quyền tự định đoạt trong
trường hợp này. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
không độc lập cũng không thể có quyền tự mình thỏa thuận với bên đương sự
kia, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
bên đương sự kia nếu không có sự đồng ý của nguyên đơn hoặc bị đơn mà họ
phụ thuộc.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng một cách độc lập với
nguyên đơn và bị đơn, hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa
những người khác để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối
tượng tranh chấp mà Tòa án đang xem xét, giải quyết. Việc quyết định có
tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không tùy
thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quan tham gia tố tụng độc lập. Trong vụ án dân sự có sự tham gia tố tụng độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải có trách nhiệm
xem xét, giải quyết luôn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập. Bên cạnh đó, cũng giống như yêu cầu phản tố
của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chỉ
được đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử sơ thẩm.
Điều 177 BLTTDS quy định về quyền yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo đó trong trường hợp người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên
bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm
cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Trong vụ án dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan độc lập với lợi ích của nguyên đơn và bị đơn nên họ có thể
đưa ra yêu cầu độc lập chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Việc pháp luật cho
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền được tự định đoạt trong việc
đưa ra yêu cầu độc lập khi đáp ứng được điều kiện nhất định cũng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này, đồng thời để tránh việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến cùng một vụ việc bằng nhiều phiên tòa
khác nhau.
2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập
Trong xã hội, mọi thứ luôn vận động, biến đổi từng ngày, từng giờ và
các quan hệ xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan hệ dân sự được
35. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hình thành trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa các bên. Trong quá trình
thực hiện, các bên có quyền thương lượng, thỏa thuận để thay đổi các quyền
và nghĩa vụ của mình. Khi quyền và lợi ích bị xâm phạm các bên cũng có
quyền quyết định việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
mình. Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự không
chỉ được thể hiện ở quyền tự quyết định trong việc có khởi kiện hay không
khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm
phạm mà ngay cả khi đương sự đã có đơn khởi kiện và được Tòa án thụ lý
giải quyết, quyền tự định đoạt của đương sự vẫn được thể hiện ở quyền thay
đổi, bổ sung nội dung yêu cầu hay rút đơn khởi kiện.
Việc quy định nội dung quyền tự định đoạt này của đương sự trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Trong quá
trình giao lưu dân sự, khi quyền và lợi ích hợp pháp của một trong các bên bị
xâm phạm, đương sự có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mình. Khi đương sự khởi kiện ra Tòa án, họ có thể
chưa xác định được một cách chính xác các quyền và lợi ích của mình có bị
xâm phạm hay không và xâm phạm như thế nào, ở mức độ ra sao và cũng có
thể chưa có các chứng cứ xác đáng nên không dám đưa ra yêu cầu hoặc đưa ra
yêu cầu chưa phù hợp. Trong quá trình tham gia tố tụng đương sự mới thu
thập được chứng cứ cũng như xác định được chính xác phạm vi quyền lợi của
mình bị xâm phạm. Ngoài ra, cũng có trường hợp, trong quá trình chờ Tòa án
giải quyết, các đương sự đã có sự thương lượng, thỏa thuận bồi hoàn cho nhau
được một phần quyền lợi hoặc thỏa thuận giải quyết được toàn bộ vụ án. Do
đó, khi Tòa án tiến hành giải quyết vụ án dân sự, đương sự có thể thay đổi, bổ
sung hoặc rút yêu cầu khởi kiện. Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu này
của đương sự trong một số trường hợp sẽ rất hữu ích bởi nó có thể rút ngắn
được quá trình tố tụng, tiết kiệm được thời gian, vật chất cho các đương sự và
37. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện thủ tục tố tụng. Phù hợp với
định hướng của Nhà nước ta trong việc tạo điều kiện để các bên tự thương
lượng, thỏa thuận, hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.
Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự thường được thể hiện ở
chỗ: đối với nguyên đơn là sự thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện (như thay
đổi, bổ sung yêu cầu đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan);
thay đổi, bổ sung căn cứ cho yêu cầu (như thay đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu…) bằng cách nêu ra những tình tiết mới hoặc rút
bỏ các tình tiết, sự kiện đã viện dẫn trong đơn khởi kiện; tăng hoặc giảm mức
yêu cầu so với ban đầu trong đơn khởi kiện. Còn đối với bị đơn đó là việc bổ
sung, rút yêu cầu phản tố. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
việc bổ sung và rút yêu cầu độc lập.
Như vậy, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu cả trước khi mở
phiên tòa và tại phiên tòa. Đối với việc rút yêu cầu của đương sự là tự nguyện
thì sẽ được chấp nhận và Tòa án đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút.
Việc rút đơn khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không là do các
đương sự tự quyết định, điều này thể hiện ý chí của đương sự là không mong
muốn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp nữa và việc đương sự rút đơn khởi
kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập sẽ làm chấm dứt việc giải quyết đó.
2.2.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
Theo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có quyền
tự quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước hay của người khác. Tòa án chỉ thụ
lý vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự, người đại diện của đương
sự và chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, người đại diện của
đương sự. Trong quá trình tố tụng, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi,
bổ sung các yêu cầu của mình; có quyền thỏa thuận giải quyết với nhau về các
39. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
vấn đề có tranh chấp một cách tự nguyện, không trái pháp luật và không trái
đạo đức xã hội. Vì vậy, để xác định phạm vi xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án dân sự cần phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự được xác định công khai
tại phiên tòa. Điều 217 BLTTDS quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án,
Chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu,
cụ thể:
- Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện hay không;
- Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
phản tố hay không;
- Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “thay đổi” là thay cái này bằng cái khác, “bổ
sung” là thêm vào cho đầy đủ. Như vậy, thay đổi, bổ sung yêu cầu là việc thay
yêu cầu này bằng yêu cầu khác, đưa thêm yêu cầu mới. Việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự có thể được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn khác nhau mà việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hoặc không chấp nhận.
Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì quyền này là quyền tuyệt đối của đương
sự, đương sự không bị giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình.
Nhưng sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm thì
quyền yêu cầu thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập bị giới hạn trong phạm vi yêu cầu ban đầu, hay nói cách khác chỉ
được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu. Điều 218
BLTTDS quy định: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”.
41. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Liên quan đến việc hiểu như thế nào về “yêu cầu ban đầu” có một số
quan điểm như sau: tại Điều 32 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn “yêu cầu ban đầu” là yêu cầu
được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn,
đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, có
ý kiến lại cho rằng, “yêu cầu ban đầu” là yêu cầu cuối cùng được đưa ra trước
khi Toà án mở phiên toà, tức là sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
đương sự vẫn được quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình tùy theo ý
chí của đương sự mà vẫn được Tòa án chấp nhận. Yêu cầu cuối cùng được
đưa ra trước khi Tòa án mở phiên tòa mới là yêu cầu đương sự thể hiện rõ rệt
nhất mong muốn Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Chúng tôi cho rằng, phạm vi xét xử của Toà án chính là quan hệ pháp
luật nội dung tranh chấp giữa các bên đương sự. Nếu giải quyết như hướng
dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, quyền tự định đoạt của các đương
sự sẽ bị hạn chế. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các hoạt động cung cấp, thu
thập chứng cứ của các chủ thể nhằm mục đích cho việc giải quyết các yêu cầu
đó. Khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà, trong giai đoạn
chuẩn bị cho việc mở phiên toà thực chất là việc Toà án nghiên cứu kỹ lại các
yêu cầu, các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu đó. Nếu chấp nhận
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu trong giai đoạn này, Toà án sẽ phải thông báo
cho đương sự phía bên kia, thu thập chứng cứ… tức là lại phải có thời gian để
chuẩn bị việc xét xử cho yêu cầu mới được thay đổi, bổ sung. Còn trong
trường hợp không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
theo hướng vượt quá phạm vi khởi kiện (hay yêu cầu) ban đầu ở tại phiên tòa
(như hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP) thì đương sự sẽ lại tiếp
tục khởi kiện ở những vụ án khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
điều đó sẽ làm kéo dài quá trình tố tụng, gây lãng phí, bất hợp lý, khiến
43. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tòa án phải giải quyết nhiều vụ án có nội dung liên quan đến nhau. Vì vậy,
cần phải hiểu “yêu cầu ban đầu” cùng là quan hệ pháp luật tranh chấp được
đưa ra trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử (thường là buổi hoà
giải cuối cùng).
Về không “vượt quá” phạm vi yêu cầu ban đầu có thể hiểu là không
làm xuất hiện thêm quan hệ pháp luật tranh chấp mới so với yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu, hay nói cách khác yêu cầu tại
phiên tòa không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới. Thực tế đã chứng
minh rằng, tại phiên tòa, tranh tụng chỉ có hiệu quả nếu mỗi đương sự có được
sự hiểu biết đầy đủ và toàn diện các yêu cầu và lý lẽ chống lại mình. Về logic,
người ta chỉ có thể đối đáp lại những gì mà mình biết. Do đó, để bảo đảm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi đương sự thay đổi,
bổ sung yêu cầu thì đương sự phải đưa ra các tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp đồng thời phải thông báo cho đương
sự phía bên kia biết về việc đã bị khởi kiện về vấn đề gì (quan hệ pháp luật
gì). Phiên tòa phải thật sự trở thành một nơi bình đẳng, các bên phải được
quyền biết rõ mình kiện ai, kiện về vấn đề gì và bị ai kiện về vấn đề gì, như
thế nào, từ đó để có sự chuẩn bị, đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh
cho những quan điểm, lập luận của mình là đúng, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi có tranh chấp. Vì vậy, tại phiên tòa đương sự không
thể có quyền đưa thêm yêu cầu Tòa án giải quyết một quan hệ pháp luật mới,
điều đó nhằm đảm bảo cho đương sự có cơ hội tiếp cận yêu cầu của đương sự
phía bên kia, bảo đảm khả năng quyền được bảo vệ của các đương sự và bảo
đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.
2.2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc rút yêu cầu
Bên cạnh quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu, các đương sự còn có quyền
rút yêu cầu, đối với nguyên đơn là rút đơn khởi kiện, đối với bị đơn là rút yêu
45. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cầu phản tố, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là rút yêu cầu độc
lập. Rút yêu cầu là việc đương sự từ bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu mình
đã đưa ra để yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đương sự rút một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu thì một phần hoặc toàn bộ quan hệ pháp luật tranh chấp mà trước
đó họ yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết không còn nữa nên Tòa án phải giải
quyết hậu quả của việc rút yêu cầu. Việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu
trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được Tòa án chấp nhận trên cơ sở tự
nguyện cũng như thực hiện theo trình tự do pháp luật TTDS quy định. Đây
chính là sự định đoạt của đương sự thông qua việc từ bỏ yêu cầu (dựa trên luật
nội dung) và từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng tại
Tòa án.
Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 192 BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 24 Nghị quyết số 05/2012/NQ-
HĐTP, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với những yêu
cầu của đương sự đã rút và tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung đối với
những yêu cầu còn lại. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ tiến
hành xác định lại địa vị tố tụng của các đương sự theo quy định tại Điều 219
BLTTDS và Điều 33 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có quyền rút yêu cầu khởi kiện, bị
đơn có quyền rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
quyền rút yêu cầu độc lập. Nếu việc rút yêu cầu này là tự nguyện thì sẽ được
Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu
đã rút hoặc đình chỉ xét xử toàn bộ vụ án dân sự khi các đương sự rút toàn bộ
yêu cầu (khoản 2 Điều 218 BLTTDS). Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết đối với
những yêu cầu còn lại đồng thời tiến hành xác định lại tư cách đương sự theo
Điều 219 BLTTDS. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi
kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở
47. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn. Trong trường hợp nguyên
đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của
mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người
có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Việc thay đổi địa vị tố
tụng của đương sự trong những trường hợp này nhằm đảm bảo việc giải quyết
tranh chấp dân sự được nhanh chóng, tiết kiệm và hiệu quả.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Hội
đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý việc rút yêu cầu của nguyên
đơn không. Nếu bị đơn không đồng ý thì Hội đồng xét xử không chấp nhận
việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Nếu bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét
xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, ra quyết định hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 269 BLTTDS). Như
vậy, trong trường hợp này, việc nguyên đơn có rút được đơn khởi kiện hay
không lại phụ thuộc vào sự đồng ý của bị đơn. Quy định này ở một mức độ
nào đó làm hạn chế quyền tự định đoạt của nguyên đơn đối với việc tự quyết
định quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Các
đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật TTDS còn tạo điều kiện để nguyên đơn quyết định
việc thực hiện quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn tại khoản 1
Điều 193 và khoản 2 Điều 269 BLTTDS và việc khởi kiện sau không được
giống với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh
chấp, trừ trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 168 BLTTDS và các
trường hợp quy định tại điểm c, e, g khoản 1 điều 192 BLTTDS.
Ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu đương sự rút yêu cầu (người
khởi kiện rút đơn khởi kiện) và được tòa án chấp nhận theo quy định tại điểm
49. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
c khoản 1 điều 192 BLTTDS thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ ra
quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án (Điều 300, 309 BLTTDS).
Quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự là những quyền tố
tụng rất quan trọng của đương sự. Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu phải
dựa vào ý chí tự nguyện của đương sự và Tòa án sẽ không chấp nhận việc
thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu do đương sự bị ép buộc. Đây cũng là một bảo
đảm quan trọng giúp đương sự thực hiện tốt hơn quyền tự định đoạt của mình
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải
và tự thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại và lao động, mặc dù đã khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa
án giải quyết nhưng các bên đương sự vẫn có quyền thương lượng, thỏa thuận
với nhau để giải quyết tranh chấp ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng
và Tòa án tôn trọng thỏa thuận hợp pháp của các bên.
2.3.1. Quyền tự định đoạt trong việc tham gia hòa giải và quyết định
nội dung hòa giải
Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện ở quá trình hòa giải. Tòa án
tiến hành hòa giải, tạo điều kiện cho các bên thỏa thuận để giải quyết vụ việc.
Cơ sở của hòa giải là quyền tự định đoạt của đương sự. Khoản 2 Điều 180
BLTTDS quy định nguyên tắc tiến hành hòa giải: “Tôn trọng sự tự nguyện
thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của
mình”. Trong quá trình hòa giải, Tòa án là chủ thể trung gian không thể thiếu
để giúp đỡ các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt khi thỏa thuận giải
quyết vụ án dân sự. Điều 10 và Điều 180 BLTTDS quy định Tòa án có trách
51. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhiệm hòa giải vụ án dân sự và tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án dân sự, trừ những vụ án mà pháp luật quy định
không được hòa giải hoặc không hòa giải được. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án
phải chủ động triệu tập các đương sự đến để hòa giải. Khi hòa giải, Tòa án
giải thích để các đương sự hiểu pháp luật về vấn đề họ đang tranh chấp, giải
quyết vướng mắc giữa đương sự để họ thỏa thuận với nhau giải quyết các vấn
đề của vụ án dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì hòa giải là một thủ tục bắt buộc phải
làm trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Kể từ thời điểm Toà án thụ lý vụ
án thì các bên đương sự có quyền tự hòa giải với nhau hoặc tham gia phiên
hòa giải do Toà án tiến hành. BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã bảo
đảm thực hiện các quyền tố tụng này của đương sự thông qua việc chi tiết, cụ
thể hóa về thủ tục và hậu quả pháp lý của hai phương thức hòa giải này để
đương sự có quyền tự lựa chọn nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của mình. Bên
cạnh đó, theo các Điều 220, 270 BLTTDS thì tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm, Tòa án cũng hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án dân sự không? Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án dân sự thì Toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự. Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục
bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không
được hòa giải. Quy định này xuất phát từ tầm quan trọng của hòa giải. Nếu
hòa giải thành cũng có nghĩa là Tòa án đã hoàn thành việc giải quyết vụ án mà
không cần mở phiên tòa.
Điều 181 BLTTDS quy định, Tòa án không được tiến hành hòa giải đối
với những vụ án dân sự yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của
Nhà nước và những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái
với đạo đức xã hội. Tài sản của Nhà nước ở đây được hiểu là tài sản thuộc
53. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hình thức sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005
và được điều chỉnh theo các quy định tại Mục 1 Chương XIII của Bộ luật Dân
sự 2005. Tuy nhiên, theo Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của HĐTPTANDTC thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải đối với
trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà
nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ
sở hữu khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc
định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại
đến tài sản đó, Tòa án tiến hành hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Đối với vụ án dân sự phát
sinh từ giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật)
hoặc trái đạo đức xã hội, Tòa án cũng sẽ không được hòa giải nếu việc hòa
giải đó nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch này. Còn
trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch
vô hiệu do trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải
để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch
vô hiệu đó (theo Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP). Theo quy định
tại Điều 182 BLTTDS, Tòa án không tiến hành hòa giải được đối với những
trường hợp bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình
vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng
và đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành
vi dân sự.
Trước khi xét xử sơ thẩm, tại phiên hòa giải do Tòa án triệu tập, nếu
các đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ
án thì Toà án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp
55. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa có giá trị
pháp lý, nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để Tòa
án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa giải
phải có các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 186 BLTTDS. Ngoài ra,
biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong
phiên hòa giải, chữ ký của thư ký toà án ghi biên bản và của thẩm phán chủ trì
phiên hòa giải. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa
giải. Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra tiếng nói chung, tuy
vậy BLTTDS vẫn quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần
thiết nữa để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa
thuận giải quyết tranh chấp. Hết thời hạn đó mà không có đương sự nào thay
đổi ý kiến tòa án mới ra quyết định công nhận. Theo quy định tại Điều 187
BLTTDS, hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà
không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán
chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công
ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn 5
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát
cùng cấp.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 BLTTDS mà các đương sự
có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ
có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công
nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt.
Trong trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của
các đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra
57. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên tòa đồng ý bằng
văn bản.
Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS, quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi Tòa án ban hành.
Đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng
nghị phúc thẩm đối với quyết định này.
Như vậy, chỉ khi hòa giải không thành hoặc không được hòa giải hoặc
không hòa giải được theo quy định tại Điều 181, 182 BLTTDS thì Tòa án cấp
sơ thẩm mới có thể quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa. Khi tiến hành
hòa giải, Tòa án phải tuyệt đối tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của đương
sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt buộc các đương sự
thỏa thuận không phù hợp với ý chí của họ. Nội dung thỏa thuận giữa các
đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã khép lại quá trình tố tụng đối với việc
giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để đề phòng các sai lầm hay vi phạm pháp luật có
thể xảy ra trong quá trình tiến hành hòa giải, Điều 188 BLTTDS quy định
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vẫn có thể bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là
do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc vi phạm điều cấm của pháp luât, trái đạo
đức xã hội.
2.3.2. Quyền tự thỏa thuận của đương sự
Quyền tự định đoạt của đương sự còn thể hiện ở quyền tự thỏa thuận,
dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án dân
sự sau khi Tòa án đã thụ lý. Trường hợp này, Tòa án không phải là người chủ
động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự chủ động thương lượng, thỏa
thuận với nhau về giải quyết vụ án. Việc các đương sự tự thỏa thuận với nhau
59. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
về giải quyết vụ án có thể được thực hiện ở mọi giai đoạn của quá trình tố
tụng.
Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm nếu các đương sự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khoản
1 Điều 192 BLTTDS. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án
trong trường hợp này là đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác
với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
Tại phiên tòa sơ thẩm, theo quy định tại Điều 220 BLTTDS, Chủ tọa
phiên toà hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án hay không. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật
hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thoả
thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự thoả
thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật ngay sau
khi tuyên.
Trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận được với
nhau về vấn đề cần giải quyết của vụ án, việc thỏa thuận của họ là tự nguyện,
không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm và công nhận thỏa thuận của các đương sự.
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 không quy định Tòa án cấp phúc
thẩm phải tổ chức hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm nhưng đã có
những quy định tạo điều kiện cho các đương sự tự do thương lượng, thỏa
thuận trong giải quyết các vấn đề có tranh chấp giữa các bên. Trước khi mở
phiên tòa phúc thẩm, theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 19 Nghị quyết số
06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC Hướng dẫn thi
61. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, quy định:
Trường hợp trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã tự thỏa thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và các đương sự yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của họ, thì Tòa án yêu cầu các đương
sự làm văn bản ghi rõ nội dung thỏa thuận và nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm
để đưa vào hồ sơ vụ án. Văn bản này được coi như chứng cứ mới bổ sung. Tại
phiên tòa phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm phải hỏi lại các đương sự về thỏa
thuận của họ là có tự nguyện hay không và xem xét thỏa thuận đó có trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội hay không; nếu thỏa thuận của họ là tự nguyện,
không trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì HĐXX vào phòng nghị án thảo luận
và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thảo thuận của các
đương sự.
Trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận này phải được ghi vào biên
bản phiên tòa. Nếu xét thấy thoả thuận của các đương sự là tự nguyện, không
trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm vào phòng
nghị án thảo luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự
thoả thuận của các đương sự (Điều 270 BLTTDS; khoản 2 Điều 19 Nghị
quyết số 06/2012/NQ-HĐTP).
Như vậy, mặc dù đã khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng
ở mọi giai đoạn tố tụng các bên vẫn có quyền thương lượng, thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết tranh chấp. Đó có thể là việc các bên tự trao đổi, thỏa
thuận, dàn xếp với nhau để tìm ra giải pháp giải quyết những tranh chấp một
cách phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả đôi bên hoặc phải có
sự tham gia của bên thứ ba (Tòa án) trong quá trình tổ chức cho các bên ngồi
63. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
lại để cùng thương lượng tìm ra tiếng nói chung. Trong TTDS, hòa giải vừa
được coi là một nguyên tắc cơ bản, vừa được coi là một trong các nội dung
quan trọng thể hiện sâu sắc và toàn diện quyền tự định đoạt của đương sự.
Hòa giải là việc các bên thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án có sự tham gia Tòa án và được thực hiện đối với hầu hết các vụ án dân
sự trước khi xét xử sơ thẩm. Bên cạnh đó, việc ghi nhận một cách rõ ràng, cụ
thể quyền tự thương lượng, thỏa thuận hay còn gọi là tự hòa giải của các
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc
thẩm đã chứng tỏ sự tôn trọng của pháp luật đối với các quyền cơ bản của con
người trong việc tự do thể hiện ý chí của mình để giải quyết các tranh chấp,
mâu thuẫn phát sinh khi tham gia các quan hệ dân sự cụ thể. Hòa giải và tự
thương lượng, thỏa thuận được coi là những biện pháp giải quyết vụ án dân sự
hữu hiệu nhất trong quá trình tố tụng. Việc giải quyết tranh chấp bằng những
phương thức này không chỉ nhanh chóng, rút ngắn quá trình tố tụng, tiết kiệm
thời gian, chi phí mà nó còn góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp
luật cho nhân dân, đặc biệt có thể giúp các bên duy trì được mối quan hệ đã
được xác lập (như quan hệ lao động), giữ gìn được tình hữu hảo cho các bên.
2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay
đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo
Để bảo đảm việc bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
pháp luật quy định cho các chủ thể như đương sự, người đại diện của đương
sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án dân sự. Việc đương sự,
người đại diện của đương sự chống lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án dân sự được gọi là kháng cáo.
Theo quy định tại điểm s khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự thì
đương sự có quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
65. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Đương sự, người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc
thẩm. Như vậy, “kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của
đương sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc chống
lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật yêu
cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án dân sự” [49, tr.305].
Kháng cáo được coi là một trong những nội dung thể hiện quyền tự
định đoạt của đương sự ở giai đoạn phúc thẩm. Nếu thấy bản án sơ thẩm đã
tuyên chưa hợp tình, hợp lý, quyền lợi của mình chưa được giải quyết thỏa
đáng, các đương sự có quyền kháng cáo. Việc kháng cáo hay không kháng
cáo bản án sơ thẩm do chính bản thân đương sự tự quyết định. Tòa án sẽ giải
quyết khi có kháng cáo của các đương sự. Khi kháng cáo, đương sự có quyền
quyết định kháng cáo toàn bộ bản án hay chỉ một phần của bản án (một số nội
dung của vụ án). Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng sẽ chỉ xem xét lại bản án sơ
thẩm trên cơ sở nội dung và phạm vi của kháng cáo. Ý nghĩa của việc quy
định quyền kháng cáo cho các đương sự là nhằm khắc phục những sai lầm có
thể có trong những bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Toà án, bảo đảm
cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đồng thời, thông qua hoạt động
xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của Toà
án cấp dưới, qua đó để rút kinh nghiệm, hướng dẫn công tác xét xử, bảo đảm
việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử tại các Toà án.
Đương sự chỉ có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm, các quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, quyền kháng cáo này không phải là vô
hạn mà người kháng cáo chỉ thực hiện việc kháng cáo trong thời hạn được
pháp luật quy định. Điều 245 BLTTDS quy định: Đối với bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, trường hợp