SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 76
Downloaden Sie, um offline zu lesen
1
MỤC LỤC
 ĐẠO CHI TÔNG CHỈ ………………………... 2
 LỄ KÝ LỄ VẬT ĐẠI ĐỒNG BIẾN …………. 4
 ĐẠI ĐẠO TAM BẢO ………………………… 7
o Ý nghĩa của chúc mừng ………………….. 7
o “Đạo” là gì? ………………………………… 7
o Ý nghĩa của cầu Đạo ……………………… 8
o Nhân duyên giáng Đạo ……………………9
o Ứng vận của Phật Di Lặc ………………… 9
o Căn cơ thâm hậu – Thánh Đạo tiếp bước
…………………………………………………. 10
o Bảo mật thiên cơ – Tiết lộ nhân gian … 10
o Bảo thứ nhất – Huyền Quan Khiếu …… 11
o Bảo thứ hai – Khẩu Quyết ………………. 17
o Bảo thứ ba – Hợp Đồng ………………….. 19
o Những Điều Cần Biết Sau Khi Cầu Đạo...21
 SỰ THÙ THẮNG CỦA LONG THIÊN BIỂU..23
 ĐẠO NGHĨA THAM KHẢO …………………. 55
 SỰ KHÁC BIỆT GIỮA ĐẠO VÀ GIÁO ……. 70
2
ĐẠO CHI TÔNG CHỈ
 Kính thiên địa, lễ thần minh, ái quốc trung sự,
đôn phẩm sùng lễ.
 Hiếu phụ mẫu, trọng Sư Tôn, tín bằng hữu,
hòa hương lân.
 Cải ác hướng thiện, giảng minh ngũ luân bát
đức.
 Xiển phát ngũ giáo thánh nhân chi áo chỉ, khác
tuân tứ duy cương thường chi cổ lễ.
 Tẩy tâm địch lự, tá giả tu chân.
 Hồi phục bản tánh chi tự nhiên, khởi phát
lương tri lương năng chi chí thiện.
 Kỷ lập lập nhân, kỷ đạt đạt nhân.
 Vãn thế giới vi thanh bình, hóa nhân tâm vi
lương thiện, ký thế giới vi Đại Đồng.
3
Giảng nghĩa:
TÔN CHỈ CỦA ĐẠO
 Tôn kính trời đất, lễ bái thần minh, yêu nước
tận tụy với công việc, phẩm cách đôn hậu
sùng kính lễ.
 Hiếu thảo cha mẹ, kính trọng thầy, giữ chữ
tín với bạn bè, hòa thuận với xóm giềng.
 Cải ác hướng thiện, giảng rõ Ngũ luân Bát
đức.
 Nêu bật ý chỉ ảo diệu của Ngũ giáo Thánh
nhân, cung kính-tuân theo cổ lễ Tứ duy
cương thường.
 Gội rửa tâm và ý nghĩ, mượn giả tu thật.
 Hồi phục bản tánh tự nhiên, khởi phát lương
tri lương năng đạt tới chí thiện.
 Ta đã đứng vững cũng khiến người đứng
vững, ta đã đạt cũng khiến người đạt.
 Cứu vãn thế giới sống trong thanh bình, cải
hóa nhân tâm trở nên lương thiện, mong thế
giới đạt đến Đại Đồng.
4
LỄ KÝ LỄ VẬT ĐẠI ĐỒNG BIẾN
 Đại Đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển
hiền dữ năng, giảng tín tu mục.
 Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ
tử.
 Sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấn
hữu sở trưởng.
 Quan quả cô độc phế tật giả, giai hữu sở
dưỡng.
 Nam hữu phận, nữ hữu quy.
 Hóa ác kỳ khí vu địa dã, bất tất tạng vu kỷ, lực
ác kỳ bất xuất vu thân dã, bất tất vi kỷ.
 Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc
nhi bất tác, cố ngoại hồ nhi bất bế, thị vị Đại
Đồng.
5
Giảng nghĩa:
LỄ VẬN ĐẠI ĐỒNG THIÊN
 Đại Đạo thông hành toàn thế giới, con người
trên thế giới đều lấy Đạo để ứng xử. Tuyển
chọn người hiền có năng lực vì dân phục vụ,
mọi người rất uy tín – chân thực – hòa
thuận, đạo tâm không lui sụt, tinh tấn không
lười biếng.
 Vì thế người ta không chỉ yêu thương người
thân mình, đồng thời cũng yêu thương người
thân của kẻ khác. Không chỉ yêu thương
chăm sóc con cái mình, đồng thời cũng yêu
thương chăm sóc con cái của người khác.
 Khiến người già sau khi về hưu, có thể an
hưởng Thanh phúc, không vất vả cả đời.
Người cường tráng ai nấy đều là kẻ hữu
dụng, không lêu lỏng thích an nhàn. Trẻ em
được giáo dục nuôi dưỡng, không phóng
đãng tập tành thói xấu. Và người già góa vợ,
6
người già góa chồng – người già không con,
kẻ tàn tật bệnh hoạn đều nhận được sự sẻ
chia thỏa đáng nhất – quan tâm thân thiết
nhất.
 Đàn ông có công việc phù hợp, phụ nữ có nơi
gửi gắm tấm thân vừa ý.
 Vật chất sinh hoạt vô cùng sung túc, mặc cho
người hưởng thụ, thế nhưng không tùy tiện
lãng phí, không không chiếm làm của riêng,
chẳng ăn không ngồi rồi. Tuy ai nấy đều nỗ
lực tận hết chức trách của mình song không tự
tư chỉ nghĩ đến bản thân.
 Do vậy tất cả lòng riêng tư trí tuệ nông cạn,
âm mưu gian trá vĩnh viễn không phát sinh.
Tất cả phường trộm cắp cướp giật, bọn côn đồ
bạo loạn đều biến mất. Chính vì thế ban đêm
ra phố hoặc dạo chơi, cửa không cần đóng
cũng an nhiên vô sự, đây là Thế Giới Đại
Đồng, Tịnh Độ Nhân Gian.
7
ĐẠI ĐẠO TAM BẢO
 Sớm nghe Đạo - Tối chết cũng cam! 
1. Ý nghĩa của chúc mừng?
Bình thường chúng ta tới miếu chùa cầu thần bái
Phật, chưa từng có ai chúc mừng các bạn, thế tại sao
hôm nay, sau khi cầu Đạo, những người có mặt ở đây
ai cũng hướng về các bạn mà chúc mừng vậy!
Bởi vì hôm nay chúng ta đã cầu được Tiên Thiên
Đại Đạo, Đạo mà ta có được và Đạo của Chư Phật Bồ
Tác đắc được đều là như nhau, đương nhiên là điều
đáng vui và đáng chúc mừng.
2. “Đạo” là gì?
“Đạo lý” – Đạo chính là lý, là nguyên tắc tiêu chuẩn
của pháp lý mà chúng ta làm người xử thế đều phải
tuân thủ và làm theo.
Hai chữ “Đạo lộ” – Đạo chính là con đường, là con
đường của linh tánh chúng ta trở về trời. Từ xưa đến
nay những người tu hành, mục đích của họ chẳng qua
là muốn vì linh tánh của mình tìm kiếm một con
đường giải thoát sau cùng. Nhưng linh tánh của
8
chúng ta đều từ trên Lý Thiên mà xuống. Sau này có
về thì phải trở về trên Lý Thiên, mới có thể gọi là giải
thoát cuối cùng. Cầu Đạo chính là cầu được con
đường về Lý Thiên của linh tánh.
3. Ý nghĩa cầu Đạo?
Sau khi đắc Đạo, “Thiên bảng ghi danh, Địa phủ
rút tên”, sau này linh tánh có thể trực tiếp trở về Lý
Thiên, không cần phải xuống dưới âm tào địa phủ báo
cáo, cũng không cần lại phải sinh tử luân hồi, linh
tánh có thể sống mãi không chết, đó gọi là “siêu sanh
liễu tử”.
Và còn được “nhất tử đắc Đạo, cửu huyền thất
tổ chiêm quang” (Một người con đắc Đạo, tổ tiên
được chiêm quang), kể cả tổ tiên của ta dưới địa phủ,
đều có thể nhận lấy hào quang của ta, và càng được
thăng cấp. Nếu người cầu Đạo ở dương gian biết hành
công lập đức, thậm chí là làm lễ siêu bạt tổ tiên, có thể
thoát khỏi địa phủ, cùng trở về Lý Thiên. Cho nên
Khổng Tử nói: “Sớm nghe được Đạo, tối chết cũng
cam!” chính là ý nghĩa như vậy.
9
4. Nhân duyên giáng Đạo
Tiên Thiên Đại Đạo xưa nay không dễ tuyên
truyền, từ cổ đến nay, Đạo là đơn truyền độc thụ, cần
phải tu trước đến khi công quả viên mãn, mới có thể
có duyên gặp được Phật tổ để truyền pháp thọ ký cho
mình.
Thiên thời chuyển vận, từ Thanh Dương Kỳ và
đến nay là Bạch Dương Kỳ. Nhìn vào thời vận trước
mắt, lòng người không như người xưa, Đạo Đức luân
tán, phong tục xử thế đồi bại, tai kiếp xảy ra triền
miên, đấy gọi là “tam kỳ mạt kiếp”.
Ơn trên không nỡ nhìn thấy người thiện và người ác
cùng chịu kiếp nạn, mới giáng xuống Đại Đạo, để
cứu lấy những người lương thiện thoát khỏi vận kiếp.
Nay đúng vào lúc tam kỳ mạt hội, Đại Đạo phổ
truyền, bất kể là nam nữ già trẻ, giàu có hay nghèo
khổ, nếu có cơ duyên đều có thể đắc Đạo.
5. Ứng vận của Phật Di Lặc – Tế Công Hoạt
Phật trưởng Đạo bàn.
Ứng vận của thời Bạch Dương Kỳ, Phật Di Lặc làm
trưởng Thiên bàn, Tế Công Hoạt Phật nắm trưởng
Đạo bàn. Tiên Thiên Đại Đạo cung phụng Phật Di
10
Lặc là Tổ Sư, Tế Công Hoạt Phật là Sư Tôn,
Nguyệt Huệ Bồ Tát là Sư Mẫu.
6. Căn cơ thâm hậu – Thánh Đạo tiếp bước
Cầu được Tiên Thiên Đại Đạo là có nhân duyên
đặc biệt thâm sâu, ngoài việc trải qua sự dẫn độ của
Dẫn Bảo Sư, có thể tiếp nhận lãnh thụ được thiên
mệnh – Điểm Truyền Sư, đại diện cho Tế Công
Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát, điểm Đạo truyền
pháp cho mình, bản thân mình còn cần phải có sự tích
lũy tu hành của tiền kiếp, có Phật duyên thâm hậu, tổ
tiên có Đức mới có cơ duyên đắc được Đại Đạo này.
7. Bảo mật thiên cơ – Tiết lộ nhân gian
Lúc cầu Đạo, Điểm Truyền Sư đại diện cho Tế
Công Hoạt Phật, truyền cho chúng ta Tam Bảo,
Tam Bảo này là mật bảo thiên cơ, là bằng chứng trở
về Lý Thiên.
11
BẢO THỨ NHẤT  HUYỀN QUAN KHIẾU
Huyền Quan Khiếu là cánh cửa thông thiên.
Huyền là nguyên thần, Quan là cửa ải của xuất nhập
(ra vào), Khiếu là một lỗ nhỏ giấu kín, gọi chung là
một lỗ nhỏ được giấu kín mà nguyên thần của ta ra
vào, hoặc cư ngụ tại nơi đó. Nguyên Thần chính là
cái ta thường gọi là linh hồn, linh tánh. Linh tánh
cần theo cửa chính mà ra vào.
Chúng ta thường nói con mắt là cửa sổ của linh
hồn, vậy cửa chính của linh hồn ở đâu? Chúng ta ra
vào nhà thì phải đi theo cửa chính, nếu như trèo
tường leo cửa sổ vào thì đó là tên cướp rồi. Linh tánh
của con người cũng là như vậy, nếu như từ chỗ cửa
chính mà đi ra, thì có thể trở về Vô Cực Lý Thiên
(đó chính là nơi cố hương vốn có của linh tánh chúng
ta). Nếu như không đi theo cửa chính, mà từ các cửa
mắt, tai, mũi, miệng,…thì là các ngõ ngách, cửa phụ
(hay còn gọi là bàng môn tà đạo) sẽ bị đầu thai vào
tứ sanh (noãn sanh, thai sanh, hóa sanh, thấp sanh)
lục đạo luân hồi (trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc
sanh, địa ngục).
Bất cứ người tu Đạo nào, đều cần phải từ chỗ này
mà hạ công phu, chư Phật Bồ Tát đều là do vậy mà tu
12
thành chánh quả. Muốn linh tánh của chúng ta sau
này tìm được giải thoát cuối cùng, để đi đến chứng
Đạo quy chân thành Tiên thành Phật, tất phải nắm
bắt cửa khiếu này. Trong kinh điển ngũ giáo đều ẩn
náu ngầm chỉ loại pháp môn này. Chúng ta hãy lấy
kinh luận của ngũ giáo để làm chứng.
1. Phật gia (Nhà Phật)
a. Nốt son trên trán các ngài Bồ Tát chính là muốn ám
chỉ cho thế nhân biết cửa khiếu của tu đạo, bí mật
của thành Đạo là ở chỗ đó.
b. Quan Âm Bồ Tát tay cầm tịnh bình lá liễu cũng là ý
đó.
c. Tử trúc lâm trung quan tự tại, liên hoa tọa thượng
kiến Như Lai.
d. Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Ngã hữu chánh pháp
nhãn tàng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô
tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo
ngoại biệt truyền”.
e. Phật lại nói:
“Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu
Linh Sơn chỉ tại nhĩ tâm đầu
Người người hữu cá Linh Sơn tháp
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu”.
13
2. Đạo gia (Nhà Đạo)
a.Lão Tử trong Đạo Đức Kinh có viết: “Cốc thần bất
tử, thị vị huyễn tẫn, huyễn tẫn chi môn, thị vi
thiên địa căn, miên miên nhược tồn, dụng chi
bất cẩn”. “Cốc thần” bất tử của Đạo gia là công
bố cho thế nhân biết linh tánh bất sanh, bất diệt là
cư ngụ tại nơi đó.
b.Trong chùa miếu thần minh muốn khai quang, vẽ
rồng, phải điểm nhãn. Thế nhân tu Đạo cần phải
cầu Minh Sư, điểm mở cửa chính Huyền Quan
Khiếu, mới có thể tìm thấy Thần Cốc bất tử này.
3. Nho gia (Nhà Nho)
a.Khổng Tử viết: “Sớm nghe được Đạo tối chết
cũng cam!”. Đạo ở đây là nói đến Tiên Thiên
Đại Đạo mà chúng ta có được, là Đạo của giải
thoát sinh tử. Cho nên có thể chết mà không hối
tiếc.
b.Khổng Tử viết: “Thục năng xuất bất do hộ, hà
mạc do tư Đạo dã?” ý nghĩa là: mọi người ra vào
đều phải cần từ cửa chính, nhưng tại sao ai nấy
đều bỏ cửa chính mà không chịu đi ?
14
 Huyền Quan Nhất Khiếu là cửa chính, còn lại
đều là ngõ ngách cửa bên, linh tánh thoát xác
theo đường cửa bên, sẽ chuyển sanh vào tứ
sanh lục đạo luân hồi.
Lỗ Rún Sinh làm Người
Nê hoàn cung Sinh vào cõi khí Thiên Thần
(Đỉnh Đầu)
4. Thiên chúa giáo
a.Giê Su Cơ Đốc bị đóng chết trên cây thập tự giá,
điều này ám chỉ cho mọi người biết rằng: chính giữa
cây thập tự giá có một vị chân nhân bất sanh bất
diệt.
b.Giê Su Cơ Đốc tuyên bố với các môn đồ: “Người
mà có thể vác lấy cây thập tự giá của mình,
TứQuan
Mắt
(Thị giác quan)
Tai
(Thám thính quan)
Mũi
(Thẩm phán quan)
Miệng
(Xuất nạp quan)
Noãn Sanh
(Chim, Gà, Vịt …)
Thai Sanh
(Bò, Dê, Chó …)
Hóa Sanh
(Muỗi, Ruồi, Kiến …)
Thấp Sanh
(Cá & các loài biển)
15
mới xứng là đệ tử trung thực của Giê Su ta.” Ý
nghĩa trong câu này là: tìm được cây thập tự giá của
mình mới có thể đạt được vĩnh sanh (sống mãi),
thập tự giá này chính là ở ngay chỗ mà hôm nay
Minh Sư nhất chỉ (Người chân nhân thật sự có một
không hai ở tại nơi huyền quan của chúng ta).
c. Giê Su nói: “Các con phải vào cửa hẹp, bởi vì
cửa dẫn tới diệt vong là rộng, đường vào rất
lớn, người vào đó cũng rất đông. Cửa dẫn đến
vĩnh sanh là hẹp, đường vào rất nhỏ, người
tìm để vào cũng rất ít.” (Mã thái phước âm
chương 8 trang 3)
 Ý nói Huyền Quan là phương tấc bảo địa, tức
là cánh cửa vĩnh sanh rất hẹp, để linh tánh về
trời.
5. Hồi Giáo
“Hồi hồi chi địa thị dã” – Hồi giáo tên gốc là Islam,
ý nghĩa là hòa bình, phục tùng chân nhân.
16
Tóm lại, vô số ấn chứng đều ám chỉ điểm
Huyền Quan diệu khiếu này, là cánh cửa thông
thiên sau này để linh tánh quy chân (tìm về chân
lý) cũng chính là chân lý chung của các giáo. Sau
khi đắc Đạo, chỉ cần không phản Đạo, Đạo Đức
đồi bại, sau này trăm tuổi về già, xác thân mùa
đông không cứng, mùa hè không thối nát, khuôn
mặt hiển báo điềm lành, an nhàn mềm mại và
đoan trang.
17
BẢO THỨ HAI  KHẨU QUYẾT
Khẩu Quyết là thần chú thông thiên, người xưa
muốn cầu chân Đạo, phải chịu ngàn vạn đau khổ, đi
ngàn dặm tầm Minh Sư, vạn dặm tìm Khẩu quyết.
Nay vào lúc Thiên Đạo phổ truyền, khẩu quyết chân
ngôn, khẩu truyền tâm ứng. Năm chữ chân ngôn này
là: “0 0 0 0 0” là khẩu lệnh để mở cửa về trời.
 Chữ thứ nhất ý nói: “Vô Cực Lý Thiên” là
quê hương của linh tánh, là nơi cư ngụ của
Thượng Đế, là chỗ ở của các vị Tiên Phật Bồ Tát,
cũng là nơi quay về của các Phật Tử đắc Đạo sau
này.
 Chữ thứ hai là đại diện cho “Thái cực khí
thiên” là nơi cư ngụ của Khí thiên thần, khí thiên
còn phải ở trong âm dương ngũ hành, chịu sự hạn
chế của khí số. Những người tu hành hồi xưa, những
tu sĩ ngồi thiền luyện khí, chưa gặp được hồng ân của
Ơn Trên độ về Lý Thiên, hoặc các người con trung
thành hiếu thảo, những phụ nữ giữ trung trinh tiết,
sau khi chết có thể được thăng làm thần tiên nơi khí
thiên, linh hồn tới nơi thiên giới này, chỉ có thể hưởng
được mấy trăm năm hoặc mấy ngàn năm hương quả
18
như Thổ Địa Công, Thành Hoàng Gia, Ma tổ,… sau khi
hưởng hết phước báu thì phải tiếp tục luân hồi.
 Chữ thứ ba là đại diện cho “Hoàng cực tượng
thiên” ý nói đến thế gian có hình có tướng mà hiện nay
chúng ta đang cư ngụ.
 Chữ thứ tư, thứ năm vốn là danh hiệu của Tổ
Sư, ý nghĩa thâm sâu hơn chính là “Phóng chi di mãn
lục hợp, quyển chi thối tàn vu mật” dẫn dạy người
tu hành cần phải biết thu tâm và thả tâm.
19
BẢO THỨ BA  HỢP ĐỒNG
“Hợp đồng giả, thông thiên thần ứng giả” là
dấu ấn tay để thông thiên, tức là tín vật để về trời.
Khi xưa lúc linh tánh chúng ta hạ phàm, đã cùng với
Lão Mẫu ký một cam kết ước định để quay về cố
hương (gọi là hợp đồng)
“Tý hợi tương ứng ôm trước ngực, tránh được
chín chín đại kiếp ải“ hợp đồng chính là tín vật
tránh thoát được chín chín tám mươi mốt tai kiếp. Tý
Hợi hai chữ này hợp lại thành một chữ “Hài” (là hài
nhi) hàm ý nói chúng ta đều là hài nhi của thiên trên,
những đứa con của Lão Mẫu.
Thánh Kinh cũng có nói: “Nếu con không thể
quay về với hình hài trẻ thơ, tuyệt đối không
thể bước vào Thiên Quốc”, cần hồi phục được
“lòng của trẻ sơ sinh” vô tư không tà niệm mới có
thể về đất nước của Thiên Quốc.
 Thiên thời đã khác, ứng vận của Tiên Phật, Khẩu
Quyết, Hợp Đồng và cả những kiếp số của Ơn Trên
giáng xuống cũng đều có sự khác biệt.
20
Tam kỳ
Phật
Ứng Vận
Khẩu
Quyết
Hợp
Đồng
Kiếp Số
Thanh
Dương Kỳ
Nhiên
Đăng Cổ
Phật
Vô Lượng
Thọ Phật
Lá Sen
Long nạn thủy
kiếp (9 kiếp
nạn)
Hồng
Dương Kỳ
Thích Ca
Mâu Ni
Phật
Nam Mô A
Di Đà
Phật
Hoa Sen
Xích minh hỏa
kiếp (18 kiếp
nạn)
Bạch
Dương Kỳ
Di Lặc
Phật 0 0 0 0 0 Củ Sen
Cương phong
kiếp (81 kiếp
nạn)
21
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT SAU KHI
CẦU ĐẠO
1. Diệu dụng của Tam Bảo
Tam Bảo là đại diện cho tâm pháp tương truyền của
Phật Tổ. Ngoài việc để cho chúng ta hiểu được nơi
ngự tại của tự tánh chúng ta và cách làm thế nào để
điều tâm dưỡng tánh ra. Lúc còn sống còn là bùa hộ
mệnh, tránh kiếp nạn; cũng chính là ứng vận thông
thiên về trời của linh tánh sau khi mất đi. Lúc sử dụng
tập trung ý niệm, thủ giữ huyền quan, trong tâm mật
niệm 5 chữ chân ngôn (không được đọc ra tiếng),
tay nắm lấy hợp đồng, là có thể nhận được sự gia hộ
của Tiên Phật, cùng với Thiên trên tương ứng giao
kèo.
2. Thiên cơ mật bảo – Không thể tiết lộ
Tam Bảo vốn là thiên cơ mật bảo, không thể
tiết lộ, cấm sao chép và ghi lại. Trên không được
truyền cho cha mẹ anh em, dưới không được truyền
cho vợ (chồng) con cái. Có tâm muốn độ hóa, có thể
dẫn dắt họ cầu Đạo, trải qua thủ tục như nhau, mới
có thể lãnh thọ được sự truyền Đạo của Thiên Mệnh
Điểm Truyền Sư.
22
Trong nghi thức cầu Đạo, Điểm Truyền Sư cần phải
thỉnh Chư Thiên Tiên Phật hộ pháp đàn, sau khi người
cầu Đạo lập nguyện xong, là bắt đầu có thể chỉ thọ,
truyền thụ Đại Đạo. Nếu đã tiễn đưa hộ pháp thần rồi
(ý nói 3 ngọn đèn tắt rồi), ở trong Phật Đường cũng
không được nói đến Tam Bảo, đây gọi là Thiên Cơ
không tiết lộ.
3. Ăn chay 3 ngày – Cảm tạ Thiên Ân
Hôm nay đắc thọ được Đại Đạo bảo quý này mà từ
xưa đến nay không dễ tương truyền, cần phải cảm kích
Ơn Trên từ bi giáng Đạo chi ân, càng biết thể nghiệm
được Ơn Đức hiếu sanh của Ơn Trên nên ăn chay giới
sát 3 ngày để biểu hiện lòng thành ý của mình.
4. Học Đạo tu bàn – Hiệu pháp thánh hiền
Cầu Đạo chỉ là nhập môn, sau này vẫn phải tiếp cận
Phật Đường nghiên cứu đạo lý, học theo tinh thần của
Thánh Hiền Tiên Phật, tinh tấn không lùi, tự độ mình và
độ người, lập nguyện liễu nguyện. Nỗ lực tu đạo bàn
Đạo, sau này Đạo thành trên trời, lưu danh tại thế.
23
SỰ THÙ THẮNG CỦA LONG THIÊN BIỂU
Câu chuyện về Hứa Truyền Doanh
Hôm nay, hậu học kết duyên cùng với quý vị đề
mục là: Sự thù thắng của Long Thiên Biểu –
Thiên Bảng ghi danh, Địa phủ xóa tên. Tác dụng
của Long Thiên Biểu ở dưới địa phủ, và sau khi dưới
địa phủ dùng qua Long Thiên Biểu rồi sẽ mang trở về
Thiên Đường, nhưng tên của chúng ta sẽ đặt ở nơi
nào trên Thiên Đường đây?
Hậu học lúc nhỏ sống ở Gia Nghĩa, gia đình rất
nghèo khổ, cho đến lúc 8 tuổi, vẫn còn chưa biết xin
tiền bố mẹ là gì, lúc nhỏ sức khỏe hậu học rất yếu, lúc
hậu học ra đời, mẹ tôi cho tôi uống sữa tôi đều không
uống, chỉ biết khóc thôi, sau này không còn cách nào,
đành phải lấy nước cháo gạo cho tôi ăn. Lúc đó cha
mẹ hậu học cảm thấy, thằng bé này không dễ nuôi,
nên đành đem tôi đến chỗ của Thím, giao tôi cho Thím
dạy dỗ và quản giáo (nhà Thím mở Phật đường và ăn
chay nhiều năm). Trải qua 8 năm, cho đến lúc hậu học
sắp phải đi học, cha mẹ tôi lại mang tôi về nhà. Lúc 8
tuổi hậu học vẫn còn rất đơn thuần, chưa bao giờ xin
qua tiền cha mẹ một đồng hay năm xu (huệ căn xá
mạng của tôi không biết ăn mặn)
24
Lúc nhỏ, có một lần tôi bị ốm, mẹ tôi dùng xe đẩy
em bé đẩy tôi đến bệnh viện Nhân Đức trên đường
Quốc Hoa huyện Gia Nghĩa, bác sĩ dùng một cái ống
tiêm rất lớn tiêm thuốc cho tôi, hậu học rất sợ hãi, liền
khóc lớn cho đến lúc tiên xong mới thôi, lấy thuốc xong
mẹ tôi lại dùng xe em bé đẩy tôi về nhà. Ở giữa đường,
đột nhiên ở phía góc Tây Bắc, xuất hiện cầu vồng bảy
sắc, đứng chính giữa là ba vị Tiên Phật Phước, Lộc, Thọ,
hai bên là Văn Bảo Đồng Tử, trên tay mỗi vị cầm một
cây quạt ba tiêu rất lớn, cứ hướng về phía hậu học mà
đi xuống. Hậu học lúc nhỏ có từng xem xiếc ca kịch,
lòng nghĩ sao lại có người ở giữa không trung diễn xiếc
ca kịch vậy! Khi họ càng ngày càng tiến đến gần thì lại
có một luồng hương thơm, từng đợt từng đợt mà thổi
tới, làm tôi cảm thấy ôi thật là thơm! Ba vị tiên Phước
Lộc Thọ cứ xuống đến trước mặt hậu học và nhìn chăm
chăm vào hậu họ, còn Vân Bảo Đồng tử ở hai bên thì ha
ha cười. Tôi cũng không biết họ là ai, cho nên hậu học
cũng cứ thế mà nhìn lại họ. Sau đó họ mới từ từ bay xa.
Từ sau khi ngửi mùi hương trầm đó, cả người tôi cảm
thấy rất là sảng khoái.
Sau khi mẹ tôi đưa tôi về nhà, tôi liền từ xe em bé
nhảy tót ra, mẹ tôi nói: “Con không được khỏe, sao lại
đứng dậy rồi?”
25
Tôi liền bảo: “Mẹ ơi, hồi nãy mẹ có thấy ba vị tôn lão
nhảy múa, người biết diễn xiếc cưỡi mây lướt gió, thật
là lợi hại quá trời!”
Mẹ tôi nói: “Đâu có đâu, má chỉ ngửi thấy một mùi
thơm thổi tới thôi, cái gì cũng không thấy cả”
Tôi nói với mẹ: “Có mà”
Lại một lần nữa trong tiết Thanh Minh, tôi lần đầu
tiên cùng với cha tôi đi tảo mộ, mộ của tổ tiên nhà tôi
ở Lam Đầm Gia Nghĩa. Tiết Thanh Minh có rất nhiều
người đều đi tảo mộ, tôi thấy mộ bia một dãy mộ dãy
nối nhau rất lấy làm hiếu kỳ, lại nhìn thấy một số
người đang đi cắt cỏ, có một số người thì đang cúng
bái, liền hỏi cha tôi.
Cha tôi nói: “Đây là chỗ sau khi người chết rồi chôn tại
đây.”
Hậu học hỏi: “Người sẽ chết sao?”
Cha tôi đáp: “Ừ, người sanh bệnh hay lớn tuổi rồi sẽ
chết, và sau khi chết rồi thì phải chôn ở nơi này.”
Hậu học lại hỏi: “Mọi người đều phải chết ư?”
Cha tôi nói: “Đúng vậy”.
26
Tôi lại hỏi: “Thế tại sao con vẫn chưa chết?”
Cha tôi đáp: “Con vẫn chưa già, làm sao chết được.”
Tôi nói: “ Cha ơi, thế tại sao cha vẫn chưa chết?”
Cha tôi nói: “Sức khỏe cha vẫn còn rất khỏe, đương
nhiên vẫn còn chưa chết rồi.”
Tôi lại hỏi: “Thế sau này mẹ và anh chị em của con đều
phải chết sao?”
Cha tôi nói: “Người có sống sẽ có chết, hôm nay dẫn
con đến cúng bà nội, bà nội con chính là chôn ở nơi
này, tám năm nay đều là mình cha đến, hôm nay là lần
đầu tiên dẫn con đến đây.”
Tôi nói: “Hôm nay thời tiết nóng như vậy, thế người
chết nằm dưới lòng đất không cảm thấy nóng sao?”
Cha tôi nói: “Chết đã chết rồi, làm sao cảm thấy nóng
chứ?”.
Tôi lại hỏi: “Họ chết rồi chả lẽ người nhà không cảm
thấy đau lòng sao?”
Cha tôi đáp: “Đúng vậy.”
27
Tôi lại hỏi: “Thế cha và mẹ họ chết rồi, thế người nhà
họ không còn được hưởng thụ niềm vui hạnh phúc gia
đình.”
Cha tôi nói: “ Đúng vậy”
Trong lòng tôi nghĩ nếu tôi chết rồi, cha tôi nhất định
sẽ rất đau lòng, người tại sao nhất định lại chết? Tại
sao không thể cứ sống mãi vậy? Vì thế cha tôi dắt vào
trong mộ thất, tôi không dám bước vào, bởi vì chân tôi
đạp trên đất, lòng bàn chân bị ngứa, mà còn nhận
thấy là đạp phải những chỗ lồi lên, ruột của người chết
sẽ bị chảy ra, cho nên tôi không dám vào trong mộ
thất cùng với cha tôi.
Lúc đó tôi nói với cha: “Bây giờ con phải chăm sóc
sức khỏe của con cho thật khỏe, đợi sau khi con
trưởng thành, con sẽ lấy rìu búa đem số người chết
này từng người từng người một moi lên, hỏi thử tại
sao họ lại chết? Anh không nên chết, anh phải về nhà
mà hưởng niềm vui gia đình.”
Từ đó về sau, tâm linh của tôi cảm thấy đau nhói.
Vốn dĩ không biết sanh tử là vật gì? Nhưng sau khi từ
nơi mộ thất về nhà, biết được người đều phải trải qua
cái chết. Về nhà rồi, tôi không dám ra khỏi nhà, mẹ tôi
28
cảm thấy rất là kỳ lạ, liền hỏi tôi: “Bình thường con
không phải rất thích chơi đùa hay sao? Tại sao bây giờ
lại không ra ngoài chơi vậy?”
Tôi trả lời mẹ: “Con sợ con ra ngoài chơi, lỡ như mẹ bất
cẩn chết đi rồi, con không biết phải làm như thế nào?”
Bắt đầu từ lúc đó, ở trong lòng tôi thường hay nghĩ
đến vấn đề sống và chết : Người tại sao phải chết? Tại
sao không thể tiếp tục sống chứ? Làm sao mới có thể
không còn sinh tử? Trong lòng cứ mãi tìm không ra
được câu trả lời. Từ đó về sau, cá tính của tôi trở thành
một người rất lập dị lẻ loi. (Từ đó có một tấm lòng
thương xót tội nghiệp cho người).
Có một ngày, tôi đang ngủ, ngủ đến nửa đêm, tôi đột
nhiên bò dậy, biến thành một đứa bé, tôi thấy bản thân
tôi nằm ở trên giường, lòng nghĩ: Đó không phải là tôi
sao? Tôi không phải là tôi sao? Thân thể động đậy một
chút, vậy mà có thể đi xuyên qua tường, tôi cảm thấy
rất là thú vị, cũng rất là sợ hãi, ngỡ tôi đã chết rồi. Lại
có một lần, nửa đêm khuya tôi lại thức dậy, liền chạy đi
ra ngoài chơi. Bên ngoài tôi nhìn thấy rất nhiều người,
có người xách lấy đầu đang chạy, có người ôm lấy chân,
có người cầm lấy tay, nhìn thấy rất nhiều loại người này.
Tôi cứ thế mà chạy, vậy mà chạy đến bên trong một
29
ngôi miếu, thì ra đó là Miếu Thành Hoàng của Gia
Nghĩa. (Vốn là linh hồn xuất khiếu).
Có một buổi tối nọ, bỗng nhiên tôi lại bò dậy, chạy
đi ra ngoài. Sau khi chạy được rất xa rồi, nhìn thấy phía
trước có một cây cầu đen, tôi cong lưng nhìn xuống,
dưới sông rất đen, đưa tay ra không thấy năm ngón,
nhưng chiếc cầu này đã nhiều năm không được tu sửa,
trong lòng đang do dự, không biết có nên qua cầu
không? Đột nhiên có một người, thân mặc áo cà sa, tay
cầm lấy cây thánh trượng (vốn là Địa Tạng Vương Bồ
Tát), ngài không nói với tôi lời nào, chỉ lấy tay chỉ về
phía cây cầu, và tôi liền chầm chậm đi qua chiếc cầu
đen, khi tôi quay đầu nhìn lại, thì không còn thấy người
tu hành đó nữa.
Qua khỏi cầu, nhìn thấy rất nhiều ruộng, còn có
những con đường nhỏ giữa ruộng, tôi liền men theo
con đường nhỏ giữa ruộng cứ thế đi về phía trước,
không biết đi được bao xa, có một khe cốc, nhìn thấy
một nhóm ông lão ở nơi đó tán gẫu, bởi vì tôi không
biết mình đang ở đâu, liền hỏi các ông lão: “Ông lão ơi,
đây là đâu vậy?”
Ông lão nói: “Sao con có thể đến đây được? Đây chính
là giới âm dương”.
30
Tôi nghĩ, vậy tôi không phải chết rồi sao? Vừa mới
nghĩ thế thôi, lòng tôi liền thấy sợ hãi, và lớn tiếng bật
khóc.
Ông lão nói: “Ở đây con cũng không còn cách về
nhà”.
Tôi lại hỏi: “Thế đằng trước là đâu vậy?”
Ông nói: “Phía trước là quỷ môn quan của Địa Phủ” Tôi
quay nhìn phía trước có một dãy thành rất là lớn.
Ở dương gian, chúng ta đều nghĩ quỷ môn quan có
quỷ tham ăn, quỷ chết đói, đều phải đợi đến tháng bảy
mới có thể ra mà đòi ăn. Nhưng ở quỷ môn quan, quỷ
ra ra vào vào rất là nhiều, không cần phải đợi đến tháng
bảy âm lịch mới mở cửa quỷ môn quan, mà là ngày
ngày đều mở cả. Lòng tôi nghĩ, đã đến rồi thì xem thử
xem rồi mới nói. Đến nơi quỷ môn quan, nhìn thấy rất
nhiều quỷ ra vào, mà đầu trâu mặt ngựa, ông bảy ông
tám dùng xích xuyên qua lưng họ kéo vào, và người
bước vào chân đều đeo xích, tay bị xích khóa, quỷ dạ
xoa ở đằng sau dùng cái xiên hoặc cây gậy để đánh kêu
số người đó đi vào; cũng có người bị chó đuổi cắn phải
chạy vào; cũng có người bị sừng trâu húc đuổi vào. Lúc
đó thấy được rất nhiều người, cũng có người đi bộ vào;
31
cũng có người dùng kiệu đưa vào. Lòng tôi nghĩ, người
ta vào, tôi cũng phải vào.
Bỗng nhiên có một người chạy ra, hỏi tôi: “Anh muốn
làm gì vậy?”
Tôi nói: “Tôi thấy người khác vào tôi cũng muốn
vào.”
Hắn nói: “Thí chủ, anh vẫn chưa chết, dương khí
nặng như vậy, làm sao có thể đến đây được?”
Tôi nói: “Họ có thể vào được, tại sao tôi không thể
vào?”
Hắn lại nói: “Đây là quỷ môn quan, không phải là nơi
vui chơi, sau khi anh vào rồi sẽ không ra được giới âm
dương.”
Lúc này có một người thân mặc y phục phán quan,
tay cầm bút chu sa và một quyển tập chạy ra ngoài và
nói: “Tinh quân, tôi phục mệnh Thập Điện Diêm Vương,
mời ngài vào”
Tôi nói: “Tôi không phải là Tinh quân, tôi họ Hứa.”
Phán quan nói: “Tinh quân à, Thập Điện Diêm Vương có
lệnh mời” Liền có một đám người đưa tôi mời vào trong.
32
Tôi nhìn thấy số người lúc nãy qua cửa quỷ môn
quan, thì có người nói với họ nghỉ ngơi một lát, sau đó
bắt đầu phát thẻ bài. Có số người thẻ bài đen, có số
người thẻ bài trắng. Người lấy được thẻ bài đỏ trên thân
liền phát ra khí hồng, người lấy được thẻ bài đen trên
thân liền phát ra khí đen… Sau khi nhóm người đó phân
chia ra rồi, không xa lắm có rất nhiều căn phòng, người
thẻ đỏ thì đi vào phòng đỏ, người thẻ đen thì bước vào
phòng đen. Người cầm thẻ đen ai nấy đều chau mày ủ
rũ, lính quỷ mới nói: “Các ngươi ở trần gian đều làm
toàn những việc xấu, đi qua thập điện các ngươi sẽ phải
chịu khổ thôi!” Người cầm thẻ đỏ khuôn mặt rạng rỡ,
lính quỷ đều đối với họ rất tốt, bởi vì họ ở trần gian đều
làm rất nhiều việc thiện. Còn người cầm thẻ vàng, là
người quy y niệm Phật, và phía sau căn phòng có Tiên
Phật đang giảng kinh, họ muốn nghe kinh gì thì có thể
đến đó nghe kinh đó.
Lại có người trên đầu có một chấm màu trắng giống
như là nước bốc hơi, tôi liền hỏi: “Đó là cái gì?” Họ nói:
“Đó là họ lúc còn tại thế, thụ được Minh Sư nhất chỉ
điểm nhưng lại không biết tu hành, không công không
tội cũng không lỗi, cho nên đến nơi này, đều là nước
bốc hơi, cũng không cách nào kết thành một vầng
quang trắng. Tôi lại hỏi: “Thế họ tới đây để làm gì?” Họ
33
nói: “Đây không cần đi qua thập điện, trực tiếp đến chỗ
nơi Địa Tạng Vương Bồ Tát”
Sau đó tôi theo họ đi về nơi điện thứ nhất. Con
đường đó một bên là vách núi cheo leo, một bên là
vách núi dựng đứng, chỉ có thể đi song song được hai
người, tôi và phán quan liền men theo con đường núi
mà đi thẳng vào. Đột nhiên nghe thấy rất nhiều người
đang la “Cứu mạng!” tôi ngước đầu nhìn lên, thấy phía
trước có một vùng đất trống rộng lớn, có một số lính
quỷ cầm lấy cái xiên cứ đuổi chạy, còn một số phạm
nhân bị dây xích buộc lấy chân thì gấp rút bỏ chạy,
người chạy chậm, thì bị quỷ sai dùng cây xiên chỉa
vào, từ từ rồi rớt xuống dưới, mà ở dưới đó là hang
động của rắn và chó thép cắn đau đớn gào thét, phán
quan nói đây gọi là địa ngục động rắn chó thép. Bỗng
nhiên có một đám quỷ hồn, tay đeo xích, chân đeo
kiềng đang bị quỷ sai truy đuổi, đang chuẩn bị chạy
trốn.
Tôi liền nói với phán quan: “Thê thảm rồi, con đường
này chỉ có thể đi song song được hai người, nhưng
phía trước đang có mấy trăm người đang chạy về phía
chúng ta, lỡ như bất cẩn, sẽ đổi lại là hai chúng ta rơi
34
vào địa ngục động rắn chó thép, chúng ta mau mau
chạy nhanh thôi.”
Tôi vừa nói dứt lời, đám người đó đã đến trước mặt.
Đám người đó vừa thấy phán quan liền nhanh chóng quỳ
xuống lạy, phán quan nói: “Các ngươi phạm tội, còn…”
Đám người đó cứ gào kêu: “Cứu mạng, cứu mạng!”
Tôi nói: “Các ngươi sao kêu cứu mạng?”
Họ nói: “Lần này chúng tôi bị bắt trở về, không chỉ chịu
những hình phạt này thôi, chúng tôi còn phải chịu hình
phạt địa ngục cắt lưỡi, địa ngục cắt tim,… bọn chúng tôi
đã lấy hết toàn bộ dũng khí mới bỏ chạy ra ngoài, anh
phải cứu giúp chúng tôi.”
Tôi nói: “Tôi tự thân mình còn không giữ, làm sao cứu
các vị đây?”
Tôi liền hỏi phán quan: “Đây là việc như thế nào?”
Phán quan đáp: “Đây là linh hồn của người sau khi
chết, những người này lúc còn tại thế, không ráng cố
gắng làm người tốt, có người thì bán dâm, có người thì
mở sòng bạc, có người thì cướp của chém giết đều bị
chịu hình phạt dưới địa ngục động rắn chó thép, hôm
35
nay không biết lý do gì, đều chạy ra đây hết, một khi bị
bắt trở về, chết là cái chắc.”
Lòng tôi nghĩ, lúc trước đã từng nói qua: “Sau này
trưởng thành sẽ bắt họ từng người từng người một từ
trong mộ mà quật dậy, để họ trở về nhà hưởng thụ
niềm vui hạnh phú gia đình. Và bây giờ họ đang ở
trước mặt tôi cần cứu tôi, nếu tôi không cách nào giúp
họ, thì….”
Tôi liền nói: “Tôi hôm nay nếu có thể cứu các vị, là
tôi bây giờ phải nhảy vào địa ngục rắn chó thép.” Khi
tôi vừa nhảy vào địa ngục rắn chó thép, đột nhiên một
đóa hoa sen trắng nhô ra, và đám phạm nhân nhìn
thấy đóa hoa sen trắng đó, tấp nập nhảy lên đóa hoa
sen trắng, hoa sen trắng đó phát ra bảy màu sáng
chói, bao vây cả địa ngục rắn chó thép, rầm một tiếng
toàn bộ đều không thấy, lúc này bốn bề tĩnh lặng như
cũ.
Nhưng quỷ sai lại kêu lên: “Thôi rồi, thôi rồi!” Tôi hỏi
sao vậy? Phán quan đáp rằng: “Hôm nay họ để cho
phạm nhân chạy thóat ra khỏi địa ngục động rắn chó
thép, họ (chỉ quỷ sai) sẽ bị chịu cực hình.
36
Tôi nói: “Chi bằng tôi để cho Diêm Vương thẩm phán
tôi được rồi! Đám người đó (Chỉ phạm nhân) chạy đi đâu
mất rồi?”
Phán quan nói: “Họ đã đi đầu thai rồi.”
Tôi nói: “Hay là các ông liệng tôi xuống đó đi!” Cho nên
là tôi đã theo họ đến nơi điện thứ nhất của Tần Quảng
Vương.
Lúc này Tần Quảng Vương đang phán xét, quỷ dạ xoa
liền bẩm báo Tần Quảng Vương: “Phạm nhân đã chạy
mất rồi.” Đột nhiên có một lính quỷ bắt một phạm nhân
liệng xuống đất, mặt đất vốn dĩ trống rỗng không có
một vật, nhưng lại xuất hiện một chảo dầu, cho phạm
nhân vừa rơi vào chảo dầu tức khắc liền bị cháy khét.
Tôi thấy cảnh tượng này, cảm thấy rất sợ hãi.
Sau khi tôi bước vào trong, Tần Quảng Vương liền nói: “
Bây giờ hãy tạm ngừng hình phạt.” Tiếp đó lại hỏi: “Từ
xưa đến nay, chưa bao giờ phát sinh sự việc phạm nhân
chạy ra khỏi địa ngục rắn chó thép, tại sao hôm nay lại
xảy ra điều này?”
Lính quỷ nói: “ Bởi vì chúng nó bạt mạng mà chạy, lại
thêm gặp vị thí chủ này, chúng nó liền quỳ xuống cầu
cứ anh ta, không ngờ rằng anh ta lại tự mình nhảy vào
37
động rắn chó thép, lúc đó vậy mà lại nhô hiện ra một
đóa sen trắng, và đám phạm nhân đó vừa thấy hoa sen
trắng phát ra màu sắc sáng chói, chen nhau nhảy xuống
theo, trong chốc lát thì không còn thấy gì cả.”
Tần Quảng Vương hỏi tôi: “Đây rốt cuộc là như thế
nào? Bởi vì lúc đó tôi còn nhỏ đã từng phát ra lời
nguyện, tôi chẳng qua là muốn họ được sống trở lại,
có thể cùng với người nhà họ đoàn tụ, nhưng tôi
không làm được, cho nên mới nhảy xuống động rắn
chó thép, đây đều là lỗi của tôi, ngài không nên trách
họ”
Tần Quảng Vương nói: “Đây chẳng lẽ lại là ý trời sao,
ta sẽ tâu rõ với Ngọc Hoàng Đại Đế.”
Bỗng nhiên Tần Quảng Vương nói với tôi: “Cậu hãy
ngồi ở đây một lát” quay qua kêu gấp tên quỷ sai nói:
“Ở dương gian có một người, dương thọ đã tận, hắc
bạch vô thường, ông bảy ông tám hãy mau bắt người
đó về.”
Tôi liền hỏi: “Tôi có thể đi cùng được không?”
Tần Quảng Vương nói: “Được”
38
Thế là tôi cùng ông bảy ông Tám cùng nhau xuất
phát. Họ cứ loay hoay ở Đài Trung, bởi vì lúc đó đúng lúc
7,8 giờ tối, nơi đó có rất nhiều người đang cùng nhau
tán gẫu, nghe được tiếng dây xích, lập tức xôn xao núp
lên. Đột nhiên ông bảy ông tám đến trước một căn nhà
ngói liền dừng lại, hai người đó đứng ở cửa không nhúc
nhích, tôi cảm thấy buồn chán, nên đi vào bên trong nhà
xem thử, một bà cụ đang nằm trên giường, và con trai
bà đang ở bên cạnh niệm kinh cho bà nghe.
Ông bảy đứng đó không động đậy, ông tám liền hỏi: “tại
sao không vào bắt người?”
Ông bảy nói: “Người con đang ở đó niệm Di Lặc Chân
Kinh, và trên đầu người đó có một điểm sáng.
Diêm Vương đã từng nói qua: “Người tụng kinh đều là
người thiện, và đầu người này có điểm sáng, chứng tỏ
đã được Pháp Sư điểm qua. Phải đợi anh ta đọc xong
kinh mới có thể bắt người.”
Chúng tôi cứ thế mà đợi, cho đến vượt qua thời gian,
mới toàn bộ trắng tay quay về địa phủ, Tần Quảng
Vương hỏi: “Người đã bắt về chưa?”
Ông bảy ông tám liền đáp: “Dạ chưa bởi vì con trai của
người đó đang niệm kinh Di Lặc, không phải ngài đã nói
39
qua, phàm là người đang niệm kinh, hoặc là người đang
giảng đạo lý và trên đầu có điểm sáng, đều không được
bắt sao? Nếu con bắt há chẳng phải phạm vào thiên quy
sao?”
Tần Quảng Vương nói: “Thế thì ngày mai lại đi bắt”
Tôi liền yêu cầu cho tôi có thể được đi cùng, cho tới
khi giải quyết xong vụ án này
Hôm sau ông bảy ông tám nhận lấy chỉ dụ, lại đến
trước cửa nhà người đó, bởi vì hôm qua tiếng dây xích
leng keng rất lớn, cho nên bà con láng giềng người
nhà của ngôi nhà này có chuyện không tốt xảy ra, cho
đến chạng vạng tối, hàng xóm mới xôn xao rời khỏi.
Và con trai của bà cụ đó nghĩ, mẹ mình đang lâm bệnh
nặng, chẳng lẽ,… Kết quả là ông bảy ông tám vẫn phải
đứng trước cửa không động đậy, thì ra con trai của bà
lại đang đọc Di lặc Chân Kinh, vẫn không thể bắt
được, Tần Quảng Vương lại hỏi: “Bắt về chưa?”
Ông bảy ông tám đáp: “Vẫn chưa”.
Tần Quảng Vương hỏi: “tại sao không bắt?”
Ông bảy ông tám nói: “ Bởi vì con trai người đó vẫn
đóc Di Lặc Chân Kinh.” Lúc này tôi rất hiếu kỳ, liền hỏi
Tần Quảng Vương: “Tại sao người đọc Di Lặc Chân
40
Kinh, trên đầu anh ta có một điểm sáng thì không bắt
được?”
Tần Quảng Vương nói: “Đây là nguyên nhân, ở dương
gian có một vị Pháp Sư, phàm là người được Pháp Sư chỉ
điểm, ắt sẽ được Thiên Bảng Ghi Danh, Địa Phủ Xóa
Tên.” Trong lòng tôi nghĩ là không tin, nhất định phải
làm rõ chuyện này.
Đến ngày thứ 3 tôi lại đi cùng. Hôm đó ở Đài Trung
có một vị Pháp Sư đột nhiên nghĩ tới con trai của bà cụ
này đã lâu không đến Phật Đường, rốt cuộc là như thế
nào? Qua sự hỏi thăm, mới biết là do mẫu thân mắc
bệnh, và dạo gần đây hàng xóm thường nghe tiếng dây
xích kêu leng keng, có thể địa phủ muốn đến bắt người,
anh ta sợ mẹ mình xảy ra chuyện không may, liền cứ thể
túc trực bên cạnh mẹ. Sau khi Pháp Sư biết được, liền
dắt nhiều người đến nhà bà cụ giảng đạo lý, và khi ông
bảy tám đang định đến bắt người, không ngờ rằng con ở
xa mấy trăm dặm đã dừng chân lại không dám đến gần
nữa. Thì ra khí thiện của số người đó quá mạnh, cả ông
bảy ông tám cũng không dám tới gần. Lần thứ 3 ông bảy
ông tám lại trắng tay trở về! Hôm sau Pháp Sư liền phái
người đến đón bà cụ về Phật Đường cầu đạo, ông bảy
41
ông tám không biết còn đang đợi Tần Quảng Vương hạ
lệnh bắt người.
Tần Quảng Vương nói: “Hôm nay người này đắc
Đạo rồi, có thể Địa Phủ rút tên, Thiên bảng ghi
danh, không cần phải đến địa phủ thọ hình
nữa.” Lúc này trong lòng tôi phát ra tia sáng, biết
được ở dương gian có Pháp Sư có thể truyền Đạo, sau
khi đắc Đạo, thì có thể thoát ra khỏi luân hồi tam giới.
Lại có một lần, Diêm Vương đang phán xét vụ án,
đột nhiên Tam Quan Đại Đế phái người giá đáo, Diêm
Vương liền ra ngoài đón tiếp, người đến cầm lấy một
tờ Long Thiên Biểu, đọc nội dung của tờ Long
Thiên Biểu. Chúng ta ở trần gian nhìn thấy Long
Thiên Biểu là tờ giấy rất nhỏ, nhưng mà Long Thiên
Biểu ở dưới Địa Phủ to bằng mấy ngôi nhà.
Sau khi Diêm Vương tiếp biểu, liền kêu phán quan lấy
sổ sinh tử qua. Tiếp đó liền dựa theo tên tuổi ghi trên
tờ Long Thiên Biểu, đem tên người đó ở trong sổ
sanh tử gạch bỏ đi. Sổ sanh tử làm bằng tre, to lớn
giống như núi vậy. Tôi rất hoài nghi, hỏi Diêm Vương,
đây rốt cuộc là chuyện như thế nào vậy?
42
Diêm Vương nói: “Khoan đợt lát đã, đợi tôi gạch xong.”
Gạch tên xong rồi, lại phát một mệnh lệnh ở trong địa
phủ, ngoài thập điện không được xá và kẻ giết người đốt
nhà ra, chỉ cần người có con cháu đã được xóa tên
trong sổ sinh tử, từ nay về sau đều được miễn tội
cực hình dưới địa phủ.
Có câu nói: “Nhất tử đắc Đạo, cửu huyền thất tổ
đồng được chiêm quang (thơm lây), nhất tử thành
đạo, cửu huyền thất tổ được siêu thăng.” Bởi vì
con cháu họ đã cầu được Đạo, cho nên họ có thể chiêm
quang. Diêm Vương sẽ đem tổ tiên của số người cầu
Đạo, toàn bộ triệu tập đến trước điện Diêm Vương, đích
thân chúc mừng họ. Bèn nói với họ: “Từ nay về sau
các người không cần ở trong thập điện chịu thọ
cực hình nữa, bởi vì con cháu của các ngươi đắc
được Đạo, Đạo là… Ân trên Lão Mẫu giáng xuống.
Trên độ hà hán tin đẩu, trung độ nhân gian thiện
nam tín nữ, dưới độ địa phủ U Minh. Hôm nay con
cháu các ngươi đắc Đạo, các ngươi không cần lại
địa phủ thọ hình, một người phát một đóa hoa sen
trắng, từ giờ trở đi các ngươi có thể đến chỗ Địa
Tạng Vương Bồ Tát nghe kinh”.
43
Chỗ Địa Tạng Vương Bồ Tát có một giảng đường
giảng kinh thuyết pháp, ở nơi đó sẽ phân vong hồn
người mất ra ba cấp bậc. Cấp thứ ba là con cháu đắc
được Đạo, Long Thiên Biểu sẽ do Tam Quan Đại Đế
phái người đưa đến Địa Phủ, tên của người đó trong
sổ sinh tử sẽ được xóa bỏ, Cửu Huyền Thất Tổ không
cần ở dưới địa phủ thọ cực hình, và trên thân mỗi
người gắn một đóa sen trắng, đến phòng nghe kinh
của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nghe Địa Tạng Bồ Tát
giảng kinh thuyết pháp, nhưng không có ghế để ngồi.
Sau khi tu đạo tận tâm tu hành một thời gian, cửu
huyền thất tổ của mình sẽ được vào nơi địa phủ dành
cho vong hồn cấp thứ hai; nếu như trì chay hoặc thiết
lập Phật Đường, trở thành Đàn Chủ, cửu huyền thất tổ
sẽ được vào nơi địa phủ dành cho vong hồn cấp thứ
nhất, do đích thân Địa Tạng Vương Bồ Tát giảng kinh
thuyết pháp.
Lúc tôi đến giảng kinh đường của Địa Tạng Vương
Bồ Tát, thấy được một số người, đầu cứ cúi thấp
xuống, tôi cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi họ: “Quý vị đến đây
nên phải mừng chứ! Tại sao cúi đầu xuống vậy?”
Họ đáp: “Chúng tôi đến đây là rất vui mừng,
con cháu ở dương gian có thể đắc được Đạo, thọ
44
Minh Sư chỉ điểm, nhưng chúng nó sau khi tu
được mấy năm, trở thành tay lỗi đời, lười biếng,
tôi cảm thấy ngại quá, đầu mới cúi xuống đó.”
Tôi hỏi họ: “Tại sao không báo mộng cho con cháu
biết?”
Họ nói: “Không được, chúng tôi muốn báo mộng 5 phút
phải cần rất nhiều công đức để đổi lấy, lỡ như chúng nó
vẫn không hiểu, tôi há không phải uổng hết công đức
sao? Nhưng tôi vốn đã vô công vô đức, làm sao dám tùy
tiện dùng công đức đi đổi chứ!”
Tôi liền nói với họ, tôi nhất định sẽ đem tin tức của
vong linh cấp thứ ba này truyền ra ngoài. Nhưng Diêm
Vương lại không cho tôi biết, ở dương gian nơi nào có
Pháp Sư (Điểm Truyền Sư) có thể truyền Đạo. Tôi cứ
cho rằng Pháp Sư nhất định là người xuất gia, cho nên
tôi tìm khắp chốn Gia Nghĩa cũng đều không tìm thấy
được Đạo
Một ngày tôi lại đi ra ngoài tìm Đạo, tôi từ Gia Nghĩa
đến Quan Tử Lĩnh, đi qua Thiên Thảo Phủ đến nơi Đại
Tiên Tư, liền hỏi các tăng ni trong chùa: “Các ngài có
Đạo không?”
45
Họ đáp là: “Đạo hả?” (chữ Đạo tiếng Đài cùng âm là ý
nói đạo giống, hạt giống).
Tôi nói: “Không phải cái đó , tôi muốn hỏi, cái Đạo mà
Pháp Sư sau khi giúp người ta một điểm thì có thể
Thiên Bảng ghi danh Địa Phủ rút tên cơ.”
Tôi cứ thế đợi đến trời tối mới về nhà, hòa thượng
trong chùa muốn lưu tôi ở lại nói: “Trời tối rồi, đường
núi khó đi, anh không sợ sao?”
Tôi nói: “Không sợ, sơn thần của các vị sẽ bảo vệ tôi.”
Nói xong rồi tôi liền xuống núi. Tôi cứ vậy đi khắp nơi
tìm Đạo, tìm Minh Sư
Trải qua 18 năm, sau khi tôi đi lính trở về, ở Tân Á
làm việc, thường chuẩn đoán bệnh cho toàn tỉnh. Một
ngày nọ, đột nhiên tôi nằm mơ thấy 18 vị thiên nhân
vác lấy ngôi nhà bốn tầng lầu.
Tôi hỏi: “Đây là cái gì?”
Họ nói: “Đây là oan nợ”
Tôi lại hỏi là: “Oan nợ của người nào sao mà nặng như
vậy?”
Họ nói: “Đây là oan nợ của anh.”
46
Tôi lập tức nói: “Không phải, không phải, tôi một đời ăn
chay, lại không có làm 10 việc ác không thể tha, tại sao
lại có nhiều oan nợ như vậy?”
Họ nói: “Đó là anh gánh giúp người khác.”
Tôi nói: “Nếu là oan nợ của tôi, tôi tự gánh lấy được
rồi!”
Họ nói: “Anh gánh không nổi, Lão Mẫu hạ chỉ cần gánh
các oan nợ của anh đi về.” Sau đó tôi liền tỉnh dậy.
Một ngày, có một người bạn kiếm tôi đi Đẩu Lục
chuẩn bệnh. Mùng 02 tháng 07 mới đi Đẩu Lục, ngày
hôm đó đúng lúc có bão lớn, tôi tan ca xong đến Đẩu
Lục đã hơn một giờ mấy rồi. Tôi còn nhớ hôm đó là đội
Thất Hổ đánh bóng chày, nói với người bạn là năm giờ
sáng nhớ kêu tôi dậy đánh bóng chày. Sau khi ngủ thì
liền biến thành một đức bé, thân đeo ruy băng, linh hồn
lại xuất khiếu rồi.
Từ trên giường ngồi dậy, mỗi một bước đều có hoa
sen, đi qua một cái biển rộng, lại đi qua một dãy đất
hoàng kim, bên cạnh là những hoa quả kỳ lạ, đột nhiên
đến một nơi đại điện, có sáu vị tiểu đồng đang ở đó
quét nhà.
47
Chúng nó nhìn thấy tôi liền nói: “Sư huynh về rồi hả?”
Tôi nói: “Các cậu là người nào vậy?”
Tiểu đồng nói: “Huynh mới đi xuống dưới có một tiếng
mấy đồng hồ thôi, về đến nhà liền quên hết các tiểu
đệ rồi!”
Chúng nó nói với tôi: “Chân nhân đang ở bên trong,
ngài muốn gặp huynh”
Tôi đi vào, bên trong rất lớn, hai bên có rất nhiều vị
thần đứng, nhưng chính giữa có ba ngọn đèn Phật,
ngay giữa điện có một người ngồi đó, toàn thân phát
ra luồng ánh sáng.
Tôi liền hỏi: “Ngài là ai? Tại sao tôi có thể đến nơi này”
Ngài nói: “Ta hôm nay rất là vui mừng”
Ngay tức khắc ha ha cười lớn, tôi cũng ha ha cười
theo. Ngài lại nói: “Ta là Thái Dương Chân Quân” Sau
đó tôi liền tỉnh dậy.
Dân quốc năm 68 mùng 03 tháng 07 ngày bão táp,
mưa gió rất lớn không cách nào đi chẩn bệnh được.
Người bạn liền nói dẫn tôi đi một nơi này, thì ra là
Tiên Thiên Phật Đường, Điểm Truyền Sư liền bẩm
báo Lão Tiền Nhân, sau khi Lão Tiền Nhân đồng ý,
48
mới bắt đầu bàn Đạo. Khi Điểm Truyền Sư cầm tờ
Long Thiên Biểu, hỏi tôi là: “Anh biết tờ Long Thiên
Biểu này không?”
Tôi nói: “Biết, tờ Long Thiên Biểu này là của Địa Phủ.
Ở dưới Địa Phủ là một tờ rất là to lớn, sao ở nhân gian
lại nhỏ như vậy?”
Ngay lập tức liền quỳ xuống, thành tâm cầu xong Đạo.
Khi đèn Phật vừa được thắp lên, vốn dĩ là mưa gió tầm
tã, đột ngột có ánh mặt trời chói chang, mây đen đều
không còn nữa. Một giờ mấy Điểm Đạo, tôi vốn đang
nhìn Điểm Truyền Sư ở trước mắt, lại biến thành
Tế Công Lão Sư, đến trước mặt tôi, điểm một điểm lên
trán, đột nhiên có một luồng ánh sáng phát ra, lại
nhanh chóng đậy lại, cả Tế Công Lão Sư cũng không
nhìn thấy nữa, cho đến khi nói xong Tam Bảo, trời lại
tiếp tục mưa bão đan xen lẫn nhau.
Sau khi cầu Đạo, một ngày nọ, tôi lại đi ra ngoài
chẩn bệnh cho người ta, vì quá mệt, nên đã thiếp đi.
Bỗng nhiên có một vị Tiên Phật đến, kêu tôi thúc
dậy, cầm một chiếc đạo bào (áo dài), một đôi dép kêu
tôi mặc vào. Tôi nhìn sơ thấy chiếc áo quá lớn, quả
thật không quen. Ông lại lấy một tòa linh long tháp
49
bảy tầng cho tôi, đeo linh long tháp vào, trong tích tắc
người tôi bỗng biến thành một người cao to, chiếc đạo
bào cũng trở nên vừa thân, tôi tức khắc liền theo chân
Quan Thế Âm Bồ Tát, đi với tốc độ rất nhanh, phong
cảnh hai bên đều không nhìn rõ,… đến nơi Cửu Cửu
Tử Dương Quan, bên ngoài có rất nhiều người đang
xếp hàng. Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát họ đang làm
gì? Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Họ đang đối chiếu Tam
Bảo.” Sau khi cầu Đạo nếu quên Tam Bảo thì sẽ
không được qua Cửu Cửu Tử Dương Quan này.
Quan Thế Âm Bồ Tát liền cùng tôi đi qua Cửu Cửu Tử
Dương Quan.
Sau khi từ Nam Thiên Môn vào, Thiên Đình có
124 Thiên Ngục, bên trong có một cái gương soi sám
hối chiếu qua, toàn bộ hiện ra đều rõ hết. Nếu như trải
qua ba ngày ba đêm mà người đó vẫn không giác ngộ
được, nhân quả ba đời của người đó sẽ hoàn trả lại
cho người đó; nếu có thể giác ngộ, thì xem như qua
được cửa ải này.
Ở Cửu Cửu Tử Dương Quan, nếu như không qua
được sắc quan (cửa ải về sắc đẹp), thì cần phải ở đó
tu luyện; còn có đỗ quan (cửa ái đánh bạc), vừa bước
vào có rất nhiều dụng cụ đánh bạc, nếu không có ý
50
niệm cờ bạc, thì có thể qua cửa. Sau khi trải ba ngày
ba đêm, thì có thể qua Phong Vương Thiên Ngục, nếu
không có tà niệm, thì có thể dễ dàng qua được, nếu
tạp niệm vừa khởi, Phong Vương sẽ qua đó trừng mắt
truy hỏi người đó, đây chính là đang luyện tánh của
chúng ta. Cho nên ở Cửu Cửu Tử Dương Quan là
để tu luyện tính khí của người tu hành.
Qua được Cửu Cửu Tử Dương Quan, nhìn thấy
một tòa đại điện. Trên cột rồng là rồng thật đang đi,
bức hoành trước cửa viết chữ “Vô Cực Cung”. Vô Cực
Cung rất lớn, Quan Thế Âm Bồ Tát dẫn tôi vào đó trong
đó có rất nhiều người đang ăn cơm, đang ăn đào tiên.
Đào tiên vào miệng thì không còn, nhưng mùi vị rất là
thơm. Chính giữa có một người ngồi trên ghế đầu rồng,
tay cầm lấy cây gậy đầu rồng, tôi đều không thấy rõ
hình dáng của người đó, hào quang của ngài rất chói,
ngài ngồi đó cứ khóc suốt, tôi đã từng nghe qua:
“Nguyên tử tạo, diệt nguyên tử”
Tôi liền nói: “ Người này tạo sao cứ khóc hoài?”
Lúc này Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đây chính là vị sinh
trời, sinh đất, sinh linh tánh của chúng ta,… Vô Cực
Lão Mẫu!”
51
Sau khi bái qua ngài, tôi nhìn thấy có người đang ăn
đào tiên, tôi cũng muốn ăn. Quan Thế Âm Bồ Tát liền
nói: “Muốn ăn thì nói với Lão Mẫu”.
Tôi lập tức nói ngay: “Lão Mẫu con muốn ăn Đào
Tiên”.
Sau khi Lão Mẫu kêu người một ly nước quỳnh tương
ngọc cho tôi uống vào, cả người tôi cảm thấy rất mát
mẻ thoải mái.
Tôi lại nói: “Cho con thêm một ly”.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Sao con tham vậy”
Tôi nói: “Con không biết, con muốn uống”.
Lúc này có mấy vị đồng tử ôm ra một hủ cho tôi, tôi
liền gấp đổ ra một ly, vừa uống vào liền nói: “Con
không uống, con không muốn uống”.
Bởi vì trong đó đã hỗn hợp các mùi chua ngọt đắng
chát, rất khó uống! Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Không
thể không uống được”
Liền kêu người bắt giữ lấy tay chân tôi, bóp lỗ mũi tôi
ép đổ vào bắt tôi phải uống. Tôi khóc một mạch đột
nhiên tôi nhìn thấy một người có gương mặt em bé,
bụng thì bự bự, thân mặc chiếc áo giáp, cứ ha ha cười
52
liên tục, tôi cũng theo ông ấy ha ha cười, thì ra ông
chính là Di Lặc Tổ Sư.
Lão Mẫu nói: “Con chưa từng đến đây, tham quan
xong rồi với trở về nhé!”
Quan Thế Âm Bồ Tát dẫn tôi tham quan khắp nơi,
sau đó mới quay trở về. Đi đến một nơi, ở đó đều là
mây mù, cả Quan Thế Âm Bồ Tát tôi cũng nhìn không
thấy.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Mắt của con đương nhiên là
nhìn không thấy rồi”.
Liền nhỏ mấy giọt vào nước mắt của tôi, tầm nhìn của
tôi như phóng hào quang. Nhìn thấy mọi người đang
diễn xiếc, rồng phía trước, phụng phía sau, lại có kỳ lân,
cũng có tiên nữ thả hoa, quá thật là rất đẹp!
Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: “Con sớm nên đến đây
xem mới phải.”
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Muốn xem cái này, sau khi
tam tào phổ độ, ở đây sẽ mở một Đại hội Long Hoa,
mỗi một người đều có thể đến đây, sau khi ăn đào tiên
vạn Tiên vạn Phật Bồ Tát đều có thể đến nơi này.”
53
Sau đó lại đến một nơi, tôi liền bước vào, vừa mở
cửa ra, thì ra là điện Công Đức của Thiên Đường, các
thẻ bài đó đều rất lớn a! Có số thẻ bài chỉ có một điểm
sáng, có số thẻ bài thì rất sáng, có số lại nửa sáng nửa
tối, có số lại một chấm một chấm đen đen.
Tôi liền hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: “Đây là cái gì? Tại
sao lại chỉ có một điểm sáng?”
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là những người họ ở
dương gian đắc được Đạo nhưng không có tu.”
Tôi lại hỏi: “Thế một chấm đen đen đó là gì?”
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là ở Dương gian sau khi
đắc Đạo, lại làm việc xấu, làm một việc xấu ắt sẽ chấm
một chấm đen vào, sau này trở về trời sẽ tính tội sau”
Tôi lại hỏi: “Thế nửa sáng nửa tối là như thế nào?”
Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là cầu đạo rất nhiều
năm rồi, vẫn không biết trì chay thọ giới, thiết lập
Phật Đường.”
Thế nào thẻ rất sáng thì như thế nào? Quan Thế Âm
Bồ Tát nói: “Đó là những người thiết lập Phật Đường
và rất thành tâm tu Đạo, sau này đều là chứng quả Bồ
Tát”
54
Hôm nay ở dương gian đắc được Đạo, thọ Minh Sư
nhất chỉ điểm, có thể Thiên Bảng ghi danh Địa phủ rút
tên, sau này chúng ta ở Thiên đàng mở đại hội Long
Hoa, thì sẽ có thể nhìn thấy thẻ bài của chúng ta ở trên
đó. Hy vọng các vị tiền hiền đều có thể thành tâm
hướng Đạo, bớt sát sanh nên hành nhiều công đức, sau
này thẻ bài của chúng ta sẽ phát sáng hào quang.
55
ĐẠO NGHĨA THAM KHẢO
1.Cầu Đạo có lợi ích gì?
Đạo là đại lộ, vốn là con đường chính để trở về Tây
Phương cực lạc của thiên đường nhưng không phải là
con đường của con người ở dưới phàm trần, không
phải con đường lạc vào khổ ải, càng không phải là con
đường đọa lạc vào luân hồi, con đường này ở đâu
đây?
Người ngộ thấu sẽ ở gần ngay trước mắt, một
bước có thể trực siêu, người mê muội sẽ ở xa xôi
180.000 dặm, tải qua ngàn vạn lần trầm than luân hồi,
vẫn không thể tìm ra được con đường chính này, tuy
đã mấy chục ngàn năm rồi, cũng không đi đến được
con đường kỳ diệu bí mật nhất này nhỉ! Thì ra con
đường này là ở trong bản tánh của con người chúng
ta, đến từ nơi Lý Thiên. Lúc đến ở Lý Thiên gọi là
chân lý vô cực, được giao phó vào trong thân người,
thì gọi là Tính, chính là “Tính Lý”. Khi đến đã từ nơi
đó mà đến, khi về cũng phải trở về lại nơi đó. Đó
chính là sinh ra chết đi của con người, cần phải theo
chân kinh chính lộ, cho nên lại xưng gọi là “Đạo”,
nguyên nhân chính là như vậy.
56
Khổng Tử nói: “Ai có thể ra vào nhà mà không
từ cửa, há có thể tìm ra được con đường Đạo.”
Cũng chính là ý đó. Nói cách khác, chính là đi tìm lại
lương tâm thiên lý của bản tánh. Mạnh Tử nói: “Đạo
của học hỏi là không có cái gì khác, cầu được lòng
yên tâm này là đủ rồi”. Nếu như cầu được “Chân
Đạo Tính Lý” này thì có những điều tốt gì?
 Có thể siêu sanh liễu tử
Siêu sanh liễu tử là ý nghĩa gì? Chính là thoát ra khỏi
âm dương, nhảy ra khỏi ngũ hành, thoát khỏi luân hồi,
đi đến cực lạc. Tránh khỏi phải sanh tử khổ hải.
Sao lại phải cầu siêu sanh liễu tử? Bởi vì việc sanh tử
này, đều không phải là việc tốt, dương thế âm phủ, đều
không phải là nơi tốt để đi đến, cho nên Trang Tử có
nói: “Tôi vốn không muốn sanh, đột nhiên sanh ra
đời, tôi vốn không muốn chết, đột nhiên ngày
chết đến”. Thích Ca năm xưa bỏ đi ngôi vị cao quý
trong thâm cung, cũng vì chuyện sanh tử đại sự này mà
xuất gia, nên thấy rằng thế gian không phải là nơi lạc
quốc, sống ở dương gian cũng là sống ở địa ngục, chết
ở dương gian chính là chết ở địa ngục.
57
Cho nên cần phải cầu Đạo, thọ Minh Sư chỉ thụ “Tính
Lý Chân Truyền”. Siêu thăng cực lạc thiên đường,
tránh lại phải giáng sanh trần thế, chịu cái khổ chuyển
biến của tứ sanh lục đạo và âm dương luân hồi, vì
những điều này nên con người cần phải siêu sanh liễu
tử.
 Có thể cải ác hướng thiện, đổi tà quy
chánh
Cầu Đạo mới có thể tìm về lương tâm bản tánh, mới
biết được lòng người có thật có giả; thật chính là
lương tâm bản tánh, tức là nguyên thần; giả chính là
tim máu, tim người chính là thần thức. Thế nhân mỗi
một ý niệm đều lạc vào tham tà tư lợi, mỗi một cử
động, thường thuộc hai kẻ hồ ly thâm hiểm và độc ác,
đều vì bản tánh lương tâm, đã bị dục vọng của tình
trường quen thuộc che lấp. Không thể hiện ra được,
mặc cho thần thức của tim máu, tim người tác quai tác
quái tìm ra.
Cho nên nên cần phải cầu Đạo, mới có thể tìm về bổn
tâm vốn có, phát sanh ra diệu trí huệ, mới có thể chiếu
sáng được thị phi uẩn khúc, thiệc ác tà chánh, chuyển
được ý thức là có trí huệ, thụ giữ cái chánh bỏ đi cái
58
tà. Những hành vi mình làm, đều phải dựa vào thầy là
bản tánh trung đạo vốn có.
Nên Khổng Tử có nói: “Trong ba người đi cùng, ắt
có một kẻ là thầy của ta, chọn kẻ thiện học mà
làm theo, chọn kẻ không thiện mà tự sửa đổi”.
Câu nói này ý nói bản tánh lương tâm, chính là người
thầy của chúng ta, phàm làm một việc gì, theo lương
tâm bản tánh này mà làm, thì sẽ không thất thoát một
thứ gì cả. Kẻ không thiện chính là cái gọi rêu rao của
mắt mũi, cho nên cầu Đạo, mới có thể cải ác hướng
thiện, cải tà quy chánh, thành khẩn hiếm thấy.
 Có thể tiêu họa kiếp, giải oan nghiệt
Họa kiếp oan nghiệt, đều do người tự tạo ra, bởi vì
mọi người bỏ đi bổn tánh, quên đi bát đức, lấy tim máu
để dụng sự, những hành vi mình làm đều trái với lương
tâm, không hợp với Thiên Lý Chánh Đạo. Cho nên
mới kết cái oán, tạo nhân quả, tại họa liên tiếp kết nối,
lâu ngày rồi liền kết thành đại kiếp nạn mà từ xưa đến
nay chưa hề có. Vì thế cần phải cầu Đạo, tìm về bổn
tâm, mới có thể tiêu họa kiếp, giải oan nghiệt.
Nếu có thể cầu được chánh Đạo lương tâm trở về
tự nhiên sẽ biết được kiếp họa do đâu mà có, oan
59
nghiệt do đâu mà kết, sẽ tự biết hối sửa lỗi lầm khi xưa,
thành tâm sám hối, tích cực hành công lập đức,
để chuộc lại lỗi lầm đã tạo, tự nhiên oan nghiệt sẽ
được tiêu giải, không có sự dây dưa.
Từ nay về sau, một lòng một dạ cứ theo bổn tâm
mình làm chủ, nhất cử nhất động cứ tuân thủ theo
bát đức, thì làm sao có thể kết được nợ nghiệp và tạo
nhân kiếp? Như thù mới này không kết, nợ cũ này
không tồn, thân tâm thanh tịnh, tự nhiên họa kiếp oan
nghiệt, không cần giải tự nhiên sẽ tự giải.
 Có thể cải được số mệnh
Vận mệnh do đâu mà có, do trời an bày? Do thần
sắp đặt? Do người tự tạo ư? Tự tạo cái nhân, thiên
thần chỉ trợ giúp cái duyên, cuối cùng tự nhiên kết
thành cái quả. Nói tóm lại, cái duyên cái nợ ba đời, cái
ăn cái mặc của kiếp số, tuy là thiên trên trợ duyên,
thực tại đều do lòng người tự tạo mà có.
Xem các ông ngày nay, phải hoạt sinh vào gia đình
vương công làm quan làm tướng, ruộng đất mấy chục
ngàn khoảnh, nhà lầu cao tầng, giàu có một vùng, là
do người này kiếp trước họ giữ được bản tâm tốt, tâm
không rời Đạo, và tổ tiên của họ lại có công đức thâm
60
hậu, phước báu họ trồng đều là mạ giống tốt, tự nhiên
kiếp này họ sẽ kết được trái tốt. Đó là đạo lý của tự
nhiên.
Hoặc có người vừa sinh ra, bệnh tật đầy người, cả
đời lưu lạc, nghèo khổ đến không đất cắm dùi, nhà
không có thức ăn để sống, hoặc cô đơn cô độc một
mình, hoặc tai họa liên miên, đều là do ba đời không tu,
bổn tâm lạc mất, dùng thần thức máu tim dụng sự,
phước điền họ trồng toàn là giống mạ ác, đương nhiên
sẽ không có được trái ngon để ăn.
Có câu nói: “Trời cao lồng lộng, báo ứng không
sai, không tin thì thôi” Họa phước không cửa, tự
mình chuốc lấy, muốn cải đổi số mạng, cần phải tìm về
bổn tâm, lấy mạ giống ác trong phước điền vứt bỏ đi,
trồng lại hạt giống tốt, sau này tự có quả ngon. Nhà
triết học Hồng Tử nói: “Công lao cái thế, không
xứng bằng một chữ “căng” (thương hại, tiếc rẻ),
tội lỗi đầy trời, không xứng bằng một chữ Hối
(sám hối)”. Thử nhìn lại Khưu Tổ, khi xưa vốn kim xà
xả khẩu, có số mệnh hung ác, sau khi cầu Đạo, nỗ lực
tu hành, tích lũy công quả, đến cuối cùng oan nghiệt đã
được tiêu giải, trong sự không hay biết, trong sự âm
61
thầm, đã sửa thành song long thưởng châu, có phong
cách một người đại phú quý.
Điều tốt của cầu Đạo, lại có thể làm sáng rõ được cái
tâm của mình. Nên mới biết:
“Hành tận thế gian thiên hạ lộ,
Độc thị tu hành bất ngộ nhân”
2. Tại sao phải cầu Đạo?
Đáp: Cây có cội, nước có nguồn. Nhân sanh tại thế
nếu như không biết cái tâm vốn có của mình, thì sẽ
không hiểu được sống từ đâu mà đến, chết đi về
phương nào? Và ở trong khổ ải của sống và chết cứ
đến và đi vô thời hạn. Cầu Đạo chính là muốn chúng
ta nhận thức được bổn lai của chính mình, tìm về
lương tâm bản tánh, cầu đắc được một con đường
để trở về trời. Bởi vì linh hồn con người bất diệt
(không bao giờ chết), đời đời kiếp kiếp cứ luân hồi
không ngừng, nhưng cuộc sống lại là một bể khổ ải, vì
muốn giải thoát được cái khổ của sanh tử luân hồi, cho
nên cần phải Cầu Đạo.
62
3. Trên thân thể con người, thật có sự tồn tại của
linh tánh không?
Đáp: Trên thân thể con người có hai con người, một
người thật và một người giả. Người giả chính là xác thân
của chúng ta, sinh ra xác thân của chúng ta chính là
người mẹ hiện tại của mình; và người thật chính là linh
tánh của chúng ta, sinh ra linh tánh chúng ta là Vô Cực
Lão Mẫu – Minh Minh Thượng Đế, cũng chính là Cơ
Đốc Giáo thường xưng gọi Thượng Đế, là tổng chúa tể
của cả một vũ trụ (sinh trời, sinh đất, sinh vạn vật).
4. Cầu Đạo, cầu được cái gì?
Đáp: Cầu Đạo chính là cầu được một con đường trở về
Lý Thiên, Linh tánh của chúng ta là do từ trời mà đến,
sau này cần phải quay về trời. Cầu Đạo chính là tìm
về lương tâm bản tánh, cầu được ba vật bảo bối,
ba loại pháp môn của tu Đạo.
5. Tâm tốt thì được rồi, sao lại còn phải Cầu Đạo?
Đáp: Lục Tổ nói: “Bất thức bổn tâm, học pháp vô
ích”. Người tốt là rất tốt, nhưng nếu không Cầu Đạo,
vẫn còn phải ở trong tứ sanh lục đạo luân hồi, cho
dù có hành thiện bố thí, chỉ là phước báo của kiếp này
63
hoặc là của kiếp sau thôi, không thể siêu sanh liễu tử.
Cầu Đạo nhận thức được bổn tâm, mới có thể thành tựu
được vô lượng công đức, cho nên muốn giải thoát sanh
tử, thành Tiên thành Phật thì cần phải Cầu Đạo.
6. Phàm phu tục tử cũng có khả năng thành
Phật sao?
Đáp: Phàm phu và Phật, Phật tánh vốn không khác
biệt, chỉ cần tìm được cái cửa khiếu (chỉ Huyền Quan
Khiếu) sau này thành Phật sẽ không khó rồi. Sau khi
Cầu Đạo, thành tâm tu trì, đều có thể thành Phật.
7. Từ cổ đắc Đạo không dễ, hôm nay chúng ta
cứ như vậy liền đắc Đạo, có phải là quá dễ
dàng không?
Đáp: Chúng ta học Đạo cần phải hiểu biết Thiên thời.
Thời xưa chân Đạo truyền lén, phải tu luyện trước đạt
đến 3000 công, 800 quả, mới có thể đắc Đạo, đó
gọi là tu trước đắc sau. Muốn đắc Đạo thật không dễ
dàng. Hôm nay do Thiên thời đã khác, đúng vào lúc
Tam kỳ mạt kiếp, chúng sanh đồ than, sanh linh chịu
khổ, đặc biệt là gần đây tai kiếp liên miên trước mắt.
Ơn Trên khai ân, đại sắc phong Tam tào, giáng hạ
Tiên Thiên Đại Đạo, phổ độ chúng sanh, chỉ cần tổ
64
tiên có đức, lũy kiếp có tu, tự nhiên có người dẫn dắt
mình cầu Đạo, đây gọi là trước đắc sau tu, cho nên
thời nay dễ dàng đắc Đạo hơn so với thời xưa.
8. Tiên Thiên Đại Đạo có quan hệ như thế nào với
những tôn giáo khác?
Đáp: Lấy cây để làm giả dụ: Đạo là rễ cây, gốc cây.
Giáo là cành cây, nhánh cây. Cho nên Tiên Thiên Đại
Đạo cùng với những tôn giáo, chánh phái khác, không
những không xung đột còn có quan hệ rất mật thiết.
Năm giáo vốn bổn một nhà, năm đại tôn giáo đến từ
cùng một nguồn cội, có cùng chung một ý nghĩa giáo
huấn. Tiên Thiên Đại Đạo thì là nguồn gốc của năm
giáo này, những cái nghiên cứu thảo luận, những cái đề
xướng cũng chính là cùng chung một đạo lý với năm
giáo. Thánh nhân của năm giáo lưu tồn cũng đều là
Thiên tâm, truyền bá đều là những cái chân lý ở đời.
 Đạo là bổn thể - Giáo là ứng dụng.
 Đạo là Phật tâm – Giáo là Phật ngữ.
 Đạo là tự tánh – Giáo là hành vi.
65
9. Tứ sanh lục đạo là gì? Tại sao chúng ta
lại ở trong tứ sanh lục đạo luân hồi?
Đáp: Huyền Quan Khiếu là cửa chính duy nhất để
linh tánh ra vào, còn lại đều là những cửa bên ngõ
ngách. Linh tánh ra khỏi xác thân theo đường cửa bên,
ngõ ngách này sẽ đầu thai chuyển kiếp vào Tứ Sanh
Lục Đạo.
 Nếu như lúc sống thích nói chuyện thị phi, thích nói
chuyện xằng bậy, có thể lúc chết cái miệng mở to, linh
tánh đi ra từ miệng sẽ đọa lạc vào “thấp sanh”, sẽ trở
thành các loài động vật dưới nước như cá, baba, tôm,
cua,…
 Nếu như lúc sống thích nghe lời tiểu nhân, nhiều
chuyện dò hỏi lưu truyền lời bậy bạ, lỗ tai rất nhạy bén
khi nghe việc xấu, lúc chết lỗ tai vểnh to ra, linh tánh
đi ra từ lỗ tai, sẽ bị đọa lạc vào “thai sanh”, trở
thành các loài động vật có lỗ tai nhạy bén, biết
nhúc nhính hoặc các loài thú bốn chân có thính giác
nhanh nhạy như bò, dê, trâu, chó,…
 Nếu như con mắt không trong sạch, hiếu sắc nhìn
trộm, làm bậy, lúc chết mắt không nhắm lại, linh tánh
66
đi ra từ mắt thì đọa lạc vào “noãn sanh”, trở thành
các loài chim có thị lực rất sắc bén.
 Nếu như thích ngửi mùi hôi thối, truy đuổi theo
những mùi vị hiện hành, lúc chết lỗ mũi có hơi nóng,
linh tánh đi ra từ mũi, sẽ đọa lạc vào “hóa sanh”, trở
thành ruồi, muỗi, kiến, và các loài côn trùng cánh
cứng.
 Bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hóa sanh gọi là “Tứ
sanh”.
 Nếu như việc thiện làm được nhiều, tu dưỡng cũng
rất tốt, có thể linh tánh sẽ xuất ra từ nơi nê hoàn cung
tức đỉnh đầu, sẽ chuyển vào “Thiên Đạo”, đầu thai
làm một số khí thiên thần, hưởng công quả khoảng bao
nhiêu năm tháng nào đó, ví như: Thổ Địa Công, Ma Tổ,
các vị Thiên Tuế gia, khi khí số đã hết vẫn phải chuyển
thế luân hồi.
 Nếu như làm việc năng lực, siêu phàm, nhưng thói
hư tật xấu quá nhiều quá lớn, đến chết không sửa, có
thể đọa lạc vào “A Tu La đạo”, đầu thai làm các hung
thần ác bá, hoặc các loài Ma Vương.
 Nếu như thiện ác công tội vẫn còn bằng nhau, linh
tánh đi ra từ lỗ rốn, thì sẽ đọa lạc vào “Nhân đạo”, tốt
67
một chút thì được làm người bình thường hay phú quý,
xấu một chút thì sẽ làm phàm phu hay người bần cùng
nghèo khổ.
 Nếu như ác tính quá lớn, công ít hơn tội, thì sẽ đọa
lạc vào “Tam Ác Đạo”, gồm ”Súc sinh đạo, Địa
ngục đạo, Ác quỷ đạo”, sau khi trải qua hình phạt
nghiêm trọng, sẽ bị phán xét đầu thai vào một trong
các loài động vật của Tứ Sanh: “Noãn, Thai, Thấp,
Hóa”.
 Thiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo, Súc Sanh
Đạo, Địa Ngục Đạo, Ác Quỷ Đạo, đó gọi là “Lục
Đạo”.
10. Sau khi Cầu Đạo, phải chăng cần ăn chay
hay không?
Đáp: Ăn chay không phải là điều kiện tất yếu, ăn
chay là theo ý nguyện của cá nhân mình, Phật quy vốn
không quy định cứng rắn, tất cả thuận theo tự nhiên.
Ơn Trên có đức hiếu sanh, sau khi Cầu Đạo lộ ra lòng
từ bi, rất tự nhiên sẽ rất thích ăn các món chay rau
tươi, không miễn cưỡng một tí nào.
68
11. Sau khi Cầu Đạo, tu pháp như thế nào?
Đáp: Sau khi Cầu Đạo, lúc tịnh - không ngoài độ chính
mình, lúc động – là đi độ người, cũng chính là học làm
người tốt, tồn tâm tốt, nói chuyện tốt, làm việc tốt. Khi
tịnh tự phản tỉnh kiểm điểm chính mình, sửa đổi thói hư
tật xấu. Lúc động tranh thủ thời gian tham gia Bàn Đạo,
độ hóa chúng sanh. Chỉ cần có đầu có đuôi, sau này ắt
sẽ thành Đạo.
12. Sau khi Cầu Đạo, không đến Phật Đường
có được không?
Đáp: Phật Đường là nơi giới thiệu của Thiên đường, là
trạm đổ xăng của linh tánh. Sau khi Cầu Đạo nên nắm
bắt cơ hội tiếp cận Phật Đường nhiều, tham gia nghiên
cứu đạo lý. Nhưng Đạo là rất tự nhiên, nếu như cảm
thấy không có ý nghĩa gì, tuyệt đối cũng không miễn
cưỡng, không có sự ràng buộc nào cả.
13. Bảo quý của Đạo có chứng cứ gì không?
Đáp: Có, đạo thân sau khi cầu Đạo, chỉ cần có gắng
làm người tốt, không làm điều xằng bậy, lúc lâm chung
sẽ có điều lành báo trước, mùa đông không đông cứng,
69
mùa hè không thối rữa, mặt mang nét an nhàn, thân
xác mềm mại như bông. Đây là biểu thị linh tánh đã về
trời, đã được giải thoát luân hồi.
70
SỰ KHÁC NHAU GIỮA ĐẠO VÀ GIÁO
ĐẠO là bổn thể của tánh lý, chính là chân lý của Vô
Cực, cũng chính là lương tâm, vì tính lý này vốn là thiên
căn của con người, nguồn gốc của tính mạng, sinh đã là
do nơi đó mà đến, chết ắt phải trở về lại nơi đó, chính là
con đường chính của sanh tử, vốn là “Tính lý chân
truyền” từ cổ chí kim đã rất thần bí, là mật bảo khẩu
truyền tâm ứng, nếu không nhận được Thiên mệnh tối
cao của Thượng Đế, ứng vận đến truyền cái Đạo này,
bất luận là Tiên Phật Thánh Hiền nào, đều không dám
truyền bậy, hay lén tiết lộ diệu dụng của tính lý chân
truyền này, cho nên chân kinh không phải ở trên giấy
bút mặt chữ.
Tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo, Tam Tạng kinh điển
của Thích Giáo, Đạo đức Ngũ thiên của Lão Tử, hay
Thanh Tịnh Kinh, Hoàng Đình Kinh,… nơi nơi đều hàm
ngụ ý chân Đạo này, có thể làm vật ấn chứng nhưng
không được tiết lộ ra. Nếu không được Minh Sư chỉ
thụ chân truyền, điểm mở cửa khiếu huyền diệu này,
cho dù anh là người Danh Nho thạc sĩ đi nữa, cũng
không thể phát hiện ra được điều kỳ diệu này.
71
Sự vi diệu vô cùng của Bảo quý này, đó
chính là khuôn mặt thật của Đạo.
GIÁO vốn thuộc công phu bên ngoài của Đạo,
chính là vạn pháp, vạn hành, vạn đoan phát sinh ra từ
Đạo, vì Đạo mà sử dụng, để giáo hóa chúng sanh thế
gian. Nói cách khác chính là tu tâm dưỡng tánh,
hành thiện tích đức, khiến sau này có thể tạo ra
được giáo hóa căn bản của xuất thế nhập Đạo, cổ
nhân nói: “Tu Đạo chi vị giáo”, giáo trong Phật giáo
thuộc hiển giáo, là sự giáo hóa bình thường, để cho
thế nhân có thể tu tâm luyện tánh, không làm việc
ác, hành thiện độ người, cứu vớt lòng người,
không còn tồn tâm ác, để trở thành người thiện
của thế giới, để cho sau này có thể hưởng được
phước báu vô hạn, những cái đã dạy toàn là các đạo
nghĩa bình đẳng bình thường, bất luận người nào,
cũng đều có thể hiểu được nơi đó, chính là thuộc về
sự giáo hóa của pháp bình đẳng. Trong kinh thư còn
ám chỉ điều thiên cơ bí mật, trên bề trên lời văn dường
như là nơi đó, nhưng kỳ thực ý lại ở nơi kia, nếu như
chưa từng gặp Minh Sư chỉ truyền, đắc được vô
thượng thượng pháp này, cho dù là anh thông minh
72
lanh lợi ra sao, cũng khó hiệu được bí mật kỳ diệu này.
 Đây chính là sự khác biệt giữa Đạo và Giáo.
Chánh pháp Chân truyền của Đạo, từ nhà Thích, tổ
sư Huệ Năng đời thứ Sáu ở Trung Nguyên, truyền pháp
đến dân gian bá tánh, sau khi Đạo được ngấm ngầm
truyền đến Nho giáo, nhà Phật chỉ kế truyền y bát theo
hình thức truyền thống, đã thật sự mất đi sự kế thừa Tổ
vị, chỉ là ngỡ thấy chân thỏ cho là thỏ, thấy giỏ cá
tưởng là cá (ý nói nhận giả tu thật). Từ đó về sau,
“tánh lý chân truyền” của chánh pháp này, ngoài Nho
giáo ra, bất cứ môn giáo nào, đều không thể nắm rõ
được, cho nên từ đời Đường mạc, Ngũ Đại, Lưỡng
Tống, Nguyên, Minh, Thanh từ đó đến nay, đã hơn
ngàn năm, Đạo thuộc vào thời kỳ tăm tối, các giáo đều
trở thành là những giáo hóa bình thường, thời đó muốn
biết được chân Đạo, còn khó hơn so với lên trời, Tổ Sư
Huệ Năng đã từng có thơ viết:
“Thích Ca tông ngã tuyệt tôn phong,
Nho gia đắc ngã chánh pháp thông,
Tam kỳ mạt hậu thu viên sự,
Chánh tâm thành ý hợp Trung Dung.”
73
Thơ giải:
“Từ khi Thích Ca không kế truyền tổ vị,
Nho giáo kế đắc được tánh lý chân truyền
Tam Tào phổ độ thu dọn đại nhân duyên
Nhân tâm, thiên tâm hòa hợp hiện Phật tánh.”
Giáo thì lúc nào cũng có, Đạo thì không đúng
thời sẽ không giáng xuống, và Đạo cũng có ẩn
có hiện. Khi Đạo đang lúc ẩn, cho dù là anh thông
minh đĩnh đạc, anh hùng tài giỏi, thông hiểu cổ kim,
hay người trí thức cao thâm đi nữa, cũng không có
cách nào có thể đắc được chân Đạo này. Bởi vì Đạo
không đúng thời sẽ không giáng, không đúng
người sẽ không truyền. Giáo thì luôn thường có, khi
Đạo chưa giáng xuống, giáo này vốn dĩ đã có, khi Đạo
đã giáng xuống rồi, giáo này cũng vẫn tồn tại, bởi vì
giáo là sự giáo hóa cơ bản của Đạo.
Cho nên Đạo không rời Giáo, Giáo không rời Đạo,
nếu Đạo rời Giáo, thì trước cửa Phật Đạo, liền có thể
bắt chim sẻ rồi (ý nói người vào Đạo sẽ tự nhiên ít đi),
nếu Giáo rời Đạo, thì là bàng môn tà Đạo, không
thành được chánh pháp.
74
 Suy cho cùng hiệu quả của Đạo và Giáo
có gì khác biệt?
“Đạo” có thể siêu sanh liễu tử, thoát khỏi luân
hồi, đăng cực lạc, tránh tai hung, thoát kiếp nạn,
giải oan nghiệt, cải số mệnh, thoát khổ ải, thật
không thể hiểu hết nổi những điều kỳ diệu này, cổ nhân
có câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy Đạo độc tôn”
há là lời giả dối hay sao?
“Giáo” là giáo hóa thế nhân, là phép tắc độ thế,
là điển hình của nhân đạo, là pháp có triển vọng
của tu tâm dưỡng tánh, là nghi thức mẫu mực làm
người ở đời, tạo nên các trụ cột nền tảng cho nếp nhà,
hàm nuôi dưỡng cái khí đạo đức của thế gian, giáo hóa
người cải ác hướng thiện, đi theo phép tắc, làm một
người lương thiện ở đời, để hưởng phước báo của kiếp
sau, dự trù một nền tảng để sau này ra đời có thể gặp
được Đạo. Cho nên sự giáo hóa này, không thể một
ngày không có được, đó chính là hiệu quả khác biệt của
Đạo và Giáo.
Đại Đạo Tam Bảo

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpẤn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpPhát Nhất Tuệ Viên
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1Hoàng Lý Quốc
 
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngLợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngHoàng Lý Quốc
 
Hoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiHoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiSonHo22
 
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHAN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHPhát Nhất Tuệ Viên
 
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữThiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữHoàng Lý Quốc
 
Hoàng mẫu huấn tử thập giới
Hoàng mẫu huấn tử thập giớiHoàng mẫu huấn tử thập giới
Hoàng mẫu huấn tử thập giớiHoàng Lý Quốc
 
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của Đạo
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của ĐạoẤn Chứng Sự Thù Thắng Của Đạo
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của ĐạoPhát Nhất Tuệ Viên
 
Di lặc cứu khổ chân kinh chú giải
Di lặc cứu khổ chân kinh  chú giảiDi lặc cứu khổ chân kinh  chú giải
Di lặc cứu khổ chân kinh chú giảiHoàng Lý Quốc
 
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnLữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnPhát Nhất Tuệ Viên
 
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồiHoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồiHoàng Lý Quốc
 
Quần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcQuần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcHoàng Lý Quốc
 
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)Hoàng Lý Quốc
 
Ngũ giới hoạt phật sư tôn từ huấn
Ngũ giới   hoạt phật sư tôn từ huấnNgũ giới   hoạt phật sư tôn từ huấn
Ngũ giới hoạt phật sư tôn từ huấnHoàng Lý Quốc
 

Was ist angesagt? (20)

15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy
 
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpẤn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
 
Su Ton Quy Cua Dao
Su Ton Quy Cua DaoSu Ton Quy Cua Dao
Su Ton Quy Cua Dao
 
Quang minh trí tuệ
Quang minh trí tuệQuang minh trí tuệ
Quang minh trí tuệ
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
 
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen LucNghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
 
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngLợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
 
Hoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiHoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioi
 
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHAN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
 
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữThiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
 
Hoàng mẫu huấn tử thập giới
Hoàng mẫu huấn tử thập giớiHoàng mẫu huấn tử thập giới
Hoàng mẫu huấn tử thập giới
 
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của Đạo
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của ĐạoẤn Chứng Sự Thù Thắng Của Đạo
Ấn Chứng Sự Thù Thắng Của Đạo
 
Di lặc cứu khổ chân kinh chú giải
Di lặc cứu khổ chân kinh  chú giảiDi lặc cứu khổ chân kinh  chú giải
Di lặc cứu khổ chân kinh chú giải
 
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnLữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
 
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồiHoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
 
Tam bảo tâm pháp
Tam bảo tâm phápTam bảo tâm pháp
Tam bảo tâm pháp
 
Tìm hiểu về đạo
Tìm hiểu về đạoTìm hiểu về đạo
Tìm hiểu về đạo
 
Quần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcQuần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lục
 
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)
Kim tuyến và tu đạo (đạo thống)
 
Ngũ giới hoạt phật sư tôn từ huấn
Ngũ giới   hoạt phật sư tôn từ huấnNgũ giới   hoạt phật sư tôn từ huấn
Ngũ giới hoạt phật sư tôn từ huấn
 

Ähnlich wie Đại Đạo Tam Bảo

Khuyên người niệm Phật 3
Khuyên người niệm Phật 3Khuyên người niệm Phật 3
Khuyên người niệm Phật 3Nguyen Ha Linh
 
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬTtung truong
 
Bi phepluyendao 
Bi phepluyendao Bi phepluyendao 
Bi phepluyendao lyquochoang
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Đỗ Bình
 
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.Chiến Thắng Bản Thân
 
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Đỗ Bình
 
Khuyên người niệm Phật 2
Khuyên người niệm Phật 2Khuyên người niệm Phật 2
Khuyên người niệm Phật 2Nguyen Ha Linh
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangtung truong
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sátLong NguyenThe
 
ấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấnấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấnHoàng Lý Quốc
 

Ähnlich wie Đại Đạo Tam Bảo (20)

Khuyên người niệm Phật 3
Khuyên người niệm Phật 3Khuyên người niệm Phật 3
Khuyên người niệm Phật 3
 
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
 
Bi phepluyendao 
Bi phepluyendao Bi phepluyendao 
Bi phepluyendao 
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
di lặc.docx
di lặc.docxdi lặc.docx
di lặc.docx
 
TỨ NIỆM XỨ
TỨ NIỆM XỨTỨ NIỆM XỨ
TỨ NIỆM XỨ
 
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
 
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.
Bí pháp luyện đạo-Bát nương diêu trì cung.
 
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
 
Khuyên người niệm Phật 2
Khuyên người niệm Phật 2Khuyên người niệm Phật 2
Khuyên người niệm Phật 2
 
Hue menhkinh
Hue menhkinhHue menhkinh
Hue menhkinh
 
Lieu pham-tu-huan
Lieu pham-tu-huanLieu pham-tu-huan
Lieu pham-tu-huan
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát
 
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCPhat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCPhat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
ấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấnấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấn
 
ấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấnấN quang pháp sư kết duyên huấn
ấN quang pháp sư kết duyên huấn
 
Giác lộ chỉ nam
Giác lộ chỉ namGiác lộ chỉ nam
Giác lộ chỉ nam
 

Mehr von Phát Nhất Tuệ Viên

Mehr von Phát Nhất Tuệ Viên (13)

KINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
KINH TAM THẾ NHÂN QUẢKINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
KINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
 
Nhân Quả Oan Nợ Báo Ứng Hiển Hóa Tại Phật Đường Malaysia
Nhân Quả Oan Nợ Báo Ứng Hiển Hóa Tại Phật Đường MalaysiaNhân Quả Oan Nợ Báo Ứng Hiển Hóa Tại Phật Đường Malaysia
Nhân Quả Oan Nợ Báo Ứng Hiển Hóa Tại Phật Đường Malaysia
 
HIẾU KINH - KHỔNG TỪ
HIẾU KINH - KHỔNG TỪHIẾU KINH - KHỔNG TỪ
HIẾU KINH - KHỔNG TỪ
 
Nhan Qua Vuong Binh Hoang Hien Hoa
Nhan Qua Vuong Binh Hoang Hien HoaNhan Qua Vuong Binh Hoang Hien Hoa
Nhan Qua Vuong Binh Hoang Hien Hoa
 
Bảng Đạo Thống Tiên Thiên Đại Đạo
Bảng Đạo Thống Tiên Thiên Đại ĐạoBảng Đạo Thống Tiên Thiên Đại Đạo
Bảng Đạo Thống Tiên Thiên Đại Đạo
 
Đào Viên Minh Thánh Kinh - Kinh Tụng Và Sự Ứng Nghiệm
Đào Viên Minh Thánh Kinh - Kinh Tụng Và Sự Ứng NghiệmĐào Viên Minh Thánh Kinh - Kinh Tụng Và Sự Ứng Nghiệm
Đào Viên Minh Thánh Kinh - Kinh Tụng Và Sự Ứng Nghiệm
 
Cá Tinh Hiển Hóa - Nhân Quả Báo Ứng Của Đắc Kỷ Trụ Vương
Cá Tinh Hiển Hóa - Nhân Quả Báo Ứng Của Đắc Kỷ Trụ VươngCá Tinh Hiển Hóa - Nhân Quả Báo Ứng Của Đắc Kỷ Trụ Vương
Cá Tinh Hiển Hóa - Nhân Quả Báo Ứng Của Đắc Kỷ Trụ Vương
 
Ma To Cau Dao
Ma To Cau DaoMa To Cau Dao
Ma To Cau Dao
 
Cau Dao Ket Duyen
Cau Dao Ket DuyenCau Dao Ket Duyen
Cau Dao Ket Duyen
 
Su Mau Trung Hoa Thanh Mau Tu Huan
Su Mau Trung Hoa Thanh Mau Tu HuanSu Mau Trung Hoa Thanh Mau Tu Huan
Su Mau Trung Hoa Thanh Mau Tu Huan
 
Nguyên Nhân Bệnh Nan Y - Hoạt Ngục Du Ký
Nguyên Nhân Bệnh Nan Y - Hoạt Ngục Du KýNguyên Nhân Bệnh Nan Y - Hoạt Ngục Du Ký
Nguyên Nhân Bệnh Nan Y - Hoạt Ngục Du Ký
 
Kinh Di Lặc
Kinh Di LặcKinh Di Lặc
Kinh Di Lặc
 
5 điều tu luyện của sinh mạng
5 điều tu luyện của sinh mạng5 điều tu luyện của sinh mạng
5 điều tu luyện của sinh mạng
 

Đại Đạo Tam Bảo

  • 1.
  • 2. 1 MỤC LỤC  ĐẠO CHI TÔNG CHỈ ………………………... 2  LỄ KÝ LỄ VẬT ĐẠI ĐỒNG BIẾN …………. 4  ĐẠI ĐẠO TAM BẢO ………………………… 7 o Ý nghĩa của chúc mừng ………………….. 7 o “Đạo” là gì? ………………………………… 7 o Ý nghĩa của cầu Đạo ……………………… 8 o Nhân duyên giáng Đạo ……………………9 o Ứng vận của Phật Di Lặc ………………… 9 o Căn cơ thâm hậu – Thánh Đạo tiếp bước …………………………………………………. 10 o Bảo mật thiên cơ – Tiết lộ nhân gian … 10 o Bảo thứ nhất – Huyền Quan Khiếu …… 11 o Bảo thứ hai – Khẩu Quyết ………………. 17 o Bảo thứ ba – Hợp Đồng ………………….. 19 o Những Điều Cần Biết Sau Khi Cầu Đạo...21  SỰ THÙ THẮNG CỦA LONG THIÊN BIỂU..23  ĐẠO NGHĨA THAM KHẢO …………………. 55  SỰ KHÁC BIỆT GIỮA ĐẠO VÀ GIÁO ……. 70
  • 3. 2 ĐẠO CHI TÔNG CHỈ  Kính thiên địa, lễ thần minh, ái quốc trung sự, đôn phẩm sùng lễ.  Hiếu phụ mẫu, trọng Sư Tôn, tín bằng hữu, hòa hương lân.  Cải ác hướng thiện, giảng minh ngũ luân bát đức.  Xiển phát ngũ giáo thánh nhân chi áo chỉ, khác tuân tứ duy cương thường chi cổ lễ.  Tẩy tâm địch lự, tá giả tu chân.  Hồi phục bản tánh chi tự nhiên, khởi phát lương tri lương năng chi chí thiện.  Kỷ lập lập nhân, kỷ đạt đạt nhân.  Vãn thế giới vi thanh bình, hóa nhân tâm vi lương thiện, ký thế giới vi Đại Đồng.
  • 4. 3 Giảng nghĩa: TÔN CHỈ CỦA ĐẠO  Tôn kính trời đất, lễ bái thần minh, yêu nước tận tụy với công việc, phẩm cách đôn hậu sùng kính lễ.  Hiếu thảo cha mẹ, kính trọng thầy, giữ chữ tín với bạn bè, hòa thuận với xóm giềng.  Cải ác hướng thiện, giảng rõ Ngũ luân Bát đức.  Nêu bật ý chỉ ảo diệu của Ngũ giáo Thánh nhân, cung kính-tuân theo cổ lễ Tứ duy cương thường.  Gội rửa tâm và ý nghĩ, mượn giả tu thật.  Hồi phục bản tánh tự nhiên, khởi phát lương tri lương năng đạt tới chí thiện.  Ta đã đứng vững cũng khiến người đứng vững, ta đã đạt cũng khiến người đạt.  Cứu vãn thế giới sống trong thanh bình, cải hóa nhân tâm trở nên lương thiện, mong thế giới đạt đến Đại Đồng.
  • 5. 4 LỄ KÝ LỄ VẬT ĐẠI ĐỒNG BIẾN  Đại Đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục.  Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử.  Sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấn hữu sở trưởng.  Quan quả cô độc phế tật giả, giai hữu sở dưỡng.  Nam hữu phận, nữ hữu quy.  Hóa ác kỳ khí vu địa dã, bất tất tạng vu kỷ, lực ác kỳ bất xuất vu thân dã, bất tất vi kỷ.  Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác, cố ngoại hồ nhi bất bế, thị vị Đại Đồng.
  • 6. 5 Giảng nghĩa: LỄ VẬN ĐẠI ĐỒNG THIÊN  Đại Đạo thông hành toàn thế giới, con người trên thế giới đều lấy Đạo để ứng xử. Tuyển chọn người hiền có năng lực vì dân phục vụ, mọi người rất uy tín – chân thực – hòa thuận, đạo tâm không lui sụt, tinh tấn không lười biếng.  Vì thế người ta không chỉ yêu thương người thân mình, đồng thời cũng yêu thương người thân của kẻ khác. Không chỉ yêu thương chăm sóc con cái mình, đồng thời cũng yêu thương chăm sóc con cái của người khác.  Khiến người già sau khi về hưu, có thể an hưởng Thanh phúc, không vất vả cả đời. Người cường tráng ai nấy đều là kẻ hữu dụng, không lêu lỏng thích an nhàn. Trẻ em được giáo dục nuôi dưỡng, không phóng đãng tập tành thói xấu. Và người già góa vợ,
  • 7. 6 người già góa chồng – người già không con, kẻ tàn tật bệnh hoạn đều nhận được sự sẻ chia thỏa đáng nhất – quan tâm thân thiết nhất.  Đàn ông có công việc phù hợp, phụ nữ có nơi gửi gắm tấm thân vừa ý.  Vật chất sinh hoạt vô cùng sung túc, mặc cho người hưởng thụ, thế nhưng không tùy tiện lãng phí, không không chiếm làm của riêng, chẳng ăn không ngồi rồi. Tuy ai nấy đều nỗ lực tận hết chức trách của mình song không tự tư chỉ nghĩ đến bản thân.  Do vậy tất cả lòng riêng tư trí tuệ nông cạn, âm mưu gian trá vĩnh viễn không phát sinh. Tất cả phường trộm cắp cướp giật, bọn côn đồ bạo loạn đều biến mất. Chính vì thế ban đêm ra phố hoặc dạo chơi, cửa không cần đóng cũng an nhiên vô sự, đây là Thế Giới Đại Đồng, Tịnh Độ Nhân Gian.
  • 8. 7 ĐẠI ĐẠO TAM BẢO  Sớm nghe Đạo - Tối chết cũng cam!  1. Ý nghĩa của chúc mừng? Bình thường chúng ta tới miếu chùa cầu thần bái Phật, chưa từng có ai chúc mừng các bạn, thế tại sao hôm nay, sau khi cầu Đạo, những người có mặt ở đây ai cũng hướng về các bạn mà chúc mừng vậy! Bởi vì hôm nay chúng ta đã cầu được Tiên Thiên Đại Đạo, Đạo mà ta có được và Đạo của Chư Phật Bồ Tác đắc được đều là như nhau, đương nhiên là điều đáng vui và đáng chúc mừng. 2. “Đạo” là gì? “Đạo lý” – Đạo chính là lý, là nguyên tắc tiêu chuẩn của pháp lý mà chúng ta làm người xử thế đều phải tuân thủ và làm theo. Hai chữ “Đạo lộ” – Đạo chính là con đường, là con đường của linh tánh chúng ta trở về trời. Từ xưa đến nay những người tu hành, mục đích của họ chẳng qua là muốn vì linh tánh của mình tìm kiếm một con đường giải thoát sau cùng. Nhưng linh tánh của
  • 9. 8 chúng ta đều từ trên Lý Thiên mà xuống. Sau này có về thì phải trở về trên Lý Thiên, mới có thể gọi là giải thoát cuối cùng. Cầu Đạo chính là cầu được con đường về Lý Thiên của linh tánh. 3. Ý nghĩa cầu Đạo? Sau khi đắc Đạo, “Thiên bảng ghi danh, Địa phủ rút tên”, sau này linh tánh có thể trực tiếp trở về Lý Thiên, không cần phải xuống dưới âm tào địa phủ báo cáo, cũng không cần lại phải sinh tử luân hồi, linh tánh có thể sống mãi không chết, đó gọi là “siêu sanh liễu tử”. Và còn được “nhất tử đắc Đạo, cửu huyền thất tổ chiêm quang” (Một người con đắc Đạo, tổ tiên được chiêm quang), kể cả tổ tiên của ta dưới địa phủ, đều có thể nhận lấy hào quang của ta, và càng được thăng cấp. Nếu người cầu Đạo ở dương gian biết hành công lập đức, thậm chí là làm lễ siêu bạt tổ tiên, có thể thoát khỏi địa phủ, cùng trở về Lý Thiên. Cho nên Khổng Tử nói: “Sớm nghe được Đạo, tối chết cũng cam!” chính là ý nghĩa như vậy.
  • 10. 9 4. Nhân duyên giáng Đạo Tiên Thiên Đại Đạo xưa nay không dễ tuyên truyền, từ cổ đến nay, Đạo là đơn truyền độc thụ, cần phải tu trước đến khi công quả viên mãn, mới có thể có duyên gặp được Phật tổ để truyền pháp thọ ký cho mình. Thiên thời chuyển vận, từ Thanh Dương Kỳ và đến nay là Bạch Dương Kỳ. Nhìn vào thời vận trước mắt, lòng người không như người xưa, Đạo Đức luân tán, phong tục xử thế đồi bại, tai kiếp xảy ra triền miên, đấy gọi là “tam kỳ mạt kiếp”. Ơn trên không nỡ nhìn thấy người thiện và người ác cùng chịu kiếp nạn, mới giáng xuống Đại Đạo, để cứu lấy những người lương thiện thoát khỏi vận kiếp. Nay đúng vào lúc tam kỳ mạt hội, Đại Đạo phổ truyền, bất kể là nam nữ già trẻ, giàu có hay nghèo khổ, nếu có cơ duyên đều có thể đắc Đạo. 5. Ứng vận của Phật Di Lặc – Tế Công Hoạt Phật trưởng Đạo bàn. Ứng vận của thời Bạch Dương Kỳ, Phật Di Lặc làm trưởng Thiên bàn, Tế Công Hoạt Phật nắm trưởng Đạo bàn. Tiên Thiên Đại Đạo cung phụng Phật Di
  • 11. 10 Lặc là Tổ Sư, Tế Công Hoạt Phật là Sư Tôn, Nguyệt Huệ Bồ Tát là Sư Mẫu. 6. Căn cơ thâm hậu – Thánh Đạo tiếp bước Cầu được Tiên Thiên Đại Đạo là có nhân duyên đặc biệt thâm sâu, ngoài việc trải qua sự dẫn độ của Dẫn Bảo Sư, có thể tiếp nhận lãnh thụ được thiên mệnh – Điểm Truyền Sư, đại diện cho Tế Công Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát, điểm Đạo truyền pháp cho mình, bản thân mình còn cần phải có sự tích lũy tu hành của tiền kiếp, có Phật duyên thâm hậu, tổ tiên có Đức mới có cơ duyên đắc được Đại Đạo này. 7. Bảo mật thiên cơ – Tiết lộ nhân gian Lúc cầu Đạo, Điểm Truyền Sư đại diện cho Tế Công Hoạt Phật, truyền cho chúng ta Tam Bảo, Tam Bảo này là mật bảo thiên cơ, là bằng chứng trở về Lý Thiên.
  • 12. 11 BẢO THỨ NHẤT  HUYỀN QUAN KHIẾU Huyền Quan Khiếu là cánh cửa thông thiên. Huyền là nguyên thần, Quan là cửa ải của xuất nhập (ra vào), Khiếu là một lỗ nhỏ giấu kín, gọi chung là một lỗ nhỏ được giấu kín mà nguyên thần của ta ra vào, hoặc cư ngụ tại nơi đó. Nguyên Thần chính là cái ta thường gọi là linh hồn, linh tánh. Linh tánh cần theo cửa chính mà ra vào. Chúng ta thường nói con mắt là cửa sổ của linh hồn, vậy cửa chính của linh hồn ở đâu? Chúng ta ra vào nhà thì phải đi theo cửa chính, nếu như trèo tường leo cửa sổ vào thì đó là tên cướp rồi. Linh tánh của con người cũng là như vậy, nếu như từ chỗ cửa chính mà đi ra, thì có thể trở về Vô Cực Lý Thiên (đó chính là nơi cố hương vốn có của linh tánh chúng ta). Nếu như không đi theo cửa chính, mà từ các cửa mắt, tai, mũi, miệng,…thì là các ngõ ngách, cửa phụ (hay còn gọi là bàng môn tà đạo) sẽ bị đầu thai vào tứ sanh (noãn sanh, thai sanh, hóa sanh, thấp sanh) lục đạo luân hồi (trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục). Bất cứ người tu Đạo nào, đều cần phải từ chỗ này mà hạ công phu, chư Phật Bồ Tát đều là do vậy mà tu
  • 13. 12 thành chánh quả. Muốn linh tánh của chúng ta sau này tìm được giải thoát cuối cùng, để đi đến chứng Đạo quy chân thành Tiên thành Phật, tất phải nắm bắt cửa khiếu này. Trong kinh điển ngũ giáo đều ẩn náu ngầm chỉ loại pháp môn này. Chúng ta hãy lấy kinh luận của ngũ giáo để làm chứng. 1. Phật gia (Nhà Phật) a. Nốt son trên trán các ngài Bồ Tát chính là muốn ám chỉ cho thế nhân biết cửa khiếu của tu đạo, bí mật của thành Đạo là ở chỗ đó. b. Quan Âm Bồ Tát tay cầm tịnh bình lá liễu cũng là ý đó. c. Tử trúc lâm trung quan tự tại, liên hoa tọa thượng kiến Như Lai. d. Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Ngã hữu chánh pháp nhãn tàng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”. e. Phật lại nói: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu Linh Sơn chỉ tại nhĩ tâm đầu Người người hữu cá Linh Sơn tháp Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu”.
  • 14. 13 2. Đạo gia (Nhà Đạo) a.Lão Tử trong Đạo Đức Kinh có viết: “Cốc thần bất tử, thị vị huyễn tẫn, huyễn tẫn chi môn, thị vi thiên địa căn, miên miên nhược tồn, dụng chi bất cẩn”. “Cốc thần” bất tử của Đạo gia là công bố cho thế nhân biết linh tánh bất sanh, bất diệt là cư ngụ tại nơi đó. b.Trong chùa miếu thần minh muốn khai quang, vẽ rồng, phải điểm nhãn. Thế nhân tu Đạo cần phải cầu Minh Sư, điểm mở cửa chính Huyền Quan Khiếu, mới có thể tìm thấy Thần Cốc bất tử này. 3. Nho gia (Nhà Nho) a.Khổng Tử viết: “Sớm nghe được Đạo tối chết cũng cam!”. Đạo ở đây là nói đến Tiên Thiên Đại Đạo mà chúng ta có được, là Đạo của giải thoát sinh tử. Cho nên có thể chết mà không hối tiếc. b.Khổng Tử viết: “Thục năng xuất bất do hộ, hà mạc do tư Đạo dã?” ý nghĩa là: mọi người ra vào đều phải cần từ cửa chính, nhưng tại sao ai nấy đều bỏ cửa chính mà không chịu đi ?
  • 15. 14  Huyền Quan Nhất Khiếu là cửa chính, còn lại đều là ngõ ngách cửa bên, linh tánh thoát xác theo đường cửa bên, sẽ chuyển sanh vào tứ sanh lục đạo luân hồi. Lỗ Rún Sinh làm Người Nê hoàn cung Sinh vào cõi khí Thiên Thần (Đỉnh Đầu) 4. Thiên chúa giáo a.Giê Su Cơ Đốc bị đóng chết trên cây thập tự giá, điều này ám chỉ cho mọi người biết rằng: chính giữa cây thập tự giá có một vị chân nhân bất sanh bất diệt. b.Giê Su Cơ Đốc tuyên bố với các môn đồ: “Người mà có thể vác lấy cây thập tự giá của mình, TứQuan Mắt (Thị giác quan) Tai (Thám thính quan) Mũi (Thẩm phán quan) Miệng (Xuất nạp quan) Noãn Sanh (Chim, Gà, Vịt …) Thai Sanh (Bò, Dê, Chó …) Hóa Sanh (Muỗi, Ruồi, Kiến …) Thấp Sanh (Cá & các loài biển)
  • 16. 15 mới xứng là đệ tử trung thực của Giê Su ta.” Ý nghĩa trong câu này là: tìm được cây thập tự giá của mình mới có thể đạt được vĩnh sanh (sống mãi), thập tự giá này chính là ở ngay chỗ mà hôm nay Minh Sư nhất chỉ (Người chân nhân thật sự có một không hai ở tại nơi huyền quan của chúng ta). c. Giê Su nói: “Các con phải vào cửa hẹp, bởi vì cửa dẫn tới diệt vong là rộng, đường vào rất lớn, người vào đó cũng rất đông. Cửa dẫn đến vĩnh sanh là hẹp, đường vào rất nhỏ, người tìm để vào cũng rất ít.” (Mã thái phước âm chương 8 trang 3)  Ý nói Huyền Quan là phương tấc bảo địa, tức là cánh cửa vĩnh sanh rất hẹp, để linh tánh về trời. 5. Hồi Giáo “Hồi hồi chi địa thị dã” – Hồi giáo tên gốc là Islam, ý nghĩa là hòa bình, phục tùng chân nhân.
  • 17. 16 Tóm lại, vô số ấn chứng đều ám chỉ điểm Huyền Quan diệu khiếu này, là cánh cửa thông thiên sau này để linh tánh quy chân (tìm về chân lý) cũng chính là chân lý chung của các giáo. Sau khi đắc Đạo, chỉ cần không phản Đạo, Đạo Đức đồi bại, sau này trăm tuổi về già, xác thân mùa đông không cứng, mùa hè không thối nát, khuôn mặt hiển báo điềm lành, an nhàn mềm mại và đoan trang.
  • 18. 17 BẢO THỨ HAI  KHẨU QUYẾT Khẩu Quyết là thần chú thông thiên, người xưa muốn cầu chân Đạo, phải chịu ngàn vạn đau khổ, đi ngàn dặm tầm Minh Sư, vạn dặm tìm Khẩu quyết. Nay vào lúc Thiên Đạo phổ truyền, khẩu quyết chân ngôn, khẩu truyền tâm ứng. Năm chữ chân ngôn này là: “0 0 0 0 0” là khẩu lệnh để mở cửa về trời.  Chữ thứ nhất ý nói: “Vô Cực Lý Thiên” là quê hương của linh tánh, là nơi cư ngụ của Thượng Đế, là chỗ ở của các vị Tiên Phật Bồ Tát, cũng là nơi quay về của các Phật Tử đắc Đạo sau này.  Chữ thứ hai là đại diện cho “Thái cực khí thiên” là nơi cư ngụ của Khí thiên thần, khí thiên còn phải ở trong âm dương ngũ hành, chịu sự hạn chế của khí số. Những người tu hành hồi xưa, những tu sĩ ngồi thiền luyện khí, chưa gặp được hồng ân của Ơn Trên độ về Lý Thiên, hoặc các người con trung thành hiếu thảo, những phụ nữ giữ trung trinh tiết, sau khi chết có thể được thăng làm thần tiên nơi khí thiên, linh hồn tới nơi thiên giới này, chỉ có thể hưởng được mấy trăm năm hoặc mấy ngàn năm hương quả
  • 19. 18 như Thổ Địa Công, Thành Hoàng Gia, Ma tổ,… sau khi hưởng hết phước báu thì phải tiếp tục luân hồi.  Chữ thứ ba là đại diện cho “Hoàng cực tượng thiên” ý nói đến thế gian có hình có tướng mà hiện nay chúng ta đang cư ngụ.  Chữ thứ tư, thứ năm vốn là danh hiệu của Tổ Sư, ý nghĩa thâm sâu hơn chính là “Phóng chi di mãn lục hợp, quyển chi thối tàn vu mật” dẫn dạy người tu hành cần phải biết thu tâm và thả tâm.
  • 20. 19 BẢO THỨ BA  HỢP ĐỒNG “Hợp đồng giả, thông thiên thần ứng giả” là dấu ấn tay để thông thiên, tức là tín vật để về trời. Khi xưa lúc linh tánh chúng ta hạ phàm, đã cùng với Lão Mẫu ký một cam kết ước định để quay về cố hương (gọi là hợp đồng) “Tý hợi tương ứng ôm trước ngực, tránh được chín chín đại kiếp ải“ hợp đồng chính là tín vật tránh thoát được chín chín tám mươi mốt tai kiếp. Tý Hợi hai chữ này hợp lại thành một chữ “Hài” (là hài nhi) hàm ý nói chúng ta đều là hài nhi của thiên trên, những đứa con của Lão Mẫu. Thánh Kinh cũng có nói: “Nếu con không thể quay về với hình hài trẻ thơ, tuyệt đối không thể bước vào Thiên Quốc”, cần hồi phục được “lòng của trẻ sơ sinh” vô tư không tà niệm mới có thể về đất nước của Thiên Quốc.  Thiên thời đã khác, ứng vận của Tiên Phật, Khẩu Quyết, Hợp Đồng và cả những kiếp số của Ơn Trên giáng xuống cũng đều có sự khác biệt.
  • 21. 20 Tam kỳ Phật Ứng Vận Khẩu Quyết Hợp Đồng Kiếp Số Thanh Dương Kỳ Nhiên Đăng Cổ Phật Vô Lượng Thọ Phật Lá Sen Long nạn thủy kiếp (9 kiếp nạn) Hồng Dương Kỳ Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô A Di Đà Phật Hoa Sen Xích minh hỏa kiếp (18 kiếp nạn) Bạch Dương Kỳ Di Lặc Phật 0 0 0 0 0 Củ Sen Cương phong kiếp (81 kiếp nạn)
  • 22. 21 NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT SAU KHI CẦU ĐẠO 1. Diệu dụng của Tam Bảo Tam Bảo là đại diện cho tâm pháp tương truyền của Phật Tổ. Ngoài việc để cho chúng ta hiểu được nơi ngự tại của tự tánh chúng ta và cách làm thế nào để điều tâm dưỡng tánh ra. Lúc còn sống còn là bùa hộ mệnh, tránh kiếp nạn; cũng chính là ứng vận thông thiên về trời của linh tánh sau khi mất đi. Lúc sử dụng tập trung ý niệm, thủ giữ huyền quan, trong tâm mật niệm 5 chữ chân ngôn (không được đọc ra tiếng), tay nắm lấy hợp đồng, là có thể nhận được sự gia hộ của Tiên Phật, cùng với Thiên trên tương ứng giao kèo. 2. Thiên cơ mật bảo – Không thể tiết lộ Tam Bảo vốn là thiên cơ mật bảo, không thể tiết lộ, cấm sao chép và ghi lại. Trên không được truyền cho cha mẹ anh em, dưới không được truyền cho vợ (chồng) con cái. Có tâm muốn độ hóa, có thể dẫn dắt họ cầu Đạo, trải qua thủ tục như nhau, mới có thể lãnh thọ được sự truyền Đạo của Thiên Mệnh Điểm Truyền Sư.
  • 23. 22 Trong nghi thức cầu Đạo, Điểm Truyền Sư cần phải thỉnh Chư Thiên Tiên Phật hộ pháp đàn, sau khi người cầu Đạo lập nguyện xong, là bắt đầu có thể chỉ thọ, truyền thụ Đại Đạo. Nếu đã tiễn đưa hộ pháp thần rồi (ý nói 3 ngọn đèn tắt rồi), ở trong Phật Đường cũng không được nói đến Tam Bảo, đây gọi là Thiên Cơ không tiết lộ. 3. Ăn chay 3 ngày – Cảm tạ Thiên Ân Hôm nay đắc thọ được Đại Đạo bảo quý này mà từ xưa đến nay không dễ tương truyền, cần phải cảm kích Ơn Trên từ bi giáng Đạo chi ân, càng biết thể nghiệm được Ơn Đức hiếu sanh của Ơn Trên nên ăn chay giới sát 3 ngày để biểu hiện lòng thành ý của mình. 4. Học Đạo tu bàn – Hiệu pháp thánh hiền Cầu Đạo chỉ là nhập môn, sau này vẫn phải tiếp cận Phật Đường nghiên cứu đạo lý, học theo tinh thần của Thánh Hiền Tiên Phật, tinh tấn không lùi, tự độ mình và độ người, lập nguyện liễu nguyện. Nỗ lực tu đạo bàn Đạo, sau này Đạo thành trên trời, lưu danh tại thế.
  • 24. 23 SỰ THÙ THẮNG CỦA LONG THIÊN BIỂU Câu chuyện về Hứa Truyền Doanh Hôm nay, hậu học kết duyên cùng với quý vị đề mục là: Sự thù thắng của Long Thiên Biểu – Thiên Bảng ghi danh, Địa phủ xóa tên. Tác dụng của Long Thiên Biểu ở dưới địa phủ, và sau khi dưới địa phủ dùng qua Long Thiên Biểu rồi sẽ mang trở về Thiên Đường, nhưng tên của chúng ta sẽ đặt ở nơi nào trên Thiên Đường đây? Hậu học lúc nhỏ sống ở Gia Nghĩa, gia đình rất nghèo khổ, cho đến lúc 8 tuổi, vẫn còn chưa biết xin tiền bố mẹ là gì, lúc nhỏ sức khỏe hậu học rất yếu, lúc hậu học ra đời, mẹ tôi cho tôi uống sữa tôi đều không uống, chỉ biết khóc thôi, sau này không còn cách nào, đành phải lấy nước cháo gạo cho tôi ăn. Lúc đó cha mẹ hậu học cảm thấy, thằng bé này không dễ nuôi, nên đành đem tôi đến chỗ của Thím, giao tôi cho Thím dạy dỗ và quản giáo (nhà Thím mở Phật đường và ăn chay nhiều năm). Trải qua 8 năm, cho đến lúc hậu học sắp phải đi học, cha mẹ tôi lại mang tôi về nhà. Lúc 8 tuổi hậu học vẫn còn rất đơn thuần, chưa bao giờ xin qua tiền cha mẹ một đồng hay năm xu (huệ căn xá mạng của tôi không biết ăn mặn)
  • 25. 24 Lúc nhỏ, có một lần tôi bị ốm, mẹ tôi dùng xe đẩy em bé đẩy tôi đến bệnh viện Nhân Đức trên đường Quốc Hoa huyện Gia Nghĩa, bác sĩ dùng một cái ống tiêm rất lớn tiêm thuốc cho tôi, hậu học rất sợ hãi, liền khóc lớn cho đến lúc tiên xong mới thôi, lấy thuốc xong mẹ tôi lại dùng xe em bé đẩy tôi về nhà. Ở giữa đường, đột nhiên ở phía góc Tây Bắc, xuất hiện cầu vồng bảy sắc, đứng chính giữa là ba vị Tiên Phật Phước, Lộc, Thọ, hai bên là Văn Bảo Đồng Tử, trên tay mỗi vị cầm một cây quạt ba tiêu rất lớn, cứ hướng về phía hậu học mà đi xuống. Hậu học lúc nhỏ có từng xem xiếc ca kịch, lòng nghĩ sao lại có người ở giữa không trung diễn xiếc ca kịch vậy! Khi họ càng ngày càng tiến đến gần thì lại có một luồng hương thơm, từng đợt từng đợt mà thổi tới, làm tôi cảm thấy ôi thật là thơm! Ba vị tiên Phước Lộc Thọ cứ xuống đến trước mặt hậu học và nhìn chăm chăm vào hậu họ, còn Vân Bảo Đồng tử ở hai bên thì ha ha cười. Tôi cũng không biết họ là ai, cho nên hậu học cũng cứ thế mà nhìn lại họ. Sau đó họ mới từ từ bay xa. Từ sau khi ngửi mùi hương trầm đó, cả người tôi cảm thấy rất là sảng khoái. Sau khi mẹ tôi đưa tôi về nhà, tôi liền từ xe em bé nhảy tót ra, mẹ tôi nói: “Con không được khỏe, sao lại đứng dậy rồi?”
  • 26. 25 Tôi liền bảo: “Mẹ ơi, hồi nãy mẹ có thấy ba vị tôn lão nhảy múa, người biết diễn xiếc cưỡi mây lướt gió, thật là lợi hại quá trời!” Mẹ tôi nói: “Đâu có đâu, má chỉ ngửi thấy một mùi thơm thổi tới thôi, cái gì cũng không thấy cả” Tôi nói với mẹ: “Có mà” Lại một lần nữa trong tiết Thanh Minh, tôi lần đầu tiên cùng với cha tôi đi tảo mộ, mộ của tổ tiên nhà tôi ở Lam Đầm Gia Nghĩa. Tiết Thanh Minh có rất nhiều người đều đi tảo mộ, tôi thấy mộ bia một dãy mộ dãy nối nhau rất lấy làm hiếu kỳ, lại nhìn thấy một số người đang đi cắt cỏ, có một số người thì đang cúng bái, liền hỏi cha tôi. Cha tôi nói: “Đây là chỗ sau khi người chết rồi chôn tại đây.” Hậu học hỏi: “Người sẽ chết sao?” Cha tôi đáp: “Ừ, người sanh bệnh hay lớn tuổi rồi sẽ chết, và sau khi chết rồi thì phải chôn ở nơi này.” Hậu học lại hỏi: “Mọi người đều phải chết ư?” Cha tôi nói: “Đúng vậy”.
  • 27. 26 Tôi lại hỏi: “Thế tại sao con vẫn chưa chết?” Cha tôi đáp: “Con vẫn chưa già, làm sao chết được.” Tôi nói: “ Cha ơi, thế tại sao cha vẫn chưa chết?” Cha tôi nói: “Sức khỏe cha vẫn còn rất khỏe, đương nhiên vẫn còn chưa chết rồi.” Tôi lại hỏi: “Thế sau này mẹ và anh chị em của con đều phải chết sao?” Cha tôi nói: “Người có sống sẽ có chết, hôm nay dẫn con đến cúng bà nội, bà nội con chính là chôn ở nơi này, tám năm nay đều là mình cha đến, hôm nay là lần đầu tiên dẫn con đến đây.” Tôi nói: “Hôm nay thời tiết nóng như vậy, thế người chết nằm dưới lòng đất không cảm thấy nóng sao?” Cha tôi nói: “Chết đã chết rồi, làm sao cảm thấy nóng chứ?”. Tôi lại hỏi: “Họ chết rồi chả lẽ người nhà không cảm thấy đau lòng sao?” Cha tôi đáp: “Đúng vậy.”
  • 28. 27 Tôi lại hỏi: “Thế cha và mẹ họ chết rồi, thế người nhà họ không còn được hưởng thụ niềm vui hạnh phúc gia đình.” Cha tôi nói: “ Đúng vậy” Trong lòng tôi nghĩ nếu tôi chết rồi, cha tôi nhất định sẽ rất đau lòng, người tại sao nhất định lại chết? Tại sao không thể cứ sống mãi vậy? Vì thế cha tôi dắt vào trong mộ thất, tôi không dám bước vào, bởi vì chân tôi đạp trên đất, lòng bàn chân bị ngứa, mà còn nhận thấy là đạp phải những chỗ lồi lên, ruột của người chết sẽ bị chảy ra, cho nên tôi không dám vào trong mộ thất cùng với cha tôi. Lúc đó tôi nói với cha: “Bây giờ con phải chăm sóc sức khỏe của con cho thật khỏe, đợi sau khi con trưởng thành, con sẽ lấy rìu búa đem số người chết này từng người từng người một moi lên, hỏi thử tại sao họ lại chết? Anh không nên chết, anh phải về nhà mà hưởng niềm vui gia đình.” Từ đó về sau, tâm linh của tôi cảm thấy đau nhói. Vốn dĩ không biết sanh tử là vật gì? Nhưng sau khi từ nơi mộ thất về nhà, biết được người đều phải trải qua cái chết. Về nhà rồi, tôi không dám ra khỏi nhà, mẹ tôi
  • 29. 28 cảm thấy rất là kỳ lạ, liền hỏi tôi: “Bình thường con không phải rất thích chơi đùa hay sao? Tại sao bây giờ lại không ra ngoài chơi vậy?” Tôi trả lời mẹ: “Con sợ con ra ngoài chơi, lỡ như mẹ bất cẩn chết đi rồi, con không biết phải làm như thế nào?” Bắt đầu từ lúc đó, ở trong lòng tôi thường hay nghĩ đến vấn đề sống và chết : Người tại sao phải chết? Tại sao không thể tiếp tục sống chứ? Làm sao mới có thể không còn sinh tử? Trong lòng cứ mãi tìm không ra được câu trả lời. Từ đó về sau, cá tính của tôi trở thành một người rất lập dị lẻ loi. (Từ đó có một tấm lòng thương xót tội nghiệp cho người). Có một ngày, tôi đang ngủ, ngủ đến nửa đêm, tôi đột nhiên bò dậy, biến thành một đứa bé, tôi thấy bản thân tôi nằm ở trên giường, lòng nghĩ: Đó không phải là tôi sao? Tôi không phải là tôi sao? Thân thể động đậy một chút, vậy mà có thể đi xuyên qua tường, tôi cảm thấy rất là thú vị, cũng rất là sợ hãi, ngỡ tôi đã chết rồi. Lại có một lần, nửa đêm khuya tôi lại thức dậy, liền chạy đi ra ngoài chơi. Bên ngoài tôi nhìn thấy rất nhiều người, có người xách lấy đầu đang chạy, có người ôm lấy chân, có người cầm lấy tay, nhìn thấy rất nhiều loại người này. Tôi cứ thế mà chạy, vậy mà chạy đến bên trong một
  • 30. 29 ngôi miếu, thì ra đó là Miếu Thành Hoàng của Gia Nghĩa. (Vốn là linh hồn xuất khiếu). Có một buổi tối nọ, bỗng nhiên tôi lại bò dậy, chạy đi ra ngoài. Sau khi chạy được rất xa rồi, nhìn thấy phía trước có một cây cầu đen, tôi cong lưng nhìn xuống, dưới sông rất đen, đưa tay ra không thấy năm ngón, nhưng chiếc cầu này đã nhiều năm không được tu sửa, trong lòng đang do dự, không biết có nên qua cầu không? Đột nhiên có một người, thân mặc áo cà sa, tay cầm lấy cây thánh trượng (vốn là Địa Tạng Vương Bồ Tát), ngài không nói với tôi lời nào, chỉ lấy tay chỉ về phía cây cầu, và tôi liền chầm chậm đi qua chiếc cầu đen, khi tôi quay đầu nhìn lại, thì không còn thấy người tu hành đó nữa. Qua khỏi cầu, nhìn thấy rất nhiều ruộng, còn có những con đường nhỏ giữa ruộng, tôi liền men theo con đường nhỏ giữa ruộng cứ thế đi về phía trước, không biết đi được bao xa, có một khe cốc, nhìn thấy một nhóm ông lão ở nơi đó tán gẫu, bởi vì tôi không biết mình đang ở đâu, liền hỏi các ông lão: “Ông lão ơi, đây là đâu vậy?” Ông lão nói: “Sao con có thể đến đây được? Đây chính là giới âm dương”.
  • 31. 30 Tôi nghĩ, vậy tôi không phải chết rồi sao? Vừa mới nghĩ thế thôi, lòng tôi liền thấy sợ hãi, và lớn tiếng bật khóc. Ông lão nói: “Ở đây con cũng không còn cách về nhà”. Tôi lại hỏi: “Thế đằng trước là đâu vậy?” Ông nói: “Phía trước là quỷ môn quan của Địa Phủ” Tôi quay nhìn phía trước có một dãy thành rất là lớn. Ở dương gian, chúng ta đều nghĩ quỷ môn quan có quỷ tham ăn, quỷ chết đói, đều phải đợi đến tháng bảy mới có thể ra mà đòi ăn. Nhưng ở quỷ môn quan, quỷ ra ra vào vào rất là nhiều, không cần phải đợi đến tháng bảy âm lịch mới mở cửa quỷ môn quan, mà là ngày ngày đều mở cả. Lòng tôi nghĩ, đã đến rồi thì xem thử xem rồi mới nói. Đến nơi quỷ môn quan, nhìn thấy rất nhiều quỷ ra vào, mà đầu trâu mặt ngựa, ông bảy ông tám dùng xích xuyên qua lưng họ kéo vào, và người bước vào chân đều đeo xích, tay bị xích khóa, quỷ dạ xoa ở đằng sau dùng cái xiên hoặc cây gậy để đánh kêu số người đó đi vào; cũng có người bị chó đuổi cắn phải chạy vào; cũng có người bị sừng trâu húc đuổi vào. Lúc đó thấy được rất nhiều người, cũng có người đi bộ vào;
  • 32. 31 cũng có người dùng kiệu đưa vào. Lòng tôi nghĩ, người ta vào, tôi cũng phải vào. Bỗng nhiên có một người chạy ra, hỏi tôi: “Anh muốn làm gì vậy?” Tôi nói: “Tôi thấy người khác vào tôi cũng muốn vào.” Hắn nói: “Thí chủ, anh vẫn chưa chết, dương khí nặng như vậy, làm sao có thể đến đây được?” Tôi nói: “Họ có thể vào được, tại sao tôi không thể vào?” Hắn lại nói: “Đây là quỷ môn quan, không phải là nơi vui chơi, sau khi anh vào rồi sẽ không ra được giới âm dương.” Lúc này có một người thân mặc y phục phán quan, tay cầm bút chu sa và một quyển tập chạy ra ngoài và nói: “Tinh quân, tôi phục mệnh Thập Điện Diêm Vương, mời ngài vào” Tôi nói: “Tôi không phải là Tinh quân, tôi họ Hứa.” Phán quan nói: “Tinh quân à, Thập Điện Diêm Vương có lệnh mời” Liền có một đám người đưa tôi mời vào trong.
  • 33. 32 Tôi nhìn thấy số người lúc nãy qua cửa quỷ môn quan, thì có người nói với họ nghỉ ngơi một lát, sau đó bắt đầu phát thẻ bài. Có số người thẻ bài đen, có số người thẻ bài trắng. Người lấy được thẻ bài đỏ trên thân liền phát ra khí hồng, người lấy được thẻ bài đen trên thân liền phát ra khí đen… Sau khi nhóm người đó phân chia ra rồi, không xa lắm có rất nhiều căn phòng, người thẻ đỏ thì đi vào phòng đỏ, người thẻ đen thì bước vào phòng đen. Người cầm thẻ đen ai nấy đều chau mày ủ rũ, lính quỷ mới nói: “Các ngươi ở trần gian đều làm toàn những việc xấu, đi qua thập điện các ngươi sẽ phải chịu khổ thôi!” Người cầm thẻ đỏ khuôn mặt rạng rỡ, lính quỷ đều đối với họ rất tốt, bởi vì họ ở trần gian đều làm rất nhiều việc thiện. Còn người cầm thẻ vàng, là người quy y niệm Phật, và phía sau căn phòng có Tiên Phật đang giảng kinh, họ muốn nghe kinh gì thì có thể đến đó nghe kinh đó. Lại có người trên đầu có một chấm màu trắng giống như là nước bốc hơi, tôi liền hỏi: “Đó là cái gì?” Họ nói: “Đó là họ lúc còn tại thế, thụ được Minh Sư nhất chỉ điểm nhưng lại không biết tu hành, không công không tội cũng không lỗi, cho nên đến nơi này, đều là nước bốc hơi, cũng không cách nào kết thành một vầng quang trắng. Tôi lại hỏi: “Thế họ tới đây để làm gì?” Họ
  • 34. 33 nói: “Đây không cần đi qua thập điện, trực tiếp đến chỗ nơi Địa Tạng Vương Bồ Tát” Sau đó tôi theo họ đi về nơi điện thứ nhất. Con đường đó một bên là vách núi cheo leo, một bên là vách núi dựng đứng, chỉ có thể đi song song được hai người, tôi và phán quan liền men theo con đường núi mà đi thẳng vào. Đột nhiên nghe thấy rất nhiều người đang la “Cứu mạng!” tôi ngước đầu nhìn lên, thấy phía trước có một vùng đất trống rộng lớn, có một số lính quỷ cầm lấy cái xiên cứ đuổi chạy, còn một số phạm nhân bị dây xích buộc lấy chân thì gấp rút bỏ chạy, người chạy chậm, thì bị quỷ sai dùng cây xiên chỉa vào, từ từ rồi rớt xuống dưới, mà ở dưới đó là hang động của rắn và chó thép cắn đau đớn gào thét, phán quan nói đây gọi là địa ngục động rắn chó thép. Bỗng nhiên có một đám quỷ hồn, tay đeo xích, chân đeo kiềng đang bị quỷ sai truy đuổi, đang chuẩn bị chạy trốn. Tôi liền nói với phán quan: “Thê thảm rồi, con đường này chỉ có thể đi song song được hai người, nhưng phía trước đang có mấy trăm người đang chạy về phía chúng ta, lỡ như bất cẩn, sẽ đổi lại là hai chúng ta rơi
  • 35. 34 vào địa ngục động rắn chó thép, chúng ta mau mau chạy nhanh thôi.” Tôi vừa nói dứt lời, đám người đó đã đến trước mặt. Đám người đó vừa thấy phán quan liền nhanh chóng quỳ xuống lạy, phán quan nói: “Các ngươi phạm tội, còn…” Đám người đó cứ gào kêu: “Cứu mạng, cứu mạng!” Tôi nói: “Các ngươi sao kêu cứu mạng?” Họ nói: “Lần này chúng tôi bị bắt trở về, không chỉ chịu những hình phạt này thôi, chúng tôi còn phải chịu hình phạt địa ngục cắt lưỡi, địa ngục cắt tim,… bọn chúng tôi đã lấy hết toàn bộ dũng khí mới bỏ chạy ra ngoài, anh phải cứu giúp chúng tôi.” Tôi nói: “Tôi tự thân mình còn không giữ, làm sao cứu các vị đây?” Tôi liền hỏi phán quan: “Đây là việc như thế nào?” Phán quan đáp: “Đây là linh hồn của người sau khi chết, những người này lúc còn tại thế, không ráng cố gắng làm người tốt, có người thì bán dâm, có người thì mở sòng bạc, có người thì cướp của chém giết đều bị chịu hình phạt dưới địa ngục động rắn chó thép, hôm
  • 36. 35 nay không biết lý do gì, đều chạy ra đây hết, một khi bị bắt trở về, chết là cái chắc.” Lòng tôi nghĩ, lúc trước đã từng nói qua: “Sau này trưởng thành sẽ bắt họ từng người từng người một từ trong mộ mà quật dậy, để họ trở về nhà hưởng thụ niềm vui hạnh phú gia đình. Và bây giờ họ đang ở trước mặt tôi cần cứu tôi, nếu tôi không cách nào giúp họ, thì….” Tôi liền nói: “Tôi hôm nay nếu có thể cứu các vị, là tôi bây giờ phải nhảy vào địa ngục rắn chó thép.” Khi tôi vừa nhảy vào địa ngục rắn chó thép, đột nhiên một đóa hoa sen trắng nhô ra, và đám phạm nhân nhìn thấy đóa hoa sen trắng đó, tấp nập nhảy lên đóa hoa sen trắng, hoa sen trắng đó phát ra bảy màu sáng chói, bao vây cả địa ngục rắn chó thép, rầm một tiếng toàn bộ đều không thấy, lúc này bốn bề tĩnh lặng như cũ. Nhưng quỷ sai lại kêu lên: “Thôi rồi, thôi rồi!” Tôi hỏi sao vậy? Phán quan đáp rằng: “Hôm nay họ để cho phạm nhân chạy thóat ra khỏi địa ngục động rắn chó thép, họ (chỉ quỷ sai) sẽ bị chịu cực hình.
  • 37. 36 Tôi nói: “Chi bằng tôi để cho Diêm Vương thẩm phán tôi được rồi! Đám người đó (Chỉ phạm nhân) chạy đi đâu mất rồi?” Phán quan nói: “Họ đã đi đầu thai rồi.” Tôi nói: “Hay là các ông liệng tôi xuống đó đi!” Cho nên là tôi đã theo họ đến nơi điện thứ nhất của Tần Quảng Vương. Lúc này Tần Quảng Vương đang phán xét, quỷ dạ xoa liền bẩm báo Tần Quảng Vương: “Phạm nhân đã chạy mất rồi.” Đột nhiên có một lính quỷ bắt một phạm nhân liệng xuống đất, mặt đất vốn dĩ trống rỗng không có một vật, nhưng lại xuất hiện một chảo dầu, cho phạm nhân vừa rơi vào chảo dầu tức khắc liền bị cháy khét. Tôi thấy cảnh tượng này, cảm thấy rất sợ hãi. Sau khi tôi bước vào trong, Tần Quảng Vương liền nói: “ Bây giờ hãy tạm ngừng hình phạt.” Tiếp đó lại hỏi: “Từ xưa đến nay, chưa bao giờ phát sinh sự việc phạm nhân chạy ra khỏi địa ngục rắn chó thép, tại sao hôm nay lại xảy ra điều này?” Lính quỷ nói: “ Bởi vì chúng nó bạt mạng mà chạy, lại thêm gặp vị thí chủ này, chúng nó liền quỳ xuống cầu cứ anh ta, không ngờ rằng anh ta lại tự mình nhảy vào
  • 38. 37 động rắn chó thép, lúc đó vậy mà lại nhô hiện ra một đóa sen trắng, và đám phạm nhân đó vừa thấy hoa sen trắng phát ra màu sắc sáng chói, chen nhau nhảy xuống theo, trong chốc lát thì không còn thấy gì cả.” Tần Quảng Vương hỏi tôi: “Đây rốt cuộc là như thế nào? Bởi vì lúc đó tôi còn nhỏ đã từng phát ra lời nguyện, tôi chẳng qua là muốn họ được sống trở lại, có thể cùng với người nhà họ đoàn tụ, nhưng tôi không làm được, cho nên mới nhảy xuống động rắn chó thép, đây đều là lỗi của tôi, ngài không nên trách họ” Tần Quảng Vương nói: “Đây chẳng lẽ lại là ý trời sao, ta sẽ tâu rõ với Ngọc Hoàng Đại Đế.” Bỗng nhiên Tần Quảng Vương nói với tôi: “Cậu hãy ngồi ở đây một lát” quay qua kêu gấp tên quỷ sai nói: “Ở dương gian có một người, dương thọ đã tận, hắc bạch vô thường, ông bảy ông tám hãy mau bắt người đó về.” Tôi liền hỏi: “Tôi có thể đi cùng được không?” Tần Quảng Vương nói: “Được”
  • 39. 38 Thế là tôi cùng ông bảy ông Tám cùng nhau xuất phát. Họ cứ loay hoay ở Đài Trung, bởi vì lúc đó đúng lúc 7,8 giờ tối, nơi đó có rất nhiều người đang cùng nhau tán gẫu, nghe được tiếng dây xích, lập tức xôn xao núp lên. Đột nhiên ông bảy ông tám đến trước một căn nhà ngói liền dừng lại, hai người đó đứng ở cửa không nhúc nhích, tôi cảm thấy buồn chán, nên đi vào bên trong nhà xem thử, một bà cụ đang nằm trên giường, và con trai bà đang ở bên cạnh niệm kinh cho bà nghe. Ông bảy đứng đó không động đậy, ông tám liền hỏi: “tại sao không vào bắt người?” Ông bảy nói: “Người con đang ở đó niệm Di Lặc Chân Kinh, và trên đầu người đó có một điểm sáng. Diêm Vương đã từng nói qua: “Người tụng kinh đều là người thiện, và đầu người này có điểm sáng, chứng tỏ đã được Pháp Sư điểm qua. Phải đợi anh ta đọc xong kinh mới có thể bắt người.” Chúng tôi cứ thế mà đợi, cho đến vượt qua thời gian, mới toàn bộ trắng tay quay về địa phủ, Tần Quảng Vương hỏi: “Người đã bắt về chưa?” Ông bảy ông tám liền đáp: “Dạ chưa bởi vì con trai của người đó đang niệm kinh Di Lặc, không phải ngài đã nói
  • 40. 39 qua, phàm là người đang niệm kinh, hoặc là người đang giảng đạo lý và trên đầu có điểm sáng, đều không được bắt sao? Nếu con bắt há chẳng phải phạm vào thiên quy sao?” Tần Quảng Vương nói: “Thế thì ngày mai lại đi bắt” Tôi liền yêu cầu cho tôi có thể được đi cùng, cho tới khi giải quyết xong vụ án này Hôm sau ông bảy ông tám nhận lấy chỉ dụ, lại đến trước cửa nhà người đó, bởi vì hôm qua tiếng dây xích leng keng rất lớn, cho nên bà con láng giềng người nhà của ngôi nhà này có chuyện không tốt xảy ra, cho đến chạng vạng tối, hàng xóm mới xôn xao rời khỏi. Và con trai của bà cụ đó nghĩ, mẹ mình đang lâm bệnh nặng, chẳng lẽ,… Kết quả là ông bảy ông tám vẫn phải đứng trước cửa không động đậy, thì ra con trai của bà lại đang đọc Di lặc Chân Kinh, vẫn không thể bắt được, Tần Quảng Vương lại hỏi: “Bắt về chưa?” Ông bảy ông tám đáp: “Vẫn chưa”. Tần Quảng Vương hỏi: “tại sao không bắt?” Ông bảy ông tám nói: “ Bởi vì con trai người đó vẫn đóc Di Lặc Chân Kinh.” Lúc này tôi rất hiếu kỳ, liền hỏi Tần Quảng Vương: “Tại sao người đọc Di Lặc Chân
  • 41. 40 Kinh, trên đầu anh ta có một điểm sáng thì không bắt được?” Tần Quảng Vương nói: “Đây là nguyên nhân, ở dương gian có một vị Pháp Sư, phàm là người được Pháp Sư chỉ điểm, ắt sẽ được Thiên Bảng Ghi Danh, Địa Phủ Xóa Tên.” Trong lòng tôi nghĩ là không tin, nhất định phải làm rõ chuyện này. Đến ngày thứ 3 tôi lại đi cùng. Hôm đó ở Đài Trung có một vị Pháp Sư đột nhiên nghĩ tới con trai của bà cụ này đã lâu không đến Phật Đường, rốt cuộc là như thế nào? Qua sự hỏi thăm, mới biết là do mẫu thân mắc bệnh, và dạo gần đây hàng xóm thường nghe tiếng dây xích kêu leng keng, có thể địa phủ muốn đến bắt người, anh ta sợ mẹ mình xảy ra chuyện không may, liền cứ thể túc trực bên cạnh mẹ. Sau khi Pháp Sư biết được, liền dắt nhiều người đến nhà bà cụ giảng đạo lý, và khi ông bảy tám đang định đến bắt người, không ngờ rằng con ở xa mấy trăm dặm đã dừng chân lại không dám đến gần nữa. Thì ra khí thiện của số người đó quá mạnh, cả ông bảy ông tám cũng không dám tới gần. Lần thứ 3 ông bảy ông tám lại trắng tay trở về! Hôm sau Pháp Sư liền phái người đến đón bà cụ về Phật Đường cầu đạo, ông bảy
  • 42. 41 ông tám không biết còn đang đợi Tần Quảng Vương hạ lệnh bắt người. Tần Quảng Vương nói: “Hôm nay người này đắc Đạo rồi, có thể Địa Phủ rút tên, Thiên bảng ghi danh, không cần phải đến địa phủ thọ hình nữa.” Lúc này trong lòng tôi phát ra tia sáng, biết được ở dương gian có Pháp Sư có thể truyền Đạo, sau khi đắc Đạo, thì có thể thoát ra khỏi luân hồi tam giới. Lại có một lần, Diêm Vương đang phán xét vụ án, đột nhiên Tam Quan Đại Đế phái người giá đáo, Diêm Vương liền ra ngoài đón tiếp, người đến cầm lấy một tờ Long Thiên Biểu, đọc nội dung của tờ Long Thiên Biểu. Chúng ta ở trần gian nhìn thấy Long Thiên Biểu là tờ giấy rất nhỏ, nhưng mà Long Thiên Biểu ở dưới Địa Phủ to bằng mấy ngôi nhà. Sau khi Diêm Vương tiếp biểu, liền kêu phán quan lấy sổ sinh tử qua. Tiếp đó liền dựa theo tên tuổi ghi trên tờ Long Thiên Biểu, đem tên người đó ở trong sổ sanh tử gạch bỏ đi. Sổ sanh tử làm bằng tre, to lớn giống như núi vậy. Tôi rất hoài nghi, hỏi Diêm Vương, đây rốt cuộc là chuyện như thế nào vậy?
  • 43. 42 Diêm Vương nói: “Khoan đợt lát đã, đợi tôi gạch xong.” Gạch tên xong rồi, lại phát một mệnh lệnh ở trong địa phủ, ngoài thập điện không được xá và kẻ giết người đốt nhà ra, chỉ cần người có con cháu đã được xóa tên trong sổ sinh tử, từ nay về sau đều được miễn tội cực hình dưới địa phủ. Có câu nói: “Nhất tử đắc Đạo, cửu huyền thất tổ đồng được chiêm quang (thơm lây), nhất tử thành đạo, cửu huyền thất tổ được siêu thăng.” Bởi vì con cháu họ đã cầu được Đạo, cho nên họ có thể chiêm quang. Diêm Vương sẽ đem tổ tiên của số người cầu Đạo, toàn bộ triệu tập đến trước điện Diêm Vương, đích thân chúc mừng họ. Bèn nói với họ: “Từ nay về sau các người không cần ở trong thập điện chịu thọ cực hình nữa, bởi vì con cháu của các ngươi đắc được Đạo, Đạo là… Ân trên Lão Mẫu giáng xuống. Trên độ hà hán tin đẩu, trung độ nhân gian thiện nam tín nữ, dưới độ địa phủ U Minh. Hôm nay con cháu các ngươi đắc Đạo, các ngươi không cần lại địa phủ thọ hình, một người phát một đóa hoa sen trắng, từ giờ trở đi các ngươi có thể đến chỗ Địa Tạng Vương Bồ Tát nghe kinh”.
  • 44. 43 Chỗ Địa Tạng Vương Bồ Tát có một giảng đường giảng kinh thuyết pháp, ở nơi đó sẽ phân vong hồn người mất ra ba cấp bậc. Cấp thứ ba là con cháu đắc được Đạo, Long Thiên Biểu sẽ do Tam Quan Đại Đế phái người đưa đến Địa Phủ, tên của người đó trong sổ sinh tử sẽ được xóa bỏ, Cửu Huyền Thất Tổ không cần ở dưới địa phủ thọ cực hình, và trên thân mỗi người gắn một đóa sen trắng, đến phòng nghe kinh của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nghe Địa Tạng Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp, nhưng không có ghế để ngồi. Sau khi tu đạo tận tâm tu hành một thời gian, cửu huyền thất tổ của mình sẽ được vào nơi địa phủ dành cho vong hồn cấp thứ hai; nếu như trì chay hoặc thiết lập Phật Đường, trở thành Đàn Chủ, cửu huyền thất tổ sẽ được vào nơi địa phủ dành cho vong hồn cấp thứ nhất, do đích thân Địa Tạng Vương Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp. Lúc tôi đến giảng kinh đường của Địa Tạng Vương Bồ Tát, thấy được một số người, đầu cứ cúi thấp xuống, tôi cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi họ: “Quý vị đến đây nên phải mừng chứ! Tại sao cúi đầu xuống vậy?” Họ đáp: “Chúng tôi đến đây là rất vui mừng, con cháu ở dương gian có thể đắc được Đạo, thọ
  • 45. 44 Minh Sư chỉ điểm, nhưng chúng nó sau khi tu được mấy năm, trở thành tay lỗi đời, lười biếng, tôi cảm thấy ngại quá, đầu mới cúi xuống đó.” Tôi hỏi họ: “Tại sao không báo mộng cho con cháu biết?” Họ nói: “Không được, chúng tôi muốn báo mộng 5 phút phải cần rất nhiều công đức để đổi lấy, lỡ như chúng nó vẫn không hiểu, tôi há không phải uổng hết công đức sao? Nhưng tôi vốn đã vô công vô đức, làm sao dám tùy tiện dùng công đức đi đổi chứ!” Tôi liền nói với họ, tôi nhất định sẽ đem tin tức của vong linh cấp thứ ba này truyền ra ngoài. Nhưng Diêm Vương lại không cho tôi biết, ở dương gian nơi nào có Pháp Sư (Điểm Truyền Sư) có thể truyền Đạo. Tôi cứ cho rằng Pháp Sư nhất định là người xuất gia, cho nên tôi tìm khắp chốn Gia Nghĩa cũng đều không tìm thấy được Đạo Một ngày tôi lại đi ra ngoài tìm Đạo, tôi từ Gia Nghĩa đến Quan Tử Lĩnh, đi qua Thiên Thảo Phủ đến nơi Đại Tiên Tư, liền hỏi các tăng ni trong chùa: “Các ngài có Đạo không?”
  • 46. 45 Họ đáp là: “Đạo hả?” (chữ Đạo tiếng Đài cùng âm là ý nói đạo giống, hạt giống). Tôi nói: “Không phải cái đó , tôi muốn hỏi, cái Đạo mà Pháp Sư sau khi giúp người ta một điểm thì có thể Thiên Bảng ghi danh Địa Phủ rút tên cơ.” Tôi cứ thế đợi đến trời tối mới về nhà, hòa thượng trong chùa muốn lưu tôi ở lại nói: “Trời tối rồi, đường núi khó đi, anh không sợ sao?” Tôi nói: “Không sợ, sơn thần của các vị sẽ bảo vệ tôi.” Nói xong rồi tôi liền xuống núi. Tôi cứ vậy đi khắp nơi tìm Đạo, tìm Minh Sư Trải qua 18 năm, sau khi tôi đi lính trở về, ở Tân Á làm việc, thường chuẩn đoán bệnh cho toàn tỉnh. Một ngày nọ, đột nhiên tôi nằm mơ thấy 18 vị thiên nhân vác lấy ngôi nhà bốn tầng lầu. Tôi hỏi: “Đây là cái gì?” Họ nói: “Đây là oan nợ” Tôi lại hỏi là: “Oan nợ của người nào sao mà nặng như vậy?” Họ nói: “Đây là oan nợ của anh.”
  • 47. 46 Tôi lập tức nói: “Không phải, không phải, tôi một đời ăn chay, lại không có làm 10 việc ác không thể tha, tại sao lại có nhiều oan nợ như vậy?” Họ nói: “Đó là anh gánh giúp người khác.” Tôi nói: “Nếu là oan nợ của tôi, tôi tự gánh lấy được rồi!” Họ nói: “Anh gánh không nổi, Lão Mẫu hạ chỉ cần gánh các oan nợ của anh đi về.” Sau đó tôi liền tỉnh dậy. Một ngày, có một người bạn kiếm tôi đi Đẩu Lục chuẩn bệnh. Mùng 02 tháng 07 mới đi Đẩu Lục, ngày hôm đó đúng lúc có bão lớn, tôi tan ca xong đến Đẩu Lục đã hơn một giờ mấy rồi. Tôi còn nhớ hôm đó là đội Thất Hổ đánh bóng chày, nói với người bạn là năm giờ sáng nhớ kêu tôi dậy đánh bóng chày. Sau khi ngủ thì liền biến thành một đức bé, thân đeo ruy băng, linh hồn lại xuất khiếu rồi. Từ trên giường ngồi dậy, mỗi một bước đều có hoa sen, đi qua một cái biển rộng, lại đi qua một dãy đất hoàng kim, bên cạnh là những hoa quả kỳ lạ, đột nhiên đến một nơi đại điện, có sáu vị tiểu đồng đang ở đó quét nhà.
  • 48. 47 Chúng nó nhìn thấy tôi liền nói: “Sư huynh về rồi hả?” Tôi nói: “Các cậu là người nào vậy?” Tiểu đồng nói: “Huynh mới đi xuống dưới có một tiếng mấy đồng hồ thôi, về đến nhà liền quên hết các tiểu đệ rồi!” Chúng nó nói với tôi: “Chân nhân đang ở bên trong, ngài muốn gặp huynh” Tôi đi vào, bên trong rất lớn, hai bên có rất nhiều vị thần đứng, nhưng chính giữa có ba ngọn đèn Phật, ngay giữa điện có một người ngồi đó, toàn thân phát ra luồng ánh sáng. Tôi liền hỏi: “Ngài là ai? Tại sao tôi có thể đến nơi này” Ngài nói: “Ta hôm nay rất là vui mừng” Ngay tức khắc ha ha cười lớn, tôi cũng ha ha cười theo. Ngài lại nói: “Ta là Thái Dương Chân Quân” Sau đó tôi liền tỉnh dậy. Dân quốc năm 68 mùng 03 tháng 07 ngày bão táp, mưa gió rất lớn không cách nào đi chẩn bệnh được. Người bạn liền nói dẫn tôi đi một nơi này, thì ra là Tiên Thiên Phật Đường, Điểm Truyền Sư liền bẩm báo Lão Tiền Nhân, sau khi Lão Tiền Nhân đồng ý,
  • 49. 48 mới bắt đầu bàn Đạo. Khi Điểm Truyền Sư cầm tờ Long Thiên Biểu, hỏi tôi là: “Anh biết tờ Long Thiên Biểu này không?” Tôi nói: “Biết, tờ Long Thiên Biểu này là của Địa Phủ. Ở dưới Địa Phủ là một tờ rất là to lớn, sao ở nhân gian lại nhỏ như vậy?” Ngay lập tức liền quỳ xuống, thành tâm cầu xong Đạo. Khi đèn Phật vừa được thắp lên, vốn dĩ là mưa gió tầm tã, đột ngột có ánh mặt trời chói chang, mây đen đều không còn nữa. Một giờ mấy Điểm Đạo, tôi vốn đang nhìn Điểm Truyền Sư ở trước mắt, lại biến thành Tế Công Lão Sư, đến trước mặt tôi, điểm một điểm lên trán, đột nhiên có một luồng ánh sáng phát ra, lại nhanh chóng đậy lại, cả Tế Công Lão Sư cũng không nhìn thấy nữa, cho đến khi nói xong Tam Bảo, trời lại tiếp tục mưa bão đan xen lẫn nhau. Sau khi cầu Đạo, một ngày nọ, tôi lại đi ra ngoài chẩn bệnh cho người ta, vì quá mệt, nên đã thiếp đi. Bỗng nhiên có một vị Tiên Phật đến, kêu tôi thúc dậy, cầm một chiếc đạo bào (áo dài), một đôi dép kêu tôi mặc vào. Tôi nhìn sơ thấy chiếc áo quá lớn, quả thật không quen. Ông lại lấy một tòa linh long tháp
  • 50. 49 bảy tầng cho tôi, đeo linh long tháp vào, trong tích tắc người tôi bỗng biến thành một người cao to, chiếc đạo bào cũng trở nên vừa thân, tôi tức khắc liền theo chân Quan Thế Âm Bồ Tát, đi với tốc độ rất nhanh, phong cảnh hai bên đều không nhìn rõ,… đến nơi Cửu Cửu Tử Dương Quan, bên ngoài có rất nhiều người đang xếp hàng. Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát họ đang làm gì? Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Họ đang đối chiếu Tam Bảo.” Sau khi cầu Đạo nếu quên Tam Bảo thì sẽ không được qua Cửu Cửu Tử Dương Quan này. Quan Thế Âm Bồ Tát liền cùng tôi đi qua Cửu Cửu Tử Dương Quan. Sau khi từ Nam Thiên Môn vào, Thiên Đình có 124 Thiên Ngục, bên trong có một cái gương soi sám hối chiếu qua, toàn bộ hiện ra đều rõ hết. Nếu như trải qua ba ngày ba đêm mà người đó vẫn không giác ngộ được, nhân quả ba đời của người đó sẽ hoàn trả lại cho người đó; nếu có thể giác ngộ, thì xem như qua được cửa ải này. Ở Cửu Cửu Tử Dương Quan, nếu như không qua được sắc quan (cửa ải về sắc đẹp), thì cần phải ở đó tu luyện; còn có đỗ quan (cửa ái đánh bạc), vừa bước vào có rất nhiều dụng cụ đánh bạc, nếu không có ý
  • 51. 50 niệm cờ bạc, thì có thể qua cửa. Sau khi trải ba ngày ba đêm, thì có thể qua Phong Vương Thiên Ngục, nếu không có tà niệm, thì có thể dễ dàng qua được, nếu tạp niệm vừa khởi, Phong Vương sẽ qua đó trừng mắt truy hỏi người đó, đây chính là đang luyện tánh của chúng ta. Cho nên ở Cửu Cửu Tử Dương Quan là để tu luyện tính khí của người tu hành. Qua được Cửu Cửu Tử Dương Quan, nhìn thấy một tòa đại điện. Trên cột rồng là rồng thật đang đi, bức hoành trước cửa viết chữ “Vô Cực Cung”. Vô Cực Cung rất lớn, Quan Thế Âm Bồ Tát dẫn tôi vào đó trong đó có rất nhiều người đang ăn cơm, đang ăn đào tiên. Đào tiên vào miệng thì không còn, nhưng mùi vị rất là thơm. Chính giữa có một người ngồi trên ghế đầu rồng, tay cầm lấy cây gậy đầu rồng, tôi đều không thấy rõ hình dáng của người đó, hào quang của ngài rất chói, ngài ngồi đó cứ khóc suốt, tôi đã từng nghe qua: “Nguyên tử tạo, diệt nguyên tử” Tôi liền nói: “ Người này tạo sao cứ khóc hoài?” Lúc này Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đây chính là vị sinh trời, sinh đất, sinh linh tánh của chúng ta,… Vô Cực Lão Mẫu!”
  • 52. 51 Sau khi bái qua ngài, tôi nhìn thấy có người đang ăn đào tiên, tôi cũng muốn ăn. Quan Thế Âm Bồ Tát liền nói: “Muốn ăn thì nói với Lão Mẫu”. Tôi lập tức nói ngay: “Lão Mẫu con muốn ăn Đào Tiên”. Sau khi Lão Mẫu kêu người một ly nước quỳnh tương ngọc cho tôi uống vào, cả người tôi cảm thấy rất mát mẻ thoải mái. Tôi lại nói: “Cho con thêm một ly”. Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Sao con tham vậy” Tôi nói: “Con không biết, con muốn uống”. Lúc này có mấy vị đồng tử ôm ra một hủ cho tôi, tôi liền gấp đổ ra một ly, vừa uống vào liền nói: “Con không uống, con không muốn uống”. Bởi vì trong đó đã hỗn hợp các mùi chua ngọt đắng chát, rất khó uống! Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Không thể không uống được” Liền kêu người bắt giữ lấy tay chân tôi, bóp lỗ mũi tôi ép đổ vào bắt tôi phải uống. Tôi khóc một mạch đột nhiên tôi nhìn thấy một người có gương mặt em bé, bụng thì bự bự, thân mặc chiếc áo giáp, cứ ha ha cười
  • 53. 52 liên tục, tôi cũng theo ông ấy ha ha cười, thì ra ông chính là Di Lặc Tổ Sư. Lão Mẫu nói: “Con chưa từng đến đây, tham quan xong rồi với trở về nhé!” Quan Thế Âm Bồ Tát dẫn tôi tham quan khắp nơi, sau đó mới quay trở về. Đi đến một nơi, ở đó đều là mây mù, cả Quan Thế Âm Bồ Tát tôi cũng nhìn không thấy. Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Mắt của con đương nhiên là nhìn không thấy rồi”. Liền nhỏ mấy giọt vào nước mắt của tôi, tầm nhìn của tôi như phóng hào quang. Nhìn thấy mọi người đang diễn xiếc, rồng phía trước, phụng phía sau, lại có kỳ lân, cũng có tiên nữ thả hoa, quá thật là rất đẹp! Tôi hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: “Con sớm nên đến đây xem mới phải.” Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Muốn xem cái này, sau khi tam tào phổ độ, ở đây sẽ mở một Đại hội Long Hoa, mỗi một người đều có thể đến đây, sau khi ăn đào tiên vạn Tiên vạn Phật Bồ Tát đều có thể đến nơi này.”
  • 54. 53 Sau đó lại đến một nơi, tôi liền bước vào, vừa mở cửa ra, thì ra là điện Công Đức của Thiên Đường, các thẻ bài đó đều rất lớn a! Có số thẻ bài chỉ có một điểm sáng, có số thẻ bài thì rất sáng, có số lại nửa sáng nửa tối, có số lại một chấm một chấm đen đen. Tôi liền hỏi Quan Thế Âm Bồ Tát: “Đây là cái gì? Tại sao lại chỉ có một điểm sáng?” Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là những người họ ở dương gian đắc được Đạo nhưng không có tu.” Tôi lại hỏi: “Thế một chấm đen đen đó là gì?” Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là ở Dương gian sau khi đắc Đạo, lại làm việc xấu, làm một việc xấu ắt sẽ chấm một chấm đen vào, sau này trở về trời sẽ tính tội sau” Tôi lại hỏi: “Thế nửa sáng nửa tối là như thế nào?” Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là cầu đạo rất nhiều năm rồi, vẫn không biết trì chay thọ giới, thiết lập Phật Đường.” Thế nào thẻ rất sáng thì như thế nào? Quan Thế Âm Bồ Tát nói: “Đó là những người thiết lập Phật Đường và rất thành tâm tu Đạo, sau này đều là chứng quả Bồ Tát”
  • 55. 54 Hôm nay ở dương gian đắc được Đạo, thọ Minh Sư nhất chỉ điểm, có thể Thiên Bảng ghi danh Địa phủ rút tên, sau này chúng ta ở Thiên đàng mở đại hội Long Hoa, thì sẽ có thể nhìn thấy thẻ bài của chúng ta ở trên đó. Hy vọng các vị tiền hiền đều có thể thành tâm hướng Đạo, bớt sát sanh nên hành nhiều công đức, sau này thẻ bài của chúng ta sẽ phát sáng hào quang.
  • 56. 55 ĐẠO NGHĨA THAM KHẢO 1.Cầu Đạo có lợi ích gì? Đạo là đại lộ, vốn là con đường chính để trở về Tây Phương cực lạc của thiên đường nhưng không phải là con đường của con người ở dưới phàm trần, không phải con đường lạc vào khổ ải, càng không phải là con đường đọa lạc vào luân hồi, con đường này ở đâu đây? Người ngộ thấu sẽ ở gần ngay trước mắt, một bước có thể trực siêu, người mê muội sẽ ở xa xôi 180.000 dặm, tải qua ngàn vạn lần trầm than luân hồi, vẫn không thể tìm ra được con đường chính này, tuy đã mấy chục ngàn năm rồi, cũng không đi đến được con đường kỳ diệu bí mật nhất này nhỉ! Thì ra con đường này là ở trong bản tánh của con người chúng ta, đến từ nơi Lý Thiên. Lúc đến ở Lý Thiên gọi là chân lý vô cực, được giao phó vào trong thân người, thì gọi là Tính, chính là “Tính Lý”. Khi đến đã từ nơi đó mà đến, khi về cũng phải trở về lại nơi đó. Đó chính là sinh ra chết đi của con người, cần phải theo chân kinh chính lộ, cho nên lại xưng gọi là “Đạo”, nguyên nhân chính là như vậy.
  • 57. 56 Khổng Tử nói: “Ai có thể ra vào nhà mà không từ cửa, há có thể tìm ra được con đường Đạo.” Cũng chính là ý đó. Nói cách khác, chính là đi tìm lại lương tâm thiên lý của bản tánh. Mạnh Tử nói: “Đạo của học hỏi là không có cái gì khác, cầu được lòng yên tâm này là đủ rồi”. Nếu như cầu được “Chân Đạo Tính Lý” này thì có những điều tốt gì?  Có thể siêu sanh liễu tử Siêu sanh liễu tử là ý nghĩa gì? Chính là thoát ra khỏi âm dương, nhảy ra khỏi ngũ hành, thoát khỏi luân hồi, đi đến cực lạc. Tránh khỏi phải sanh tử khổ hải. Sao lại phải cầu siêu sanh liễu tử? Bởi vì việc sanh tử này, đều không phải là việc tốt, dương thế âm phủ, đều không phải là nơi tốt để đi đến, cho nên Trang Tử có nói: “Tôi vốn không muốn sanh, đột nhiên sanh ra đời, tôi vốn không muốn chết, đột nhiên ngày chết đến”. Thích Ca năm xưa bỏ đi ngôi vị cao quý trong thâm cung, cũng vì chuyện sanh tử đại sự này mà xuất gia, nên thấy rằng thế gian không phải là nơi lạc quốc, sống ở dương gian cũng là sống ở địa ngục, chết ở dương gian chính là chết ở địa ngục.
  • 58. 57 Cho nên cần phải cầu Đạo, thọ Minh Sư chỉ thụ “Tính Lý Chân Truyền”. Siêu thăng cực lạc thiên đường, tránh lại phải giáng sanh trần thế, chịu cái khổ chuyển biến của tứ sanh lục đạo và âm dương luân hồi, vì những điều này nên con người cần phải siêu sanh liễu tử.  Có thể cải ác hướng thiện, đổi tà quy chánh Cầu Đạo mới có thể tìm về lương tâm bản tánh, mới biết được lòng người có thật có giả; thật chính là lương tâm bản tánh, tức là nguyên thần; giả chính là tim máu, tim người chính là thần thức. Thế nhân mỗi một ý niệm đều lạc vào tham tà tư lợi, mỗi một cử động, thường thuộc hai kẻ hồ ly thâm hiểm và độc ác, đều vì bản tánh lương tâm, đã bị dục vọng của tình trường quen thuộc che lấp. Không thể hiện ra được, mặc cho thần thức của tim máu, tim người tác quai tác quái tìm ra. Cho nên nên cần phải cầu Đạo, mới có thể tìm về bổn tâm vốn có, phát sanh ra diệu trí huệ, mới có thể chiếu sáng được thị phi uẩn khúc, thiệc ác tà chánh, chuyển được ý thức là có trí huệ, thụ giữ cái chánh bỏ đi cái
  • 59. 58 tà. Những hành vi mình làm, đều phải dựa vào thầy là bản tánh trung đạo vốn có. Nên Khổng Tử có nói: “Trong ba người đi cùng, ắt có một kẻ là thầy của ta, chọn kẻ thiện học mà làm theo, chọn kẻ không thiện mà tự sửa đổi”. Câu nói này ý nói bản tánh lương tâm, chính là người thầy của chúng ta, phàm làm một việc gì, theo lương tâm bản tánh này mà làm, thì sẽ không thất thoát một thứ gì cả. Kẻ không thiện chính là cái gọi rêu rao của mắt mũi, cho nên cầu Đạo, mới có thể cải ác hướng thiện, cải tà quy chánh, thành khẩn hiếm thấy.  Có thể tiêu họa kiếp, giải oan nghiệt Họa kiếp oan nghiệt, đều do người tự tạo ra, bởi vì mọi người bỏ đi bổn tánh, quên đi bát đức, lấy tim máu để dụng sự, những hành vi mình làm đều trái với lương tâm, không hợp với Thiên Lý Chánh Đạo. Cho nên mới kết cái oán, tạo nhân quả, tại họa liên tiếp kết nối, lâu ngày rồi liền kết thành đại kiếp nạn mà từ xưa đến nay chưa hề có. Vì thế cần phải cầu Đạo, tìm về bổn tâm, mới có thể tiêu họa kiếp, giải oan nghiệt. Nếu có thể cầu được chánh Đạo lương tâm trở về tự nhiên sẽ biết được kiếp họa do đâu mà có, oan
  • 60. 59 nghiệt do đâu mà kết, sẽ tự biết hối sửa lỗi lầm khi xưa, thành tâm sám hối, tích cực hành công lập đức, để chuộc lại lỗi lầm đã tạo, tự nhiên oan nghiệt sẽ được tiêu giải, không có sự dây dưa. Từ nay về sau, một lòng một dạ cứ theo bổn tâm mình làm chủ, nhất cử nhất động cứ tuân thủ theo bát đức, thì làm sao có thể kết được nợ nghiệp và tạo nhân kiếp? Như thù mới này không kết, nợ cũ này không tồn, thân tâm thanh tịnh, tự nhiên họa kiếp oan nghiệt, không cần giải tự nhiên sẽ tự giải.  Có thể cải được số mệnh Vận mệnh do đâu mà có, do trời an bày? Do thần sắp đặt? Do người tự tạo ư? Tự tạo cái nhân, thiên thần chỉ trợ giúp cái duyên, cuối cùng tự nhiên kết thành cái quả. Nói tóm lại, cái duyên cái nợ ba đời, cái ăn cái mặc của kiếp số, tuy là thiên trên trợ duyên, thực tại đều do lòng người tự tạo mà có. Xem các ông ngày nay, phải hoạt sinh vào gia đình vương công làm quan làm tướng, ruộng đất mấy chục ngàn khoảnh, nhà lầu cao tầng, giàu có một vùng, là do người này kiếp trước họ giữ được bản tâm tốt, tâm không rời Đạo, và tổ tiên của họ lại có công đức thâm
  • 61. 60 hậu, phước báu họ trồng đều là mạ giống tốt, tự nhiên kiếp này họ sẽ kết được trái tốt. Đó là đạo lý của tự nhiên. Hoặc có người vừa sinh ra, bệnh tật đầy người, cả đời lưu lạc, nghèo khổ đến không đất cắm dùi, nhà không có thức ăn để sống, hoặc cô đơn cô độc một mình, hoặc tai họa liên miên, đều là do ba đời không tu, bổn tâm lạc mất, dùng thần thức máu tim dụng sự, phước điền họ trồng toàn là giống mạ ác, đương nhiên sẽ không có được trái ngon để ăn. Có câu nói: “Trời cao lồng lộng, báo ứng không sai, không tin thì thôi” Họa phước không cửa, tự mình chuốc lấy, muốn cải đổi số mạng, cần phải tìm về bổn tâm, lấy mạ giống ác trong phước điền vứt bỏ đi, trồng lại hạt giống tốt, sau này tự có quả ngon. Nhà triết học Hồng Tử nói: “Công lao cái thế, không xứng bằng một chữ “căng” (thương hại, tiếc rẻ), tội lỗi đầy trời, không xứng bằng một chữ Hối (sám hối)”. Thử nhìn lại Khưu Tổ, khi xưa vốn kim xà xả khẩu, có số mệnh hung ác, sau khi cầu Đạo, nỗ lực tu hành, tích lũy công quả, đến cuối cùng oan nghiệt đã được tiêu giải, trong sự không hay biết, trong sự âm
  • 62. 61 thầm, đã sửa thành song long thưởng châu, có phong cách một người đại phú quý. Điều tốt của cầu Đạo, lại có thể làm sáng rõ được cái tâm của mình. Nên mới biết: “Hành tận thế gian thiên hạ lộ, Độc thị tu hành bất ngộ nhân” 2. Tại sao phải cầu Đạo? Đáp: Cây có cội, nước có nguồn. Nhân sanh tại thế nếu như không biết cái tâm vốn có của mình, thì sẽ không hiểu được sống từ đâu mà đến, chết đi về phương nào? Và ở trong khổ ải của sống và chết cứ đến và đi vô thời hạn. Cầu Đạo chính là muốn chúng ta nhận thức được bổn lai của chính mình, tìm về lương tâm bản tánh, cầu đắc được một con đường để trở về trời. Bởi vì linh hồn con người bất diệt (không bao giờ chết), đời đời kiếp kiếp cứ luân hồi không ngừng, nhưng cuộc sống lại là một bể khổ ải, vì muốn giải thoát được cái khổ của sanh tử luân hồi, cho nên cần phải Cầu Đạo.
  • 63. 62 3. Trên thân thể con người, thật có sự tồn tại của linh tánh không? Đáp: Trên thân thể con người có hai con người, một người thật và một người giả. Người giả chính là xác thân của chúng ta, sinh ra xác thân của chúng ta chính là người mẹ hiện tại của mình; và người thật chính là linh tánh của chúng ta, sinh ra linh tánh chúng ta là Vô Cực Lão Mẫu – Minh Minh Thượng Đế, cũng chính là Cơ Đốc Giáo thường xưng gọi Thượng Đế, là tổng chúa tể của cả một vũ trụ (sinh trời, sinh đất, sinh vạn vật). 4. Cầu Đạo, cầu được cái gì? Đáp: Cầu Đạo chính là cầu được một con đường trở về Lý Thiên, Linh tánh của chúng ta là do từ trời mà đến, sau này cần phải quay về trời. Cầu Đạo chính là tìm về lương tâm bản tánh, cầu được ba vật bảo bối, ba loại pháp môn của tu Đạo. 5. Tâm tốt thì được rồi, sao lại còn phải Cầu Đạo? Đáp: Lục Tổ nói: “Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích”. Người tốt là rất tốt, nhưng nếu không Cầu Đạo, vẫn còn phải ở trong tứ sanh lục đạo luân hồi, cho dù có hành thiện bố thí, chỉ là phước báo của kiếp này
  • 64. 63 hoặc là của kiếp sau thôi, không thể siêu sanh liễu tử. Cầu Đạo nhận thức được bổn tâm, mới có thể thành tựu được vô lượng công đức, cho nên muốn giải thoát sanh tử, thành Tiên thành Phật thì cần phải Cầu Đạo. 6. Phàm phu tục tử cũng có khả năng thành Phật sao? Đáp: Phàm phu và Phật, Phật tánh vốn không khác biệt, chỉ cần tìm được cái cửa khiếu (chỉ Huyền Quan Khiếu) sau này thành Phật sẽ không khó rồi. Sau khi Cầu Đạo, thành tâm tu trì, đều có thể thành Phật. 7. Từ cổ đắc Đạo không dễ, hôm nay chúng ta cứ như vậy liền đắc Đạo, có phải là quá dễ dàng không? Đáp: Chúng ta học Đạo cần phải hiểu biết Thiên thời. Thời xưa chân Đạo truyền lén, phải tu luyện trước đạt đến 3000 công, 800 quả, mới có thể đắc Đạo, đó gọi là tu trước đắc sau. Muốn đắc Đạo thật không dễ dàng. Hôm nay do Thiên thời đã khác, đúng vào lúc Tam kỳ mạt kiếp, chúng sanh đồ than, sanh linh chịu khổ, đặc biệt là gần đây tai kiếp liên miên trước mắt. Ơn Trên khai ân, đại sắc phong Tam tào, giáng hạ Tiên Thiên Đại Đạo, phổ độ chúng sanh, chỉ cần tổ
  • 65. 64 tiên có đức, lũy kiếp có tu, tự nhiên có người dẫn dắt mình cầu Đạo, đây gọi là trước đắc sau tu, cho nên thời nay dễ dàng đắc Đạo hơn so với thời xưa. 8. Tiên Thiên Đại Đạo có quan hệ như thế nào với những tôn giáo khác? Đáp: Lấy cây để làm giả dụ: Đạo là rễ cây, gốc cây. Giáo là cành cây, nhánh cây. Cho nên Tiên Thiên Đại Đạo cùng với những tôn giáo, chánh phái khác, không những không xung đột còn có quan hệ rất mật thiết. Năm giáo vốn bổn một nhà, năm đại tôn giáo đến từ cùng một nguồn cội, có cùng chung một ý nghĩa giáo huấn. Tiên Thiên Đại Đạo thì là nguồn gốc của năm giáo này, những cái nghiên cứu thảo luận, những cái đề xướng cũng chính là cùng chung một đạo lý với năm giáo. Thánh nhân của năm giáo lưu tồn cũng đều là Thiên tâm, truyền bá đều là những cái chân lý ở đời.  Đạo là bổn thể - Giáo là ứng dụng.  Đạo là Phật tâm – Giáo là Phật ngữ.  Đạo là tự tánh – Giáo là hành vi.
  • 66. 65 9. Tứ sanh lục đạo là gì? Tại sao chúng ta lại ở trong tứ sanh lục đạo luân hồi? Đáp: Huyền Quan Khiếu là cửa chính duy nhất để linh tánh ra vào, còn lại đều là những cửa bên ngõ ngách. Linh tánh ra khỏi xác thân theo đường cửa bên, ngõ ngách này sẽ đầu thai chuyển kiếp vào Tứ Sanh Lục Đạo.  Nếu như lúc sống thích nói chuyện thị phi, thích nói chuyện xằng bậy, có thể lúc chết cái miệng mở to, linh tánh đi ra từ miệng sẽ đọa lạc vào “thấp sanh”, sẽ trở thành các loài động vật dưới nước như cá, baba, tôm, cua,…  Nếu như lúc sống thích nghe lời tiểu nhân, nhiều chuyện dò hỏi lưu truyền lời bậy bạ, lỗ tai rất nhạy bén khi nghe việc xấu, lúc chết lỗ tai vểnh to ra, linh tánh đi ra từ lỗ tai, sẽ bị đọa lạc vào “thai sanh”, trở thành các loài động vật có lỗ tai nhạy bén, biết nhúc nhính hoặc các loài thú bốn chân có thính giác nhanh nhạy như bò, dê, trâu, chó,…  Nếu như con mắt không trong sạch, hiếu sắc nhìn trộm, làm bậy, lúc chết mắt không nhắm lại, linh tánh
  • 67. 66 đi ra từ mắt thì đọa lạc vào “noãn sanh”, trở thành các loài chim có thị lực rất sắc bén.  Nếu như thích ngửi mùi hôi thối, truy đuổi theo những mùi vị hiện hành, lúc chết lỗ mũi có hơi nóng, linh tánh đi ra từ mũi, sẽ đọa lạc vào “hóa sanh”, trở thành ruồi, muỗi, kiến, và các loài côn trùng cánh cứng.  Bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hóa sanh gọi là “Tứ sanh”.  Nếu như việc thiện làm được nhiều, tu dưỡng cũng rất tốt, có thể linh tánh sẽ xuất ra từ nơi nê hoàn cung tức đỉnh đầu, sẽ chuyển vào “Thiên Đạo”, đầu thai làm một số khí thiên thần, hưởng công quả khoảng bao nhiêu năm tháng nào đó, ví như: Thổ Địa Công, Ma Tổ, các vị Thiên Tuế gia, khi khí số đã hết vẫn phải chuyển thế luân hồi.  Nếu như làm việc năng lực, siêu phàm, nhưng thói hư tật xấu quá nhiều quá lớn, đến chết không sửa, có thể đọa lạc vào “A Tu La đạo”, đầu thai làm các hung thần ác bá, hoặc các loài Ma Vương.  Nếu như thiện ác công tội vẫn còn bằng nhau, linh tánh đi ra từ lỗ rốn, thì sẽ đọa lạc vào “Nhân đạo”, tốt
  • 68. 67 một chút thì được làm người bình thường hay phú quý, xấu một chút thì sẽ làm phàm phu hay người bần cùng nghèo khổ.  Nếu như ác tính quá lớn, công ít hơn tội, thì sẽ đọa lạc vào “Tam Ác Đạo”, gồm ”Súc sinh đạo, Địa ngục đạo, Ác quỷ đạo”, sau khi trải qua hình phạt nghiêm trọng, sẽ bị phán xét đầu thai vào một trong các loài động vật của Tứ Sanh: “Noãn, Thai, Thấp, Hóa”.  Thiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo, Súc Sanh Đạo, Địa Ngục Đạo, Ác Quỷ Đạo, đó gọi là “Lục Đạo”. 10. Sau khi Cầu Đạo, phải chăng cần ăn chay hay không? Đáp: Ăn chay không phải là điều kiện tất yếu, ăn chay là theo ý nguyện của cá nhân mình, Phật quy vốn không quy định cứng rắn, tất cả thuận theo tự nhiên. Ơn Trên có đức hiếu sanh, sau khi Cầu Đạo lộ ra lòng từ bi, rất tự nhiên sẽ rất thích ăn các món chay rau tươi, không miễn cưỡng một tí nào.
  • 69. 68 11. Sau khi Cầu Đạo, tu pháp như thế nào? Đáp: Sau khi Cầu Đạo, lúc tịnh - không ngoài độ chính mình, lúc động – là đi độ người, cũng chính là học làm người tốt, tồn tâm tốt, nói chuyện tốt, làm việc tốt. Khi tịnh tự phản tỉnh kiểm điểm chính mình, sửa đổi thói hư tật xấu. Lúc động tranh thủ thời gian tham gia Bàn Đạo, độ hóa chúng sanh. Chỉ cần có đầu có đuôi, sau này ắt sẽ thành Đạo. 12. Sau khi Cầu Đạo, không đến Phật Đường có được không? Đáp: Phật Đường là nơi giới thiệu của Thiên đường, là trạm đổ xăng của linh tánh. Sau khi Cầu Đạo nên nắm bắt cơ hội tiếp cận Phật Đường nhiều, tham gia nghiên cứu đạo lý. Nhưng Đạo là rất tự nhiên, nếu như cảm thấy không có ý nghĩa gì, tuyệt đối cũng không miễn cưỡng, không có sự ràng buộc nào cả. 13. Bảo quý của Đạo có chứng cứ gì không? Đáp: Có, đạo thân sau khi cầu Đạo, chỉ cần có gắng làm người tốt, không làm điều xằng bậy, lúc lâm chung sẽ có điều lành báo trước, mùa đông không đông cứng,
  • 70. 69 mùa hè không thối rữa, mặt mang nét an nhàn, thân xác mềm mại như bông. Đây là biểu thị linh tánh đã về trời, đã được giải thoát luân hồi.
  • 71. 70 SỰ KHÁC NHAU GIỮA ĐẠO VÀ GIÁO ĐẠO là bổn thể của tánh lý, chính là chân lý của Vô Cực, cũng chính là lương tâm, vì tính lý này vốn là thiên căn của con người, nguồn gốc của tính mạng, sinh đã là do nơi đó mà đến, chết ắt phải trở về lại nơi đó, chính là con đường chính của sanh tử, vốn là “Tính lý chân truyền” từ cổ chí kim đã rất thần bí, là mật bảo khẩu truyền tâm ứng, nếu không nhận được Thiên mệnh tối cao của Thượng Đế, ứng vận đến truyền cái Đạo này, bất luận là Tiên Phật Thánh Hiền nào, đều không dám truyền bậy, hay lén tiết lộ diệu dụng của tính lý chân truyền này, cho nên chân kinh không phải ở trên giấy bút mặt chữ. Tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo, Tam Tạng kinh điển của Thích Giáo, Đạo đức Ngũ thiên của Lão Tử, hay Thanh Tịnh Kinh, Hoàng Đình Kinh,… nơi nơi đều hàm ngụ ý chân Đạo này, có thể làm vật ấn chứng nhưng không được tiết lộ ra. Nếu không được Minh Sư chỉ thụ chân truyền, điểm mở cửa khiếu huyền diệu này, cho dù anh là người Danh Nho thạc sĩ đi nữa, cũng không thể phát hiện ra được điều kỳ diệu này.
  • 72. 71 Sự vi diệu vô cùng của Bảo quý này, đó chính là khuôn mặt thật của Đạo. GIÁO vốn thuộc công phu bên ngoài của Đạo, chính là vạn pháp, vạn hành, vạn đoan phát sinh ra từ Đạo, vì Đạo mà sử dụng, để giáo hóa chúng sanh thế gian. Nói cách khác chính là tu tâm dưỡng tánh, hành thiện tích đức, khiến sau này có thể tạo ra được giáo hóa căn bản của xuất thế nhập Đạo, cổ nhân nói: “Tu Đạo chi vị giáo”, giáo trong Phật giáo thuộc hiển giáo, là sự giáo hóa bình thường, để cho thế nhân có thể tu tâm luyện tánh, không làm việc ác, hành thiện độ người, cứu vớt lòng người, không còn tồn tâm ác, để trở thành người thiện của thế giới, để cho sau này có thể hưởng được phước báu vô hạn, những cái đã dạy toàn là các đạo nghĩa bình đẳng bình thường, bất luận người nào, cũng đều có thể hiểu được nơi đó, chính là thuộc về sự giáo hóa của pháp bình đẳng. Trong kinh thư còn ám chỉ điều thiên cơ bí mật, trên bề trên lời văn dường như là nơi đó, nhưng kỳ thực ý lại ở nơi kia, nếu như chưa từng gặp Minh Sư chỉ truyền, đắc được vô thượng thượng pháp này, cho dù là anh thông minh
  • 73. 72 lanh lợi ra sao, cũng khó hiệu được bí mật kỳ diệu này.  Đây chính là sự khác biệt giữa Đạo và Giáo. Chánh pháp Chân truyền của Đạo, từ nhà Thích, tổ sư Huệ Năng đời thứ Sáu ở Trung Nguyên, truyền pháp đến dân gian bá tánh, sau khi Đạo được ngấm ngầm truyền đến Nho giáo, nhà Phật chỉ kế truyền y bát theo hình thức truyền thống, đã thật sự mất đi sự kế thừa Tổ vị, chỉ là ngỡ thấy chân thỏ cho là thỏ, thấy giỏ cá tưởng là cá (ý nói nhận giả tu thật). Từ đó về sau, “tánh lý chân truyền” của chánh pháp này, ngoài Nho giáo ra, bất cứ môn giáo nào, đều không thể nắm rõ được, cho nên từ đời Đường mạc, Ngũ Đại, Lưỡng Tống, Nguyên, Minh, Thanh từ đó đến nay, đã hơn ngàn năm, Đạo thuộc vào thời kỳ tăm tối, các giáo đều trở thành là những giáo hóa bình thường, thời đó muốn biết được chân Đạo, còn khó hơn so với lên trời, Tổ Sư Huệ Năng đã từng có thơ viết: “Thích Ca tông ngã tuyệt tôn phong, Nho gia đắc ngã chánh pháp thông, Tam kỳ mạt hậu thu viên sự, Chánh tâm thành ý hợp Trung Dung.”
  • 74. 73 Thơ giải: “Từ khi Thích Ca không kế truyền tổ vị, Nho giáo kế đắc được tánh lý chân truyền Tam Tào phổ độ thu dọn đại nhân duyên Nhân tâm, thiên tâm hòa hợp hiện Phật tánh.” Giáo thì lúc nào cũng có, Đạo thì không đúng thời sẽ không giáng xuống, và Đạo cũng có ẩn có hiện. Khi Đạo đang lúc ẩn, cho dù là anh thông minh đĩnh đạc, anh hùng tài giỏi, thông hiểu cổ kim, hay người trí thức cao thâm đi nữa, cũng không có cách nào có thể đắc được chân Đạo này. Bởi vì Đạo không đúng thời sẽ không giáng, không đúng người sẽ không truyền. Giáo thì luôn thường có, khi Đạo chưa giáng xuống, giáo này vốn dĩ đã có, khi Đạo đã giáng xuống rồi, giáo này cũng vẫn tồn tại, bởi vì giáo là sự giáo hóa cơ bản của Đạo. Cho nên Đạo không rời Giáo, Giáo không rời Đạo, nếu Đạo rời Giáo, thì trước cửa Phật Đạo, liền có thể bắt chim sẻ rồi (ý nói người vào Đạo sẽ tự nhiên ít đi), nếu Giáo rời Đạo, thì là bàng môn tà Đạo, không thành được chánh pháp.
  • 75. 74  Suy cho cùng hiệu quả của Đạo và Giáo có gì khác biệt? “Đạo” có thể siêu sanh liễu tử, thoát khỏi luân hồi, đăng cực lạc, tránh tai hung, thoát kiếp nạn, giải oan nghiệt, cải số mệnh, thoát khổ ải, thật không thể hiểu hết nổi những điều kỳ diệu này, cổ nhân có câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy Đạo độc tôn” há là lời giả dối hay sao? “Giáo” là giáo hóa thế nhân, là phép tắc độ thế, là điển hình của nhân đạo, là pháp có triển vọng của tu tâm dưỡng tánh, là nghi thức mẫu mực làm người ở đời, tạo nên các trụ cột nền tảng cho nếp nhà, hàm nuôi dưỡng cái khí đạo đức của thế gian, giáo hóa người cải ác hướng thiện, đi theo phép tắc, làm một người lương thiện ở đời, để hưởng phước báo của kiếp sau, dự trù một nền tảng để sau này ra đời có thể gặp được Đạo. Cho nên sự giáo hóa này, không thể một ngày không có được, đó chính là hiệu quả khác biệt của Đạo và Giáo.