Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” với hy vọng góp phần nhỏ của mình phục vụ cho yêu cầu đổi mới công tác xã hội hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục của địa phương.
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
1. 1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đang ở những năm đầu thế kỷ XXI - thế kỷ dự báo có sự bùng
nổ và phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin. Sự
bùng nổ và phát triển ấy một mặt làm cho một số nước trên thế giới có những
bước tiến nhảy vọt, nhưng mặt khác dễ dẫn đến tạo khoảng cách ngày càng lớn
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, làm cho các nước đang
phát triển càng tụt hậu xa hơn các nước phát triển. Do đó, một vấn đề bức thiết,
có tính chất sống còn đặt ra cho các nước đang phát triển là phải làm sao thoát
khỏi sự tụt hậu. Về phương diện lý luận được thực tiễn của các nước phát triển
chứng minh, có thể khẳng định chỉ có đầu tư mạnh mẽ vào chiến lược con
người, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao thì mới có thể giải quyết vấn đề
đặt ra có hiệu quả nhất. Để đạt được vấn đề trên thì công tác xã hội hóa giáo
dục được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong mọi hoạt động giáo dục
theo hướng toàn diện.
Giáo dục và đào tạo là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của một con người nói riêng và của xã hội nói chung. Quản lý công
tác xã hội hóa giáo dục ở nhà trường THPT là một khâu then chốt, cơ bản, có
tính chất quyết định góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Vì thế xã
hội hóa giáo dục là động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục
và đào tạo, để nâng cao chất lượng giáo dục thì điều quan trọng là phải nâng
cao quản lý công tác xã hội hóa giáo dục đối với mọi hoạt động của mỗi nhà
trường trung học phổ thông.
Trường trung học phổ thông là một cấp học trong hệ thống giáo dục quốc
dân rất quan trọng của giáo dục phổ thông. Đây là cấp học tạo điều kiện cơ bản
để nâng cao dân trí và trang bị nền tảng kiến thức hết sức quan trọng để phát
triển toàn diện con người Việt nam. Điều này đòi hỏi nhà trường phải làm thế
nào để hoàn thiện nhân cách người học để người học có thể học lên bậc cao hơn
hoặc hoà nhập với cuộc sống lao động sản xuất. Điều này có nghĩa là nền giáo
2. 2
dục của chúng ta là “giáo dục cho mọi người” và mọi người phải tự giáo dục,
việc xây dựng “cả nước thành một xã hội học tập” trở thành nhu cầu khách
quan, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.
Chiến lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn từ năm 2010 – 2020 đã
nhấn mạnh vai trò then chốt của giáo dục và đào tạo, nhằm tạo bước chuyển
biến mạnh mẽ phát triển nguồn nhân lực, góp phần đắc lực đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Trong đó, công tác xã hội hóa giáo dục là một nhiệm vụ cần được coi
trọng và tiếp tục đẩy mạnh để tiến tới xây dựng một xã hội học tập.
Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngành
giáo dục phải có sự đổi mới, trong đó có đổi mới các hoạt động giáo dục và
nhất là đổi mới quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để góp phần hỗ trợ giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nguồn lực, nguồn lao động hiện nay.
Nhìn chung, quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ
thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua từng bước đạt
được những thành tựu nhất định tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế, yếu
kém. Thực tiễn hoạt động ở các trường phổ thông những năm qua chứng tỏ
XHHGD đóng vai trò rất quan trọng quyết định sự thành bại ở mỗi trường tạo
nguồn nhân lực tiếp sức cho việc quản lý và giáo dục học sinh, nguồn tài lực
góp phần hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động sư phạm như xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, khen thưởng học sinh, giúp đỡ học sinh nghèo… Nếu làm tốt
được điều này thì có nghĩa là các trường đã thành công mối kết hợp của ba môi
trường giáo dục: “nhà trường, gia đình, xã hội”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
một số trường trung học phổ thông ở huyện Cao Lãnh thời gian qua chưa xem
trọng công tác xã hội hóa giáo dục theo đúng nghĩa của nó, từ đó làm hạn chế
bước tiến của các nhà trường. Vì thế, việc tìm một số giải pháp quản lý công tác
xã hội hóa giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục là nhiệm vụ quan
trọng cần tập trung thực hiện. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu
3. 3
“Một số giải pháp quản lýcông tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ
thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” với hy vọng góp phần nhỏ của mình
phục vụ cho yêu cầu đổi mới công tác xã hội hóa giáo dục, nâng cao chất lượng
giáo dục của địa phương.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thự tiển, đề xuất một số giải pháp quản
lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp.
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông
huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ
thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp .
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, thăm dò một số giải pháp quản lý công tác
xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp trong những năm gần đây. Giới hạn khảo sát: trong những năm học 2010
– 2011; 2011 – 2012; 2012 – 2013.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng được một số giải pháp có tính khoa học và tính thực tiễn
thì sẽ nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung
học phổ thông huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tổng hợp những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác xã hội
hóa giáo dục, về quản lý giáo dục. Tổng hợp các quan điểm, luận điểm cơ bản
của các công trình khoa học đã nghiên cứu và công bố liên quan về vấn đề này.
- Điều tra, khảo sát, tổng kết thực trạng và kết quả hoạt động công tác xã
hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
4. 4
Tháp. Tổng kết được những kinh nghiệm tiên tiến về quản lý công tác xã hội
hóa giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện ở Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
Tìm ra những bất cập, những tồn tại về việc hạn chế công tác xã hội hóa giáo
dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
- Xây dựng, đề xuất được một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa
giáo dục ở trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Cácphương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn bản của
Đảng và Nhà nước các cấp liên quan đến đề tài. Nghiên cứu các công trình khoa
học, các đề án đã công bố liên quan đến đề tài. Tổng hợp và phân tích các kết
quả nghiên cứu.
6.1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra
(bảng hỏi Anket); phương pháp quan sát: quan sát, tổng kết kinh nghiệm;
phương pháp điều tra xã hội học.
6.3. Các phương pháp khác: Phương pháp sử dụng toán thống kê,
phương pháp phỏng vấn,...
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung
học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học
phổ thông huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở
trường trung học phổ thông huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
5. 5
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Sơ lược lịchsửquá trình nghiêncứuvấn đề xã hộihóa giáo dục và
xã hội hóa giáo dục bậc học trung học phổ thông
Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hóa sự nghiệp giáo dục đã có từ rất lâu,
đó không phải là vấn đề hoàn toàn mới nếu nhìn nhận nó về bản chất. Hoạt
động xã hội hóa giáo dục đã xuất hiện và có bề dày lịch sử trong các chế độ xã
hội và thể chế chính trị. Đảng ta luôn coi trọng vai trò của xã hội hóa giáo dục,
xác định là một chủ trương lớn để phát triển giáo dục và được thực hiện từ
nhiều năm qua với phương châm: "Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân". Tư
tưởng "lấy dân làm gốc" đã thể hiện sâu sắc trong quá trình phát triển của lịch
sử, và chân lý về vai trò của quần chúng nhân dân đã được khẳng định: "Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Sự nghiệp giáo
dục của Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, luôn nêu cao khẩu hiệu: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân". Những tư tưởng đó đã trở thành định hướng và được vận dụng có hiệu
quả trong công tác giáo dục ở Việt Nam.
Nhân dân ta đã có truyền thống coi trọng việc học. Theo lịch sử hình
thành và phát triển nền giáo dục Việt Nam, ngay từ thời phong kiến, Nhà nước
chỉ mở rất ít trường để dạy học cho con cháu của các quan lại, con em nhà giàu.
Vấn đề học của con em nhân dân đều do nhân dân lao động tự lo liệu, dưới hình
thức các thầy đồ tự mở lớp (trường tư) hoặc nhân dân tự nguyện góp tiền tổ
chức mời thầy dạy (dân lập). Trong hương ước của một số địa phương còn ghi
rõ về chế độ học điền (ruộng dành cho việc học), chăm lo vật chất, khích lệ, cổ
vũ người học, tôn vinh những người học hành thành đạt, thể hiện sự quan tâm
chăm lo của xã hội đối với giáo dục. Những điều đó đã trở thành truyền thống,
đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta.
6. 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề dân trí, Người khẳng định:
"Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Sau Cách mạng Tháng Tám, tháng 10-
1945 Người ra "Lời kêu gọi chống nạn thất học", phát động phong trào xóa nạn
mù chữ trong toàn quốc với phương châm: Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ... Những người chưa biết chữ hay gắng sức mà
học cho biết, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa
biết thì con cái bảo, người ăn người làm không biết chữ thì chủ nhà bảo; các
người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ...
Người nhấn mạnh: Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng,không phân biệtgià,
trẻ, trai, gái, cứ là người Việt Nam thì phảitham gia học tập, tham gia xóa nạn
mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra cương lĩnh hành động cho phong trào
Bình dân học vụ, là cơ sở để tạo lập và xây dựng một nền giáo dục toàn dân
ngay sau khi đất nước giành được độc lập.
Từ năm 1946, đất nước tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhưng nền giáo dục Việt Nam
vẫn duy trì và phát triển, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ dân trí,
làm nền móng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Mùa xuân năm 1975, khi đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, chúng ta
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển sự nghiệp giáo dục. Giai đoạn
này, giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả nhất định trong việc thống
nhất hệ thống giáo dục hai miền Nam - Bắc. Song do cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, nền giáo dục của chúng ta chưa phát huy được tiềm năng sẵn có để
phát triển mạnh mẽ và bền vững. CSVC của giáo dục bị xuống cấp và lạc hậu,
động lực của người dạy và người học giảm sút kéo theo sự kém phát triển của
nền giáo dục cả về số lượng và chất lượng. Đảng và Nhà nước đã thực hiện các
đợt cải cách giáo dục nhưng còn chắp vá, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, nhất là vào thời điểm nhân loại đã bước
sang thời kỳ khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh; xu thế hội nhập quốc tế, toàn
cầu hóa, đa phương hóa là quy luật tất yếu để phát triển đất nước.
7. 7
Với đường lối đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng VI (năm
1986), đất nước ta bước sang thời kỳ kinh tế thị trường với xu thế mở cửa.
Những yếu tố khách quan và chủ quan đã đặt nhiều cơ hội và thách thức đối với
giáo dục, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục đào tạo phải cải cách, phải có giải pháp
phù hợp mới đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (tháng 6/1996) đã khẳng định "xã hội hóa" là một trong những
quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII, trên các văn kiện của Đảng, Nhà nước đã phổ biến thuật
ngữ "xã hội hóa" đối với các lĩnh vực hoạt động như giáo dục và đào tạo, y tế,
văn hóa, thể dục thể thao. Sự kiện lịch sử đánh dấu quá trình đổi mới nền giáo
dục Việt Nam là Hội nghị Trung ương 4 khóa VII - năm 1993- của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung
ương Đảng thảo luận và ra nghị quyết về giáo dục - đào tạo. Đặc biệt, Đảng ta
khẳng định giáo dục - đào tạo là động lực, là điều kiện cơ bản để thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) đã đề cập đến công tác XHHGD một cách toàn diện và sâu sắc:
Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục nhưng vấn đề rất quan trọng
là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào
xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn
xã hội... Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu
tư phát triển... Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính tạo
điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng
góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục xác định chủ
trương thực hiện phát triển giáo dục - đào tạo: "Tăng cường đầu tư cho giáo dục
từ ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục - đào tạo", đồng thời
thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa" .
8. 8
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Giáo dục và đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực thúc đẩy CNH - HĐH đất nước; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam; đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội... đổi mới mạnh mẽ
giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; thực hiện xã hội hóa giáo dục. Huy
động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo
dục. [1]
Để thực hiện chủ trương xã hội hóa, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
90/CP ngày 21/08/1997 về "Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa"; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về Chính sách
XHHGD nhằm khuyến khích, huy động các nguồn lực trong nhân dân, trong
các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động xã hội hóa
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Ngày 18/04/2005 Chính phủ ban hành
Nghị quyết số 05/NQ-CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa, thể dục thể thao.
Thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ đổi mới; trước xu thế phát triển tất yếu của thời đại, các nhà khoa học,
các nhà quản lý giáo dục đã nghiên cứu và đưa ra các luận điểm về vấn đề xã
hộihóa giáo dục. Trongcuốn"GiáodụcViệtNam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI"
Giáo sư Phạm Minh Hạc đã nêu rõ: Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư
tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát
triển giáo dục nước ta... Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà
là của toàn xã hội; mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung
ương và địa phương cùng làm giáo dục [11].
Giáo sư Phạm Tất Dong cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác
này, khẳng định qua mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam, khái
niệm xã hội hóa giáo dục được củng cố thêm, mở rộng và phong phú hơn về cả
nội hàm và ngoại diên [10]. Văn kiện Đại Hội Đảng XI cũng đã chỉ rõ: Đổi mới
tư duy giáo dục một cách nhất quán từ mục tiêu, chương trình, nội dung,
9. 9
phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được
chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình
độ giáo dục của khu vực và thế giớí; khắc phục đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn
tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của
dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo
điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời....., đáp ứng yêu cầu CNH -
HĐH đất nước [1].
Viện Khoa học Giáo dục đã tiến hành nghiên cứu về xã hội hóa công tác
giáo dục, tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận và đề xuất chính sách nhằm
hoàn thiện về nhận thức lý luận và thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây
dựng Đề án "Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005-2010".
Tháng 12/2002 Hội nghị toàn quốc về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội
hóa giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao được tổ chức để đánh giá kết quả, rút kinh
nghiệm thực tiễn công tác XHHGD. Tại Hội nghị, Thủ tướng Phan Văn Khải đã
phát biểu ý kiến chỉ đạo: Cần phải chú ý nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
để giải quyết một số vấn đề cơ bản về xã hội hóa, nhằm tạo sự nhất trí cao trong
xã hội về nhận thức, giải quyết tốt các vấn đề về tài chính, đất đai, cơ sở vật
chất, nhân lực và kỹ thuật cho công tác xã hội hóa.
XHHGD không chỉ là kêu gọi sự đóng góp của dân vào đầu tư trường,
lớp mà cần huy động các tầng lớp này tham gia xây dựng chương trình giáo dục
và đánh giá giáo dục, xây dựng mạng lưới thu thập và xử lý, cung cấp thông tin
về giáo dục cho mọi người.
Không chỉ riêng ở Việt Nam mà nhiều nơi trên thế giới đều rất quan tâm
đến việc xây dựng và củng cố công tác giáo dục gắn liền với phát triển cộng
đồng với mục đích vì lợi ích cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, XHHGD là một hệ thống định hướng hoạt động của mọi người,
mọi lực lượng nhằm trả lại bản chất xã hội cho giáo dục, và giáo dục có trách
nhiệm thực hiện các yêu cầu của xã hội đặt ra.
Có thể nói, việc nghiên cứu xã hội hoá giáo dục được các nhà khoa học
quan tâm và đã có nhiều thành tựu về vấn đề này. Cụ thể:
10. 10
- Xã hội hóa giáo dục bậctrung học phổ thông ở các nước trong khu vực
và trên thế giới. Từ lâu, giáo dục đã được coi là quốc sách hàng đầu của nhiều
quốc gia trên thế giới. Tìm hiểu cách làm giáo dục ở nhiều nước cho thấy xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục là cách làm phổ biến, kể cả ở những nước có nền công
nghiệp hiện đại - kinh tế phát triển cao.
Có thể khẳng định rằng, mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có
khác nhau nhưng đều có điểm chung là huy động mọi nguồn lực và mọi điều
kiện cho phát triển giáo dục. ở những nước tiên tiến, việc quan tâm đầu tư cho
giáo dục qua quá trình huy động sức mạnh của nhà nước và các tầng lớp xã hội,
nâng cao mặt bằng tri thức, đưa dân trí ngang tầm thời đại để con người làm
chủ nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp. ở những nước đang phát
triển, việc huy động mọi nguồn lực cho giáo dục là phương thức tốt nhất nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm phong phú tài năng trí tuệ để phục vụ
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Việc đầu tư đúng mức cho con người sẽ
tạo tiền đề cho sự ổn định và phát triển bền vững ở những nước có nền kinh tế
đang phát triển. Và chỉ có bằng cách ấy, các quốc gia này mới có thể "đi tắt",
"đón đầu" góp phần phát triển kinh tế - xã hội đạt đến trình độ hiện đại, hội
nhập với các nước tiên tiến.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang thực hiện khá rộng rãi sự phân
quyền, giao trách nhiệm từ cấp trung ương sang cấp cơ sở, mở rộng quyền lực
của cấp cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề và ra quyết định. Trong bối cảnh
đó, "quản lý dựa vào nhà trường" xuất hiện như một tất yếu nhằm thu hút và tạo
điều kiện cho mọi người, trong đó có giáo viên và học sinh được tham gia một
cách dân chủ vào việc quản lý và quyết định những vấn đề liên quan đến nhà
trường. Theo xu hướng này, ở nhiều nước như: Mĩ, Anh, Australia, New
Dealand, Canada,... SBM xuất hiện theo các cách gọi khác nhau và có hai tính
chất cơ bản: tăng quyền tự chủ cho nhà trường đối với hoạt động tài chính,
nhân sự và chương trình dạy học; trường học là đơn vị có quyền ra quyết định,
giải quyết các vấn đề nảy sinh ngay tại chỗ với sự tham gia đông đảo của các
thành viên trong trường và những người có liên quan.
11. 11
- Các tiêu chuẩn thực hiện phương thức quản lý dựa vào nhà trường.
Nhà trường thực hiện các cải cách như đổi mới phương pháp giảng dạy, linh
hoạt trong việc quản lý và thực hiện chương trình, có hệ thống chỉ dẫn quá trình
dạy và học. Được tự quản về tài chính: Nhà trường có quyền được nhận, phân
bổ, sử dụng tài chính theo yêu cầu của nhà trường, được phép chuyển tiền dư
thừa sang năm sau…Tự quản về nhân sự, chủ động trong việc điều hành nhân
sự: hợp đồng, chấm dứt hợp đồng, sa thải, tăng lương, đề bạt cho giáo viên và
cán bộ nhân viên…Xây dựng tương lai phát triển của nhà trường bằng ý kiến
của tập thể. Có chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục phù hợp với chuẩn chung
của quốc gia và yêu cầu của địa phương. Chất lượng học sinh đạt chuẩn cao.-
Phân quyền quản lý rõ ràng và được thay đổi cơ cấu tổ chức nhà trường để có
nhiều người tham gia vào việc ra quyết định: giáo viên, nhân viên phục vụ, phụ
huynh, các thành viên cộng đồng. Thường xuyên đầu tư nâng cao năng lực đội
ngũ. Giáo viên và nhân viên nhà trường có nhiều sáng kiến cải tiến, chủ động
trong việc. Giáo viên và nhân viên nhà trường có tinh thần trách nhiệm cao,
hoàn thành mọi công việc được giao. Có phương thức và chủ động khen thưởng
bằng vật chất và tinh thần cho các thành viên của nhà trường. Thỏa mãn các nhu
cầu về giáo dục. Cha mẹ và cộng đồng tham gia tích cực vào việc giáo dục học
sinh. Có hệ thống thông tin và thường xuyên truyền thông tin về nhà trường
trong nội bộ và trong cộng đồng. ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
và quản lý nhà trường. Đảm bảo sự công bằng trong giáo dục. Kiểm tra, đánh
giá dựa trên tiêu chuẩn. Bầu không khí sư phạm hợp tác, dân chủ. Phát triển
năng khiếu của học sinh, học sinh có phương pháp tự học, tự quản tốt. Nhà
trường được chính quyền địa phương hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động cải
cách như hỗ trợ về kỹ thuật, đáp ứng các yêu cầu của nhà trường, tạo điều kiện
để trường tự quản.
Thực chất của quản lý dựa vào nhà trường là sự phân quyền, tạo điều
kiện cho các thành viên trong nhà trường và cộng đồng tự quyết định vận mệnh
của nhà trường. Đây là vấn đề quản lý liên quan tích cực đến dân chủ, thực hiện
quyền làm chủ của người dân trong việc tham gia xây dựng giáo dục. Điều 11
12. 12
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi:
"Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công
việc của Nhà nước và xã hội...", do đó khi bàn đến vấn đề dân chủ trong giáo
dục, không thể không bàn đến một số vấn đề thuộc về quản lý, đó là xã hội hóa
công tác giáo dục, tương tự vấn đề nhà trường tự quản.
- Xã hội hóa giáo dục bậc trung học phổ thông ở nước ta
Xã hội hóa bậc học trung học phổ thông là một hoạt động mang tính xã
hội với sự tác động, chi phối và có mối liên hệ mật thiết với bậc học THPT
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của bậc học ở mọi loại hình công lập
cũng như tư thục dưới sự quản lý, chỉ đạo chung của Nhà nước. Thực hiện phân
luồng làm cơ sở cho đào tạo nghề, là tiền đề cho quá trình hình thành một lực
lượng lao động sau khi đào tạo chuyên nghiệp.
Đánh giá thực trạng giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục bậc trung
học phổ thông nói riêng là một công việc đầu tiên rất quan trọng, là điều kiện
tiên quyết để xác định đúng các mục tiêu chiến lược và các giải pháp khả thi.
Nhưng đó là một việc khó khăn và phức tạp, bởi lẽ "sản phẩm" của hoạt động
giáo dục là nhân cách được hình thành trong một quá trình qua nhiều giai đoạn,
chịu sự chi phối của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài hệ thống giáo dục, do
đó không thể dễ dàng thấy được, đo lường được như sản phẩm của các quá trình
sản xuất vật chất khác. Chẳng hạn như ở nước ta hiện nay, để có được một học
vấn THPT đầy đủ cần 12 năm, đào tạo đại học - chuyên nghiệp cần từ 2 đến 6
năm, còn đào tạo và bồi dưỡng sau đại học thường diễn ra trong suốt thời gian
hoạt động nghề nghiệp. Như vậy những gì được tiến hành trong nhà trường hôm
nay có khi phải hàng chục năm sau mới có điều kiện đánh giá đầy đủ, chính
xác.
Giáo dục bậc THPT là một bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục
quốc dân; nó vừa bị chi phối, vừa có tác động qua lại với nhiều nhân tố khác
như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ. Những mối quan hệ này
có lúc trực tiếp, có lúc gián tiếp, có lúc tức thời, có lúc lâu dài. Do vậy, việc
thực thi các chủ trương, chính sách về giáo dục THPT và kết quả mang lại của
13. 13
nó phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết một cách đúng đắn, hợp quy luật các
mối quan hệ này.
Từ năm 1986, đất nước ta bước vào giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế,
từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ đường lối đổi mới do Đại hội
Đảng lần thứ VI, VII đề ra, Nhà nước ta đã chuyển hệ thống giáo dục quốc dân
từ mục tiêu phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phục vụ cho
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ chuyển đổi
này về giáo dục, Nhà nước đã có những chủ trương:
- Đối với các cấp bậc học trên tiểu học thì huy động sự đóng góp của
nhiều tầng lớp dân cư.
- Đào tạo không chỉ thỏa mãn nhu cầu về nhân lực của kinh tế quốc doanh
và biên chế Nhà nước mà cònthỏamãn nhu cầu nguồn lực lao độngcủa mọi thành
phần kinh tế và nhu cầuxã hội, đào tạo bằngnhiều nguồntài chínhvà theo phương
thức, kế hoạch mềm dẻo. Người tốt nghiệp tự tìm, tự tạo việc làm.
- Mở rộng cơ hội học tập để mọi người có thể cập nhật, đổi mới kiến thức
và rèn luyện các kỹ năng làm việc.
- Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, thực hiện chính
sách của Nhà nước ta, mở cửa trong công tác đối ngoại, hợp tác với các nước
trên các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục.
Như vậy, XHH bậc học THPT không nằm ngoài quy luật tất yếu trong xu
thế phát triển của thời đại, khi đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập, thực hiện
chủ trương CNH - HĐH thì bậc học THPT là tiền đề quan trọng cung cấp
nguồn nhân lực có trình độ học vấn, có sức khỏe, có đạo đức tác phong công
nghiệp nhưng vẫn mang bản sắc tốt đẹp của người Việt Nam để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Thực tế hiện nay, XHHGD nói chung và xã hội hóa bậc học THPT đã có
nhiều khởi sắc và thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Công tác XHH bậc
THPT ở nước ta đã thực sự phát triển cùng với tiến trình mở cửa hội nhập kinh
14. 14
tế quốc tế. Bên cạnh các trường THPT công lập đã có các trường THPT dân lập,
tư thục được hình thành đi vào hoạt động và đã huy động được nhiều thành
phần xã hội tham gia vào hoạt động này. Hoạt động giáo dục XHH bậc học
THPT đã đa dạng và phong phú hơn về loại hình, đáp ứng nhu cầu học tập của
thanh thiếu niên trong độ tuổi và bước đầu tạo ra môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong giáo dục, từng bước thúc đẩy chất lượng giáo dục bậc THPT nâng
lên.
Tuy nhiên, công tác XHHGD bậc THPT vẫn chưa đáp ứng được các n
Mã tài liệu : 600433
Tải đầy đủ luận văn theo 2 cách :
- Link tải dưới bình luận .
- Nhắn tin zalo 0932091562