1. 1
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN(1930-1945) 2
1.1. Hoàn cảnh lịch sử (thế giới và trong nước) cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 2
1.2. Hoàn cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và yêu cầu cấp bách đối với
Việt Nam 5
1.3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản: 8
1.4. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) 11
1.5. Sự ra đời của ĐCSVN là một tất yếu khách quan 13
1.6. Luận Cương chính trị tháng 10/1930 14
1.7. Luận cương tháng 12 và cương lĩnh chính trị 16
1.8. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng (1939-1941) 16
1.9. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám năm 1945 18
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC(1945-1975) 21
2.1. Hoàn cảnh lịch sử (thế giới và trong nước) sau cách mạng tháng Tám 1945 21
2.2. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của BCHTW Đảng (25/11/1945) 22
2.3. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954) 23
2.4. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) 24
2.5. Hoàn cảnh lịch sử sau tháng 7/1954 25
2.6. Nội dung, ý nghĩa Đại hội III (9/1960) của Đảng 25
2.7. Nội dung nghị quyết 12 (12/1965) 26
2.8. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975) 26
Chương 3 27
3.1. Hoàn cảnh lịch sử sau tháng 4/1975 27
3.2. 3 đặc điểm khi quá độ đi lên XD CNXH được thể hiện trong đại hội IV 28
3.3. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến quyết định đề ra đường lối đổi mới đất nước (12/1986) 30
3.4. Nội dung đường lối đổi mới kinh tế được đề ra trong Đại hội VI 31
3.5. Đảng cộng sản Việt Nam phải đề ra đường lối đổi mới đất nước do.. Nội dung đường
lối đổi mới kinh tế được Đảng đề ra tại đại hội VI (1986) 32
3.6. Nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước 35
3.7. Khoa học công nghệ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước 42
3.8. Giáo dục đào trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước 49
3.9. Toàn cầu hoá (thời cơ, thách thức, tích cực, tiêu cực) 54
3.10. Quan điểm của Đảng CSVN về CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay? 57
3.11. Đặc trưng XHXHCH được đề ra trong Cương lĩnh 2011 59
3.12. Bài học kinh nghiệm: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân 65
3.13. Bài học kinh nghiệm: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam 69
2. 2
3.14. Ý nghĩa của Đảng Cộng Sản Việt Nam 72
3.15. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước thời kì đổi mới, Đảng xác định con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 73
3.16. Anh (Chị) hãy làm rõ thành tựu 35 năm đổi mới đất nước trên lĩnh vực đối ngoại và
rút ra nhận xét? 76
3.17. Cơ sở và nội dung phương châm “kháng chiến toàn dân” được Đảng đề ra trong
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). Ý nghĩa thực tiễn của phương
châm đó đối với công cuộc đổi mới hiện nay. 82
3.18. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (2011) lại
coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Liên hệ thực tiễn Việt
Nam 87
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN(1930-1945)
1.1. Hoàn cảnh lịch sử (thế giới và trong nước) cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hoàn cảnh thế giới:
Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền ( giai đoạn đế quốc chủ nghĩa)
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản có đấu tranh giải phóng
giai cấp, các dân tộc thuộc địa đều mong mỏi phải có hệ giá trị lí luận soi đường, nếu
như không có ⇒ thì các cuộc đấu tranh chỉ mang tính tự phát: làm công, bãi công, đình
công ⇒ dùng pp bạo động ⇒ họ cần một hệ thống quan điểm và lí luận soi đường
HCM là người đầu tiên tiếp nhận CN mác và truyền bá thành công chủ nghĩa
mác vào Việt Nam, và lý luận đó đã được kiểm nghiệm là đúng qua cách mạng tháng
10 Nga
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Châu Á phát triển rộng khắp tác động
mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Quốc tế cộng sản thức
tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam => Thắng
lợi năm 1917 =>trở thành tiếng bom vang dội và trấn động toàn thế giới ⇒ mở ra thời
kì mới của thế giới ⇒ CM thành công thành lập nhà nước Xô viết bảo vệ quyền lợi, lợi
ích nhân dân lao động và giai cấp vô sản (Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới.
Hoàn cảnh trong nước
Chính trị
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam � Chế độ phong kiến đầu
hàng thực dân Pháp xâm lược và kí hiệp ước 1862, 1874, 1883, 1884 (pa-tơ-nốt, đầu
hàng hoàn toàn). Nhân dân không đầu hàng và tiếp tục đấu tranh với các phong trào yêu
nước mà tiêu, tuy nhiên đều bị thực dân pháp đàn áp đẫm máu.
3. 3
Kinh tế
1897 – 1914: Khai thác thuôc địa lần thứ nhất, thực dân pháp vơ vét tài nguyên,
thuế, biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ của “chính quốc”.
Xã hội
Phân hóa về giai cấp: địa chủ và nông dân là hai giai cấp cơ bản trong xã hội.
Giai cấp địa chủ bị phân hoá: Tay sai phản động cho thực dân pháp; đấu tranh chống
pháp và bảo vệ phong kiến; lãnh đạo phong trào nông dân chống pháp và phong kiến
phản động, kinh doanh theo hướng tư bản.
Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam sau khi thực dân Pháp xâm lược..
Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của Thực dân Pháp đã làm phân hóa những
giai cấp vốn là của chế độ phong kiến và tạo nên những giai cấp mới (công nhân, tư sản
dân tộc, tiểu tư sản )
Mâu thuẫn cơ bản: dân tộc với thực dân Pháp xâm lược, nông dân – địa chủ
phong kiến
Các phong trào yêu nước đòi độc lập trước khi có Đảng:
Các phong trào yêu nước mang khuynh hướng phong kiến:
Vua Hàm Nghi – Phong trào Cần Vương (1885-1896), Khởi nghĩa nông dân Yên
Thế (1883-1913)
Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các phong trào đều bị dập tắt.
Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp nhân dân ta thoát khỏi
kiếp nô lệ. Nó hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ của lịch sử đề ra.
Phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản: Xu hướng bạo động của Phan
Bội Châu, Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh, Các phong trào đấu tranh của giai
cấp tư sản Việt Nam: Phong trào quốc gia cải lương (1919-1923), Phong trào yêu nước
dân chủ công khai (1925 -1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với
cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình
thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp
tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu
cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Các giai cấp lãnh đạo phong kiến và tư sản với những ngọn cờ tư tưởng của họ
đều đã lỗi thời. Do vậy, họ không có một đường lối lãnh đạo đúng đắn, không có phương
pháp đấu tranh thích hợp.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là
lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới,
4. 4
một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của
nhân dân Việt Nam.
Nguyên nhân thất bại:
Không có đường lối, phương pháp đúng đắn, không hiệu triệu được người dân,
cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Phong trào công nhân (1919-1925) đã có bước phát triển mới so với trước đây.
Công nhân đã tiến lên sử dụng hình thức đấu tranh đặc trưng là bãi công. Thêm nữa, từ
trong phong trào đấu tranh, những tổ chức chính trị đầu tiên đại diện cho quyền lợi của
giai cấp công nhân Việt Nam đã xuất hiện như Công hội đỏ (1920), một số công nhân
gia nhập Liên đoàn công nhân tàu biển Viễn Đông (1921).
Tuy nhiên, phong trào công nhân giai đoạn này vẫn còn những hạn chế như về
mục đích các cuộc đấu tranh mới chỉ tập trung vào các nội dung kinh tế. Về quy mô,
phong trào bị bó hẹp trong các hàng rào của một nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, diễn ra
lẻ tẻ. Về tổ chức, chỉ có duy nhất 1/25 cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra là có sự lãnh
đạo, tổ chức chặt chẽ (cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son 8/1925).
Phong trào công nhân nước ta giai đoạn này vẫn còn dừng ở trình độ tự phát.
● Thời kỳ tự giác 1925 – 1929
Ngay trong năm 1926, hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy,
xí nghiệp, hầm mỏ ở Bắc Kỳ đã nổ ra. Tiêu biểu là những cuộc bãi công đấu tranh của
công nhân nhà máy sợi Nam Định, nhà máy bia rượu Hà Nội-Hà Đông, xi măng Hải
Phòng… công nhân đã đấu tranh đòi cải thiện đời sống, cải thiện điều kiện làm việc,
chống đánh đập sa thải thợ. Ngoài ra, còn phải kể đến 2 cuộc đấu tranh với quy mô lớn
của các đồn điền Cam Tiêm, Phú Riềng ở phía Nam.
Năm 1927, được tiếp nối bằng hàng chục cuộc đấu tranh khác của giai cấp công
nhân nổ ra trên phạm vi cả nước.
Đỉnh cao của phong trào đấu tranh giai đoạn này là vào những năm 1928-1929,
có hơn 40 cuộc đấu tranh của công nhân. Sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng của phong trào công nhân đã đưa đến một kết quả tất yếu là sự ra đời của ba tổ
chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam trong năm 1929: Đông Dương Cộng sản Đảng
(6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(9/1929)
So với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân giai đoạn trước, thời kỳ này
phong trào đấu tranh của công nhân nước ta đã có bước chuyển biến rõ rệt:
Nếu như trước đó công nhân mới chỉ quan tâm đến mục tiêu kinh tế đòi giới chủ
phải thỏa mãn một số yêu cầu do công nhân đưa ra trong lĩnh vực cải thiện đời sống thì
nay phong trào đã tiến lên kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh kinh tế với mục tiêu đấu
tranh chính trị.
5. 5
Nếu như giai đoạn trước các cuộc đấu tranh thường nổ ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ hẹp
thì nay các cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra một cách liên tục và có quy mô lớn,
phong trào đã vượt ra khỏi phạm vi một nhà máy xí nghiệp để hình thành thế liên kết
ngành, liên kết địa phương. Theo đó, sức mạnh của phong trào công nhân đã tăng lên
gấp bội.
Nếu như ở thời kỳ trước chỉ có 1/25 cuộc đấu tranh của công nhân là có tính tổ
chức thì ở giai đoạn này tất cả các cuộc đấu tranh của công nhân đều được đặt dưới sự
lãnh đạo của các tổ chức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam như Công hội đỏ,
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng, và ba tổ chức cộng
sản ra đời năm 1929.
Những đặc điểm trên cho thấy phong trào công nhân thời kỳ 1925-1929 đã đạt
đến trình độ đấu tranh tự giác.
KHÁI QUÁT:
Trải qua 10 đấu tranh, trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt tuy
chưa được đều khắp. Từ chỗ chỉ là một lực lượng trong phong trào yêu nước, giai cấp
công nhân dần dần vươn lên vị trí chủ thể của lịch sử. Phong trào công nhân ngày càng
có sức thu hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông
dân.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước càng lên cao, càng đòi hỏi
phải có người tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách
mạng đủ sức gánh vác sựnghiệp cứu nước, càng được đặt ra một cách bức xúc.
1.2. Hoàn cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và yêu cầu cấp bách
đối với Việt Nam
• Hoàn cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Việt Nam trở thành đối tượng nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong
cuộc chạy đua với nhiều đế quốc khác. Sau một quá trình điều tra thám sát lâu dài, ngày
1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước
thôn tính Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị, chia nước ta thành
Bắc kì, Trung Kì, Nam Kì và thực hiện ở mỗi kì một chế độ cai trị riêng; thực hiện chính
sách tước đoạt quyền tự do dân chủ về mặt chính trị. Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của
thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên chế nhất, nó vô
cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á
đời xưa.”
Về văn hoá-xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị,
lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì
tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng
rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư
tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp” …
6. 6
Về kinh tế, từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa:
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1919-1929). Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương
nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét
tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế
khóa nặng nề. => Nền kinh tế Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển què quặt,
mở thêm một số ngành kinh tế mới, chúng thu hồi ruộng đất để xây dựng nhà máy xí
nghiệp, bắt Việt Nam sử dụng hàng hóa Pháp, du nhập phương thức sản xuất không
hoàn toàn, ... dẫn đến hậu quả nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm
hãm trong vòng lạc hậu.
Việt Nam từ một xã hội phong kiến trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến. Các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác
nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần dân tộc chống Pháp;
số đại địa chủ, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc
lột, cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến. Do vậy, ngoài
mâu thuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp
nông dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc
địa, với việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền...
Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có
những đặc điểm riêng vì ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến,
chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực
lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh
chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp
(1897-1914) và phát triển khá nhanh.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm những người buôn bán nhỏ, viên chức, tri thức học
sinh, sinh viên phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp
bênh nên hăng hái đấu tranh.
Các sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa. Một bộ phận hướng sang tư tưởng
dân chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người khởi xướng các phong trào yêu nước
có ảnh hưởng lớn.
Trong xã hội Việt Nam ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ phong kiến đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và
ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc đó là mâu thuẫn dân tộc (giữa toàn thể nhân
7. 7
dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược), mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ phong
kiến và nông dân, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân.
Vì vậy các phòng trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ, theo hai khuynh hướng là
phong kiến và dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước này là do thiếu đường lối đúng đắn, giai cấp
phong kiến không đủ sức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
Đối với phong trào dân chủ tư sản, đến đầu thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng các cuộc cách
mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh
hướng chính là khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ
chức phong trào Đông Du (1906-1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ, sau gần 2
năm thì thất bại. Thứ hai là khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh tổ
chức, cải cách dân chủ, nâng cao dân trí. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc của một bộ phận tri thức, tư sản nhưng tất cả
đều thất bại. Nguyên nhân chính là do thiếu đường lối đúng đắn, địa vị kinh tế, chính
trị non yếu nên giai cấp tư sản không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
➔Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về
chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã
làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng
thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với
thái độ chính trị khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện.
Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến
phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt. Cách mạng Việt
Nam đang ở thời kỳ khủng hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo.
• Yêu cầu đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ
Cuối thế kỷ XIX, các sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống
của người dân. Sau thời kì bình định thì thực dân Pháp thi hành chính sách “khai thác
thuộc địa” – thực chất là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy đời sống nhân dân
lao động đã khó khăn càng thêm khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong
kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, đời sống
các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt. Đây trở thành
lực lượng lớn kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Các cuộc khởi nghĩa và phong
trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng
đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng.
Thực tế, thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống
Pháp, giành lại độc lập.
8. 8
Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận
cách mạng tiên tiến. Câu hỏi của bài toán thế kỷ đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh
đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc Việt Nam?
Với sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân ra đời và phát
triển nhanh cả về số lượng cũng như chất lượng, giai cấp công nhân là giai cấp có thể
lãnh đạo cách mạng đi tới thành công. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai
cấp công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải
có Đảng cộng sản. Vì vậy chỉ có giải quyết những thành công mâu thuẫn trên – đồng
nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc thì xã hội Việt Nam
mới tiếp tục phát triển. Đòi hỏi cần có một Đảng đứng ra thống nhất, cần phải có một
tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
➔
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cách mạng Việt Nam ví như “trong đêm tối không
có đường ra”. Và rồi thời thế sinh anh hùng, trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt
lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết
định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, chuẩn bị thành lập Đảng và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô
sản. Sự thành lập Đảng là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự phát
thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.Và
thực tế đã cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời làm chấm dứt sự khủng hoảng bế
tắc về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ
đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế
giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai
cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.”
1.3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản:
Bối cảnh lịch sử:
Trước yêu cầu cấp thiết phải giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911
Qua nhiều trải nghiệm thực tế người đã nhận rõ bạn thù :” Dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có 2 giống người: Giống người bóc lột và bị bóc lột”
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến nhận thức của Người
Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn:
28/6/1919 Người gửi tới hội nghị Véc Xai bản ưu sách 8 điểm của nhân dân An
Nam nhưng không được chấp nhận, từ đó người nhận rõ muốn giải phóng dân tộc phải
dựa vào sức mình là chính. Tuy không được chấp nhận nhưng cũng đã gây được tiếng
vang lớn.
9. 9
7/1920, Người đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc :
Con đường cách mạng vô sản
12/1920, bỏ phiếu tán thành quốc tế thứ 3 và tham gia sáng lập Đảng cộng sản
Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoạt động cách mạng
của người- từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản. Người trở thành Người
cộng sản đầu tiên của VN
Sau khi xác định con đường cách mạng đúng đến cho dân tộc. NAQ tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về VN. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
sự ra đời của Đảng :
Về tư tưởng:
Năm 1921, NAQ lập ra hội liên hiệp thuộc địa ở Pari. Người viết nhiều bởi trên
các bảo “ Người cùng khổ”, nhân đạo, Tạp chí cộng sản …
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của ĐCS pháp được thành lập . NÀO được
cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Người vừa nghiên cứu lý luận via
tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. NAO tích
cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột nô địch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân
dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp là kẻ thủ chung của các dân
tộc thuộc địa .
Năm 1927, NAO khẳng định “Dùng muốn vùng thành phải có công nhân làm
nồng cốt trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy", phải tích cực
truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận chủ nghãi Mác - Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
Về chính trị
Xuất phát từ thực tiến của cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của Lê nin về cách
mạng giải phóng dân tộc, NAQ đưa ra những luận điểm quan trọng về em giải phóng
dân tộc.Người Khẳng định :" con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp."
NAQ xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cm giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và em vô sản ở chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Về vấn đề ĐCS, NAQ khẳng định : “ cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mệnh để trong thi vận động và tổ chức dân chúng ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản khắp mọi nơi.
Năm 1928 kỷ bộ Bắc kì HVNCMTN đã phát động phong trào vô sản hóa đã
góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển về tổ chức
của công nhân.
10. 10
Về tổ chức:
Ngày 1/1/1924, NAQ đến Quảng Châu trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức
cách mạng, truyền bá lý luận cách mạng giải phóng dân tộc vào VN
Sự khác biệt trong sự lựa chọn con đường cứu nước của NAQ với các vị tiền bối
trước (mục tiêu cách mạng: giải phóng dân tộc và đi lên XHCS; Lực lượng cách mạng;
nhiệm vụ cách mạng (đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ PK đem lại ruộng
đất dân cày trong đó đánh đổ ĐQ là chủ yếu nhất);
Các điểm khác biệt trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
của Nguyễn Ái Quốc với các nhà chí sĩ yêu nước trước dó
Điểm thứ nhất là quan điểm cứu nước:
Những nhà yêu nước trước chủ trương cứu nước theo con đường cách mạng Tư
Sản với mục tiêu đánh Pháp, khôi phục độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó họ chủ trương kết hợp cứu nước với
duy tân.
Nguyễn Ái Quốc thì lựa chọn con đường cách mạng vô sản kết hợp giải phóng
dân tộc và giải cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xa hội. Người cho rằng, chủ trương
của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin
giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp
chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủtrương của cụ Hoàng Hoa
Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách
phong kiến. Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới.
Người đề cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của
các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu nhưng Người cũng nhận thức rõ và phê phán bản
chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định một
cách dứt khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh
phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Điểm khác nhau thứ hai là mục đích và hướng đi:
Nếu như các bậc tiền bối như Phan Bội Châu chọn con đường đi sang phương
Đông (Nhật Bản, Trung Quốc), đối tượng mà ông gặp gỡ là những chính khách Nhật
Bản để xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp, chủ trương đấu tranh bạo động hay Phan Châu
Trinh lại chủ trương cứu nước bằng biện pháp cải cách... dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi
vua và bọn phong kiến hủ bại, giành độc lập dân tộc
Nguyễn Ái Quốc tự ra đi tìm đường cứu nước, không dựa dẫm vào nước nào;
không nhờ vả, kêu gọi người khác giúp mình. Người lựa chọn con đường đi sang
phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học-kĩ thuật và nền văn
minh phát triển để xem các nước khác làm cách mạng như thế nào, sau đó sẽ về và áp
11. 11
dụng vào giúp đất nước. Trong quá trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ
nghĩa Mác-Lênin và xác định con đường cứu nước theo con đường của Cách mạng
tháng Mười Nga. Đây là con đường cứu nước duy nhất đúng đắn đối với dân tộc ta,
cũng như đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác, vì nó phù hợp với sự phát
triển của lịch sử.
Điểm thứ ba là cách đi:
Người dựa vào cuộc sống thực tiễn, bằng lao động để mở mang nhận thức tìm ra
chân lý. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, có một người bạn đã hỏi Nguyễn Tất
Thành: Chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? Nguyễn Tất Thành “vừa nói vừa giơ hai bàn tay
- chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”. Và từ việc làm
phụ bếp trên con tàu Pháp của hãng “Vận tải hợp nhất”, đến cào tuyết trong một trường
học, đốt lò, làm vườn, làm thợ rửa ảnh... Nguyễn Tất Thành đã hòa mình, gần gũi với
cuộc sống của nhân dân lao động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được nguyện vọng và
ý chí, năng lực của họ và đồng cảm với họ. Và như thế, trên cuộc hành trình của mình
với sự lăn lộn trong cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân dân các nước, với tầm
hiểu biết rộng lớn và vốn thực tiễn sâu sắc, phong phú, Nguyễn Tất Thành đã nhận thức
về thế giới và thời đại theo một lập trường và quan điểm mới so với các nhà yêu nước
đương thời. Đó là nhận điện đúng đắn kẻ thù chung của cách mạng thế giới - chủ nghĩa
thực dân đế quốc; nhận thức đúng đắn về lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới -
nhân dân lao động.
Cuộc gặp gỡ với chủ nghĩa Mác - Lênin vào những năm 20 của Thế kỷ XX là sự
kiện đánh dấu Nguyễn Ái Quốc giác ngộ lập trường, quan điểm vô sản và quyết định
lựa chọn con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
1.4. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng duy nhất của
Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long – Hương Cảng (Trung Quốc) được
tiến hành trong thời gian từ ngày 6/1/1930 đến ngày 7/2/1930. Tại đây, hội nghị do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã được thông qua hai văn kiện đó là : “ Chính cương vắn tắt
của Đảng đã phản ánh về đường lối phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và
Sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy 2 văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản VN”
Nội dung của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng (1930).
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là:
“ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Như vậy ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã quán triệt ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
Xác định những nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của CM Việt Nam:
12. 12
Xác định nhiệm vụ chủ yếu : “ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”, “ Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” ; lập chính phủ công nông binh,
tổ chức quân đội công nông. Trong đó Cương lĩnh đã xác định : Chống đế quốc phong
kiến là nhiệm vụ cơ bản để dành độc lập cho dân tộc
Xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng VN: phân tích thực trạng và mâu
thuẫn trong XH VN một XH thuộc địa nửa phong kiến, mẫu thuẫn giữa các dân tộc VN
trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt ⇒ xác định đường lối
chiến lược của CM VN.
Xác định lực lượng CM: phải đoàn kết công nhân,nông dân- đây là lực lượng cơ
bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết các giai cấp,
các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc phong kiến và tay sai
Phải làm cho các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày ( công hội - hợp tác xã)
không nằm dưới quyền và ảnh hưởng của TB quốc gia
Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân
việt,... kéo họ về với cách mạng.
Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc trung lập họ.
Xác định phương pháp tiến hành CM: Cương lĩnh khẳng đinh: phải bằng con
đường bạo lực CM quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được thỏa hiệp.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh chỉ rõ khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức
trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô
sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được quần chúng”.
Ý nghĩa
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một văn kiện lịch sử hết sức quan
trọng, đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng VN. Trong
đó thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ sáng tạo trong việc đánh đặc điểm tính chất
của xã hội thuộc địa nữa phong kiến VN trong những năm 20 của thế kỉ XX, chỉ rõ mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó.
Giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách
mạng đang diễn ra lúc bấy giờ, tập hợp được sức mạnh toàn dân tộc và thời đại. Mở ra
con đường mới phù hợp với sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cương lĩnh chính trị là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
13. 13
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong 80 qua đã chứng
minh tính dùng đắn và tiến bộ của cương lĩnh chính tị đầu tiên của Đảng
1.5. Sự ra đời của ĐCSVN là một tất yếu khách quan
Cuối năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: Đông Dương
cộng sản Đảng (6–1929), An Nam cộng sản Đảng (8-1929) và Đông Dương cộng sản
Liên đoàn (9-1929 ). Ba tổ chức cộng sản này hoạt động riêng rẽ và đả kích nhau, tranh
giành ảnh hưởng của nhau, đứng trước thực trạng ấy Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập ba tổ
chức này để thống nhất thành lập một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng cộng sản Việt
Nam tại Hương Cảng - Trung Quốc ( đầu năm 1930). Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
là một tất yếu khách quan đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội VN,
phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng đúng đắn cho tiến trình lịch sử của CMVN:
Bối Cảnh:
a) Bối Cảnh thế giới
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh trên thế giới các phong trào cách
mạng lựa chọn Đảng cộng sản và hệ tư tưởng của nó là lựa chọn số một. Với sự thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) do đảng Bôn - sẽ — vích lãnh đạo, đã mở
ra một thời đại mới thời đại cách mạng trên toàn thế giới. Và giờ đây sức cuốn hút của
hệ tư tưởng Mác – Lênin lớn hơn bao giờ hết cùng với vai trò của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản ra đời hầu hết ở các quốc gia. DCS Đức, Hunggari (1918), ĐCS
Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng cộng sản Pháp (1920), ĐCS Trung Quốc (1921),
DCS Nhật Bản (1922),...Sự ra đời và hoạt động mạnh mẽ của quốc tế ba (3-1919).
b) Bối cảnh trong nước
Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mẫu
thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và
giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng - Độc lập dân tộc và tự do dân
chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là như cầu bức thiết của dân tộc Cuộc đấu
tranh chống thực dân Phân xâm luon thành độc lên dân tộc tục diễn ra liên tục mạnh
mẽ, nhưng các phong trào đều lần lượt bị thất bại vì đã không đáp ứng được những yêu
cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến ( Phong trào Cần Vương 1885
1896), Khởi nghĩa của nông dân Yên Thế 1884 – 1913, phong trào theo hệ tư tưởng dân
chủ tư sản như bạo động của Phan Bội Châu và cải cách của Phan Châu Trinh, rồi cuộc
khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam quốc dân đảng lãnh đạo thất bại 1930.
14. 14
Như vậy, con đường cách mạng ở Việt Nam bế tắc. Nhiệm vụ đặt ra là phải
tìm ra một con đường cách mạng mới, với một giai cấp mới đủ tư cách đại biểu
cho quyền lợi của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi đến thành công . Và sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là để
đáp ứng đều đó.
Lịch sử đã chọn Đảng cộng sản VN, DCSVN ra đời là một tất yếu khách quan
dựa trên 3 yếu tố: Phong trào yêu nước, phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác Lênin
Với sự khai thác thuộc địa của thực dân pháp giai cấp công nhân ra đời và phát
triển mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng, giai cấp công nhân là giai cấp có thể
lãnh đạo cách mạng đi tới thành công.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.Giai
cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công
nhân từ tự phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Hệ tư tưởng Mác – Lênin được truyền bả rất sớm vào Việt Nam thông qua những
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức, hội cộng sản yêu nước, đã thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển .
Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công
nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách quan
ấy đòi hỏi phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo.
Như vậy, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan.
1.6. Luận Cương chính trị tháng 10/1930
Hoàn cảnh
Tháng 4-1930 giữa lúc phong trào cách mạng phát triển, Trần Phú từ Liên Xô về
nước. Tháng 7-1930, ông được bổ sung Ban chấp hành Trung ương Lâm thời và tham
gia chuẩn bị cho hội nghị lần thứ nhất của trung ương.
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng tức Hồng Kông, quyết định đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt
Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng bí
Thư của đảng
Nội dung chính
Xác định mâu thuẫn ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào, Cao Miên là: “
Một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ phong kiến,
tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
15. 15
Về phương hướng chiến lược của CM: Luận cương nêu rõ tính chất của CM
Đông Dương lúc đầu là “ cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản
đế” sau đó tiếp tục “ phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường
XHCN”.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là “ tranh đấu để đánh đổ
các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản để thực hành thổ
địa cách mạng cho triệt để” và “ đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập”.Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau:
“...có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng
thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc
chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản
dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản và nông dân là 2 động lực chính của CM tư sản dân quyền, trong
đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh.
Về lãnh đạo CM: Luận cương khẳng định : “ điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của CM ở ĐD là cần phải có một ĐCS có đường lối chính trị đúng có kỷ luật tập trung,
mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
Về phương pháp cách mạng: Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần
chúng về con đường “ Võ trang bạo động”. Đến lúc tình thế CM Đảng phải lập tức lãnh
đạo quần chúng để đánh đổ chính quyền địch giành chính quyền về cho công nông”.
Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép
nhà binh.
CM Đông Dương là một bộ phận giai cấp vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản
Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới trước hết là giai cấp vô
sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa.
Luận Cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến
lược cách mạng. Về cơ bản thống nhất với Chính Cương, sách lược vắn tắt của Hội nghị
thành lập Đảng. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội
Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu
tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến lược liên minh dân
tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai, Nguyên
nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc
địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp
đang tồn tại trong Quốc tế cộng sản và một số Đảng cộng sản trong thời gian đó. Những
hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng dất, cũng như trong việc
tập hợp lực lượng cách mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.
16. 16
Sau hội nghị trung ương tháng 10-1930 Đảng đã có chủ trương mới. Ngày 18-
11-1930 thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về vấn đề thành lập hội phản đế
Đồng minh là tổ chức mặt trận đầu tiên tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp dân tộc,
khẳng định vai trò của nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc.
1.7. Luận cương tháng 12 và cương lĩnh chính trị
Luận cương của Trần Phú có một số điểm khác với Cương lĩnh
- Không nhận thấy mâu thuẩn chủ yếu trong xã hội thuộc địa nữa phong kiến, nên chưa
xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu đã quá nhấn mạnh về đấu tranh giai
cấp, về cách mạng ruộng đất và chủ nghĩa quốc tế.
- Quá nhấn mạnh về vai trò và lực lượng cách mạng của công nông , chưa chú ý đúng
mức đến vai trò và khả năng cách mạng của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân và
tầnglớp khác để có chính sách liên minh thích hợp.
1.8. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng (1939-1941)
Sự chuyển hướng thể hiện qua ba hội nghị trung ương (HNTW6 (11/1939),
HNTW 7 (11/1940), HNTW 8 (5/1941)). Nội dung chủ yếu sẽ trình bày toàn bộ nội
dung trong HNTW8 (5/1951)
>Ý nghĩa của sựa chuyển hướng
Trong giai đoạn 1939-1945 Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
vì; +xuất phát từ thực tiễn đất nước. +Đáp ứng nguyện vọng nhân dân.
Sự thay đổi trong chủ trương xác định nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong giai
đoạn 1930-1945: Được thể hiện trong ba văn kiện (Cương lĩnh tháng 2/1930, luận cương
tháng 10/1930, sự chuyển hướng chiến lược mới 1939 – 1941). Phân tích nội dung
nhiệm vụ trong từng văn kiện. Rút ra nhận xét: +Sự thay đổi phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam; +Là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945
Sự thay đổi trong chủ trương xác định lực lượng cách mạng của Đảng trong giai
đoạn 1930-1945: Được thể hiện trong ba văn kiện (Cương lĩnh tháng 2/1930, luận cương
tháng 10/1930, sự chuyển hướng chiến lược mới 1939 – 1941). Phân tích nội dung lực
lượng Cm trong từng văn kiện. Rút ra nhận xét: +Sự thay đổi phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam; +Là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945
Bối cảnh lịch sử :
Tháng 9/1939 Chiến tranh TG thứ 2 bùng nổ, chính phủ đàn áp lực lượng dân
chủ trong nước làm cho mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, ở Đông Dương tăng cường đàn
áp, lệnh thiết lập quân luật được ban bố. Ngày 28/09/1939 toàn quyền Đông Dương ra
nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt ĐCS Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật.
17. 17
Tháng 06/1940 Đức tiến công Pháp , chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Tướng Đờ
Gôn ra nước ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống đức. Sau khi xâm chiếm
một loạt các nước Châu âu tháng 6/1941 Đức tiến công Liên Xô
Ở Đông Dương, Pháp thi hành chính sách thời chiến, pháp xít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” ra
sức vơ vét, bóc lột sức người.
Tháng 9/1940 quân Nhật vào Đông Dương, quân Pháp đầu hàng Nhật và cấu kết
với quân Nhật để thống trị và đàn áp nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân đông
dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng.
Tháng 12/1941 chiến tranh Thái Bình Dương có nhiều biến chuyển, Nhật lần
lượt đánh chiếm các thuộc Địa của Anh và mỹ cả ở biển và trong đất liền.
Chủ trương mới của Đảng:
Chiến trang TG thứ 2 bùng nổ, Đảng kịp thời rút về hoạt động bí mật, chuyển
trọng tâm về công tác nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng khu vực thành thị. Trên cơ sở
nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình
cụ thể trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược như sau:
Một là đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tháng 11/1939 hội nghị
BCH TW Đảng họp tại Bà Điểm ( Hoc Môn ) phân tích và chỉ ra không có con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quóc Pháp và tất cả các ánh ngoại xâm để giành
lấy độc lập.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đàu của cách mạng lúc này, Ban chấp hành TW
nhấn mạnh “ chiến lược CM tư sản dân quyền phải thay đổi cho hợp với tình thế mới”.
Tạm gác khẩu hiệu “ Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu
“Tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc”, “ Chia lại ruộng
đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”...
Hai là, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc
Ban chấp hành TW quyết định thành lập Mặt Trận Việt Nam độc lập đồng minh,
gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương; Đổi
tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc ( Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc,
Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc..) để
vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn
kết bên nhau để cứu tổ quốc, cứu giống nòi.
Hội nghị cán bộ TW họp 11/1940 cho rằng “ cách mạng phản đế và cách mạng
thổ địa phải đồng thời tiến hành, không thể cái làm trước, cái làm sau”.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
18. 18
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực
lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng
căn cứ địa cách mạng. Ban chấp hành TW chỉ rõ: “ Việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”. Trung ương quyết
định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội du kích hoạt
động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa
phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai
làm trung tâm.
Phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta:” Phải luôn chuẩn bị một lực
lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thủ... với lực lượng
sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng
có thể dành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo
của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút ) cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận,
nông vận, binh vận, quân ... và đẩy mạnh công tác vận động quần chủng.
Nguyên nhân Đảng ta phải thay đổi chiến lược
Đảng ta thay đổi và hoàn chỉnh chủ trương chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu
hàng đầu của dân tộc ta và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và tinh trong
của nước ta lúc bấy giờ. Mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra chủ
trương đúng đến thực hiện mục tiêu ấy.
Nội dung của sự chuyển hưởng chiến là ngọn cờ dẫn đường giúp công tác chuẩn
bị giành độc lập câu dân tộc ta diễn ra sôi nổi,từ đó nhân dân ta đoàn kết một long tiến
lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh pháp, đuổi Nhật giành độc lập cho dân tộc.
Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành TW(5/1941), Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi
đồng bảo cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp- Nhật
Thực hiện nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của HCM, các cấp Đảng bộ và
Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy
nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng.
Trên cơ sở lực luọng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo cho quần chúng
cách mạng, từng bước, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, lập các chiến khu và căn
cứ địa cách mạng.
1.9. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám năm 1945
Nguyên nhân
.chủ quan: + Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; + Sự đoàn kết của toàn thể dân tộc
. Nguyên nhân khách quan: + Bối cảnh thể giới có nhiều thuận lợi
*Ý nghĩa:
*Ý nghĩa: -Đối với quốc tế. – đối với trong nước
Nguyên nhân thắng lợi
19. 19
Nguyên nhân khách quan: Cách mạng tháng 8 nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất
thuận lợi:
Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta ở Đông Dương là Nhật đã đầu hàng đồng minh,
quân đội nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền Nhật rệu rã tạo
điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta tiến công tổng khởi nghĩa dành chính quyền.
Nguyên nhân chủ quan:
Đảng cộng sản đông dương là người tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng, Đảng
có đường lối chính trị đúng đắn trên cở sở lí luận Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo
vào Việt Nam, phương pháp cách mạng sáng tạo dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ
sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất một khối liên minh.
Để giành thắng lợi, Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm qua các
phong trào cách mạng 1930-1935, 1936-1939, đã đúc rút được những bài học kinh
nghiệm qua những thành công và thất bại, nhất là trong quá trình xây dựng lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
Trong những ngày tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng,
không sợ hy sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do. Các cấp bộ Đảng và Việt
Minh từ TW đến địa phương linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát
động quần chúng nhân dân nổi dây giành chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật
cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã
quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc.
Ý nghĩa cách mạng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt
Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị.
Bài học kinh nghiệm:
Cách mạng tháng 8 thành công đã để lại cho Đảng và nhân dân VN nhiều kinh
nghiệm quý báu:
Thứ nhất, Về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng
đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
20. 20
còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp
nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi
dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước
trong mặt trận thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về
huy động lực lượng toàn dân tộc lên tận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong
cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng
của quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũtrang kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên
chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa cả ở nông thôn và thành thị, giành chính
quyền toàn quốc.
Thứ tư, Về xây dựng Đảng.
Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong, của giai cấp công nhân nhân
dân lao động và toàn dân tộc VN, tuyết đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc.
Vận dụng và phát triển lý luận Mác – Lênin và tư tưởng HCM đề ra đường lối
chính trị đúng đắn.
Xây dựng một Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt
chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường trong đấu tranh cách
mạng.
Đặc biệt phải chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của trung ương Đảng,
đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của Đảng bộ các địa phương.
Nguyên nhân quan trọng nhất cho sự thắng lợi của cách mạng tháng 8 là:
Do đường lối lãnh đạo cùng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại, đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn trên cơ sở lí luận Mác- Lênin được vận
dụng sáng tạo vào VN.
Bởi vì
Sự lãnh đạo tài tình, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện
cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương
pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ,
chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời ca, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước
Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt
sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến(Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 - 1931 , Caotrào dân chủ 1936 - 1939, Cuộc
vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật,
cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của
21. 21
chúng ta” ngày 12-3-1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần,
làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều
nơi... )
Hai là, Đảng tích cực vận động quần chúng nhân dân, đặc biệt lôi kéo tầng lớp
trung gian đứng về phía cách mạng.
Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.( Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập
Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
"Đánh đổ để quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập". Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và
không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Đặc
biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng không ngừng đưa ra đường lái chiến lược cụ thể
phù hợp, chớp thời cơ để giành chính quyền.)
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC(1945-1975)
2.1. Hoàn cảnh lịch sử (thế giới và trong nước) sau cách mạng tháng Tám 1945
Hoàn cảnh lịch sử thế giới:
Về thuận lợi:
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên xô đứng đầu được hình thành,
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng
thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.
Về khó khăn:
Cục diện thế giới thay đổi; đế quốc chủ nghĩa đàn áp phong trào CM
Với danh nghĩa Đồng Minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội các nước đế
quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá
chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng
nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, hòng tách
Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử trong nước:
Về thuận lợi:
Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Toàn
dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Về khó khăn:
Là một nước độc lập; nhưng hậu quả của chế độ cũ để lại rất nặng nề.
22. 22
khó khăn nghiêm trọng là hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề,
ngân quỹ quốc gia trống rỗng; kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non
yếu; nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt
quan hệ ngoại giao.
“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới,
vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy.
2.2. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của BCHTW Đảng (25/11/1945)
Chỉ thị đã đấp ứng đúng yêu cầu của cách mạng VN vì Đã giải quyết những vấn
đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược của CMVN trong thời kỳ mới; Chỉ thị
xác định nhiệm vụ củng cố và bảo vệ chính quyền là quan trọng nhất vì: căn cứ vào (+lý
luận (chủ ghĩa Mác Lênin về vai trò của chính quyền trong cuộc cách mạng;+ xuất phát
từ thực tiễn nền độc lập của Việt Nam còn rất mong manh, phải đối diện với nhiều khó
khăn); Chỉ thị xác định Pháp là kẻ thù chính của CMVN (căn cứ vào âm mưu, thái độ
và hành động của từng thế lực quân đội ở VN lúc bấy giờ)
Trước tình hình cấp bách, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về “Kháng chiến kiến quốc”, vạch con đường đi lên
cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn
bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh. Trên cơ sở phân tích tình hình
thực tiễn trung ương Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm chống lại kẻ thù xâm
lược, đồng thời giải quyết quyền lợi cho nhân dân.
+ Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng
Việt Nam lúc này là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
+ Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông
Dương và chỉ rõ: “Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy phải lập Mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng
lớp nhân dân; thống nhất mặt trận Việt – Miên – Lào…
+Về chính trị, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương
thực hiện là: tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và
xây dựng đất nước, củng cố chính quyền nhân dân, tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc
hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp,
+Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài
+Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc
“bình đẳng, tương trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn
đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”.
Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế.
23. 23
+ Về kinh tế tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư
nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới
công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực
hiện khuyến nông sửa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch
thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạng tăng gia sản xuất, chống nạn
đói theo khẩu hiệu: “Tấc đất tấc vàng", “Sẽ cơm nhường áo”, “Công việc cứu đói cũng
cần như việc đánh giặc”.
+ Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, mở các trường đại học
và trung học,
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận
Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
+ Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, tuyển thêm
đảng viên mới, chú trọng gây thêm cơ sở Đảng trong các xí nghiệp, mở rộng các tổ chức
nghiên cứu chủ nghĩa Mác
+ Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc, thống nhất các
tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc; mở
rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn
giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong
Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp xâm lược. Chỉ
thị còn đề ra các biện pháp thực hiện ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng
quyển cử...
⇒ Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm
lược. đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng,
nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng
Tháng Tám là xây dựng đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp
cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong, giặc ngoài
bảo vệ chính quyền cách mạng.
2.3. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954)
Quá trình hình thành đường lối kháng chiến: dựa trên các bản chỉ thị, tác phẩm sau:
− Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25/11/1945)
− Chỉ thị tình hình và chủ trương (3/3/1946)
− Chỉ thị hoà để tiến ( 9/3/1946)
− Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Đảng( 12/12/1946)
− Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ( 19/12/1946)
− Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh
(8/1947)
24. 24
● Nội dung đường lối: Dưa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng
chiến toàn dân, toàn diên, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
− Mục tiêu kháng chiến: là đánh đổ thực dân Pháp , giành độc lập,
tự do, thống nhất toàn đảng; vì nền dân chủ và góp phần bảo vệ hoà bình thế
giới,….
− Kháng chiến toàn dân: là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân;
động viên toàn dân tích cực tham gia kháng chiến.
− Kháng chiến toàn diện:
+ Đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận ( quân sự, chính trị, KT, VH, tư
tưởng, ngoại giao) trong đó quân sự là quan trọng nhất.
+ Động viên và phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh, nguồn lực vật chất, tinh
thần.
− Kháng chiến lâu dài:
+ Là tư tưởng chỉ đạo của Đảng
+ Vừa tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng và phát triển lực lượng của ta
+ K/c lâu dài nhưng không có nghĩa là vô hạn mà phải chớp lấy thời cơ, luôn
tranh thủ thúc đẩy kháng chiến nhảy vọt về chất, thắng lợi từng bước để đi đến thắng
lợi cuối cùng.
− Kháng chiến dựa vào sức mình là chính:
+ Lấy nguồn nội lực dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất tinh
thần vốn có trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc
chiến tranh nhân dân.
+ Tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ giúp đỡ tinh
thần vật chất của quốc tế.
● Ý nghĩa: Đường lối kháng chiến của Dảng là hoàn toàn đúng đắn,
trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tiến lên.
2.4. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-
1954)
Làm rõ nội dung và cơ sở của phương châm KC toàn dân; kháng chiến toàn diện.
Ý nghĩa thực tiễn của đường lối kháng chiến và của phương châm (đối với cuộc kháng
chiến; trong giai đoạn hiện nay)
- Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp
*Nguyên nhân thắng lợi:
Nguyên nhân chủ quan
25. 25
+ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng;+Có lực lượng vũ trang 3 thứ quân làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc;+ Có Chính quyền của dân, do dân, vì dân;+Có hậu phương ngày
càng được củng cố và mở rộng.
Nguyên nhân khách quan:
+Có sự liên minh, đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia;+Sự
ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
2.5. Hoàn cảnh lịch sử sau tháng 7/1954
Trong nước
+ Thuận lợi: là đã có miền Bắc được giải phóng, làm căn cứ địa hậu
phương cho cả nước. Thế và lực cách mạng đã lớn mạnh hơn trước sau 9 năm
kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước.
+ Khó khăn: đất nước chia làm 2 miền, có chế độ chính trị khác nhau,
miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hoà bình thống
nhất đất nước. Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ
thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam.
Trên trường quốc tế
+ Thuận lợi cho cách mạng Việt Nam là hệ thống xã hội chủ nghĩa
tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn mạnh
của Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Phong trào hoà
bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.
+ Khó khăn: xuất hiện đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá
chủ thế giới, với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng
thống nối tiếp nhau xây dụng và thực hiện. Thế giới rơi vào thời kỳ chiến tranh
lạnh, chạy đua vũ trang. Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống XHCN,
nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc.
2.6. Nội dung, ý nghĩa Đại hội III (9/1960) của Đảng
− Xác định nhiệm vụ chung: Thực hiện đồng thời hai chiên lược cách mạng
khác nhau ở cả 2 miền
+ Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc
+ Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
− Mục tiêu chiến lược chung: giải phóng Miền Nam, hoà bình thống nhất
đất nước.
26. 26
− Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể:
+ Miền Bắc: xây dựng tiềm lực, căn cứ địa của cả nước, hậu thuận cho cách
mạng Việt Nam
+ Miền Nam: Giải phóng MN khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
trong nước.
− Về hòa bình thống nhất tổ quốc: Đại hội chủ trương quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà. Song phải luôn cảnh giác, sẵn
sàng đối phó nếu đế quốc và bọn tay sai gây ra chiến tranh thì nhân dân
ta sẽ quyết đứng lên đánh bại chúng.
− Về triển vọng của cách mạng: Cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà là một nhiệm vụ thiêng liêng, là một quá trình đấu tranh cách
mạng gay go và gian khổ, phức tạp,lâu dài nhưng thằng lợi nhất định thuộc
về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
− Về xây dựng chủ nghĩa xã hội :
+ MB trong tình trạng nền kinh tế nhỏ lạc hậu, tiến lên xây
dựng CNXH, bỏ qua giai đoạn TBCN
+ Đường lối chung: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống
yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước
XHCN, đưa MB tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở MB và củng cố MB thành cơ sở vững
chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
2.7. Nội dung nghị quyết 12 (12/1965)
2.8. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975)
● Nguyên nhân thắng lợi:
○ Là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu
trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có
đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
○ Là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả
nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở
miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu “Thành
đồng Tổ quốc”.
○ Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào
27. 27
và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ
của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
○ Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia
và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến
bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
● Ý nghĩa lịch sử:
○ Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết
thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954),
30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc (tính
từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ cho đất nước.
○ Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả
nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống
nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
○ Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc
Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
○ Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước
và giữ nước lâu dài về sau.
● Về mặt quốc tế:
■ Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ
nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
■ Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ
nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến
nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.
■ Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan
trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Chương 3
3.1. Hoàn cảnh lịch sử sau tháng 4/1975
Hoàn cảnh lịch sử của thời kỳ sau năm 1975 là đất nước đã hòa bình, độc lập,
thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều thuận lợi với sức
28. 28
mạnh tổng hợp, đồng thời cũng phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Điểm xuất phát của Việt Nam về kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế
có thuận lợi, đồng thời có xuất hiện những khó khăn, thách thức mới. Các nước xã hội
chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế - xã hội và sự phát triển; các thế lực thù
địch bao vây cấm vận và phá hoại sự phát triển của Việt Nam.
3.2. 3 đặc điểm khi quá độ đi lên XD CNXH được thể hiện trong đại hội IV
- Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến
là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
- Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập , thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của
chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
- Ba là, các mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế
thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực
phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp ,lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng.
TRong ba đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức,
bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Dự Đại
hội có 1.008 đại biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn đại
biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế tham dự. Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước ; phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm
lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Ở thời kì này cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nhỏ yếu, tuyệt đại bộ phận lao động là thủ
công, năng suất lao động xã hội thấp, phân công lao động chưa phát triển. Công nghiệp
lớn, nhất là công nghiệp nặng còn ít, rời rạc.
Nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng lúa. Cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý lạc hậu, kém hiệu
lực, tính kếhoạch của nền kinh tế chưa cao. Tuy nhiên sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu: xoá bỏ giai cấp bóc lột, xác
lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng được cơ sở bước đầu của nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Tuy
nhiên sản xuất nhỏ vẫn là đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế miền Bắc.
Miền Nam vừa thoát ra từ một xã hội thuộc địa kiểu mới, kinh tế về cơ bản vẫn còn là
sản xuất nhỏ. Vì vậy, nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế
29. 29
còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh
và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. Cả nước hoà bình độc lập, thống nhất đang
tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi cơ bản: tinh thần cách mạng đang lên sau
khi giành thắng lợi vĩ đại, nhân dân ta cần cù thông minh, sáng tạo, tha thiết với độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự ủng hộ chí tình của các
nước xã hội chủ nghĩa và có những điều kiện về lao động, tài nguyên phong phú… Bên
cạnh đó cũng gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ
nghĩa thực dân mới gây ra như qua hàng chục năm chiến tranh, đế quốc Mỹ ném xuống
nước ta 7.850.000 tấn bom đạn, trong đó có 451.260 tấn chất độc hóa học, 338 tấn bom
napan làm gần 2 triệu người bị chết, hơn 2 triệu người bị tàn tật, 2 triệu người trong đó
có khoảng 5 vạn trẻ em dị dạng do bị nhiễm chất độc màu da cam. Miền Nam dưới chế
độ thực dân kiểu mới của Mỹ với hậu quả về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã
hội rất nặng nề. Ở miền Bắc hầu hết các thành phố, thị xã đều bị bom Mỹ tàn phá.
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận
lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng
trên thế giới còn gay go, quyết liệt”. Các thế lực phản cách mạng quốc tế có nhiều âm
mưu, hành động tinh vi thâm độc chống phá phong trào cộng sản quốc tế.
Đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ
Đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đặc điểm đầu tiên: “Nước ta
đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Sở dĩ như vậy
vì trong thời gian sau 1975 miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta đã xây
dựng một cách vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, với cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, với hệ tư tưởng và
nền văn hoá mới, với cuộc sống mới và những con người mới. Miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta có thêm nhiều năng lực sản xuất mới rất
phong phú; kinh tế hai miền hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên đặc trưng kinh tế ở
cả hai miền Bắc và Nam cơ bản vẫn còn là sản xuất nhỏ.
Có thể thấy đặc điểm này đã quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để; đồng thời cũng quy định
tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp của quá trình đó. Nó quy định nội dung, hình
thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ởnước ta.
Vì vậy Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn mới của nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập