Khoá Luận Tốt Nghiệp Xuất Khẩu Nông Sản Của Việt Nam Sang Thị Trường Trung Qu...
Presentation of arg
1. Phân tích tiềm năng thị trường
Nhật Bản với mặt hàng rau củ
quả của Việt Nam.
2. 1.1. Nhu cầu thị trường
Nhật tiêu thụ khoảng 17 triệu tấn các loại rau mỗi năm, có
nghĩa là hơn 100kg mỗi người
•Nhu cầu cho loại hàng rau củ quả như là yếu tố tạo sự cân
bằng trong cuộc sống. Nhiều phụ nữ cần giảm cân hoặc sử
dụng mĩ phẩm tự nhiên
•Sự lựa chọn thực phẩm khôn ngoan là nhân tố quan trọng
trong việc kéo dài tuổi thọ trung bình của người Nhật lên tới
81 tuổi.
Nhóm
tuổi
1950 1970 1997 2005 2025
Số dân 83,0 104,0 126,0 127,7 117,0
Dưới
15t (%)
35,4 23,9 15,3 13,9 11,7
Từ 15-
64t
( % ) 59,6 69,0 69,0 66,9 60,1
65 tuổi
Trở lên 5,0 7,1 15,7 19,2 28,2
3. Xét về thời tiết, Nhật Bản có sự khác biệt rõ ràng về tính
mùa vụ của thời tiết và sự ảnh hưởng của sự chia cắt các
vùng miền.
Đất đai không màu mỡ, thêm vào đó là cấu trúc địa hình
không bền vững khi thường xuyên chịu ảnh hưởng của sự
vận chuyển các thềm lục địa là nguyên nhân hạn chế khả
năng cung cấp RCQ nội địa..
Với lĩnh vực rau xanh, có tới 18% rau tại Nhật là được
nhập khẩu và thị phần cho loại hàng này đang tăng lên nhanh
chóng
4. Lợi thế của Việt Nam.
Nông nghiệp là thế mạnh của Việt Nam dựa trên lợi thế về
đất đai màu mỡ, điều kiện tự nhiên thuận lợi với sự đa
dạng khí hậu 3 miền.
Hơn 63% người dân làm nống nghiệp, với tính
cách cần cù chịu khó và nhanh tiếp thu kiến
thức
sự thuận tiện về mặt địa lý.
Hiệp định đối tác toàn diện VN - Nhật Bản (VJEPA) có
hiệu lực từ tháng 10-2009 đã tạo điều kiện cho
thương mại 2 nước phát triển, trong đó nhiều mặt
hàng nông nghiệp của VN đã được hưởng lợi từ việc
cắt giảm thuế quan theo hiệp định.
5. Tình hình tăng trưởng chung của tổng sản lượng nhập
khẩu.
Bảng sau mô tả xu hướng giá trị xuất khẩu của hàng rau
củ quả Việt Nam sang Nhật Bản
Năm 2009-2010
6. Sự khó tính của thị trường
Trên thực tế, để xuất khẩu vào Nhật các DN VN cũng gặp
không ít thách thức, khó khăn. Đó là những yêu cầu rất khắt
khe về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật
cùng với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ các nước
trong khu vực.
•Luật JAS Luật về tiêu chuẩn và
dán nhãn hàng nông lâm sản
•Luật tiêu chuẩn nông nghiệp
Nhật bản
•Giấy phép nhập khẩu do Cục
kiểm tra Vệ sinh Thưc phẩm
thuộc Bộ Y tế ban hành
•Luật Bảo vệ thực vật
Hai đối thủ cạnh tranh
chủ yếu : Trung Quốc và
Mỹ, xếp thứ ba là Thái
Lan.
7. Hạn chế của Việt Nam
Là nước lớn thứ 5 ở châu Á về sản lượng rau, quả
nhưng ngành sản xuất này hiện vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế.
Công nghệ trồng, thu hoạch, bảo quản, chế biến lạc hậu;
Tổ chức liên kết trong sản xuất - kinh doanh chưa tạo ra sức
mạnh tổng hợp;
Chưa có chiến lược xây dựng và phát triển mặt hàng xuất
khẩu chủ lực...
Chính vì thế, mặc dù Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận
lợi, diện tích sản xuất lớn nhưng ngành này vẫn chưa khai thác
hết tiềm năng, thế mạnh của mình để chiếm lĩnh thị trường
trong nước.
Đối với xuất khẩu, dù rau, quả Việt đã có mặt tại 50
quốc gia, vùng lãnh thổ với cả các thị trường khó tính
như Mỹ, EU... nhưng theo đánh giá từ bộ chủ quản, chất
lượng xuất khẩu vẫn chưa ổn định...
Thứ hai, các chủng loại còn ít và kém tinh tế. Hiện nay chỉ
có 30 loại mặt hàng XK vào Nhật Bản trong khi Việt Nam có
tới hơn 100 chủng loại RCQ khác nhau. NB không chỉ NK
nhiều về số lượng mà còn đa dạng về chủng loại.
8. Chính sách sản phẩm của Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông
nghiệp Antesco
1. Chính sách chủng loại.
ANTESCO đã dựa trên lợi thế khác biệt về mùa vụ giữa
Việt Nam và Nhật Bản làm nền tảng xuất khẩu, trong các
mặt hàng này kể đến là khóm (dứa) là mặt hàng nhiệt đới
rất được ưa chuộng tại Nhật đồng thời cũng là thế mạnh
của công ty.
9. Chính sách chất lượng sản phẩm
Công ty Antesco luôn coi trọng chất lượng
sản phẩm, với phương châm “Chất lượng
là uy tín, là sự tồn tại và phát triển của công
ty. Vì vậy chúng ta cần phải dựa và0 pháp
luật của Việt nam và các nước có tiêu thụ
sản phẩm”.
ANTESCO cam kết sản phẩm NK vào Nhật Bản: Lấy VSATTP
làm tiêu chuẩn hàng đầu. ANTESCO hiện có hai nhà máy
đang áp dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của Châu Âu và
hệ thống quản lý chất lượng theo ISO, HACCP, BRC, chứng
nhận chất lượng Kosher, ISO 22000: 2005
Hầu hết là các chứng nhận chất lượng phổ biến tại thị trường Châu
Âu trong khi mỗi thị trường lại khác, và tại Nhật Bản thì người tiêu
dùng quan tâm đến chứng nhận nhất lượng VSATTP JAS, việc ghi
nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng JAS đang là cơ sở cho
người tiêu dùng trong việc lựa chọn các thực phẩm tại đây.
Chính vì vậy để phù hợp và xâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường
Nhật Bản thì ANTESCO nên thực hiện đăng ký các tiêu chuẩn chất
lượng phù hợp với thị trường này.
10. Chính sách công năng sử dụng.
Các sản phẩm gắn với sự tiện lợi, dễ dàng sử dụng được ưa
chuộng tại đất nước bận rộn này, chính vì vậy mà sản phẩm
của ANTESCO xâm nhập vào Nhật Bản cũng đáp ứng nhu
cầu này. Đó là các sản phẩm đóng hộp và hàng đông lạnh.
Lợi thế sản phẩm của doanh nghiệp chính là sự đáp ứng
nhu cầu tiện lợi của người dùng.
Song chủ yếu chỉ là các loại biến thể về kiểu dáng sơ chế,
chưa tạo được sự đặc biệt trong công thức.
Đối với khẩu vị tinh tế và đa dạng của người Nhật, nếu
phát triển thêm các sản phẩm như đồ sấy khô hay muối,
các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ đáp ứng được đa dạng
các công năng sử dụng khác nhau hơn.
11. Chính sách kiểu dáng.
Kiểu dáng dành cho hàng đóng hộp và hàng đông lạnh đáp
ứng tiêu chuẩn và phù hợp với thói quen tiêu dùng của
người tiêu dùng, sản phẩm đóng hộp đựng trong các lon
và hàng đông lạnh được đóng gói cẩn thận.
12. Chính sách bao bì, mẫu mã.
Bảo vệ tốt các sản phẩm trước tác động của môi
trường
Chất liệu phải phù hợp với tính chất của sản phẩm.
Chứa dựng các thông tin cần thiết (nơi sản xuất,
thời gian, hạm lượng chất dinh dưỡng, các chất
phụ…) tức là thông điệp quảng cáo sản phẩm
nhằm đưa ra một nội dung ý nghĩa là lý do mà
khách hàng mua sản phẩm
Thực phẩm sau khi nhập khẩu có nhãn đính
kèm cho mỗi bao gói, thể hiện chi tiết nội dung
bao gồm màu nhân tạo hoặc chất bảo quản,
tên và địa chỉ của nhà nhập khẩu và ngày nhập
tại Nhật.
Hình ảnh quảng bá trên bao bì sản phẩm, đặc
biệt là màu sắc và chất liệu chưa bắt mắt và
chưa thể hiện hết chất lượng sản phẩm,
chính vì vậy nên doanh nghiệp cần thiết kế lại
mẫu mã bao bì sao cho cung cấp đủ thông tin
theo yêu cầu của Nhật Bản song vẫn thu hút
người tiêu dùng.