1. NỘI DUNG TỰ NGHIÊN CỨU
(Phần 1 – Chủ đề 0,1,2)
I. Giới thiệu:
1. Giáo viên hướng dẫn: Thầy Lê Đức Long
2. Nhóm thực hiện: Nhóm 8.
Thành viên:
Nguyễn Thị Mộng Hà
Bùi Trần Thành Đạt
3. Tài liệu tham khảo: giáo trình PPDH, mạng Internet
II. Nội dung chính:
1. Câu hỏi:
Chủ đề 0:
Các tác nhân trong hệ thống dạy học có những đặc điểm cơ bản gì?
Các thành tố cơ bản của phương pháp dạy học bộ môn là gì?
Trong các bước tổ chức dạy trên lớp thì bước nào là quan trọng nhất?
Hồ sơ bài dạy là gì? Bao gồm những gì?
Chủ đề 1:
Who, What, và How trong mô hình dạy học mang ý nghĩa gì?
Bạn có suy nghĩ gì về hiện trạng việc dạy Tin học ở nước ta hiện nay?
Với nội dung và chương trình tin học phổ thông hiện tại, theo bạn cần phải dạy học
như thế nào để phù hợp với xu thế thời đại và xã hội trong thế kỉ 21 hiện nay?
Bạn suy nghĩ như thế nào để vận dụng các bước tổ chức dạy học vào 1 bài dạy được
phân công? Kiểu dạy học và phương pháp dạy học bạn sẽ áp dụng là gì?
Chủ đề 2:
Thế nào là dạy học dùng lời (talk teaching)?
Nghệ thuật của sự diễn giải (The art of explaining) là gì? Ý nghĩa của nó trong dạy
học.
2. Nghệ thuật của sự trình bày (The art of showing) là gì? Ý nghĩa của nó trong dạy học.
2. Câu trả lời tương ứng:
a. Chủ đề 0:
Các tác nhân trong hệ thống dạy học có những đặc điểm cơ bản gì?
Hoạt động dạy học diễn ra trong một hệ thống dạy học, bao gồm: Thầy (giáo viên), Trò (học
sinh), Tri Thức và Môi Trường
Tri thức:
Mục tiêu của quá trình dạy học là học sinh làm chủ được tri thức.
Tri thức phải được biến đổi từ tri thức khoa học đến tri thức chương trình rồi đến tri thức
dạy học để học sinh nắm vững. Đây là quá trình chuyển hoá sư phạm.
- Tri thức khoa học: những tri thức cần thiết trang bị cho học sinh ở từng lứa tuổi.
Chẳng hạn đối với môn Tin học, đó là các tri thức về Tin học và máy tính điện tử,
hệ điều hành, soạn thảo văn bản, bảng tính điện tử, giải thuật và lập trình, mạng
máy tính và Internet, ...
- Tri thức chương trình: những tri thức khoa học được sàng lọc để trở thành những tri
thức phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh cũng như yêu cầu của từng cấp
học, được quy định trong chương trình học của từng cấp học, khối học, được thể
hiện trong sách giáo khoa.
- Tri thức dạy học: là tri thức chương trình được thể hiện trong mỗi lớp học với
những đối tượng cụ thể. Người thầy phải tổ chức lại tri thức trong chương trình
(sách giáo khoa) biến thành tri thức dạy học tuỳ theo khả năng sư phạm của thầy để
chuyển giao cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
Thầy:
Trong quá trình dạy học, thầy giáo đóng vai trò chủ động, dẫn dắt, trước hết làm cho việc
dạy và học tuân thủ các nguyên tắc dạy học sau đây:
- Đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa tính khoa học và tính sư phạm.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa đồng loạt và phân hoá.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức và yêu cầu phát triển.
3. - Đảm bảo sự thống nhất giữa hoạt động điều khiển của Thầy và hoạt động học tập
của Trò.
Người thầy phải thấy được các mâu thuẫn trong quá trình dạy học để tìm cách thực hiện
đồng thời một số yêu cầu khác nhau.
Ví dụ, để đảm bảo tính khoa học thì thường phải trình bày vấn đề một cách chính xác,
nhưng như vậy thì khó, trừu tượng; trong khi đó đối với tính sư phạm thì cần đảm bảo
trình bày vấn đề dễ hiểu, dễ nhớ, dẫn đến việc Thầy phải tìm những “kẻ hở” để “lách”
làm sao cho học sinh dễ dàng tiếp thu như tìm các khái niệm, ví dụ gần giống hoặc tương
tự với khái niệm cần dạy để truyền đạt cho học sinh Tóm lại, giáo viên phải là người tạo
thuận lợi tối đa cho việc học của trò.
Trò:
Để đạt được hiệu quả cao trong học tập, học sinh cũng phải có vai trò chủ động, vai trò
trung tâm, chống lại thói quen học tập thụ động
Muốn vậy, thầy giáo phải tổ chức những hoạt động trong lớp học để phát huy vai trò chủ
động của học sinh
Riêng đối với trường THPT, cần chú ý đến các đặc điểm phát triển trí tuệ của học
sinh THPT sau:
- Tính chủ động trong quá trình nhận thức đã phát triển.
- Tri giác có mục đích đã đạt mức khá cao.
- Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo.
- Tư duy lí luận trừu tượng, độc lập và phát triển khá.
- Đã có óc phê phán trước các sự kiện.
- Ý thức đối với học tập rõ hơn ở cấp dưới.
- Hứng thú đối với các môn học đã phân hoá.
- Bước đầu hình thành khuynh hướng nghề nghiệp.
- Đối với học sinh Việt Nam: chưa có thói quen làm việc theo nhóm.
Vì vậy, Thầy phải chọn phương pháp dạy học phù hợp (với tâm sinh lí lứa tuổi, với môi
trường học của học sinh, với trình độ học sinh), phát huy được tính tích cực của học sinh
như: hướng dẫn và cho học sinh thảo luận nhóm, báo cáo theo nhóm; tự tìm kiếm thông
tin và nghiên cứu tài liệu; tham gia học tập theo hướng giải quyết vấn đề, học tập theo dự
án; …
4. Các thành tố cơ bản của phương pháp dạy học bộ môn là gì?
Quá trình dạy học là một quá trình điều khiển các hoạt động và giao lưu của học sinh
nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.
Bản chất của việc học tập là một quá trình xử lí thông tin.
Các thành tố cơ bản của phương pháp dạy học bộ môn là:
- Hoạt động và hoạt động thành phần
- Động cơ
- Tri thức và tri thức phương pháp
- Sự phân bậc hoạt động
Trong các bước tổ chức dạy trên lớp thì bước nào là quan trọng nhất?
Trong các bước tổ chức dạy học thi phần Tạo tiền đề xuất phát hay phần mở đầu bài
dạy là quan trọng nhất.
Những ấn tượng đầu tiên là rất quan trọng, vì vậy một bài dạy trên lớp cần có phần mở
đầu hấp dẫn (có thể chỉ trong vài ba phút) để tạo nhịp cho toàn bộ bài dạy.
Mở đầu một bài dạy nhằm:
- Tập trung sự chú ý và khơi dậy sự hứng thú của HS
- Tạo ra mối liên kết giữa những bài học trước với bài học sau
- Đưa ra mục tiêu của bài dạy và những yêu cầu cần đạt được
- Chỉ ra những kỹ năng quan trọng
- Mô tả những gì cần đạt trong và sau bài học
Trong một bài dạy lí tưỏng, nên phân chia nội dung học tập thành nhiều phần nhỏ hợp lí
và áp dụng công thức sau: Mở đầu hấp dẫn + (Lí thuyết + Áp dụng + Tóm tắt)n + Kết
luận Nhằm mục đích lôi cuốn sự chú ý, tham gia tích cực của người học trong suốt tiết
học, buổi học.
Hồ sơ bài dạy là gì ? Bao gồm những gì ?
Theo quan điểm công nghệ, quá trình dạy học gồm hai giai đoạn cơ bản: thiết kế và thi
công. Trong đó giai đoạn thiết kế là giai đoạn quan trọng, cần xác định rõ đầu vào (mục
tiêu giảng dạy) và đầu ra (kết quả học tập của học sinh). Thiết kế bài dạy là soạn thảo một
văn bản về quy trình tiến hành bài dạy cho một hoặc vài tiết lên lớp, trong đó nêu rõ: mục
5. tiêu, phương pháp, phương tiện, nội dung, thời gian dạy học cho từng nội dung và kế
hoạch đánh giá kết quả bài dạy. Đặc biệt phải nêu rõ sự phân vai và phối hợp hoạt động
giữa giáo viên và học sinh trong từng hoạt động cụ thể.
Kết quả hay sản phẩm của giai đoạn này chính là giáo án hay còn gọi là bài giảng. Công
việc thực hiện sản phẩm này thường được gọi một cách quen thuộc là "soạn giáo án" hay
"soạn bài giảng". Với khuynh hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, thì việc kết
hợp nhiều phương pháp dạy học cùng với tích hợp công nghệ dạy học trong quá trình lên
lớp không còn xa lạ, người giáo viên không chỉ chuẩn bị giáo án đơn thuần như truyền
thống mà còn có nhiều tài liệu tham khảo, phương tiện, công cụ hỗ trợ cho từng bài
giảng, từng tiết dạy. Chúng tôi đề nghị một mô hình hồ sơ bài dạy của giáo viên để tổ
chức bài giảng và lưu trữ trên máy tính.
b. Chủ đề 1:
Who, What, và How trong mô hình dạy học mang ý nghĩa gì?
Quá trình dạy học thể hiện mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò vì vậy phương pháp dạy
học (PPDH) phản ánh mối quan hệ qua lại giữa dạy và học.
Đối tượng nghiên cứu chính của phương pháp dạy học là sử dụng phương pháp nào và
bằng các phương tiện dạy học nào để đạt được mục tiêu dạy học.
6. Để làm được điều này, tương ứng hoạt động dạy của thầy sẽ có phương pháp dạy của
thầy và hoạt động của trò cũng sẽ có phương pháp học của trò.
Hoạt động dạy của thầy và học của trò để đạt được mục tiêu dạy học sẽ dựa trên những
câu hỏi đặt ra sau đây (the 8 Wh-questions):
1. Who trains the learners – Ai dạy? Ý nghĩa của Who
2. What prior knowledge - Kiến thức nào cần biết trước? Ý nghĩa của What
3. Which objectives are achieved - Mục tiêu đạt được sau bài học?
4. Which contents are imparted - Nội dung nào cần dạy?
5. Which methods are applied – Sử dụng phương pháp nào?
6. Under which conditions are performed - Bằng các phương tiện nào?
7. Which kind of organisation is to arrange – Hình thức tổ chức hoạt động?
8. In which way results will be evaluated – Đánh giá kết quả bằng cách nào?
Bạn có suy nghĩ gì về hiện trạng việc dạy Tin học ở nước ta hiện nay?
Giáo viên:
Đa số không được đào tạo bài bản và có hệ thống.
Các trường sư phạm chỉ mới đào tạo giáo viên chính quy ngành sư phạm Tin trong vài
năm trở lại đây và số lượng ra trường còn rất ít.
- Những người thạo Tin học thì thường không có nghiệp vụ sư phạm.
- Những giáo viên có nghiệp vụ sư phạm, có kinh nghiệm dạy học phần lớn từ các
chuyên môn khác (Toán, Lí,…) chuyển sang, sau khi đã học một số khoá đào tạo
Tin học.
- Việc dạy Tin học vẫn được coi là hoạt động kiêm nhiệm, cải thiện cuộc sống, chứ
không phải là một nghể nghiệp cần đầu tư có chiều sâu, nghiên cứu và rút kinh nghiệm.
Chương trình và sách giáo khoa
- Ngành giáo dục đã bỏ trống việc giáo dục Tin học trong mấy thập kỷ qua, không có
định hướng, quy hoạch.
- Các phương án đưa Tin học vào giáo dục thay đổi nhiều lần, không ổn định, do đó
không có chương trình chính thức.
- Chỉ mới năm học 2006-2007, Bộ GD & ĐT chính thức đưa chương trình Tin học tự
chọn (bắt buộc) cho cấp THCS và chính khoá cho cấp THPT. Tương ứng với
chương trình này là các sách giáo khoa, sách giáo viên cho cấp lớp 6 và lớp 10.
Ý nghĩa của How
7. - Các tài liệu về Tin học khác giảng dạy trong các nhà trường và các trung tâm còn
lại không phải là các sách giáo khoa mà chỉ là dạng các tài liệu hướng dẫn sử dụng,
do các nhà xuất bản in ấn cộng tác với một số người biên soạn Việt Nam biên dịch
lại, hoặc là dạng giáo trình biên soạn nội bộ đem dạy cho người học.
Việc dạy và học
- Vì không có nghiệp vụ sư phạm, giáo viên trình bày từng bước theo tài liệu hướng
dẫn hoặc sách tham khảo một cách máy móc và cứng nhắc.
- Tài liệu hướng dẫn thường dài, hoặc mới và khó mà thời lượng ở lớp ít nên giáo
viên trình bày lưót qua rất nhanh, người học khó khăn nắm vấn đề, việc theo dõi
trực tiếp các thao tác trên màn hình máy tính còn rất hạn chế.
- Giáo viên ít đầu tư chuẩn bị phương tiện - thiết bị dạy học, nên môn Tin học mà
thường dạy “chay”, việc dạy ít được các cấp quản lí đầu tư tùy theo điều kiện của
trường lớp, từng địa phương.
- Người học tốn công sức mày mò ở nhà hoặc thuê máy thực hành ở các điểm dịch
vụ, do đó việc học không được định hướng đúng đắn, tự phát tùy theo yêu cầu của
từng người học. Ngược lại, một số người học thiếu hẵn việc đầu tư cho thực hành
do khách quan hoặc chủ quan nên không rèn luyện được kĩ năng cần thiết, chỉ biết lí
thuyết không biết thực hành.
Với nội dung và chương trình tin học phổ thông hiện tại, theo bạn cần phải dạy học
như thế nào để phù hợp với xu thế thời đại và xã hội trong thế kỉ 21 hiện nay?
Với nội dung và chương trình tin học phổ thông hiện tại, để phù hợp với xu thế thời đại và xã hội
trong TK21 chúng ta cần :
- Cung cấp các kiến thức phổ thông và hình thành các kỹ năng cơ bản của tin học và công
nghệ thông tin cho học sinh làm cơ sở ban đầu cho việc đào tạo nguồn nhân lực tương lai,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa , hiện đại hóa ,hướng tới kinh tế tri thức , đồng thời ,
ứng dụng được các kiến thức và kỹ năng nói trên vào các hoạt động học tập , vào cuộc
sống cá nhân trong bối cảnh một xã hội có những tác động ngày càng mạnh mẽ của công
nghệ thông tin.
- Sử dụng công nghệ để nâng cao việc khám phá nội dung tri thức
- Sử dụng công nghệ gắn kết và phù hợp với lớp học, người học
- Làm chủ được nội dung tri thức cần phải dạy và khả năng ứng dụng phương pháp sư
phạm hiệu quả
8. Giáo viên = Kiến thức chuyên môn + PP Sư phạm + Khả năng công nghệ
Bạn suy nghĩ như thế nào để vận dụng các bước tổ chức dạy học vào 1 bài dạy được
phân công? Kiểu dạy học và phương pháp dạy học bạn sẽ áp dụng là gì?
Để vận dụng các bước tổ chức dạy học vào 1 bài dạy được phân công chúng ta cần:
- Xác định được mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức. Từ đó kế hoạch sao cho phù hợp với
nội dung bài học để đạt được kết quả tốt.
- Phân chia các hoạt động hợp lí phù hợp với nội dung bài học
- Hệ thống hóa các kiến thức và kỹ năng cơ bản: đã biết và khả năng biết về chủ đề sắp
học.
- Nghiên cứu phần trọng tâm, điểm quan trọng của bài dạy
- Chuẩn bị tài liệu hỗ trợ cho GV và HS
Kiểu dạy học và phương pháp dạy học sẽ áp dụng: Kiểu dạy học nêu vấn đề và PP dạy
học tích cực
Vì :
- Kiểu dạy học mang tính tích cực
- Học sinh nắm tri thức vững chắc
- Học sinh nắm được phương pháp tự học , phát triển được tư duy.
- Học sinh xây dựng được niềm tin về khả năng của mình
- HS giữ vị trí trung tâm, được hướng dẫn để tự mình khám phá và làm chủ tri thức , có vai
trò chủ động
Chủ đề 2 :
Thế nào là dạy học dùng lời (talk teaching)?
Dạy học dùng lời là phương pháp sử dụng lời nói và chữ viết để truyền đạt, tiếp nhận, chế
biến và lưu trữ thông tin. Qua đó truyền đạt tri thức cho học sinh. Đây là nhóm phương
pháp được sử dụng thông dụng nhất (trung bình chiếm 60% số lượng các bài học của
môn học/học phần). Giáo viên giao tiếp với người học qua giọng nói, ánh mắt, dáng điệu
nét mặt. Ở lớp học truyền thống, dạy học dùng lời là tổng hợp của nghệ thuật diễn giải và
nghệ thuật trình bày.
Nghệ thuật của sự diễn giải (The art of explaining) là gì? Ý nghĩa của nó trong dạy
học.
9. Giáo viên nêu vấn đề, vạch ra các mâu thuẫn về nhận thức, giáo viên đề xuất những giả
thuyết và hướng giải quyết vấn đề và cũng chính giáo viên giải quyết vấn đề. Học sinh
theo dõi con đường giải quyết vấn đề do giáo viên trình bày.
Phương pháp dựa trên nền tảng giải quyết vấn đề theo một/nhiều tình huống gợi vấn đề
do giáo viên đặt ra, việc truyền thụ kiến thức mới cho học sinh sẽ gián tiếp thông qua
việc giải quyết tình huống mà không ở dạng thông báo trực tiếp đến học sinh như phương
pháp diễn giảng-thông báo. Giáo viên khi trình bày vấn đề luôn tạo ra những mâu thuẫn
nhận thức nên học sinh luôn trong tình trạng có vấn đề. Qua đó chất lượng của việc lĩnh
hội tri thức cao hơn so với diễn giảng - thông báo.
Đây là một phương pháp nằm trong kiểu dạy học nêu vấn đề, mang tính chất tích cực
mặc dù ở mức độ thấp nhất vì giáo viên thực hiện hết tất cả các bước trong trình tự thực
hiện.
Với điều kiện hiện nay ở nước ta, nên sử dụng phương pháp này trong dạy học bộ môn để
đổi mới phương pháp dạy học thay cho phương pháp diễn giảng – thông báo truyền
thống.
Nghệ thuật của sự trình bày (The art of showing) là gì? Ý nghĩa của nó trong dạy học.
Nghệ thuật của sự trình bày ( The art of showing):
- Là 1 cách tự nhiên nhất để học bằng “sự bắt chước” . Trình bày thế nào, sử dụng phương
pháp minh họa như là 1 ví dụ mẫu cho nghệ thuật trình bày.
- Nghệ thuật của sự trình bày là khả năng, kỹ năng trình bày bài dạy 1 cách chi tiết, giải
thích đầy đủ và cặn kẽ nội dung bài học thông qua bài giảng đã chuẩn bị, ví dụ minh họa,
bài tập, các thao tác mẫu
Ý nghĩa của “nghệ thuật dùng lời”:
- Giúp HS ghi nhớ và áp dụng đúng “mẫu” mà giáo viên đã trình bày
- HS nắm được tri thức cần thiết của bài học
- HS có thể dễ dàng tiếp thu bài học, hiểu rõ hơn những điểm trọng tâm của bài
-----o0o-----
(còn tiếp)
10. Giáo viên nêu vấn đề, vạch ra các mâu thuẫn về nhận thức, giáo viên đề xuất những giả
thuyết và hướng giải quyết vấn đề và cũng chính giáo viên giải quyết vấn đề. Học sinh
theo dõi con đường giải quyết vấn đề do giáo viên trình bày.
Phương pháp dựa trên nền tảng giải quyết vấn đề theo một/nhiều tình huống gợi vấn đề
do giáo viên đặt ra, việc truyền thụ kiến thức mới cho học sinh sẽ gián tiếp thông qua
việc giải quyết tình huống mà không ở dạng thông báo trực tiếp đến học sinh như phương
pháp diễn giảng-thông báo. Giáo viên khi trình bày vấn đề luôn tạo ra những mâu thuẫn
nhận thức nên học sinh luôn trong tình trạng có vấn đề. Qua đó chất lượng của việc lĩnh
hội tri thức cao hơn so với diễn giảng - thông báo.
Đây là một phương pháp nằm trong kiểu dạy học nêu vấn đề, mang tính chất tích cực
mặc dù ở mức độ thấp nhất vì giáo viên thực hiện hết tất cả các bước trong trình tự thực
hiện.
Với điều kiện hiện nay ở nước ta, nên sử dụng phương pháp này trong dạy học bộ môn để
đổi mới phương pháp dạy học thay cho phương pháp diễn giảng – thông báo truyền
thống.
Nghệ thuật của sự trình bày (The art of showing) là gì? Ý nghĩa của nó trong dạy học.
Nghệ thuật của sự trình bày ( The art of showing):
- Là 1 cách tự nhiên nhất để học bằng “sự bắt chước” . Trình bày thế nào, sử dụng phương
pháp minh họa như là 1 ví dụ mẫu cho nghệ thuật trình bày.
- Nghệ thuật của sự trình bày là khả năng, kỹ năng trình bày bài dạy 1 cách chi tiết, giải
thích đầy đủ và cặn kẽ nội dung bài học thông qua bài giảng đã chuẩn bị, ví dụ minh họa,
bài tập, các thao tác mẫu
Ý nghĩa của “nghệ thuật dùng lời”:
- Giúp HS ghi nhớ và áp dụng đúng “mẫu” mà giáo viên đã trình bày
- HS nắm được tri thức cần thiết của bài học
- HS có thể dễ dàng tiếp thu bài học, hiểu rõ hơn những điểm trọng tâm của bài
-----o0o-----
(còn tiếp)