SlideShare a Scribd company logo
1 of 93
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG
NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG
NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Tôn giáo học
Mã số : 60 22 03 09
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Trần Đăng Sinh
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ
liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập phấn đấu, được các Quý Thầy giáo, Cô giáo nhiệt
tình giúp đỡ tôi đã hoàn thành nhiệm vụ học tập và luận văn của mình. Để có
được kết quả này trước tiên cho phép tôi chân thành cảm ơn trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi học tập, công tác và hoàn thành khóa học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Triết học, các thầy cô giáo,
cùng toàn thể cán bộ nhân viên Khoa đã tạo mọi điều kiện chỉ bảo tận
tình và cổ vũ, động viên tôi học tập cũng như đóng góp những ý kiến quý báu
để hoàn thành luận văn này
Tôi xin trân trọng cảm ơn Cô giáo chủ nhiệm PGS. TS. Trần Thị Kim
Oanh; cùng tập thể lớp K20 - Triết học, chuyên ngành Tôn giáo học đã giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn PGS. TS.
Trần Đăng Sinh. Thầy đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này,
đồng thời chỉ dạy cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cho đến khi
luận văn này hoàn thành.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, 19 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ................................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi ................................................................................ 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 7
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài................................................. 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài....................................................... 8
8. Cấu trúc của luận văn................................................................................. 8
Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt .... 9
1.1 Một số khái niệm chính được sử dụng trong luận văn ............................ 9
1.2 Thờ cúng tổ tiên là tôn giáo hay tập tục................................................17
1.3 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức thờ cúng của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên................................................................................................................21
1.3.1 Nguồn gốc.......................................................................................21
1.3.2 Bản chất ...........................................................................................26
1.3.3 Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên................................28
1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường, Tày với tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt..........................................................................42
1.4.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ..............................42
1.4.2 Thờ cúng tổ tiên của người Tày.......................................................45
Tiểu kết chương 1......................................................................................48
2
Chương 2: Những biểu hiện của giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt................................................................................................50
2.1 Những biểu hiện của giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.......................50
2.1.1 Thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ...................................50
2.1.2 Thể hiện đạo đức truyền thống của người Việt ...............................53
2.2 Thực trạng và giải pháp trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt...............................................................................................................59
2.2.1 Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay ............................59
2.2.2 Một số giải pháp để phát huy những giá trị trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt trong điều kiện ngày nay..............................71
Tiểu kết chương 2......................................................................................76
KẾT LUẬN....................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................81
PHỤ LỤC.......................................................................................................87
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong
lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại
hình tín ngưỡng này theo nhiều người phỏng đoán thì nó xuất hiện từ thời
Hùng Vương. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn luôn giữ một vai
trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều tộc người (đặc biệt là ở khu
vực Á đông). Tuy nhiên, sự nhìn nhận đánh giá vai trò và ý nghĩa của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn nhiều ý kiến khác nhau. Trước xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay, các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đang ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự xâm nhập của các tôn giáo ngoại sinh, đang là
mối lo ngại của nhiều quốc gia trong đó Việt Nam. Trước bối cảnh đó, nhiều
quốc gia, dân tộc đã có những động thái tích cực bằng cách chấn hưng tín
ngưỡng văn hóa dân tộc, khôi phục lại các giá trị truyền thống đã từng bị mai
một hoặc có thời kỳ bị thờ ơ, xem nhẹ. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng dân gian trong đó có tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một việc cấp thiết hiện nay, bởi nó góp phần tăng
sức đề kháng cho văn hóa dân tộc.
Một nguyên nhân nữa, trong hai cuộc kháng chiến chống quân Pháp và
chống quân Mỹ xâm lược, nhiều người thân yêu ruột thịt của chúng ta đã
không trở về. Sự mất mát, hi sinh đó không thể nào bù đắp được. Vì vậy
người ta nghĩ nhiều đến vấn đề tâm linh và tìm đến tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên với mong muốn khỏa lấp được sự cô đơn sự trống trải trong lòng, xoa dịu
tâm hồn người đang sống.
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, từng bước dân chủ hóa đời sống xã
4
hội. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự may rủi trong cơ
chế thị trường, phân hóa giàu nghèo trong xã hội, môi trường sinh thái bị hủy
diệt… đã tạo ra tâm lý bất an. Trước đây, đã có một thời gian dài chúng ta có
biểu hiện tả khuynh có những sai lầm khi đánh đồng tất cả các hoạt động,
nghi lễ trong tín ngưỡng dân gian, các hoạt động tế lễ, lên đồng… đều là mê
tín dị đoan cần phải bài trừ.
Đó là những nguyên nhân tâm lý, xã hội và hiện thực dẫn đến việc các
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đều có chiều hướng gia tăng. Hoạt động thờ
cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ diễn ra khá phổ biến ở các địa phương
trong cả nước. Điều đó đã góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp
của văn hóa truyền thống. Nhưng do sự tác động mạnh mẽ của lối sống hiện
đại, đã làm cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có biểu hiện tiêu cực như: phô
trương về tiền tài, danh vong, địa vị gây chia rẽ, bè phái, bày ra những nghi
thức cầu kỳ, tốn kém làm mất đi tính thiêng liêng và giá trị văn hóa của tín
ngưỡng, nặng nề về mê tín.
Vì vậy nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt là một vấn đề mang ý nghĩa lý luận về thực tiễn, làm góp phần làm lành
mạnh hóa các hoạt động tín ngưỡng hướng vào các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Bản thân tác giả ngay từ khi còn bé đã thấy rằng mỗi khi gia đình có
chuyện gì thì ông bà cha mẹ đều thắp hương lên bàn thờ kính báo, cầu xin, đã
khiến cho tác giả tò mò, thắc mắc. Khi lớn lên tác giả đã có cơ hội để tiếp cận
và tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, dần dần từng bước đi tìm câu trả
lời cho chính mình.
5
Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng phổ biến sâu rộng trong cả
nước, tuy nhiên tác giả chỉ tìm hiểu và khảo sát ở phạm vi vùng Bắc Bộ.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và những giá trị của nó trong đời sống người Việt hiện nay”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Triết học, chuyên ngành Tôn giáo
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên đã xuất hiện khá lâu trong lịch sử
nhân loại và tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Vì lẽ đó, vấn đề thờ cúng tổ tiên và những giá trị của nó trong đời sống
người Việt là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người,
trong đó có các nhà nghiên cứu, đội ngũ cán bộ giảng dạy. Để làm sáng tỏ giá
trị cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có không ít những công trình
nghiên cứu được công bố trên sách, báo, tạp chí có liên quan đến vấn đề này.
Các tác phẩm như:
- Cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính, nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh (1995).
- Cuốn “ Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam”, của Toan Ánh,
Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, Hà Nội (1996).
- Cuốn “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” của Đặng Nghiêm
Vạn (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, (1996).
- Cuốn “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam” của Toan Ánh, nhà xuất bản
Thành Phố Hồ Chí Minh (1997).
- Công trình luận văn Thạc sĩ “Tìm hiểu sự hội nhập nghi lễ công giáo
với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ”, của
Mai Diệu Anh. Trong công trình này, tác giả đã trình bày cơ sở lí luận tiếp
6
cận sự hòa nhập nghi lễ công giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt ở Đồng Bằng Bắc Bộ.
- Công trình luận văn Thạc sĩ “Phát huy những giá trị tích cực của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở một số địa phương Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay” của Nguyễn Thị Mến. Trong công trình này tác giả đã Làm rõ khái
niệm, nguồn gốc và vai trò của tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên trong đời sống
tinh thần của người dân Việt Nam. Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng
của Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên ở một số địa phương của Hà Nội hiện nay
(Hà Tây cũ). Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm hạn chế
mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên ở một
số địa phương của Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Công trình nghiên cứu của PGS.TS Trần Đăng Sinh “Những khía cạnh
triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc
Bộ hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2010. Trong công trình này,
tác giả đã đi sâu, khai thác những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, một địa bàn mang tính điển hình
của văn hóa truyền thống Việt Nam.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập dưới các góc độ
khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt nói riêng. Trong bối cạnh hiện nay, khi mà những giá trị đạo
đức, văn hóa có những biểu hiện bị xâm hại dẫn đến tình trạng bị suy thoái thì
việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những giá trị của nó đối với
người Việt là vấn đề lâu dài cần tiếp tục được nghiên cứu để phát huy những
giá trị của nó đối với đối với sự phát triển nền tảng văn hóa, tinh thần của dân
tộc.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: Nghiên cứu và tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị của thờ cúng tổ tiên trong xã
hội hiện nay.
Để thực hiện mục đích nói trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, nguồn gốc bản chất tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tìm hiểu thêm về thờ cúng tổ tiên của người Mường,
Tày.
- Trình bày những biểu hiện của giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt. Từ thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đề xuất một số giải
pháp nhằm định hướng đúng, hiểu rõ và phát huy những giá trị của thờ cúng
tổ tiên.
4. Đối tượng và phạm vi
- Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và giá
trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
- Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt, đánh giá xu hướng biến động của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận : Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
8
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước ta về tín
ngưỡng, tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu : Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã
sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, lô gich - lịch sử, so sánh,
quy nạp, diễn dịch.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đề tài góp phần trình bày một số giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ của
người Việt, từ xu hướng biến động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước phát huy yếu tố tích cực, hạn chế
tiêu cực của quan niệm về giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhằm phù
hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận : Đề tài góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời góp phần định
hướng đúng đắn quan niệm về giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt ở Bắc Bộ.
Ý nghĩa thực tiễn : Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
nghiên cứu môn tôn giáo học và các ngành học thuộc khoa học xã hội và nhân
văn.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết:
Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
9
Chương 2: Những biểu hiện của giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt.
Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
1.1 Một số khái niệm chính được sử dụng trong luận văn
* Tín ngưỡng
Tín ngưỡng, vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
lý giải. Ở Việt Nam có những hiện tượng tín ngưỡng nếu xét theo các tiêu chí
của tôn giáo thì chúng không đáp ứng đầy đủ. Có nhà nghiên cứu không thừa
nhận thuật ngữ này mà gọi là các tôn giáo nguyên thủy, hay các tôn giáo sơ
khai. Tuy nhiên, sự phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng chỉ có tính chất tương
đối. Trong đời sống xã hội, ngôn ngữ, cả hai thuật ngữ tôn giáo, tín ngưỡng
đều tồn tại. Nói đến tín ngưỡng là nói đến quá trình thiêng hóa một nhân vật,
hiện tượng được con người gửi gắm niềm tin. Quá trình ấy có thể đi kèm theo
là huyền thoại hóa, lịch sử hóa nhân vật phụng thờ.
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiểu theo hai nghĩa.
Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do
về tín ngưỡng tôn giáo. Nếu hiểu tín ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao trùm
trên tôn giáo, là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành tôn giáo. Không có tín
ngưỡng sẽ không có tôn giáo. Trong chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn
giáo ở nước ta, cụm từ “tín ngưỡng tôn giáo không phân biệt hai phạm trù tín
ngưỡng và tôn giáo” [60, tr.68].
Tuy nhiên, Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “lòng tin và sự
tôn thờ một tôn giáo” [64, tr.1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn
giáo.
10
Theo giải thích của Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “lòng ngưỡng mộ, mê
tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [1, tr.283].
Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu
là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay
nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần
tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin,
nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy,
niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản
tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật chất,
đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [53. tr,16].
Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức
đời sống cá nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa
tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo
những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời
sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những
thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình
thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con
đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng
trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian
chưa chuyển được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - mới có những
mầm mống của những tôn giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi
các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo, Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời
điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo
mới xuất hiện” [50, tr.262].
11
Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng
liêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con
người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” [60, tr.82].
Ở phương Tây, phổ biến thuật ngữ tôn giáo bình dân. Thuật ngữ đó có
thể hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo dư luận hoặc
bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu xuất phát
từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu
là các hình thức tôn giáo dân tộc được lưu truyền từ xa xưa, gần gũi với cộng
đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương, các ngày lễ, thậm chí các hình
thức bói toán, tướng số… Ở đó cả tầng lớp trí thức, mặc dù ít tin theo nhưng
vẫn tham gia. Ở những lễ hội, đám rước… đó vẫn đa phần lớp bình dân, ở
nông thôn hưởng ứng, theo một truyền thống đã có từ lâu trong dân tộc. Niềm
tin tôn giáo hay tín ngưỡng biểu hiện ở những nền văn hóa khác nhau và rất
đa dạng.
Trong công trình nổi tiếng “Văn hóa nguyên thủy”, E.B Tylor cho rằng:
“Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có những
nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể chúng đã thực
sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm
của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như những tàn tích của cái
cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang
trạng thái tàn tích” [58, tr.939].
X.A. Tocarev, nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của Nga cho biết:
“Mặc dù bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi vẫn
không bao giờ phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc giữa các
tín ngưỡng. Chúng ta đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo thủ đến mức
12
nào. Bất kỳ một tín ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều tồn tại trong
nhân dân rất lâu bền, thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều kiện sản sinh ra
nó đã thay đổi” [57, tr.55]. Theo ông, các hình thức tôn giáo sơ khai là: tô tem
giáo, bùa mã và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù phép, lễ dục tình, ma chay, lễ
thành niên, sự thờ cúng của nghề săn bắt, sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ, sự
thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, Naguan giáo, sùng bái hội kín, thờ cúng thủ
lĩnh, thờ thần bộ lạc, thờ thần nông.
Như vậy, ở phương Tây, các nhà nghiên cứu thường dùng khái niệm
tôn giáo bao hàm cả các tôn giáo có hệ thống và tổ chức, tôn giáo dân gian và
tôn giáo nguyên thủy. Do vậy, theo họ, tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của
tôn giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn giáo. Tuy
nhiên, niềm tin vào cái thiêng đó, cũng theo hoàn cảnh và trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà thể hiện ra dưới các
hình thức tín ngưỡng và tôn giáo cụ thể khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng sùng bái
tự nhiên…
Các hình thức tín ngưỡng mang đặc thù theo từng không gian văn hóa,
chủ thể văn hóa cũng như thời gian văn hóa khác nhau nhưng vẫn là biểu hiện
niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái của con người. Do vậy, tín
ngưỡng là một hiện tượng văn hóa mang tính lịch sử, một phạm trù lịch sử.
Trong đời sống thường ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta
thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần
bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự
tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc
sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập
13
quán, thói quen, truyền thống của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó
phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch
sử phát triển văn hoá của cộng đồng dân tộc đó.
Một vấn đề được đặt ra, vậy tôn giáo và tín ngưỡng là đồng nhất hay
khác nhau? Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ănghen viết: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người - của
những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” [39, tr.437].
Dưới góc độ văn hoá học, Nguyễn Hồng Dương trong tác phẩm “Tôn
giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển” đã từng định nghĩa: Tôn giáo
thuộc lĩnh vực tinh thần của văn hoá được hình thành trong lịch sử. Một mặt
nó phản ánh quan niệm và cách ứng xử về chuẩn mực luân lý, đạo đức, lối
sống theo cung cách của nền văn hoá mà nó chịu sự tác động. Như vậy, tác
giả cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng văn hoá tinh thần phản ánh sự nhận
thức của con người về thế giới xung quanh, về cuộc sống xã hội biểu hiện
thông qua những hành vi ứng xử của họ. Nhận thức và hành vi của cộng đồng
tôn giáo luôn được thể hiện ở hai mặt: tâm linh và xã hội. Về mặt tâm linh,
thông qua các nghi lễ thực hành tôn giáo con người bày tỏ niềm tin và tình
cảm sâu sắc của mình đối với lực lượng siêu nhiên vô hình, cũng qua đó con
người thoả mãn những nhu cầu và khát vọng của họ trong cuộc sống trần tục.
Về mặt xã hội, những chuẩn mực đạo đức được quy định trong giáo lý, giáo
luật có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử của các tín đồ trong cuộc sống.
Như vậy, về bản chất, cả tôn giáo và tín ngưỡng đều là những hiện
tượng tâm lý xã hội phản ánh hiện thực một cách sai lầm, hư ảo; niềm tin của
con người đối với lực lượng siêu nhiên, thế giới vô hình và cuộc sống sau khi
14
chết là cơ sở của mọi tôn giáo và tín ngưỡng. Bởi vậy, một số tác giả đã đồng
nhất tín ngưỡng với tôn giáo, như: X.A. Tocaret. Hoặc các công trình nghiên
cứu của Đặng Nghiêm Vạn thường sử dụng thuật ngữ tôn giáo để chỉ các hiện
tượng biểu thị niềm tin đối với lực lượng siêu nhiên, kể cả niềm tin vào linh
hồn người chết. Đặng Nghiêm Vạn đã coi hiện tượng thờ cúng tổ tiên ở Việt
Nam là tôn giáo dân tộc. Đây là quan điểm khá phổ biến của các học giả hiện
nay khi nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của người Việt. Bên cạnh đó, họ cũng
chỉ ra sự khác nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng về hình thức biểu hiện và
trình độ tổ chức còn về bản chất thì không có sự khác biệt đáng kể.
Hiện nay, có cách hiểu về tín ngưỡng, họ cho rằng: tín ngưỡng có trình
độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo về mặt tổ chức, thiết chế, giáo chủ…
Bên cạnh đó, có những cách suy nghĩ cho rằng tôn giáo và tín ngưỡng đồng
nhất và gọi chung là tôn giáo, đồng thời có sự phân biệt giữa tôn giáo dân tộc,
tôn giáo quốc tế, tôn giáo vùng miền. Tác giả không đi sâu vào sự khác biệt
giữa tín ngưỡng và tôn giáo, mà chủ yếu kế thừa các quan điểm nghiên cứu về
tín ngưỡng của các nhà khoa học đi trước để tìm kiếm một định nghĩa về tín
ngưỡng chung. “Dù hiểu trên góc độ nào, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là một
hình thái ý thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội. Và một khi những
nhu cầu ấy chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa
mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là nguồn gốc
của giá trị đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý” [49, tr.12]. Theo quan
điểm của người viết, thì tín ngưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng là hệ
thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với
những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có
liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những
đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
15
*Tổ tiên
Theo quan niệm của nhiều người, “Tổ tiên” là những người đã qua đời
trong một dòng họ. Với tác giả Trần Đăng Sinh thì: “Tổ tiên là khái niệm
dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ, kị, ông
bà, cha mẹ… những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh
hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần tới thế hệ con cháu” [42,
tr.25]. Còn tổ tiên trong xã hội nguyên thủy là tổ tiên tô tem giáo của thị tộc.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tô tem giáo ra đời khá sớm. Ở thời kỳ thị tộc mẫu
hệ, tổ tiên tô tem là những vật trong thiên nhiên được thần thánh hóa hoặc là
các vị thần. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên lại là những người đứng đầu thị tộc
đầy quyền uy, khi mất họ trở thành thần che chở cho gia đình thị tộc.
Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn. Họ thường là
những người giữ địa vị chủ gia đình, gia tộc nhưng đã mất, có quyền thừa kế
và di chúc tài sản được luật pháp và xã hội thừa nhận.
Trong quá trình phát triển của lịch sử khái niệm tổ tiên cũng có sự biến
đổi phát triển. Nó không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống gia đình,
họ tộc… mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội. Sự hình thành và phát
triển của các quốc gia, dân tộc thường gắn liền với tên tuổi của những người
có công tạo dựng, giữ gìn cuộc sống của cộng đồng. Họ là những anh hùng,
danh nhân mà khi sống được tôn sùng, kính nể, khi mất được tưởng nhớ, thờ
phụng trong các không gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ là những tổ sư, tổ nghề,
thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa…
*Thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng
nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người chết, giữa người ở thế
giới hiện tại và thế giới tâm linh.
16
Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi
lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo
giáo. Mặt khác, với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức
thường được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống
nhất ở các gia đình, các địa phương.
Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp
những yếu tố: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng tổ
tiên trong không gian thờ cúng.
“Thờ” có ý bao hàm một hành động biểu hiện sự sùng kính một
đấng siêu nhiên như thần thánh, tổ tiên, đồng thời cũng có nghĩa là cách ứng
xử với bề trên cho phải đạo như thờ cha mẹ, thờ thần hay một người có ơn với
mình. “Thờ” trong thờ cúng tổ tiên là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm
linh, tình cảm của con cháu hướng về cội nguồn. Thờ tổ tiên là thể hiện sự
thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến tổ tiên, thể hiện niềm tin vào sự bảo hộ
che chở của tổ tiên.
“Cúng” là yếu tố mang tính lễ nghi, là dâng lễ vật cho tổ tiên, những
người đã khuất, là sự thực hành một loại động tác (cúng, vái, lạy…) của
người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được quy
định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc.
“Thờ” và “cúng” là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể
riêng biệt – đó là sự phụng thờ tổ tiên.
Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung, còn hoạt động “cúng” là hình thức biểu
đạt của nội dung thờ cúng. Ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hi
vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội dung cốt lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ
phụng thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “thờ” mà chỉ có
“cúng” thì tự bản thân tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không có phần thiêng,
17
không có sự hấp dẫn nội tại và dễ thành nhạt nhẽo, vô vị, mai một. Sự “cúng”,
tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo, tạo
nên sức hấp dẫn, nó chính là hương vị, màu sắc, chất keo dính thỏa mãn niềm
tin tôn giáo, đáp ứng nhu cầu của chủ thể thờ cúng.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín
ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thủy trong chế độ thị tộc
phụ quyền. Đó là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh
thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ, tổ sư tổ nghề,
thành hoàng, tổ nước…
1.2 Thờ cúng tổ tiên là tôn giáo hay tập tục
Vấn đề thờ cúng tổ tiên là tôn giáo, một tín ngưỡng dân gian hay tập
tục, là truyền thống của dân tộc, hay là quốc đạo thì vẫn chưa có sự thống
nhất, còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là
một tín ngưỡng có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người
Việt. Do đó, Thờ cúng tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến. Một thời
gian dài, tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên chưa được hiểu đầy đủ, nên người ta
ứng xử với loại hình tín ngưỡng này chưa thật thỏa đáng. Cho dù có thời kỳ
lịch sử, ai đó đã từng phê phán, thậm chí còn liệt thờ cúng tổ tiên vào loại
“mê tín dị đoan” đi nữa thì cho đến đầu thế kỷ XXI thờ cúng tổ tiên lại trỗi
dậy. Điều đó nói lên sức sống trường tồn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
trong lòng dân tộc.
Khái niệm tôn giáo bao gồm toàn bộ quan niệm, ý thức tôn giáo, tình
cảm tôn giáo, hành vi hoạt động và tổ chức tôn giáo. Tín ngưỡng chỉ mang
hình thức tôn giáo khi ý thức con người phát triển đến trình độ tư duy trừu
tượng, có thể hình thành các biểu tượng như “đấng sáng thế”, “thế giới tâm
18
linh” xuất hiện tầng lớp người chuyên làm nghề tôn giáo, xuất hiện hệ thống
giáo lý, giáo luật, giáo lễ, hệ thống các nơi thờ cúng được tổ chức chặt chẽ.
Tôn giáo, tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần, là phần sâu lắng nhất, nó thuộc về
đời sống tâm linh của con người, cho nên nó là một bộ phận cực kỳ quan
trọng trong văn hoá tộc người. Mỗi khi gặp nhiều điều rủi ro bất hạnh trong
cuộc sống, muốn thoát khỏi mọi điều đau khổ trên trần gian, thì con người lại
gửi gắm niềm tin vào lực lượng siêu nhiên hư ảo và cầu xin ở nơi thờ cúng
các vị thánh thần. Cũng vì lẽ đó mà tín ngưỡng tồn tại trong nhân dân rất
vững chắc và lâu bền, ngay cả khi những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi.
Các học giả như Toan Ánh, Hoàng Quốc Hải… đã khẳng định, thờ
cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà thực chất đó là một phong tục, một tín
ngưỡng. Trong tác phẩm “Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt
Nam” tác giả Toan Ánh đã cho rằng “Thờ phụng tổ tiên không phải là một thứ
tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo giáo, vì một đạo giáo phải có giáo chủ và
giáo điều và việc thi hành đạo phải qua trung gian tu sĩ. Thờ cúng tổ tiên do
lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ đã
khuất mà thôi” [3, tr.4]. Còn tác giả Hoàng Quốc Hải trong cuốn “Văn hóa
phong tục” viết: “ Phải khẳng định rằng, thờ cúng tổ tiên ở nước ta chỉ là một
tín ngưỡng mang tính đạo lý, chứ không phải là một tôn giáo” [24, tr.14].
GS. Phan Đại Doãn quan niệm thờ cúng tổ tiên như một tín ngưỡng gắn
liền với sự củng cố quan hệ họ hàng, gia đình. Không ít người cho rằng thờ
cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà là một loại hình tín ngưỡng, hay tín
ngưỡng dân gian. Tác giả Hà Văn Tăng – Trương Thìn lý giải: “Từ xa xưa
thờ cúng tổ tiên rõ ràng là một tín ngưỡng sâu sắc của người Việt… nhưng từ
đó, chưa thể nói rằng thờ cúng tổ tiên là một thứ tôn giáo của người Việt.
Thoạt nhìn, có thể coi đó là tôn giáo, vì hầu hết các nhà đều có bàn thờ, đều
19
làm những nghi thức thờ cúng trang trọng và thành kính, nghĩa là có những
dấu hiệu của tôn giáo, nhưng đó chưa phải là tôn giáo hiểu theo nghĩa chặt
chẽ của khái niệm này. Thờ cúng tổ tiên không có những giáo lý thống nhất,
cũng không có giáo hội với những phép tắc nghiêm ngặt như thường thấy các
tôn giáo xưa và nay” [45, tr.149 – 150]. Tín ngưỡng này mọi niềm tin đều
mang tính nguyên thuỷ, chất phác không thông qua các giáo chủ, giáo lý và
giáo hội nào.
Trong khi các học giả trên không thừa nhận tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
là một tôn giáo, thì cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi lại cho rằng nó gần như là
một thứ tôn giáo. Còn giáo sư Đặng Nghiêm Vạn thì khẳng định thờ cúng tổ
tiên là tôn giáo và nằm trong “hệ thống tôn giáo dân tộc”. Tác giả viết: “Cũng
cần lưu ý rằng, ta không thấy ghép từ giáo sau các tôn giáo mới phát sinh như
Cao Đài, Hòa Hảo… hay các tôn giáo truyền thống như đạo tổ tiên, đạo thờ
thành hoàng làng… Gần đây bản thân tác giả muốn gọi là hệ thống tôn giáo
dân tộc” [60, tr.24].
Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính thì xem thờ cúng tổ tiên như là một tập
tục truyền thống mang giá trị đạo đức, thể hiện lòng thành kính nghĩa cử của
con cháu: “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là
một bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của người” [6, tr.20 - 21].
Ở miền Bắc nước ta, nhiều người gọi thờ cúng tổ tiên hay là đạo thờ tổ
tiên. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu cho rằng, dân chúng quan niệm
“đạo” ở đây không có nghĩa là một tôn giáo, như đạo Công giáo, đạo Phật,
đạo Hồi... mà phải hiểu nó như là đạo lý làm người, đạo làm con, đạo hiếu
nghĩa. Trong tác phẩm “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, tác
giả Ngô Đức Thịnh nêu lý do ông gọi Thờ cúng tổ tiên là đạo vì: “Khái niệm
20
đạo ở đây, theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa con người đạt tới
niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên. Như vậy, đạo theo nghĩa rộng nó có
thể bao gồm cả một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, còn đạo theo nghĩa
hẹp hơn là chỉ một số hình thức tín ngưỡng phát triển có xu hướng trở thành
tôn giáo sơ khai hay là tôn giáo dân gian” [53, tr.17 – 21].
Còn ở miền Nam nước ta, thờ cúng tổ tiên lại được nhân dân gọi là đạo
ông bà. Nguyễn Đình Chiểu viết: “Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt
ông cha không thờ”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, có thể gọi là đạo thờ
cúng tổ tiên cũng được, nhưng đạo ở đây không có nghĩa như: đạo Kitô, đạo
Hồi, đạo Phật… mà phải hiểu như đạo làm người, làm con,… và những đạo
ấy không thể là một tôn giáo vì đã là một tôn giáo thì phải có người sáng lập,
giáo lý, giáo luật, giáo hội, lễ nghi…
Như vậy, thờ cúng tổ tiên là phong tục, truyền thống, tín ngưỡng hay
tôn giáo thì vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau, bởi theo tiêu chí truyền
thống về tôn giáo, các yếu tố cần có như người sáng lập, giáo lý, giáo luật,
giáo hội, lễ nghi... là những tiêu chí rất quan trọng. Nếu theo những tiêu chí
này thì chỉ có thể kể tới các tôn giáo có tính chất quốc tế như Phật giáo, Kitô
giáo, hay những tôn giáo khu vực như Ấn Độ giáo... còn hầu hết các hình
thức thờ cúng, tế lễ khác được coi là tín ngưỡng.
Bản thân tác giả đồng tình với việc coi thờ cúng tổ tiên là một tín
ngưỡng, tập tục truyền thống vì thờ cúng tổ tiên được hình thành trực tiếp từ
cuộc sống phong phú, đa dạng, có kết cấu đơn giản, mang tính dân dã đời
thường; Thờ cúng tổ tiên thiếu những căn cứ cơ bản của một tôn giáo như
người sáng lập, hệ thống tổ chức, giáo lý, giáo luật,…; Trong thờ cúng tổ tiên
21
yếu tố hàng đầu không phải là niềm tin tôn giáo mà là đạo lý, đó là việc làm
để tưởng nhớ tổ tiên, hướng về cuội nguồn.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín
ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thủy trong chế độ thị tộc
phụ quyền. Với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên tuy đã chết nhưng linh hồn
vẫn còn tồn tại, có khả năng che chở, phù giúp con cháu, được thể hiện thông
qua nghi lễ thờ phụng. Đó là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có
công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ, tổ
sư tổ nghề, thành hoàng, tổ nước…
1.3 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức thờ cúng của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên
1.3.1 Nguồn gốc
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội, nảy sinh trên cơ sở
kinh tế xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Do đó, tìm nguồn gốc
của nó không phải trong ý thức mà phải trong điều kiện lịch sử xã hội, lịch sử
hoạt động thực tiễn của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, thì sự bất lực của con
người trong đấu tranh với tự nhiên là một trong những nguồn gốc xã hội của
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các hình
thái kinh tế - xã hội. Cơ sở kinh tế của xã hội nguyên thủy là nền kinh tế tự
nhiên lấy săn bắt, hái lượm là chính. Vì thế cuộc sống lệ thuộc rất nhiều vào
22
môi trường tự nhiên. Xã hội cộng sản nguyên thủy được tổ chức dưới hình
thức thị tộc, bộ lạc. Đó là những cộng đồng người có đặc điểm cơ bản là cùng
huyết thống, sống trên địa bàn tương đối ổn định, hợp tác tương trợ trong lao
động sản xuất, trong đấu tranh chống thiên tai và chiến tranh xâm chiếm của
các thị tộc, bộ lạc khác. Quan hệ giữa các thành viên trong thị tộc là quan hệ
bình đẳng, hợp tác trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất.
Thời kỳ đầu của công xã thị tộc, công cụ lao động còn hết sức thô sơ,
trình độ lao động giản đơn, năng suất lao động rất thấp. Do vậy cuộc sống của
người nguyên thủy vẫn không cách xa cuộc sống của loài vật. Ý thức cá nhân
chưa định hình, dẫn tới việc ý thức xã hội của họ cũng mang tính bầy đàn,
đơn thuần. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tìm ra lửa, dùng
cung tên trong săn bắn đã tạo ra bước thay đổi căn bản trong ý thức người
nguyên thủy. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức công xã
nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên.
Giới tự nhiên huyền bí bao quanh con người luôn đe dọa cuộc sống bởi những
tai họa bất thần như: bệnh tật, mưa bão, nắng, hạn hán, thú dữ… và sau này,
cùng với lực lượng bí ẩn của giới tự nhiên và lực lượng mang tính xã hội luôn
thống trị lên cuộc sống hằng ngày của họ. Bế tắc trong cuộc sống hiện thực,
con người tìm sự giải thoát trong đời sống tinh thần.
Cùng với biểu tượng về các thần linh, biểu tượng về tô tem xuất hiện
trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ. Theo X.A.Tôcarev, thờ cúng tổ tiên trong thời
kỳ này chỉ mới manh nha, chưa là hiện tượng phổ biến. Tô tem giáo là giai
đoạn phát triển đầu tiên của thờ cúng tổ tiên. Thời tô tem giáo, con người đã
nhận một vật, con vật làm tổ tiên trong bộ lạc để cầu mong cho họ có một
cuộc sống yên lành, ấm no. Vì thế có sự kiêng kỵ là không được xúc phạm vật
tổ nhưng họ đã phá vỡ sự kiêng kỵ đó và ăn thịt vật tổ. Họ thấy sự sỡ hãi, sợ
bị trừng phạt. Sự hạn chế của con người trước tự nhiên và xã hội, dẫn đến sự
23
hạn chế về việc giải thích cái chết của con người. Khi chết thì linh hồn đi đâu
thể xác đi đó hay linh hồn sẽ đi đâu?, thế giới bên này, thế giới bên kia, sự
sống cái chết như thế nào… họ không lý giải được hoặc giải thích sai. Đó là
những tiền đề của thờ cúng tổ tiên.
Không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên, mà trong quá trình tồn tại và
phát triển giữa con người còn có mối quan hệ với nhau. Khi xã hội có sự phân
chia giai cấp, chế độ người bóc lột người cũng là một trong những nguồn gốc
xã hội chủ yếu làm nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Xã hội cổ truyền của người Việt có những cơ sở kinh tế xã hội nhất
định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết, đó
là nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi cho
sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã
Việt Nam gần như một đơn vị độc lập, và tương tự như thế, tế bào của nó là
hộ gia đình nhỏ. Hình ảnh “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” đã mang tính
chất điển hình cho nền kinh tế tiểu nông của người Việt. Điều này là nhân tố
quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình cùng một thế hệ và giữa các thế
hệ (sự chuyển giao kĩ thuật canh tác bằng con đường truyền nghề qua các thế
hệ). Mở rộng ra, các gia đình cư trú quần tụ theo họ và nhiều họ tập hợp thành
làng. Đứng trước làng, con người không tồn tại với tư cách cá nhân, mà dưới
danh nghĩa gia đình, dòng họ. Các dòng họ lớn, nhiều đời, nhiều chi, nhiều
người đỗ đạt khoa bảng thường có thế lực rất mạnh trong làng, nhiều khi thao
túng cả bộ máy làng xã. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận
lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng như tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở làng xã.
Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa nên nước ta sản xuất
lúa nước theo truyền thống tiểu canh và cũng do đặc điểm kiến tạo địa lí, với
24
đồng cỏ vừa nhỏ vừa ít nên chỉ phù hợp với chăn nuôi tiểu gia súc. Vì vậy ở
nước ta, sản xuất tập trung nhân công theo quy mô nhỏ, công cụ sản xuất nhỏ
gọn. Nên người Việt gắn bó với gia đình chặt hơn là với dòng họ. Hầu như
gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không
phải dòng họ nào cũng có từ đường.
Hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng trong việc hình
thành tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu giữ
quyền hành quản lý gia đình, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế. Họ là
những người có uy quyền và được nắm giữ việc thờ cúng các thần, trong đó
có tổ tiên đã qua đời.
Từ sự phân tích trên đây chúng ta thấy rõ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
được hình thành từ xa xưa và tồn tại phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên được duy trì và phát triển tồn tại đan
xen với các tín ngưỡng, tôn giáo khác. Bên cạnh nguồn gốc xã hội mang tính
khách quan thì nguồn gốc nhận thức và tâm lý cũng là một nguồn gốc quan
trọng dẫn đến sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
- Nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Một trong những nguồn gốc dẫn đến việc hình thành tín ngưỡng nói
chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói riêng chính là trình độ phát triển của
nhận thức.
Trước hết, cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ “vạn
vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn và bắt đầu từ thế giới tự nhiên xung
quanh mình. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta tôn sùng là các nhiên
thần, đặc biệt là thần cây, thần đá, thần núi, thần sông nước… Bằng cách
huyền thoại hóa, các vị thần được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu
hay dữ tợn) tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc
25
nhân hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ
thống nhân thần. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về
bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa thế giới hữu hình
và vô hình, nhất là giữa cái sống và cái chết đã khiến cho con người bận tâm.
Vẫn với quan niệm “vật linh” kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có
phần “hồn”(phần vía tức là phần hồn nhẹ hơn ) và xác ( chỉ có điều khác đàn
ông ba hồn bảy vía, đàn bà ba hồn chín vía).
Không có ý thức cao siêu “sống gửi thác về” (thiên đàng hay địa ngục)
của Kitô giáo hay thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật. Trong
nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó vừa tách biệt, chúng gắn
bó khi sống và tách biệt khi chết: thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn
vẫn tồn tại, chuyển sang “sống” ở một thế giới khác. Thế giới ấy có thể gọi
bằng những tên gọi khác nhau, là cõi ma của người Mường, hay âm phủ (cõi
âm) theo cách nói của người Việt. Cõi âm cũng có mọi nhu cầu như cuộc
sống dương gian. Các tài liệu khảo cổ cho biết, tục chôn của cải theo người
chết đã có từ văn hóa Sơn Vi. Trong các khu mộ táng người ta tìm thấy các
công cụ lao động, vật liệu sinh hoạt mà đoán chừng đó là những thứ cung cấp
cho người chết sử dụng ở thế giới bên kia. Như vậy theo quan niệm dân gian,
chết cũng là một dạng “sống” mới trong môi trường khác.
- Nguồn gốc tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tâm lý, tình cảm là một yếu tố mang tính chủ quan trước sự tác động
của thế giới khách quan, thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở tâm lý,
tình cảm của con người và cộng đồng người trong xã hội. Một trong những
nhu cầu thiết yếu của con người là được tâm sự, gửi gắm, giải tỏa những bức
xúc trong đời sống tinh thần. Thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở
niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin ấy đã giúp con người tạo
26
ra hệ thống văn hóa giá trị truyền thống, thiêng liêng hóa tình cảm tiếc
thương, thái độ kính trọng người có công tạo dựng cuộc sống.
Cuộc sống là môi trường văn hóa đặc biệt được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Con người sống trong môi trường ấy,không những chỉ tiếp
xúc với cái hiện hữu mà còn tiếp xúc với cái vô hình, trừu tượng, mông lung,
không lý giải được bằng lý trí. Điều đó chỉ cảm nhận từ tâm thức, linh cảm
của con người. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên góp phần cân bằng trạng
thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, giải tỏa nỗi cô đơn, bất hạnh của con
người trước cái chết. Cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của con người,
chết đồng nghĩa với sự xa lìa vĩnh viễn thế giới, người thân. Song quy luật
sinh học khiến cho không ai có thể trốn tránh được nó. Bằng nghi thức thờ
cúng tổ tiên, con người đã góp phần lý giải về cái chết và cuộc sống sau khi
chết, giải tỏa nỗi kinh sợ khi nghĩ đến nó. Rõ ràng là nỗi sợ hãi cái chết được
giảm bớt thông qua việc thờ cúng ông bà, cha mẹ mình. Và dần dần trở thành
tập tục, truyền thống, nghĩa vụ thờ cúng của mọi gia đình dưới hình thức giỗ,
chạp, xây mồ mả… Bên cạnh ý thức trách nhiệm, có lẽ phần nào còn bởi yếu
tố sợ bị trừng phạt khi không làm tròn trách nhiệm, bổn phận với người đã
khuất.
1.3.2 Bản chất
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống như các loại hình tín ngưỡng,
tôn giáo khác là sự phản ánh hiện thực, trong đầu óc của con người có sự tồn
tại của những lực lượng ở bên ngoài chi phối vào cuộc sống hằng ngày của
họ. Lực lượng xa lạ bên ngoài ở đây là tổ tiên trong thế giới vô hình. Tổ tiên
đã mất là đối tượng phản ánh nhằm đáp ứng, thỏa mãn sự thiếu hụt tinh thần
của những người đang sống. Tổ tiên khi còn sống thì “khôn”, đến lúc chết thì
“thiêng”, vẫn ngự trên bàn thờ, vừa gần gũi, vừa xa lạ, lại rất đỗi linh thiêng.
27
Con cháu thành kính, tôn thờ tổ tiên là tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Ý thức về
tổ tiên là ý thức về cội nguồn. Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của
thời gian, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt,
chết không phải là hết. Các thế hệ tiếp nối nhau, chết chỉ là sự bắt đầu của
một chu kì sinh mới.
Tôcarev đã khẳng định tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như sau: “Sự thờ
cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo, từ lâu đã được thừa nhận trong giới
khoa học… là sự thờ cúng ông bà cha mẹ và những người đồng tộc đã chết
và trước hết là hình thức gia đình thị tộc của sự thờ cúng đó, từ đó tức là lòng
tin rằng, tổ tiên đã chết che chở cho con cháu đang sống và những lễ nghi
cầu xin do các thành viên thị tộc hay gia đình tiến hành để nhằm thờ phụng tổ
tiên”. [57,tr.312 – 313].
Nội dung tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại
của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung
huyết thống) bằng con đường: hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con
cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này, đạo lý
là nội dung nổi trội. Một trong những đạo lí đó là đạo lí “uống nước nhớ
nguồn”. Một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành lúc
họ đã chết cũng như khi còn sống; mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm
liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Con cháu nhớ về
ông bà tổ tông, ông bà cha mẹ đã sinh thành gây dựng nên cuộc đời cho mình
cả về thể xác, linh hồn, và khả năng kinh tế. Đó là sự thiêng liêng tỏ lòng
thành kính dâng lễ cúng tế vong hồn ông bà tổ tiên. Càng thực hiện được sự
cúng lễ tổ tiên chu đáo bao nhiêu thì lòng mình càng thảnh thơi sung sướng
bấy nhiêu.
28
Đặc trưng chung nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở chỗ, nó là
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử, xã hội và văn hóa
thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần; chịu sự quy định của tồn tại xã hội có tính
độc lập tương đối, được hình thành từ rất sớm và còn tồn tại lâu dài trong xã
hội. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gắn quyện vào
nhau, tạo thành một nét đặc thù của loại hình tín ngưỡng này.
Như vậy, có thể nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín
ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn hóa, đạo đức trên cơ sở của niềm
tin, cho rằng tổ tiên đã chết sẽ phù trợ che chở cho con cháu. Là sự phản ánh
hoang đường quyền hành của người gia trưởng và được thể hiện thông qua
nghi lễ thờ cúng tổ tiên theo quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi người,
mỗi gia đình và mỗi cộng đồng xã hội.
1.3.3 Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trong thời gian gần đây, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được khôi phục và
phát triển, nhằm khai thác kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa đã được
chung đúc hàng nghìn năm qua thiết chế gia đình – dòng họ - làng và nước.
Trong thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau về tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Chẳng hạn như phân loại theo dân tộc, ta có dân tộc Kinh,
Mường, Tày, Thái… ; phân loại theo giai tầng xã hội, phân loại theo đặc điểm
của thờ cúng tổ tiên. Cách phân loại phổ biến là dựa trên kết cấu của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo nghĩa rộng để phân loại tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên thành: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình, họ tộc, thờ thành hoàng
làng và thờ cúng tổ tiên trong cả nước.
• Thờ cúng tổ tiên trong gia đình
Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc
sống cho con cháu. Thờ cúng tổ tiên chính là toàn bộ các hình thức lễ nghi,
29
cúng bái nhằm bày tỏ lòng tôn kính của các thế hệ sau với những người thuộc
thế hệ đầu tiên của một dòng họ, với ông bà, cha mẹ đã qua đời. Thờ cúng tổ
tiên mang ý nghĩa là một tín ngưỡng ở chỗ gây niềm tin thiêng liêng vào linh
hồn ông bà tổ tiên như vị thần hộ mệnh; phù hộ che chở con cháu trong suốt
những tháng ngày làm ăn sinh sống. Việc chôn theo những đồ tùy táng thấy
được trong các ngôi mộ thời nguyên thủy, việc đốt vàng mã, tiền âm phủ ngày
nay, ấy là những bằng chứng biểu hiện niềm tin vào ông bà, tổ tiên vẫn sinh
hoạt như ở dương gian.
Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về
sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết; tin rằng con người ta chết đi
về thǎm nom, phù hộ cho con cháu. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy,
chỉ cần một nén nhang lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, ngày Tết, hay ngày
giỗ tổ tiên, con cháu trong gia đình cũng đã thể hiện được tấm lòng thành
kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân đã khuất. Từ lâu, thờ
cúng tổ tiên ông bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và
nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm
linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các làng quê.
Xin tổ tiên phù hộ cho gia quyến bình an, đó là tâm niệm của tất cả
người Việt Nam. Trên thực tế, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống
của dân tộc, cho dù đó không phải là điều bắt buộc, song đó lại là thứ “luật
thành vǎn” trong đời sống tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ.
Trong mỗi gia đình, bàn thờ cúng tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và
trở thành nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết,
hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên phù hộ.
Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với gia tiên.
30
Thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống có nhiều hình thức, cấp độ khác
nhau. Trước hết là việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình (thờ cúng gia tiên).
Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình
người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật,
người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh là những người thân thích, chết trẻ, hoặc
chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo
quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân,
thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên.... Trong các vị thần
được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hàng với tổ
tiên. Bàn thờ tổ tiên là không gian linh thiêng để các thành viên trong gia đình
thể hiện, gửi gắm lòng tưởng nhớ, biết ơn tiên tổ. Bàn thờ là nơi tổ tiên “đi”,
“về” và ngự trên đó. Thông thường bàn thờ tổ tiên thường được lập cố định, ở
chỗ trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên.
Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ
thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung
bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa
đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ
thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào
cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Đồ thờ tự được coi là những vật linh thiêng.
Ngày nay, do tác động của nếp sống mới, gia đình có bàn thờ cổ không còn
nhiều. Người ta lập bàn thờ trên một tấm ván đóng trên tường, có khi là trên
nóc tủ... Đồ thờ chỉ gồm một bình hương nhỏ, khung ảnh thờ người quá cố và
một số đồ bày biện khác. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn
ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ
thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.
31
Nhìn chung, một bàn thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, giữa
hai lớp được ngăn bằng một bức y môn bằng vải. Lớp trong đặt long khám
của thần chủ (ngai hoặc ỷ, tượng trưng cho ngôi vị của tổ tiên), bộ đồ thờ để
đặt hộp trầu, chén nước đĩa hoa quả… Lớp ngoài là hương án, trên đặt bình
hương, đèn, ống hương, mâm bồng… Ngày thường y môn được buông rủ
xuống, chỉ khi nào có lễ, sau khi con cháu thắp hương khấn mời thì y môn
mới được vén lên.
Theo cách giải thích dân gian, làm như thế để tổ tiên được hưởng lễ một
cách tự nhiên, không cho ai nhìn ngó, quấy nhiễu. Ngoài ra bàn thờ của các
gia đình giàu có hoặc đại gia khoa bảng còn treo các bức hoành phi ở bên
trên, câu đối ở hai bên, được sơn son thiếp vàng. Nếu như hoành phi, câu đối
trong nhà thờ họ, tông tộc mang nặng tính tổng kết, phô trương và tôn vinh
dòng họ để làm gương cho hậu thế thì hoành phi, câu đối ở bàn thờ gia tiên
thường được viết với nội dung bày tỏ lòng thành kính, biết ơn hoặc lời hứa
của con cháu đối với tổ tiên.
Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các
gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ
táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Theo thuyết
âm dương ngũ hành thì bát hương thể hiện hành thổ, nên ở giữa (trung tâm).
Hai cây đèn nến thể hiện hành hỏa. Nén hương đốt lên là có cả ba yếu tố: hỏa
(phần đang cháy), mộc (phần thân hương) và thổ (phần chân hương cắm trong
bát hương). Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, sự chuyển hóa thể hiện ước vọng sinh
sôi, phát triển.
Bộ đồ thờ của những gia đình bình dân thường đơn giản, thường là bộ
tam sự, gồm bát hương ở giữa và hai bên là hai cây đèn nến. Những gia đình
khá giả, đồ thờ phụng là bộ ngũ sự hay thất sự. Bộ ngũ sự gồm bát hương, hai
32
cây đèn nến, lọ độc bình, mâm bồng ngũ quả, cái kỉ hay còn gọi là tam sơn
gồm bộ đài ba chiếc, giữa đặt chén rượu, hai bên mỗi bên để đĩa trầu cau, một
bên để bát nước. Rượu và nước mang tính âm, hành thủy. Khi thắp hương đèn
nến cúng vái, âm dương hòa hợp, mọi việc tốt lành. Sau khi đặt đồ lễ lên bàn
thờ, gia trưởng (có thể là chủ hộ hoặc con trưởng nam hoặc cháu đích tôn...)
khăn áo chỉnh tề, thắp hương, đứng trước bàn thờ, vái ba vái và khấn. Hương
thắp trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ: một, ba, năm nén. Sau khi gia
trưởng khấn lễ, lần lượt đến mọi người trong gia đình vái trước bàn thờ. Ngày
nay, việc khấn lễ đã giản đơn, người ta chỉ vái thay lễ. Trước khi khấn, vái ba
vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn vái dài và ba vái ngắn. Khi mọi người đã lễ
vái xong, chờ cho tàn một tuần nhang, gia trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ và
thắp thêm tuần nhang nữa. Sau đó, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem
hoá (đốt). Lúc hoá vàng người ta thường lấy chén rượu cúng vẩy lên đống tàn
vàng. Các cụ giải thích, có như vậy người dưới âm mới nhận được số vàng
người sống cúng. Lúc này có thể hạ đồ lễ xuống.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa
ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên
(những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng
sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi
thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt.
Trong việc thờ phụng tổ tiên thì ngày giỗ hay còn gọi là kỵ nhật rất quan
trọng. Trong ngày giỗ, người ta làm cỗ bàn mời thân bằng quyến thuộc. Ở làng
quê, ngày giỗ là dịp để gia chủ mời lại những người đã từng mời mình đi ăn
uống, người ta gọi là trả nợ miệng. Giỗ có thể làm to hoặc làm nhỏ tuỳ theo gia
cảnh và nhiều khi lại tuỳ thuộc vào mối liên hệ giữa người sống và người chết.
33
Ví như giỗ cha mẹ, giỗ ông bà thường làm to, giỗ anh em, chú bác cùng các vị
cao tằng tổ khảo thường chỉ có cơm canh cúng đơn sơ để khỏi bỏ giỗ.
Theo phong tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức. Nếu
con trai trưởng không còn thì việc cúng giỗ sẽ do cháu đích tôn tổ chức (chỉ
khi nào trưởng nam không may tuyệt tự, không có con trai nối dõi thì mới đến
con thứ). Tuy nhiên, không vì thế mà những người con thứ, cháu thứ, cháu
ngoại bỏ ngày giỗ ông bà, cha mẹ. Đến ngày giỗ, họ phải tề tựu ở nhà người
con trưởng và cũng phải mang đồ lễ cúng tới để gửi giỗ. Trước ngày giỗ,
trưởng nam làm lễ cáo với Thổ công để xin phép với Thổ công cho hương
hồn người đã khuất được về phối hưởng bởi vì người ta cho rằng “đất có Thổ
công, sông có Hà bá”, chỉ khi có phép của Thổ công hương hồn người đã
khuất mới vào được trong nhà.
Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng
điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Cỗ bàn nấu
xong, cúng gia tiên trước con cháu mới được ăn sau. Khách tới ăn giỗ có
mang đồ lễ để cúng, thường là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa quả.
Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm,
xuất phát từ quan niệm, dù thác nhưng linh hồn vẫn luôn ở bên cạnh con
cháu. Không chỉ cúng lễ trong những dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp,
cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như tết Nguyên đán, Thanh
minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc, Vọng theo chu kì tuần trăng, mà
các vị tổ còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau,
thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hoà… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ
hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.
34
Lễ phẩm tùy, to, sang thì dùng bò, lợn, dê, nếu không cũng sửa soạn vài
mâm cỗ, hoặc thủ lợn mâm xôi, chí ít cũng đĩa xôi con gà, hoặc bát cơm quả
trứng, con cá bát canh, còn lễ chay thì oản quả, xôi chè…
Nói tóm lại, tùy thuộc gia cảnh và nội dung ngày lễ, nhưng điều thiết
yếu là đồ lễ phải là những thứ thanh khiết và được giành riêng. Trong các
ngày lễ, lễ trọng được chuẩn bị chu đáo hơn và nhiều đồ lễ hơn lễ ngày
thường, nhưng có những thứ không được phép thiếu: nén hương, ngọn đèn,
chén nước, đĩa hoa. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa
tổ tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những người
sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo nên sự giao hòa
giữa người hai cõi. Việc thờ cúng tổ tiên được người Việt rất tôn trọng, vì
việc cúng giỗ nghiêm túc là thể hiện đạo hiếu. Cho nên gửi giỗ là nghĩa vụ
nhưng người ta còn muốn nhân ngày giỗ là cơ hội để gặp mặt anh em con
cháu trong nhà mà hằng năm phải xa cách nhau vì sinh kế, thắt chặt thêm tình
thân giữa những người cùng huyết thống bằng sợi dây tâm linh tình nghĩa.
Thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, cho dù đó
không phải là điều bắt buộc, song đó lại là thứ “luật bất thành vǎn” trong đời
sống tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Bất cứ một gia đình
người Việt nào cũng lập bàn thờ cúng tổ tiên và được đặt ở vị trí trang trọng
nhất, trở thành nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày
Tết, hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên phù
hộ. Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với gia tiên.
• Thờ cúng tổ tiên trong dòng họ
Thờ cúng tổ tiên theo dòng họ là hình thức phổ biến chủ yếu ở Trung
Quốc và Việt Nam, song có lẽ ở Trung Quốc vẫn là nơi mẫu mực, điển hình
35
cho hình thức thờ cúng này. Nếu như ở Việt Nam, nhà thờ tổ không phải dòng
họ nào cũng có thì ở Trung Quốc tình hình có khác: “dòng họ nào cũng có từ
đường” [53,tr.43] làm nơi thờ cúng thủy tổ của dòng họ.
Quan hệ huyết thống của Việt Nam khá phức tạp. Gia đình chỉ là một
đơn vị độc lập tương đối bởi vì giữa các gia đình trên một phạm vi nào đó lại
tồn tại một quan hệ ràng buộc mà người ta gọi là họ hàng, dòng tộc. Và theo
“quy định” huyết thống ấy, nhiều gia đình sẽ họp thành một ngành, nhiều
ngành họp thành một họ. Mỗi họ có một ông Tổ chung.
Thủy tổ là người sáng lập ra dòng họ, từ đó hệ thống các đời cùng dòng
máu nối tiếp nhau phát triển theo thời gian. Họ là sự tập hợp tự nhiên những
người cùng dòng máu, tụ hội theo từng đời và nhiều đời do cùng một ông tổ
sinh ra. Dòng họ ở đây được tính theo trục dọc có thể theo họ mẹ hoặc họ cha,
nhưng hầu hết được lấy theo họ cha.
Để tưởng nhớ về nguồn gốc cuả họ tộc mình, mỗi dòng họ đều xây nhà
thờ thủy tổ của dòng họ (còn gọi là từ đường). Ở những làng xóm giữ bền
truyền thống cùng tập tục cổ và ít giao lưu với bên ngoài, trước đây thường là
mỗi làng có bao nhiêu dòng họ thì có bấy nhiêu nhà thờ họ, trong đó thờ thủy tổ
và các vị tổ phân chi. Thậm chí ở những làng sung túc, có những họ to, nhiều
đinh, nhiều chi thì mỗi chi đều xây một nhà thờ riêng gọi là nhà thờ chi.
Vì vậy, ngoài ngày giỗ tổ tiên tại gia, người Việt còn có ngày giỗ họ.
Trưởng tộc là người được hưởng hương hoả của tổ tiên nên có trách nhiệm
phải lo việc làm giỗ họ. Trong ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ. Mỗi
dòng họ đều có một cuốn tộc phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng sinh
tử của tổ tông và người trong họ theo thứ tự.
36
Con cháu trong một họ lập Từ đường để thờ vị Thuỷ tổ. Trên bàn thờ
ấy có bài vị Thuỷ tổ dòng họ. Xưa kia bài vị thường được ghi bằng Hán tự,
ngày nay có nhiều người dùng chữ Quốc ngữ để đề bài vị. Ngoài thần chủ đồ
thờ còn bao gồm đèn nến, hương, hoa, mâm quỳ, mâm bồng, cổ đài rượu...
Hoành phi câu đối trên đó ghi lại công đức của tổ tông là đồ không thể thiếu
trong gian thờ. Có nhiều họ không xây Từ đường thì xây một đài lộ thiên,
dựng bia đá, ghi tên thụy hiệu các tổ tiên. Mỗi khi có giỗ tổ hoặc có tế tự thì
cả họ ra đó cúng tế.
Chuyện góp giỗ và tổ chức giỗ họ hàng nǎm được chuẩn bị rất chu đáo.
Theo phong tục chỉ có đàn ông trong họ trên 18 tuổi mới phải góp giỗ (được
gọi là tính theo đinh). Có nhiều họ theo quan niệm “con gái là con người ta”
nên không cho con gái dự giỗ họ nhưng con dâu “mới đúng là con mua về”
thì được tham dự. Ngày nay, quan niệm ấy đã dần được xoá bỏ. Ngày giỗ họ,
không mời khách khứa, chỉ có con cháu trong họ. Các ngày rằm, mồng một,
ngày lễ, ngày Tết việc lễ bái sẽ do nhà trưởng họ lo. Đến tháng Chạp thì cả họ
lại họp nhau lại như ngày giỗ Tổ. Vào dịp giỗ tổ hàng năm hoặc khi có việc
họ thì cả họ tới nhà trưởng họ dự lễ và hưởng lộc, nhà thờ tổ giao cho gia đình
trưởng họ trông nom, hương khói.
Nhà thờ tổ to hay nhỏ là tùy thuộc vào họ lớn hay bé (do số chi hoặc phân
chi và số đinh nhiều hay ít). Về kiểu dáng, nhà thờ tổ thương mô phỏng ngôi đền
thờ Thành hoàng hoặc có thể xây dựng giống ngôi nhà ở gồm ba gian.
Ngoài nhà thờ họ, còn có nhà thờ tông tộc hay còn gọi là nhà thờ phân
chi, được xây dựng như nhà thờ họ, song quy mô nhỏ hơn. Về phần kiến trúc
có thể tráng lệ hoặc giản dị hơn. Điều này phụ thuộc vào sự hưng vong của
dòng họ, của phân chi. Tuy nhiên, theo quan niệm phổ biến thì nhà thờ tông
37
tộc trên nhiều phương diện, đương nhiên phải kém nhà thờ họ. Ngoài ra có
dòng họ không xây nhà thờ tông tộc mà lập ban thờ tông tộc ngay trong nhà thờ
họ, trường hợp này bàn thờ tông tộc sẽ bố trí ở hai gian bên trong nhà thờ họ.
Có thể thấy rằng, trong phạm vi thờ cúng tổ tiên đối với những người
có cùng huyết thống thì thờ cúng tổ họ có phạm vi rộng lớn nhất. Bởi đó là
ông tổ của cả một dòng họ, là cái “gốc”, là “cội nguồn” của cả một dòng họ.
Cho nên tất cả những người trong họ đó, ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong gia
đình mình, thờ cúng tổ chi, thì có nghĩa vụ thờ cúng tổ họ.
Từ một dòng họ, theo thời gian phát triển thành các chi, ngành, nhánh
thì sự thờ cúng cũng được phân tách vừa theo các bậc thế hệ, vừa theo các bậc
thứ tự cả - thứ.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm
vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên là hình thức tảo mộ. Ngoài việc đáp thêm
mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các thành viên trong gia đình,
dòng họ thường đi thăm mộ, cúng tế, sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh
minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với
cúng ở nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn
cáo xin phép thổ công. Thăm nom sửa sang mồ mả tổ tiên, một mặt là hình
thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô
cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, dòng họ. Người Việt cho
rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con cháu sẽ làm
ăn lụi bại, không thể nào phát triển được.
• Thờ cúng tổ tiên ở làng xã (thờ thành làng)
Đây là hình thức tín ngưỡng xuất hiện muộn hơn so với tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên trong gia đình và họ tộc và còn muộn hơn khi coi đây là một loại
38
hình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bởi theo quan niệm ban đầu, thờ cúng tổ
tiên chỉ tồn tại dưới dạng thờ cúng những người đã mất trong gia đình hoặc
thị tộc, có cùng huyết thống.
Thờ thành làng là hiện tượng tín ngưỡng phổ biến ở Việt Nam, nguyên
nhân của thực tế này là do sự quy định của đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội ở phương Đông. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và kỹ thuật
canh tác đã dẫn đến quá trình các thị tộc, bộ lạc dần dần tan rã, và thay vào đó
bằng một kết cấu xã hội bồi chặt hơn, ổn định hơn, đó là các công xã nông
thôn. Đây là một tổ chức xã hội khép kín, tồn tại và phát triển trên cơ sở tự
cung, tự cấp là chủ yếu. Nền kinh tế chủ đạo trong công xã là sản xuất nông
nghiệp. Với đặc trưng kinh tế xã hội ấy, các thành viên trong công xã luôn
luôn phải có ý thức đoàn kết, liên minh với nhau trong việc đấu tranh với
thiên tai, địch họa để bảo vệ mùa màng, bảo vệ xóm làng dưới sự lãnh đạo
của các thủ lĩnh do cong xã bầu lên. Vì vậy trong tâm lý người Việt luôn có
tâm niệm tôn sùng, đề cao những người có công với làng xã, quốc gia, những
người có công khai dân, lập ấp, chống giặc ngoại xâm... đã bảo vệ và đem lại
cuộc sống bình an, hạnh phúc cho dân làng.
Từ ý niệm tình cảm đó đã nảy sinh hình thức tín ngưỡng thờ cúng
những người có công với làng xã, quốc gia hoặc thậm chí là những vị thần có
công phù trọ giúp làng, giúp nước. Tín ngưỡng đó vừa thể hiện đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của con cháu đối với các bậc tiền nhân, vừa là sợi dây vô
hình cố kết sức mạnh trong cộng đồng, làng xã, đồng thời cũng định hướng
cho sự phát triển của thế hệ trẻ trong tương lai.
Hình thức thờ cúng những người có công với làng xã – thờ thành hoàng
làng là hình thức khá phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên, khái niệm “thành hoàng”
39
lại xuất phát từ gốc Hán: “thành” là cái thành trì, còn “hoàng” là cái hào đào
sâu bao quanh bên ngoài thành, thành hoàng nghĩa là vị thần coi giữ, bảo trợ
cho cái thành trì (theo quan niệm của người Trung Quốc).
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa như Phan Kế Bính, Đào Duy
Anh... thì tín ngưỡng thành hoàng làng ở nước ta bắt đầu từ cuối thời Bắc
thuộc. Trên cơ sở các tài liệu để lại thì vị thần đầu tiên được phong thanh
hoàng ở nước ta là thần Tô Lịch. Mãi đến thế kỷ XVI, XVII tín ngưỡng này
mới thực sự phổ biến ở các làng quê Việt Nam và tồn tại liên tục cho đến
ngày nay.
Về đối tượng thờ cúng làm thành hoàng nhìn chung rất phong phú và
đa dạng, tùy từng địa phương mà có những quan niệm khác nhau. Nhưng đặc
trưng của người Việt là gắn bó với việc làm nông nghiệp trồng cấy lúa nước.
Hoạt động sản xuất luôn gắn liền với yếu tố thiên nhiên: đất, nước, thời tiết...
nên các thành hoàng được thờ phụng trước hết là các thần thiên nhiên, linh
khí núi sông được phân hóa như: mây, mưa, sấm. Sau đến là các thần sông,
núi, đất cũng được nhân dân thờ phụng.
Tuy nhiên, về cơ bản các đối tượng được tôn vinh làm thành hoàng là
những người có công đánh giặc giữ nước, hộ dân, có vị khai làng lập ấp, tạo
nghề mới... Có nhân thần cũng như có nhiên thần, có chính thần cũng có tà
thần, dị thần. Thành hoàng có người là nhân vật lịch sử, có người lại là nhân
vật huyền thoại, có thành hoàng là nam nhưng cũng có thành hoàng là nữ. Có
làng chỉ có một vị thành hoàng, có làng lại thờ đến hai, ba thậm chí năm, bảy
vị làm thành hoàng.
Tín ngưỡng thờ thành làng là niềm tin của một cộng đồng người vào sự
che chở của một vị thần linh được Nhà nước phong kiến sắc phong để trở
40
thành quan lại thiêng của triều đình trấn giữ một khu vực nào đó, thường là
một làng. Và niềm tin đó được thực hiện thông qua các lễ thức nhất định và
hội làng hàng năm.
• Thờ cúng tổ tiên của cả nước (Quốc tổ Hùng Vương)
Vượt ra ngoài phạm vi gia đình, làng xóm là việc thờ cúng tổ tiên trong
cả nước, Việt Nam cũng như các quốc gia khác trong khu vực đều có truyền
thuyết, huyền thoại về nguồn gốc của dân tộc mình, những người được coi là
thủy tổ của cả dân tộc, khai sinh ra quốc gia, dân tộc thì được coi là tổ tiên
của cả nước. Với người dân Việt, lễ hội hàng năm thờ vua Hùng - người có
công dựng nước là một biểu hiện sâu sắc, một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên trong cả nước.
Theo quan niệm của người Việt, người đại diện cho cả cộng đồng đó là
người đứng đầu đất nước, là hóa thân của một vị thần đầu thai xuống trần gian
để thay trời cai trị thiên hạ, vị đó chính là Thiên tử - con trời. Cho nên, người
đứng đầu cộng đồng, quốc gia hay một tộc người, tuy xuất thân là một người
thường, bằng da bằng thịt, nhưng được thiêng liêng hóa. Nhà vua là người đại
diện duy nhất của cộng đồng trước thần linh, người có quyền bất khả xâm
phạm, quyền lực của vua được đồng nhất với quyền lực của cộng đồng.
Với ý thức thờ chung một vị Vua Tổ, đã ngày một thấm sâu trong tâm
thức dân gian và hun đúc thành truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc của
dân tộc Việt Nam được thử thách qua bao gian nan, khó khăn vất vả, qua bao
thiên tai giặc dã và bao “biến cố thăng trầm” mà dân tộc ta đã phải đương đầu
trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của biết bao thế hệ người
dân Đất Việt để luôn tiến lên phía trước. Truyền thống quý báu đó đã thấm
sâu vào trong tâm khảm của mỗi người “con dân Đất Việt” và trở thành biểu
41
tượng tâm linh của mỗi con tim khối óc, làm sáng lên đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây” thuỷ chung son sắt của biết bao thế hệ
hậu duệ con cháu các Vua Hùng hôm nay và cả mai sau. Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương đã trở thành một nhu cầu về tâm linh và tình cảm không thể
thiếu được và là phẩm chất đạo đức, là ý chí đoàn kết, cố kết cộng đồng thành
một quốc gia - dân tộc Việt Nam hôm nay. Tín ngưỡng truyền thống thiêng
liêng ấy đã tạo nên sức mạnh vật chất và động lực tinh thần vô song để dân
tộc ta có đủ sức mạnh và của cải, tinh thần và nghị lực để vượt qua "mọi khó
khăn gian khổ, làm rạng rỡ non sông gấm vóc Việt Nam.
Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân Việt Nam từ bao đời nay,
Vua Hùng là vị Tổ đã có công dựng nên quốc gia Văn Lang - Nhà nước đầu
tiên, sơ khai của dân tộc Việt Nam. Vua Hùng chính là nguồn gốc Tổ Tiên
chung của cả dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương có một vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh và tình cảm của
các thế hệ người dân Việt Nam, vừa thiêng liêng, vừa cụ thể vừa là điểm tựa
tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cùng nhau dựng nước
và giữ nước mà Bác Hồ đã tổng kết và khái quát thành chân lý của dân tộc và
của thời đại: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”.
Với người Việt, lễ hội hàng năm thờ vua Hùng – người có công dựng
nước là một biểu hiện sâu sắc, một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của cả nước. Tục thờ vua Hùng diễn ra hàng năm vào ngày mồng mười
tháng ba âm lịch, là Quốc lễ của cả dân tộc, thành ngày hội tụ của con cháu
khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Đúng vào ngày mồng mười, từ
sáng sớm tinh mơ, người người đã đổ về đây chứng kiến cuộc tế lễ Vua Hùng.
Từ đại diện cấp cao của nhà nước cho đến những người dân bình thường, ai
42
nấy đều thành kính thắp nén nhang thơm tỏ lòng biết ơn công đức cao, dày
của Đức quốc Tổ Hùng Vương. Đó là truyền thống văn hoá đặc biệt Việt
Nam thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và ý thức tôn vinh kính trọng công lao
dựng nước của các Vua Hùng và các thế hệ cha ông đối với dân tộc Việt
Nam.
Như vậy, có thể thấy rằng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ diễn ra
trong phạm vi gia đình, làng xã mà nó còn được mở rộng ra trong phạm vi thờ
cúng tổ tiên của cả nước, ở đó thờ vị tổ chung của cả quốc gia dân tộc. nhưng
ở cấp độ nào, hình thức nào thì nó vẫn không ngoài ý nghĩa là sự tưởng nhớ
về cội nguồn, về những người có công sinh thành nuôi dưỡng, những người
khai làng lập ấp, khai thiên lập địa... họ là những người đã có công tạo lập
cuộc sống cho chúng ta ngày hôm nay.
1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường, Tày với tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt
1.4.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường
Thờ cúng tổ tiên của người Mường mang những nét đặc trưng riêng và
cũng có những nét chung với người Việt. Cũng như người Việt chúng ta, thì
tín ngưỡng tổ tiên của dân tộc Mường đã in đậm trong tâm thức người Mường
từ rất lâu rồi. Người Mường quan niệm người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ
(trời đất), nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Vì vậy, bổn phận
của người sống phải phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người
sống yên ổn, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.
Người Mường quan niệm có gốc mới có ngọn nên người Mường lấy
gian đầu cầu thang lên làm gian gốc, gọi là gian thờ. Cột cái gian gốc ở nhà
sàn Mường có tên là cột chồ, còn gọi là cột thờ vì ở ngang vách sát cột thờ,
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf

More Related Content

What's hot

Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh nataliej4
 
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nayĐời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nayVy Tieu
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcLuận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămThanh Hải
 
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 

What's hot (20)

Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam BộLuận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
 
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAYĐề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
 
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà XùaLuận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
 
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn LaLuận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
 
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
 
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAYTín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
 
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nayĐời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
 
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOTLuận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người KhmerLuận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
 
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Đề tài: Hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk LắkĐề tài: Hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk Lắk
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
 
Luận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên
Luận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái NguyênLuận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên
Luận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk LắkLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
 
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcLuận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOTLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 

Similar to [123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf

Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...OnTimeVitThu
 
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nayTìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...OnTimeVitThu
 
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743jackjohn45
 
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...nataliej4
 
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMan_Ebook
 
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênLuận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...HanaTiti
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to [123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf (20)

Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
Luận văn: Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh th...
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
 
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
 
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nayTìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay
 
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Nhân sinh quan trong kinh tân ước của Kitô giáo.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ  Nhân sinh quan trong kinh tân ước của Kitô giáo.docTóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ  Nhân sinh quan trong kinh tân ước của Kitô giáo.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Nhân sinh quan trong kinh tân ước của Kitô giáo.doc
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
 
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đĐề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
 
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
 
Luận án giá trị văn hóa của đạo cao đài trong đời sống cư dân nam bộ.doc
Luận án giá trị văn hóa của đạo cao đài trong đời sống cư dân nam bộ.docLuận án giá trị văn hóa của đạo cao đài trong đời sống cư dân nam bộ.doc
Luận án giá trị văn hóa của đạo cao đài trong đời sống cư dân nam bộ.doc
 
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
 
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
 
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền TiênLuận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
Luận văn : Quá trình phục dựng di tích và lễ Hội Đền Tiên
 
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú ThọLuận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên tại Phú Thọ
 
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đLuận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
Luận văn: Quá trình phục dựng di tích và lễ hội đền Tiên, 9đ
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
 
Luận Văn Về Nhân Sinh Quan Trong Kinh Tân Ước Của Kitô Giáo.docx
Luận Văn Về Nhân Sinh Quan Trong Kinh Tân Ước Của Kitô Giáo.docxLuận Văn Về Nhân Sinh Quan Trong Kinh Tân Ước Của Kitô Giáo.docx
Luận Văn Về Nhân Sinh Quan Trong Kinh Tân Ước Của Kitô Giáo.docx
 
Chăm phồn thực
Chăm phồn thựcChăm phồn thực
Chăm phồn thực
 
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
Quá Trình Phục Dựng Di Tích Và Lễ Hội Đền Tiên (Phường Tiên Cát, Thành Phố Vi...
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem Số Mệnh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfXem Số Mệnh
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"LaiHoang6
 
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 pha
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 phaThiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 pha
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 phaAnhDngBi4
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Xem Số Mệnh
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfXem Số Mệnh
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem Số Mệnh
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...PhcTrn274398
 
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21nguyenthao2003bd
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 

Recently uploaded (20)

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
 
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
 
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 pha
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 phaThiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 pha
Thiết kế hệ thống điều khiển chỉnh lưu tích cực 1 pha
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
 
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21
đồ án thương mại quốc tế- hutech - KDQTK21
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 

[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song-nguoi-viet-hien-nay.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ HIỀN TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Tôn giáo học Hà Nội - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN THỊ HIỀN TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Tôn giáo học Mã số : 60 22 03 09 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Trần Đăng Sinh Hà Nội - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hiền
  • 4. LỜI CẢM ƠN Sau hai năm học tập phấn đấu, được các Quý Thầy giáo, Cô giáo nhiệt tình giúp đỡ tôi đã hoàn thành nhiệm vụ học tập và luận văn của mình. Để có được kết quả này trước tiên cho phép tôi chân thành cảm ơn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, công tác và hoàn thành khóa học này. Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Triết học, các thầy cô giáo, cùng toàn thể cán bộ nhân viên Khoa đã tạo mọi điều kiện chỉ bảo tận tình và cổ vũ, động viên tôi học tập cũng như đóng góp những ý kiến quý báu để hoàn thành luận văn này Tôi xin trân trọng cảm ơn Cô giáo chủ nhiệm PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh; cùng tập thể lớp K20 - Triết học, chuyên ngành Tôn giáo học đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn PGS. TS. Trần Đăng Sinh. Thầy đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này, đồng thời chỉ dạy cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, 19 tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hiền
  • 5. 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 5 3. Mục đích và nhiệm vụ................................................................................ 7 4. Đối tượng và phạm vi ................................................................................ 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 7 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài................................................. 8 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài....................................................... 8 8. Cấu trúc của luận văn................................................................................. 8 Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt .... 9 1.1 Một số khái niệm chính được sử dụng trong luận văn ............................ 9 1.2 Thờ cúng tổ tiên là tôn giáo hay tập tục................................................17 1.3 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức thờ cúng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên................................................................................................................21 1.3.1 Nguồn gốc.......................................................................................21 1.3.2 Bản chất ...........................................................................................26 1.3.3 Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên................................28 1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường, Tày với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt..........................................................................42 1.4.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ..............................42 1.4.2 Thờ cúng tổ tiên của người Tày.......................................................45 Tiểu kết chương 1......................................................................................48
  • 6. 2 Chương 2: Những biểu hiện của giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt................................................................................................50 2.1 Những biểu hiện của giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.......................50 2.1.1 Thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ...................................50 2.1.2 Thể hiện đạo đức truyền thống của người Việt ...............................53 2.2 Thực trạng và giải pháp trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt...............................................................................................................59 2.2.1 Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay ............................59 2.2.2 Một số giải pháp để phát huy những giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong điều kiện ngày nay..............................71 Tiểu kết chương 2......................................................................................76 KẾT LUẬN....................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................81 PHỤ LỤC.......................................................................................................87
  • 7. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại hình tín ngưỡng này theo nhiều người phỏng đoán thì nó xuất hiện từ thời Hùng Vương. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều tộc người (đặc biệt là ở khu vực Á đông). Tuy nhiên, sự nhìn nhận đánh giá vai trò và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn nhiều ý kiến khác nhau. Trước xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự xâm nhập của các tôn giáo ngoại sinh, đang là mối lo ngại của nhiều quốc gia trong đó Việt Nam. Trước bối cảnh đó, nhiều quốc gia, dân tộc đã có những động thái tích cực bằng cách chấn hưng tín ngưỡng văn hóa dân tộc, khôi phục lại các giá trị truyền thống đã từng bị mai một hoặc có thời kỳ bị thờ ơ, xem nhẹ. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một việc cấp thiết hiện nay, bởi nó góp phần tăng sức đề kháng cho văn hóa dân tộc. Một nguyên nhân nữa, trong hai cuộc kháng chiến chống quân Pháp và chống quân Mỹ xâm lược, nhiều người thân yêu ruột thịt của chúng ta đã không trở về. Sự mất mát, hi sinh đó không thể nào bù đắp được. Vì vậy người ta nghĩ nhiều đến vấn đề tâm linh và tìm đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với mong muốn khỏa lấp được sự cô đơn sự trống trải trong lòng, xoa dịu tâm hồn người đang sống. Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, từng bước dân chủ hóa đời sống xã
  • 8. 4 hội. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự may rủi trong cơ chế thị trường, phân hóa giàu nghèo trong xã hội, môi trường sinh thái bị hủy diệt… đã tạo ra tâm lý bất an. Trước đây, đã có một thời gian dài chúng ta có biểu hiện tả khuynh có những sai lầm khi đánh đồng tất cả các hoạt động, nghi lễ trong tín ngưỡng dân gian, các hoạt động tế lễ, lên đồng… đều là mê tín dị đoan cần phải bài trừ. Đó là những nguyên nhân tâm lý, xã hội và hiện thực dẫn đến việc các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đều có chiều hướng gia tăng. Hoạt động thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ diễn ra khá phổ biến ở các địa phương trong cả nước. Điều đó đã góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống. Nhưng do sự tác động mạnh mẽ của lối sống hiện đại, đã làm cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có biểu hiện tiêu cực như: phô trương về tiền tài, danh vong, địa vị gây chia rẽ, bè phái, bày ra những nghi thức cầu kỳ, tốn kém làm mất đi tính thiêng liêng và giá trị văn hóa của tín ngưỡng, nặng nề về mê tín. Vì vậy nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là một vấn đề mang ý nghĩa lý luận về thực tiễn, làm góp phần làm lành mạnh hóa các hoạt động tín ngưỡng hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Bản thân tác giả ngay từ khi còn bé đã thấy rằng mỗi khi gia đình có chuyện gì thì ông bà cha mẹ đều thắp hương lên bàn thờ kính báo, cầu xin, đã khiến cho tác giả tò mò, thắc mắc. Khi lớn lên tác giả đã có cơ hội để tiếp cận và tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, dần dần từng bước đi tìm câu trả lời cho chính mình.
  • 9. 5 Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng phổ biến sâu rộng trong cả nước, tuy nhiên tác giả chỉ tìm hiểu và khảo sát ở phạm vi vùng Bắc Bộ. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những giá trị của nó trong đời sống người Việt hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Triết học, chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên đã xuất hiện khá lâu trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, vấn đề thờ cúng tổ tiên và những giá trị của nó trong đời sống người Việt là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người, trong đó có các nhà nghiên cứu, đội ngũ cán bộ giảng dạy. Để làm sáng tỏ giá trị cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có không ít những công trình nghiên cứu được công bố trên sách, báo, tạp chí có liên quan đến vấn đề này. Các tác phẩm như: - Cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1995). - Cuốn “ Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam”, của Toan Ánh, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, Hà Nội (1996). - Cuốn “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” của Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, (1996). - Cuốn “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam” của Toan Ánh, nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh (1997). - Công trình luận văn Thạc sĩ “Tìm hiểu sự hội nhập nghi lễ công giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ”, của Mai Diệu Anh. Trong công trình này, tác giả đã trình bày cơ sở lí luận tiếp
  • 10. 6 cận sự hòa nhập nghi lễ công giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Đồng Bằng Bắc Bộ. - Công trình luận văn Thạc sĩ “Phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở một số địa phương Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Mến. Trong công trình này tác giả đã Làm rõ khái niệm, nguồn gốc và vai trò của tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng của Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên ở một số địa phương của Hà Nội hiện nay (Hà Tây cũ). Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm hạn chế mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên ở một số địa phương của Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. - Công trình nghiên cứu của PGS.TS Trần Đăng Sinh “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2010. Trong công trình này, tác giả đã đi sâu, khai thác những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, một địa bàn mang tính điển hình của văn hóa truyền thống Việt Nam. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập dưới các góc độ khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt nói riêng. Trong bối cạnh hiện nay, khi mà những giá trị đạo đức, văn hóa có những biểu hiện bị xâm hại dẫn đến tình trạng bị suy thoái thì việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những giá trị của nó đối với người Việt là vấn đề lâu dài cần tiếp tục được nghiên cứu để phát huy những giá trị của nó đối với đối với sự phát triển nền tảng văn hóa, tinh thần của dân tộc.
  • 11. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích: Nghiên cứu và tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị của thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay. Để thực hiện mục đích nói trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ khái niệm tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, nguồn gốc bản chất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tìm hiểu thêm về thờ cúng tổ tiên của người Mường, Tày. - Trình bày những biểu hiện của giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Từ thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đề xuất một số giải pháp nhằm định hướng đúng, hiểu rõ và phát huy những giá trị của thờ cúng tổ tiên. 4. Đối tượng và phạm vi - Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. - Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, đánh giá xu hướng biến động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận : Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
  • 12. 8 tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo. - Phương pháp nghiên cứu : Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, lô gich - lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài Đề tài góp phần trình bày một số giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ của người Việt, từ xu hướng biến động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước phát huy yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực của quan niệm về giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhằm phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa lý luận : Đề tài góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời góp phần định hướng đúng đắn quan niệm về giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Bắc Bộ. Ý nghĩa thực tiễn : Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu môn tôn giáo học và các ngành học thuộc khoa học xã hội và nhân văn. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết: Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
  • 13. 9 Chương 2: Những biểu hiện của giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 1.1 Một số khái niệm chính được sử dụng trong luận văn * Tín ngưỡng Tín ngưỡng, vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và lý giải. Ở Việt Nam có những hiện tượng tín ngưỡng nếu xét theo các tiêu chí của tôn giáo thì chúng không đáp ứng đầy đủ. Có nhà nghiên cứu không thừa nhận thuật ngữ này mà gọi là các tôn giáo nguyên thủy, hay các tôn giáo sơ khai. Tuy nhiên, sự phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng chỉ có tính chất tương đối. Trong đời sống xã hội, ngôn ngữ, cả hai thuật ngữ tôn giáo, tín ngưỡng đều tồn tại. Nói đến tín ngưỡng là nói đến quá trình thiêng hóa một nhân vật, hiện tượng được con người gửi gắm niềm tin. Quá trình ấy có thể đi kèm theo là huyền thoại hóa, lịch sử hóa nhân vật phụng thờ. Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiểu theo hai nghĩa. Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do về tín ngưỡng tôn giáo. Nếu hiểu tín ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao trùm trên tôn giáo, là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành tôn giáo. Không có tín ngưỡng sẽ không có tôn giáo. Trong chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo ở nước ta, cụm từ “tín ngưỡng tôn giáo không phân biệt hai phạm trù tín ngưỡng và tôn giáo” [60, tr.68]. Tuy nhiên, Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo” [64, tr.1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo.
  • 14. 10 Theo giải thích của Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [1, tr.283]. Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [53. tr,16]. Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - mới có những mầm mống của những tôn giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo, Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện” [50, tr.262].
  • 15. 11 Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” [60, tr.82]. Ở phương Tây, phổ biến thuật ngữ tôn giáo bình dân. Thuật ngữ đó có thể hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu là các hình thức tôn giáo dân tộc được lưu truyền từ xa xưa, gần gũi với cộng đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương, các ngày lễ, thậm chí các hình thức bói toán, tướng số… Ở đó cả tầng lớp trí thức, mặc dù ít tin theo nhưng vẫn tham gia. Ở những lễ hội, đám rước… đó vẫn đa phần lớp bình dân, ở nông thôn hưởng ứng, theo một truyền thống đã có từ lâu trong dân tộc. Niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng biểu hiện ở những nền văn hóa khác nhau và rất đa dạng. Trong công trình nổi tiếng “Văn hóa nguyên thủy”, E.B Tylor cho rằng: “Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích” [58, tr.939]. X.A. Tocarev, nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của Nga cho biết: “Mặc dù bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi vẫn không bao giờ phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc giữa các tín ngưỡng. Chúng ta đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo thủ đến mức
  • 16. 12 nào. Bất kỳ một tín ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều tồn tại trong nhân dân rất lâu bền, thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi” [57, tr.55]. Theo ông, các hình thức tôn giáo sơ khai là: tô tem giáo, bùa mã và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù phép, lễ dục tình, ma chay, lễ thành niên, sự thờ cúng của nghề săn bắt, sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ, sự thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, Naguan giáo, sùng bái hội kín, thờ cúng thủ lĩnh, thờ thần bộ lạc, thờ thần nông. Như vậy, ở phương Tây, các nhà nghiên cứu thường dùng khái niệm tôn giáo bao hàm cả các tôn giáo có hệ thống và tổ chức, tôn giáo dân gian và tôn giáo nguyên thủy. Do vậy, theo họ, tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của tôn giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn giáo. Tuy nhiên, niềm tin vào cái thiêng đó, cũng theo hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà thể hiện ra dưới các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo cụ thể khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên… Các hình thức tín ngưỡng mang đặc thù theo từng không gian văn hóa, chủ thể văn hóa cũng như thời gian văn hóa khác nhau nhưng vẫn là biểu hiện niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái của con người. Do vậy, tín ngưỡng là một hiện tượng văn hóa mang tính lịch sử, một phạm trù lịch sử. Trong đời sống thường ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập
  • 17. 13 quán, thói quen, truyền thống của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hoá của cộng đồng dân tộc đó. Một vấn đề được đặt ra, vậy tôn giáo và tín ngưỡng là đồng nhất hay khác nhau? Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ănghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [39, tr.437]. Dưới góc độ văn hoá học, Nguyễn Hồng Dương trong tác phẩm “Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển” đã từng định nghĩa: Tôn giáo thuộc lĩnh vực tinh thần của văn hoá được hình thành trong lịch sử. Một mặt nó phản ánh quan niệm và cách ứng xử về chuẩn mực luân lý, đạo đức, lối sống theo cung cách của nền văn hoá mà nó chịu sự tác động. Như vậy, tác giả cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng văn hoá tinh thần phản ánh sự nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về cuộc sống xã hội biểu hiện thông qua những hành vi ứng xử của họ. Nhận thức và hành vi của cộng đồng tôn giáo luôn được thể hiện ở hai mặt: tâm linh và xã hội. Về mặt tâm linh, thông qua các nghi lễ thực hành tôn giáo con người bày tỏ niềm tin và tình cảm sâu sắc của mình đối với lực lượng siêu nhiên vô hình, cũng qua đó con người thoả mãn những nhu cầu và khát vọng của họ trong cuộc sống trần tục. Về mặt xã hội, những chuẩn mực đạo đức được quy định trong giáo lý, giáo luật có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử của các tín đồ trong cuộc sống. Như vậy, về bản chất, cả tôn giáo và tín ngưỡng đều là những hiện tượng tâm lý xã hội phản ánh hiện thực một cách sai lầm, hư ảo; niềm tin của con người đối với lực lượng siêu nhiên, thế giới vô hình và cuộc sống sau khi
  • 18. 14 chết là cơ sở của mọi tôn giáo và tín ngưỡng. Bởi vậy, một số tác giả đã đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo, như: X.A. Tocaret. Hoặc các công trình nghiên cứu của Đặng Nghiêm Vạn thường sử dụng thuật ngữ tôn giáo để chỉ các hiện tượng biểu thị niềm tin đối với lực lượng siêu nhiên, kể cả niềm tin vào linh hồn người chết. Đặng Nghiêm Vạn đã coi hiện tượng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là tôn giáo dân tộc. Đây là quan điểm khá phổ biến của các học giả hiện nay khi nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của người Việt. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra sự khác nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng về hình thức biểu hiện và trình độ tổ chức còn về bản chất thì không có sự khác biệt đáng kể. Hiện nay, có cách hiểu về tín ngưỡng, họ cho rằng: tín ngưỡng có trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo về mặt tổ chức, thiết chế, giáo chủ… Bên cạnh đó, có những cách suy nghĩ cho rằng tôn giáo và tín ngưỡng đồng nhất và gọi chung là tôn giáo, đồng thời có sự phân biệt giữa tôn giáo dân tộc, tôn giáo quốc tế, tôn giáo vùng miền. Tác giả không đi sâu vào sự khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo, mà chủ yếu kế thừa các quan điểm nghiên cứu về tín ngưỡng của các nhà khoa học đi trước để tìm kiếm một định nghĩa về tín ngưỡng chung. “Dù hiểu trên góc độ nào, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội. Và một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là nguồn gốc của giá trị đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý” [49, tr.12]. Theo quan điểm của người viết, thì tín ngưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
  • 19. 15 *Tổ tiên Theo quan niệm của nhiều người, “Tổ tiên” là những người đã qua đời trong một dòng họ. Với tác giả Trần Đăng Sinh thì: “Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ, kị, ông bà, cha mẹ… những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần tới thế hệ con cháu” [42, tr.25]. Còn tổ tiên trong xã hội nguyên thủy là tổ tiên tô tem giáo của thị tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tô tem giáo ra đời khá sớm. Ở thời kỳ thị tộc mẫu hệ, tổ tiên tô tem là những vật trong thiên nhiên được thần thánh hóa hoặc là các vị thần. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên lại là những người đứng đầu thị tộc đầy quyền uy, khi mất họ trở thành thần che chở cho gia đình thị tộc. Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn. Họ thường là những người giữ địa vị chủ gia đình, gia tộc nhưng đã mất, có quyền thừa kế và di chúc tài sản được luật pháp và xã hội thừa nhận. Trong quá trình phát triển của lịch sử khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi phát triển. Nó không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống gia đình, họ tộc… mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia, dân tộc thường gắn liền với tên tuổi của những người có công tạo dựng, giữ gìn cuộc sống của cộng đồng. Họ là những anh hùng, danh nhân mà khi sống được tôn sùng, kính nể, khi mất được tưởng nhớ, thờ phụng trong các không gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ là những tổ sư, tổ nghề, thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa… *Thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh.
  • 20. 16 Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác, với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các địa phương. Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp những yếu tố: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng tổ tiên trong không gian thờ cúng. “Thờ” có ý bao hàm một hành động biểu hiện sự sùng kính một đấng siêu nhiên như thần thánh, tổ tiên, đồng thời cũng có nghĩa là cách ứng xử với bề trên cho phải đạo như thờ cha mẹ, thờ thần hay một người có ơn với mình. “Thờ” trong thờ cúng tổ tiên là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh, tình cảm của con cháu hướng về cội nguồn. Thờ tổ tiên là thể hiện sự thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến tổ tiên, thể hiện niềm tin vào sự bảo hộ che chở của tổ tiên. “Cúng” là yếu tố mang tính lễ nghi, là dâng lễ vật cho tổ tiên, những người đã khuất, là sự thực hành một loại động tác (cúng, vái, lạy…) của người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được quy định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc. “Thờ” và “cúng” là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt – đó là sự phụng thờ tổ tiên. Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung, còn hoạt động “cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng. Ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hi vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội dung cốt lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ phụng thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “thờ” mà chỉ có “cúng” thì tự bản thân tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không có phần thiêng,
  • 21. 17 không có sự hấp dẫn nội tại và dễ thành nhạt nhẽo, vô vị, mai một. Sự “cúng”, tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo, tạo nên sức hấp dẫn, nó chính là hương vị, màu sắc, chất keo dính thỏa mãn niềm tin tôn giáo, đáp ứng nhu cầu của chủ thể thờ cúng. Tóm lại, qua việc tìm hiểu trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thủy trong chế độ thị tộc phụ quyền. Đó là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ, tổ sư tổ nghề, thành hoàng, tổ nước… 1.2 Thờ cúng tổ tiên là tôn giáo hay tập tục Vấn đề thờ cúng tổ tiên là tôn giáo, một tín ngưỡng dân gian hay tập tục, là truyền thống của dân tộc, hay là quốc đạo thì vẫn chưa có sự thống nhất, còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tín ngưỡng có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt. Do đó, Thờ cúng tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến. Một thời gian dài, tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên chưa được hiểu đầy đủ, nên người ta ứng xử với loại hình tín ngưỡng này chưa thật thỏa đáng. Cho dù có thời kỳ lịch sử, ai đó đã từng phê phán, thậm chí còn liệt thờ cúng tổ tiên vào loại “mê tín dị đoan” đi nữa thì cho đến đầu thế kỷ XXI thờ cúng tổ tiên lại trỗi dậy. Điều đó nói lên sức sống trường tồn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong lòng dân tộc. Khái niệm tôn giáo bao gồm toàn bộ quan niệm, ý thức tôn giáo, tình cảm tôn giáo, hành vi hoạt động và tổ chức tôn giáo. Tín ngưỡng chỉ mang hình thức tôn giáo khi ý thức con người phát triển đến trình độ tư duy trừu tượng, có thể hình thành các biểu tượng như “đấng sáng thế”, “thế giới tâm
  • 22. 18 linh” xuất hiện tầng lớp người chuyên làm nghề tôn giáo, xuất hiện hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ, hệ thống các nơi thờ cúng được tổ chức chặt chẽ. Tôn giáo, tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần, là phần sâu lắng nhất, nó thuộc về đời sống tâm linh của con người, cho nên nó là một bộ phận cực kỳ quan trọng trong văn hoá tộc người. Mỗi khi gặp nhiều điều rủi ro bất hạnh trong cuộc sống, muốn thoát khỏi mọi điều đau khổ trên trần gian, thì con người lại gửi gắm niềm tin vào lực lượng siêu nhiên hư ảo và cầu xin ở nơi thờ cúng các vị thánh thần. Cũng vì lẽ đó mà tín ngưỡng tồn tại trong nhân dân rất vững chắc và lâu bền, ngay cả khi những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi. Các học giả như Toan Ánh, Hoàng Quốc Hải… đã khẳng định, thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà thực chất đó là một phong tục, một tín ngưỡng. Trong tác phẩm “Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam” tác giả Toan Ánh đã cho rằng “Thờ phụng tổ tiên không phải là một thứ tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo giáo, vì một đạo giáo phải có giáo chủ và giáo điều và việc thi hành đạo phải qua trung gian tu sĩ. Thờ cúng tổ tiên do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ đã khuất mà thôi” [3, tr.4]. Còn tác giả Hoàng Quốc Hải trong cuốn “Văn hóa phong tục” viết: “ Phải khẳng định rằng, thờ cúng tổ tiên ở nước ta chỉ là một tín ngưỡng mang tính đạo lý, chứ không phải là một tôn giáo” [24, tr.14]. GS. Phan Đại Doãn quan niệm thờ cúng tổ tiên như một tín ngưỡng gắn liền với sự củng cố quan hệ họ hàng, gia đình. Không ít người cho rằng thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà là một loại hình tín ngưỡng, hay tín ngưỡng dân gian. Tác giả Hà Văn Tăng – Trương Thìn lý giải: “Từ xa xưa thờ cúng tổ tiên rõ ràng là một tín ngưỡng sâu sắc của người Việt… nhưng từ đó, chưa thể nói rằng thờ cúng tổ tiên là một thứ tôn giáo của người Việt. Thoạt nhìn, có thể coi đó là tôn giáo, vì hầu hết các nhà đều có bàn thờ, đều
  • 23. 19 làm những nghi thức thờ cúng trang trọng và thành kính, nghĩa là có những dấu hiệu của tôn giáo, nhưng đó chưa phải là tôn giáo hiểu theo nghĩa chặt chẽ của khái niệm này. Thờ cúng tổ tiên không có những giáo lý thống nhất, cũng không có giáo hội với những phép tắc nghiêm ngặt như thường thấy các tôn giáo xưa và nay” [45, tr.149 – 150]. Tín ngưỡng này mọi niềm tin đều mang tính nguyên thuỷ, chất phác không thông qua các giáo chủ, giáo lý và giáo hội nào. Trong khi các học giả trên không thừa nhận tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tôn giáo, thì cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi lại cho rằng nó gần như là một thứ tôn giáo. Còn giáo sư Đặng Nghiêm Vạn thì khẳng định thờ cúng tổ tiên là tôn giáo và nằm trong “hệ thống tôn giáo dân tộc”. Tác giả viết: “Cũng cần lưu ý rằng, ta không thấy ghép từ giáo sau các tôn giáo mới phát sinh như Cao Đài, Hòa Hảo… hay các tôn giáo truyền thống như đạo tổ tiên, đạo thờ thành hoàng làng… Gần đây bản thân tác giả muốn gọi là hệ thống tôn giáo dân tộc” [60, tr.24]. Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính thì xem thờ cúng tổ tiên như là một tập tục truyền thống mang giá trị đạo đức, thể hiện lòng thành kính nghĩa cử của con cháu: “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của người” [6, tr.20 - 21]. Ở miền Bắc nước ta, nhiều người gọi thờ cúng tổ tiên hay là đạo thờ tổ tiên. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu cho rằng, dân chúng quan niệm “đạo” ở đây không có nghĩa là một tôn giáo, như đạo Công giáo, đạo Phật, đạo Hồi... mà phải hiểu nó như là đạo lý làm người, đạo làm con, đạo hiếu nghĩa. Trong tác phẩm “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, tác giả Ngô Đức Thịnh nêu lý do ông gọi Thờ cúng tổ tiên là đạo vì: “Khái niệm
  • 24. 20 đạo ở đây, theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên. Như vậy, đạo theo nghĩa rộng nó có thể bao gồm cả một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, còn đạo theo nghĩa hẹp hơn là chỉ một số hình thức tín ngưỡng phát triển có xu hướng trở thành tôn giáo sơ khai hay là tôn giáo dân gian” [53, tr.17 – 21]. Còn ở miền Nam nước ta, thờ cúng tổ tiên lại được nhân dân gọi là đạo ông bà. Nguyễn Đình Chiểu viết: “Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, có thể gọi là đạo thờ cúng tổ tiên cũng được, nhưng đạo ở đây không có nghĩa như: đạo Kitô, đạo Hồi, đạo Phật… mà phải hiểu như đạo làm người, làm con,… và những đạo ấy không thể là một tôn giáo vì đã là một tôn giáo thì phải có người sáng lập, giáo lý, giáo luật, giáo hội, lễ nghi… Như vậy, thờ cúng tổ tiên là phong tục, truyền thống, tín ngưỡng hay tôn giáo thì vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau, bởi theo tiêu chí truyền thống về tôn giáo, các yếu tố cần có như người sáng lập, giáo lý, giáo luật, giáo hội, lễ nghi... là những tiêu chí rất quan trọng. Nếu theo những tiêu chí này thì chỉ có thể kể tới các tôn giáo có tính chất quốc tế như Phật giáo, Kitô giáo, hay những tôn giáo khu vực như Ấn Độ giáo... còn hầu hết các hình thức thờ cúng, tế lễ khác được coi là tín ngưỡng. Bản thân tác giả đồng tình với việc coi thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, tập tục truyền thống vì thờ cúng tổ tiên được hình thành trực tiếp từ cuộc sống phong phú, đa dạng, có kết cấu đơn giản, mang tính dân dã đời thường; Thờ cúng tổ tiên thiếu những căn cứ cơ bản của một tôn giáo như người sáng lập, hệ thống tổ chức, giáo lý, giáo luật,…; Trong thờ cúng tổ tiên
  • 25. 21 yếu tố hàng đầu không phải là niềm tin tôn giáo mà là đạo lý, đó là việc làm để tưởng nhớ tổ tiên, hướng về cuội nguồn. Tóm lại, qua việc tìm hiểu trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thủy trong chế độ thị tộc phụ quyền. Với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên tuy đã chết nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại, có khả năng che chở, phù giúp con cháu, được thể hiện thông qua nghi lễ thờ phụng. Đó là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ, tổ sư tổ nghề, thành hoàng, tổ nước… 1.3 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức thờ cúng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên 1.3.1 Nguồn gốc - Nguồn gốc kinh tế - xã hội của thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội, nảy sinh trên cơ sở kinh tế xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Do đó, tìm nguồn gốc của nó không phải trong ý thức mà phải trong điều kiện lịch sử xã hội, lịch sử hoạt động thực tiễn của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, thì sự bất lực của con người trong đấu tranh với tự nhiên là một trong những nguồn gốc xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Cơ sở kinh tế của xã hội nguyên thủy là nền kinh tế tự nhiên lấy săn bắt, hái lượm là chính. Vì thế cuộc sống lệ thuộc rất nhiều vào
  • 26. 22 môi trường tự nhiên. Xã hội cộng sản nguyên thủy được tổ chức dưới hình thức thị tộc, bộ lạc. Đó là những cộng đồng người có đặc điểm cơ bản là cùng huyết thống, sống trên địa bàn tương đối ổn định, hợp tác tương trợ trong lao động sản xuất, trong đấu tranh chống thiên tai và chiến tranh xâm chiếm của các thị tộc, bộ lạc khác. Quan hệ giữa các thành viên trong thị tộc là quan hệ bình đẳng, hợp tác trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất. Thời kỳ đầu của công xã thị tộc, công cụ lao động còn hết sức thô sơ, trình độ lao động giản đơn, năng suất lao động rất thấp. Do vậy cuộc sống của người nguyên thủy vẫn không cách xa cuộc sống của loài vật. Ý thức cá nhân chưa định hình, dẫn tới việc ý thức xã hội của họ cũng mang tính bầy đàn, đơn thuần. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tìm ra lửa, dùng cung tên trong săn bắn đã tạo ra bước thay đổi căn bản trong ý thức người nguyên thủy. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên. Giới tự nhiên huyền bí bao quanh con người luôn đe dọa cuộc sống bởi những tai họa bất thần như: bệnh tật, mưa bão, nắng, hạn hán, thú dữ… và sau này, cùng với lực lượng bí ẩn của giới tự nhiên và lực lượng mang tính xã hội luôn thống trị lên cuộc sống hằng ngày của họ. Bế tắc trong cuộc sống hiện thực, con người tìm sự giải thoát trong đời sống tinh thần. Cùng với biểu tượng về các thần linh, biểu tượng về tô tem xuất hiện trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ. Theo X.A.Tôcarev, thờ cúng tổ tiên trong thời kỳ này chỉ mới manh nha, chưa là hiện tượng phổ biến. Tô tem giáo là giai đoạn phát triển đầu tiên của thờ cúng tổ tiên. Thời tô tem giáo, con người đã nhận một vật, con vật làm tổ tiên trong bộ lạc để cầu mong cho họ có một cuộc sống yên lành, ấm no. Vì thế có sự kiêng kỵ là không được xúc phạm vật tổ nhưng họ đã phá vỡ sự kiêng kỵ đó và ăn thịt vật tổ. Họ thấy sự sỡ hãi, sợ bị trừng phạt. Sự hạn chế của con người trước tự nhiên và xã hội, dẫn đến sự
  • 27. 23 hạn chế về việc giải thích cái chết của con người. Khi chết thì linh hồn đi đâu thể xác đi đó hay linh hồn sẽ đi đâu?, thế giới bên này, thế giới bên kia, sự sống cái chết như thế nào… họ không lý giải được hoặc giải thích sai. Đó là những tiền đề của thờ cúng tổ tiên. Không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên, mà trong quá trình tồn tại và phát triển giữa con người còn có mối quan hệ với nhau. Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, chế độ người bóc lột người cũng là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu làm nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Xã hội cổ truyền của người Việt có những cơ sở kinh tế xã hội nhất định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết, đó là nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã Việt Nam gần như một đơn vị độc lập, và tương tự như thế, tế bào của nó là hộ gia đình nhỏ. Hình ảnh “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” đã mang tính chất điển hình cho nền kinh tế tiểu nông của người Việt. Điều này là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ (sự chuyển giao kĩ thuật canh tác bằng con đường truyền nghề qua các thế hệ). Mở rộng ra, các gia đình cư trú quần tụ theo họ và nhiều họ tập hợp thành làng. Đứng trước làng, con người không tồn tại với tư cách cá nhân, mà dưới danh nghĩa gia đình, dòng họ. Các dòng họ lớn, nhiều đời, nhiều chi, nhiều người đỗ đạt khoa bảng thường có thế lực rất mạnh trong làng, nhiều khi thao túng cả bộ máy làng xã. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa nên nước ta sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh và cũng do đặc điểm kiến tạo địa lí, với
  • 28. 24 đồng cỏ vừa nhỏ vừa ít nên chỉ phù hợp với chăn nuôi tiểu gia súc. Vì vậy ở nước ta, sản xuất tập trung nhân công theo quy mô nhỏ, công cụ sản xuất nhỏ gọn. Nên người Việt gắn bó với gia đình chặt hơn là với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào cũng có từ đường. Hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu giữ quyền hành quản lý gia đình, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế. Họ là những người có uy quyền và được nắm giữ việc thờ cúng các thần, trong đó có tổ tiên đã qua đời. Từ sự phân tích trên đây chúng ta thấy rõ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình thành từ xa xưa và tồn tại phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên được duy trì và phát triển tồn tại đan xen với các tín ngưỡng, tôn giáo khác. Bên cạnh nguồn gốc xã hội mang tính khách quan thì nguồn gốc nhận thức và tâm lý cũng là một nguồn gốc quan trọng dẫn đến sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. - Nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Một trong những nguồn gốc dẫn đến việc hình thành tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói riêng chính là trình độ phát triển của nhận thức. Trước hết, cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn và bắt đầu từ thế giới tự nhiên xung quanh mình. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta tôn sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần đá, thần núi, thần sông nước… Bằng cách huyền thoại hóa, các vị thần được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn) tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc
  • 29. 25 nhân hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống nhân thần. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và vô hình, nhất là giữa cái sống và cái chết đã khiến cho con người bận tâm. Vẫn với quan niệm “vật linh” kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn”(phần vía tức là phần hồn nhẹ hơn ) và xác ( chỉ có điều khác đàn ông ba hồn bảy vía, đàn bà ba hồn chín vía). Không có ý thức cao siêu “sống gửi thác về” (thiên đàng hay địa ngục) của Kitô giáo hay thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật. Trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó vừa tách biệt, chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết: thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại, chuyển sang “sống” ở một thế giới khác. Thế giới ấy có thể gọi bằng những tên gọi khác nhau, là cõi ma của người Mường, hay âm phủ (cõi âm) theo cách nói của người Việt. Cõi âm cũng có mọi nhu cầu như cuộc sống dương gian. Các tài liệu khảo cổ cho biết, tục chôn của cải theo người chết đã có từ văn hóa Sơn Vi. Trong các khu mộ táng người ta tìm thấy các công cụ lao động, vật liệu sinh hoạt mà đoán chừng đó là những thứ cung cấp cho người chết sử dụng ở thế giới bên kia. Như vậy theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng “sống” mới trong môi trường khác. - Nguồn gốc tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Tâm lý, tình cảm là một yếu tố mang tính chủ quan trước sự tác động của thế giới khách quan, thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở tâm lý, tình cảm của con người và cộng đồng người trong xã hội. Một trong những nhu cầu thiết yếu của con người là được tâm sự, gửi gắm, giải tỏa những bức xúc trong đời sống tinh thần. Thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin ấy đã giúp con người tạo
  • 30. 26 ra hệ thống văn hóa giá trị truyền thống, thiêng liêng hóa tình cảm tiếc thương, thái độ kính trọng người có công tạo dựng cuộc sống. Cuộc sống là môi trường văn hóa đặc biệt được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người sống trong môi trường ấy,không những chỉ tiếp xúc với cái hiện hữu mà còn tiếp xúc với cái vô hình, trừu tượng, mông lung, không lý giải được bằng lý trí. Điều đó chỉ cảm nhận từ tâm thức, linh cảm của con người. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, giải tỏa nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của con người, chết đồng nghĩa với sự xa lìa vĩnh viễn thế giới, người thân. Song quy luật sinh học khiến cho không ai có thể trốn tránh được nó. Bằng nghi thức thờ cúng tổ tiên, con người đã góp phần lý giải về cái chết và cuộc sống sau khi chết, giải tỏa nỗi kinh sợ khi nghĩ đến nó. Rõ ràng là nỗi sợ hãi cái chết được giảm bớt thông qua việc thờ cúng ông bà, cha mẹ mình. Và dần dần trở thành tập tục, truyền thống, nghĩa vụ thờ cúng của mọi gia đình dưới hình thức giỗ, chạp, xây mồ mả… Bên cạnh ý thức trách nhiệm, có lẽ phần nào còn bởi yếu tố sợ bị trừng phạt khi không làm tròn trách nhiệm, bổn phận với người đã khuất. 1.3.2 Bản chất Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống như các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác là sự phản ánh hiện thực, trong đầu óc của con người có sự tồn tại của những lực lượng ở bên ngoài chi phối vào cuộc sống hằng ngày của họ. Lực lượng xa lạ bên ngoài ở đây là tổ tiên trong thế giới vô hình. Tổ tiên đã mất là đối tượng phản ánh nhằm đáp ứng, thỏa mãn sự thiếu hụt tinh thần của những người đang sống. Tổ tiên khi còn sống thì “khôn”, đến lúc chết thì “thiêng”, vẫn ngự trên bàn thờ, vừa gần gũi, vừa xa lạ, lại rất đỗi linh thiêng.
  • 31. 27 Con cháu thành kính, tôn thờ tổ tiên là tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Ý thức về tổ tiên là ý thức về cội nguồn. Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của thời gian, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt, chết không phải là hết. Các thế hệ tiếp nối nhau, chết chỉ là sự bắt đầu của một chu kì sinh mới. Tôcarev đã khẳng định tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như sau: “Sự thờ cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo, từ lâu đã được thừa nhận trong giới khoa học… là sự thờ cúng ông bà cha mẹ và những người đồng tộc đã chết và trước hết là hình thức gia đình thị tộc của sự thờ cúng đó, từ đó tức là lòng tin rằng, tổ tiên đã chết che chở cho con cháu đang sống và những lễ nghi cầu xin do các thành viên thị tộc hay gia đình tiến hành để nhằm thờ phụng tổ tiên”. [57,tr.312 – 313]. Nội dung tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống) bằng con đường: hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này, đạo lý là nội dung nổi trội. Một trong những đạo lí đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành lúc họ đã chết cũng như khi còn sống; mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Con cháu nhớ về ông bà tổ tông, ông bà cha mẹ đã sinh thành gây dựng nên cuộc đời cho mình cả về thể xác, linh hồn, và khả năng kinh tế. Đó là sự thiêng liêng tỏ lòng thành kính dâng lễ cúng tế vong hồn ông bà tổ tiên. Càng thực hiện được sự cúng lễ tổ tiên chu đáo bao nhiêu thì lòng mình càng thảnh thơi sung sướng bấy nhiêu.
  • 32. 28 Đặc trưng chung nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở chỗ, nó là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử, xã hội và văn hóa thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần; chịu sự quy định của tồn tại xã hội có tính độc lập tương đối, được hình thành từ rất sớm và còn tồn tại lâu dài trong xã hội. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gắn quyện vào nhau, tạo thành một nét đặc thù của loại hình tín ngưỡng này. Như vậy, có thể nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn hóa, đạo đức trên cơ sở của niềm tin, cho rằng tổ tiên đã chết sẽ phù trợ che chở cho con cháu. Là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người gia trưởng và được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên theo quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi người, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng xã hội. 1.3.3 Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Trong thời gian gần đây, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được khôi phục và phát triển, nhằm khai thác kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa đã được chung đúc hàng nghìn năm qua thiết chế gia đình – dòng họ - làng và nước. Trong thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Chẳng hạn như phân loại theo dân tộc, ta có dân tộc Kinh, Mường, Tày, Thái… ; phân loại theo giai tầng xã hội, phân loại theo đặc điểm của thờ cúng tổ tiên. Cách phân loại phổ biến là dựa trên kết cấu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo nghĩa rộng để phân loại tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thành: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình, họ tộc, thờ thành hoàng làng và thờ cúng tổ tiên trong cả nước. • Thờ cúng tổ tiên trong gia đình Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho con cháu. Thờ cúng tổ tiên chính là toàn bộ các hình thức lễ nghi,
  • 33. 29 cúng bái nhằm bày tỏ lòng tôn kính của các thế hệ sau với những người thuộc thế hệ đầu tiên của một dòng họ, với ông bà, cha mẹ đã qua đời. Thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa là một tín ngưỡng ở chỗ gây niềm tin thiêng liêng vào linh hồn ông bà tổ tiên như vị thần hộ mệnh; phù hộ che chở con cháu trong suốt những tháng ngày làm ăn sinh sống. Việc chôn theo những đồ tùy táng thấy được trong các ngôi mộ thời nguyên thủy, việc đốt vàng mã, tiền âm phủ ngày nay, ấy là những bằng chứng biểu hiện niềm tin vào ông bà, tổ tiên vẫn sinh hoạt như ở dương gian. Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết; tin rằng con người ta chết đi về thǎm nom, phù hộ cho con cháu. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén nhang lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, ngày Tết, hay ngày giỗ tổ tiên, con cháu trong gia đình cũng đã thể hiện được tấm lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân đã khuất. Từ lâu, thờ cúng tổ tiên ông bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các làng quê. Xin tổ tiên phù hộ cho gia quyến bình an, đó là tâm niệm của tất cả người Việt Nam. Trên thực tế, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, cho dù đó không phải là điều bắt buộc, song đó lại là thứ “luật thành vǎn” trong đời sống tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Trong mỗi gia đình, bàn thờ cúng tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và trở thành nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết, hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên phù hộ. Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với gia tiên.
  • 34. 30 Thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống có nhiều hình thức, cấp độ khác nhau. Trước hết là việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình (thờ cúng gia tiên). Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên.... Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hàng với tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là không gian linh thiêng để các thành viên trong gia đình thể hiện, gửi gắm lòng tưởng nhớ, biết ơn tiên tổ. Bàn thờ là nơi tổ tiên “đi”, “về” và ngự trên đó. Thông thường bàn thờ tổ tiên thường được lập cố định, ở chỗ trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Đồ thờ tự được coi là những vật linh thiêng. Ngày nay, do tác động của nếp sống mới, gia đình có bàn thờ cổ không còn nhiều. Người ta lập bàn thờ trên một tấm ván đóng trên tường, có khi là trên nóc tủ... Đồ thờ chỉ gồm một bình hương nhỏ, khung ảnh thờ người quá cố và một số đồ bày biện khác. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.
  • 35. 31 Nhìn chung, một bàn thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, giữa hai lớp được ngăn bằng một bức y môn bằng vải. Lớp trong đặt long khám của thần chủ (ngai hoặc ỷ, tượng trưng cho ngôi vị của tổ tiên), bộ đồ thờ để đặt hộp trầu, chén nước đĩa hoa quả… Lớp ngoài là hương án, trên đặt bình hương, đèn, ống hương, mâm bồng… Ngày thường y môn được buông rủ xuống, chỉ khi nào có lễ, sau khi con cháu thắp hương khấn mời thì y môn mới được vén lên. Theo cách giải thích dân gian, làm như thế để tổ tiên được hưởng lễ một cách tự nhiên, không cho ai nhìn ngó, quấy nhiễu. Ngoài ra bàn thờ của các gia đình giàu có hoặc đại gia khoa bảng còn treo các bức hoành phi ở bên trên, câu đối ở hai bên, được sơn son thiếp vàng. Nếu như hoành phi, câu đối trong nhà thờ họ, tông tộc mang nặng tính tổng kết, phô trương và tôn vinh dòng họ để làm gương cho hậu thế thì hoành phi, câu đối ở bàn thờ gia tiên thường được viết với nội dung bày tỏ lòng thành kính, biết ơn hoặc lời hứa của con cháu đối với tổ tiên. Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Theo thuyết âm dương ngũ hành thì bát hương thể hiện hành thổ, nên ở giữa (trung tâm). Hai cây đèn nến thể hiện hành hỏa. Nén hương đốt lên là có cả ba yếu tố: hỏa (phần đang cháy), mộc (phần thân hương) và thổ (phần chân hương cắm trong bát hương). Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, sự chuyển hóa thể hiện ước vọng sinh sôi, phát triển. Bộ đồ thờ của những gia đình bình dân thường đơn giản, thường là bộ tam sự, gồm bát hương ở giữa và hai bên là hai cây đèn nến. Những gia đình khá giả, đồ thờ phụng là bộ ngũ sự hay thất sự. Bộ ngũ sự gồm bát hương, hai
  • 36. 32 cây đèn nến, lọ độc bình, mâm bồng ngũ quả, cái kỉ hay còn gọi là tam sơn gồm bộ đài ba chiếc, giữa đặt chén rượu, hai bên mỗi bên để đĩa trầu cau, một bên để bát nước. Rượu và nước mang tính âm, hành thủy. Khi thắp hương đèn nến cúng vái, âm dương hòa hợp, mọi việc tốt lành. Sau khi đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng (có thể là chủ hộ hoặc con trưởng nam hoặc cháu đích tôn...) khăn áo chỉnh tề, thắp hương, đứng trước bàn thờ, vái ba vái và khấn. Hương thắp trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ: một, ba, năm nén. Sau khi gia trưởng khấn lễ, lần lượt đến mọi người trong gia đình vái trước bàn thờ. Ngày nay, việc khấn lễ đã giản đơn, người ta chỉ vái thay lễ. Trước khi khấn, vái ba vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn vái dài và ba vái ngắn. Khi mọi người đã lễ vái xong, chờ cho tàn một tuần nhang, gia trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ và thắp thêm tuần nhang nữa. Sau đó, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hoá (đốt). Lúc hoá vàng người ta thường lấy chén rượu cúng vẩy lên đống tàn vàng. Các cụ giải thích, có như vậy người dưới âm mới nhận được số vàng người sống cúng. Lúc này có thể hạ đồ lễ xuống. Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt. Trong việc thờ phụng tổ tiên thì ngày giỗ hay còn gọi là kỵ nhật rất quan trọng. Trong ngày giỗ, người ta làm cỗ bàn mời thân bằng quyến thuộc. Ở làng quê, ngày giỗ là dịp để gia chủ mời lại những người đã từng mời mình đi ăn uống, người ta gọi là trả nợ miệng. Giỗ có thể làm to hoặc làm nhỏ tuỳ theo gia cảnh và nhiều khi lại tuỳ thuộc vào mối liên hệ giữa người sống và người chết.
  • 37. 33 Ví như giỗ cha mẹ, giỗ ông bà thường làm to, giỗ anh em, chú bác cùng các vị cao tằng tổ khảo thường chỉ có cơm canh cúng đơn sơ để khỏi bỏ giỗ. Theo phong tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức. Nếu con trai trưởng không còn thì việc cúng giỗ sẽ do cháu đích tôn tổ chức (chỉ khi nào trưởng nam không may tuyệt tự, không có con trai nối dõi thì mới đến con thứ). Tuy nhiên, không vì thế mà những người con thứ, cháu thứ, cháu ngoại bỏ ngày giỗ ông bà, cha mẹ. Đến ngày giỗ, họ phải tề tựu ở nhà người con trưởng và cũng phải mang đồ lễ cúng tới để gửi giỗ. Trước ngày giỗ, trưởng nam làm lễ cáo với Thổ công để xin phép với Thổ công cho hương hồn người đã khuất được về phối hưởng bởi vì người ta cho rằng “đất có Thổ công, sông có Hà bá”, chỉ khi có phép của Thổ công hương hồn người đã khuất mới vào được trong nhà. Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Cỗ bàn nấu xong, cúng gia tiên trước con cháu mới được ăn sau. Khách tới ăn giỗ có mang đồ lễ để cúng, thường là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa quả. Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm, dù thác nhưng linh hồn vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong những dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như tết Nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc, Vọng theo chu kì tuần trăng, mà các vị tổ còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hoà… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.
  • 38. 34 Lễ phẩm tùy, to, sang thì dùng bò, lợn, dê, nếu không cũng sửa soạn vài mâm cỗ, hoặc thủ lợn mâm xôi, chí ít cũng đĩa xôi con gà, hoặc bát cơm quả trứng, con cá bát canh, còn lễ chay thì oản quả, xôi chè… Nói tóm lại, tùy thuộc gia cảnh và nội dung ngày lễ, nhưng điều thiết yếu là đồ lễ phải là những thứ thanh khiết và được giành riêng. Trong các ngày lễ, lễ trọng được chuẩn bị chu đáo hơn và nhiều đồ lễ hơn lễ ngày thường, nhưng có những thứ không được phép thiếu: nén hương, ngọn đèn, chén nước, đĩa hoa. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo nên sự giao hòa giữa người hai cõi. Việc thờ cúng tổ tiên được người Việt rất tôn trọng, vì việc cúng giỗ nghiêm túc là thể hiện đạo hiếu. Cho nên gửi giỗ là nghĩa vụ nhưng người ta còn muốn nhân ngày giỗ là cơ hội để gặp mặt anh em con cháu trong nhà mà hằng năm phải xa cách nhau vì sinh kế, thắt chặt thêm tình thân giữa những người cùng huyết thống bằng sợi dây tâm linh tình nghĩa. Thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, cho dù đó không phải là điều bắt buộc, song đó lại là thứ “luật bất thành vǎn” trong đời sống tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Bất cứ một gia đình người Việt nào cũng lập bàn thờ cúng tổ tiên và được đặt ở vị trí trang trọng nhất, trở thành nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết, hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên phù hộ. Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với gia tiên. • Thờ cúng tổ tiên trong dòng họ Thờ cúng tổ tiên theo dòng họ là hình thức phổ biến chủ yếu ở Trung Quốc và Việt Nam, song có lẽ ở Trung Quốc vẫn là nơi mẫu mực, điển hình
  • 39. 35 cho hình thức thờ cúng này. Nếu như ở Việt Nam, nhà thờ tổ không phải dòng họ nào cũng có thì ở Trung Quốc tình hình có khác: “dòng họ nào cũng có từ đường” [53,tr.43] làm nơi thờ cúng thủy tổ của dòng họ. Quan hệ huyết thống của Việt Nam khá phức tạp. Gia đình chỉ là một đơn vị độc lập tương đối bởi vì giữa các gia đình trên một phạm vi nào đó lại tồn tại một quan hệ ràng buộc mà người ta gọi là họ hàng, dòng tộc. Và theo “quy định” huyết thống ấy, nhiều gia đình sẽ họp thành một ngành, nhiều ngành họp thành một họ. Mỗi họ có một ông Tổ chung. Thủy tổ là người sáng lập ra dòng họ, từ đó hệ thống các đời cùng dòng máu nối tiếp nhau phát triển theo thời gian. Họ là sự tập hợp tự nhiên những người cùng dòng máu, tụ hội theo từng đời và nhiều đời do cùng một ông tổ sinh ra. Dòng họ ở đây được tính theo trục dọc có thể theo họ mẹ hoặc họ cha, nhưng hầu hết được lấy theo họ cha. Để tưởng nhớ về nguồn gốc cuả họ tộc mình, mỗi dòng họ đều xây nhà thờ thủy tổ của dòng họ (còn gọi là từ đường). Ở những làng xóm giữ bền truyền thống cùng tập tục cổ và ít giao lưu với bên ngoài, trước đây thường là mỗi làng có bao nhiêu dòng họ thì có bấy nhiêu nhà thờ họ, trong đó thờ thủy tổ và các vị tổ phân chi. Thậm chí ở những làng sung túc, có những họ to, nhiều đinh, nhiều chi thì mỗi chi đều xây một nhà thờ riêng gọi là nhà thờ chi. Vì vậy, ngoài ngày giỗ tổ tiên tại gia, người Việt còn có ngày giỗ họ. Trưởng tộc là người được hưởng hương hoả của tổ tiên nên có trách nhiệm phải lo việc làm giỗ họ. Trong ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ. Mỗi dòng họ đều có một cuốn tộc phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng sinh tử của tổ tông và người trong họ theo thứ tự.
  • 40. 36 Con cháu trong một họ lập Từ đường để thờ vị Thuỷ tổ. Trên bàn thờ ấy có bài vị Thuỷ tổ dòng họ. Xưa kia bài vị thường được ghi bằng Hán tự, ngày nay có nhiều người dùng chữ Quốc ngữ để đề bài vị. Ngoài thần chủ đồ thờ còn bao gồm đèn nến, hương, hoa, mâm quỳ, mâm bồng, cổ đài rượu... Hoành phi câu đối trên đó ghi lại công đức của tổ tông là đồ không thể thiếu trong gian thờ. Có nhiều họ không xây Từ đường thì xây một đài lộ thiên, dựng bia đá, ghi tên thụy hiệu các tổ tiên. Mỗi khi có giỗ tổ hoặc có tế tự thì cả họ ra đó cúng tế. Chuyện góp giỗ và tổ chức giỗ họ hàng nǎm được chuẩn bị rất chu đáo. Theo phong tục chỉ có đàn ông trong họ trên 18 tuổi mới phải góp giỗ (được gọi là tính theo đinh). Có nhiều họ theo quan niệm “con gái là con người ta” nên không cho con gái dự giỗ họ nhưng con dâu “mới đúng là con mua về” thì được tham dự. Ngày nay, quan niệm ấy đã dần được xoá bỏ. Ngày giỗ họ, không mời khách khứa, chỉ có con cháu trong họ. Các ngày rằm, mồng một, ngày lễ, ngày Tết việc lễ bái sẽ do nhà trưởng họ lo. Đến tháng Chạp thì cả họ lại họp nhau lại như ngày giỗ Tổ. Vào dịp giỗ tổ hàng năm hoặc khi có việc họ thì cả họ tới nhà trưởng họ dự lễ và hưởng lộc, nhà thờ tổ giao cho gia đình trưởng họ trông nom, hương khói. Nhà thờ tổ to hay nhỏ là tùy thuộc vào họ lớn hay bé (do số chi hoặc phân chi và số đinh nhiều hay ít). Về kiểu dáng, nhà thờ tổ thương mô phỏng ngôi đền thờ Thành hoàng hoặc có thể xây dựng giống ngôi nhà ở gồm ba gian. Ngoài nhà thờ họ, còn có nhà thờ tông tộc hay còn gọi là nhà thờ phân chi, được xây dựng như nhà thờ họ, song quy mô nhỏ hơn. Về phần kiến trúc có thể tráng lệ hoặc giản dị hơn. Điều này phụ thuộc vào sự hưng vong của dòng họ, của phân chi. Tuy nhiên, theo quan niệm phổ biến thì nhà thờ tông
  • 41. 37 tộc trên nhiều phương diện, đương nhiên phải kém nhà thờ họ. Ngoài ra có dòng họ không xây nhà thờ tông tộc mà lập ban thờ tông tộc ngay trong nhà thờ họ, trường hợp này bàn thờ tông tộc sẽ bố trí ở hai gian bên trong nhà thờ họ. Có thể thấy rằng, trong phạm vi thờ cúng tổ tiên đối với những người có cùng huyết thống thì thờ cúng tổ họ có phạm vi rộng lớn nhất. Bởi đó là ông tổ của cả một dòng họ, là cái “gốc”, là “cội nguồn” của cả một dòng họ. Cho nên tất cả những người trong họ đó, ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình mình, thờ cúng tổ chi, thì có nghĩa vụ thờ cúng tổ họ. Từ một dòng họ, theo thời gian phát triển thành các chi, ngành, nhánh thì sự thờ cúng cũng được phân tách vừa theo các bậc thế hệ, vừa theo các bậc thứ tự cả - thứ. Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên là hình thức tảo mộ. Ngoài việc đáp thêm mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các thành viên trong gia đình, dòng họ thường đi thăm mộ, cúng tế, sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng ở nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom sửa sang mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, dòng họ. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con cháu sẽ làm ăn lụi bại, không thể nào phát triển được. • Thờ cúng tổ tiên ở làng xã (thờ thành làng) Đây là hình thức tín ngưỡng xuất hiện muộn hơn so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình và họ tộc và còn muộn hơn khi coi đây là một loại
  • 42. 38 hình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bởi theo quan niệm ban đầu, thờ cúng tổ tiên chỉ tồn tại dưới dạng thờ cúng những người đã mất trong gia đình hoặc thị tộc, có cùng huyết thống. Thờ thành làng là hiện tượng tín ngưỡng phổ biến ở Việt Nam, nguyên nhân của thực tế này là do sự quy định của đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ở phương Đông. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và kỹ thuật canh tác đã dẫn đến quá trình các thị tộc, bộ lạc dần dần tan rã, và thay vào đó bằng một kết cấu xã hội bồi chặt hơn, ổn định hơn, đó là các công xã nông thôn. Đây là một tổ chức xã hội khép kín, tồn tại và phát triển trên cơ sở tự cung, tự cấp là chủ yếu. Nền kinh tế chủ đạo trong công xã là sản xuất nông nghiệp. Với đặc trưng kinh tế xã hội ấy, các thành viên trong công xã luôn luôn phải có ý thức đoàn kết, liên minh với nhau trong việc đấu tranh với thiên tai, địch họa để bảo vệ mùa màng, bảo vệ xóm làng dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh do cong xã bầu lên. Vì vậy trong tâm lý người Việt luôn có tâm niệm tôn sùng, đề cao những người có công với làng xã, quốc gia, những người có công khai dân, lập ấp, chống giặc ngoại xâm... đã bảo vệ và đem lại cuộc sống bình an, hạnh phúc cho dân làng. Từ ý niệm tình cảm đó đã nảy sinh hình thức tín ngưỡng thờ cúng những người có công với làng xã, quốc gia hoặc thậm chí là những vị thần có công phù trọ giúp làng, giúp nước. Tín ngưỡng đó vừa thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của con cháu đối với các bậc tiền nhân, vừa là sợi dây vô hình cố kết sức mạnh trong cộng đồng, làng xã, đồng thời cũng định hướng cho sự phát triển của thế hệ trẻ trong tương lai. Hình thức thờ cúng những người có công với làng xã – thờ thành hoàng làng là hình thức khá phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên, khái niệm “thành hoàng”
  • 43. 39 lại xuất phát từ gốc Hán: “thành” là cái thành trì, còn “hoàng” là cái hào đào sâu bao quanh bên ngoài thành, thành hoàng nghĩa là vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành trì (theo quan niệm của người Trung Quốc). Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa như Phan Kế Bính, Đào Duy Anh... thì tín ngưỡng thành hoàng làng ở nước ta bắt đầu từ cuối thời Bắc thuộc. Trên cơ sở các tài liệu để lại thì vị thần đầu tiên được phong thanh hoàng ở nước ta là thần Tô Lịch. Mãi đến thế kỷ XVI, XVII tín ngưỡng này mới thực sự phổ biến ở các làng quê Việt Nam và tồn tại liên tục cho đến ngày nay. Về đối tượng thờ cúng làm thành hoàng nhìn chung rất phong phú và đa dạng, tùy từng địa phương mà có những quan niệm khác nhau. Nhưng đặc trưng của người Việt là gắn bó với việc làm nông nghiệp trồng cấy lúa nước. Hoạt động sản xuất luôn gắn liền với yếu tố thiên nhiên: đất, nước, thời tiết... nên các thành hoàng được thờ phụng trước hết là các thần thiên nhiên, linh khí núi sông được phân hóa như: mây, mưa, sấm. Sau đến là các thần sông, núi, đất cũng được nhân dân thờ phụng. Tuy nhiên, về cơ bản các đối tượng được tôn vinh làm thành hoàng là những người có công đánh giặc giữ nước, hộ dân, có vị khai làng lập ấp, tạo nghề mới... Có nhân thần cũng như có nhiên thần, có chính thần cũng có tà thần, dị thần. Thành hoàng có người là nhân vật lịch sử, có người lại là nhân vật huyền thoại, có thành hoàng là nam nhưng cũng có thành hoàng là nữ. Có làng chỉ có một vị thành hoàng, có làng lại thờ đến hai, ba thậm chí năm, bảy vị làm thành hoàng. Tín ngưỡng thờ thành làng là niềm tin của một cộng đồng người vào sự che chở của một vị thần linh được Nhà nước phong kiến sắc phong để trở
  • 44. 40 thành quan lại thiêng của triều đình trấn giữ một khu vực nào đó, thường là một làng. Và niềm tin đó được thực hiện thông qua các lễ thức nhất định và hội làng hàng năm. • Thờ cúng tổ tiên của cả nước (Quốc tổ Hùng Vương) Vượt ra ngoài phạm vi gia đình, làng xóm là việc thờ cúng tổ tiên trong cả nước, Việt Nam cũng như các quốc gia khác trong khu vực đều có truyền thuyết, huyền thoại về nguồn gốc của dân tộc mình, những người được coi là thủy tổ của cả dân tộc, khai sinh ra quốc gia, dân tộc thì được coi là tổ tiên của cả nước. Với người dân Việt, lễ hội hàng năm thờ vua Hùng - người có công dựng nước là một biểu hiện sâu sắc, một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong cả nước. Theo quan niệm của người Việt, người đại diện cho cả cộng đồng đó là người đứng đầu đất nước, là hóa thân của một vị thần đầu thai xuống trần gian để thay trời cai trị thiên hạ, vị đó chính là Thiên tử - con trời. Cho nên, người đứng đầu cộng đồng, quốc gia hay một tộc người, tuy xuất thân là một người thường, bằng da bằng thịt, nhưng được thiêng liêng hóa. Nhà vua là người đại diện duy nhất của cộng đồng trước thần linh, người có quyền bất khả xâm phạm, quyền lực của vua được đồng nhất với quyền lực của cộng đồng. Với ý thức thờ chung một vị Vua Tổ, đã ngày một thấm sâu trong tâm thức dân gian và hun đúc thành truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam được thử thách qua bao gian nan, khó khăn vất vả, qua bao thiên tai giặc dã và bao “biến cố thăng trầm” mà dân tộc ta đã phải đương đầu trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của biết bao thế hệ người dân Đất Việt để luôn tiến lên phía trước. Truyền thống quý báu đó đã thấm sâu vào trong tâm khảm của mỗi người “con dân Đất Việt” và trở thành biểu
  • 45. 41 tượng tâm linh của mỗi con tim khối óc, làm sáng lên đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây” thuỷ chung son sắt của biết bao thế hệ hậu duệ con cháu các Vua Hùng hôm nay và cả mai sau. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một nhu cầu về tâm linh và tình cảm không thể thiếu được và là phẩm chất đạo đức, là ý chí đoàn kết, cố kết cộng đồng thành một quốc gia - dân tộc Việt Nam hôm nay. Tín ngưỡng truyền thống thiêng liêng ấy đã tạo nên sức mạnh vật chất và động lực tinh thần vô song để dân tộc ta có đủ sức mạnh và của cải, tinh thần và nghị lực để vượt qua "mọi khó khăn gian khổ, làm rạng rỡ non sông gấm vóc Việt Nam. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân Việt Nam từ bao đời nay, Vua Hùng là vị Tổ đã có công dựng nên quốc gia Văn Lang - Nhà nước đầu tiên, sơ khai của dân tộc Việt Nam. Vua Hùng chính là nguồn gốc Tổ Tiên chung của cả dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có một vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh và tình cảm của các thế hệ người dân Việt Nam, vừa thiêng liêng, vừa cụ thể vừa là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cùng nhau dựng nước và giữ nước mà Bác Hồ đã tổng kết và khái quát thành chân lý của dân tộc và của thời đại: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Với người Việt, lễ hội hàng năm thờ vua Hùng – người có công dựng nước là một biểu hiện sâu sắc, một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cả nước. Tục thờ vua Hùng diễn ra hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch, là Quốc lễ của cả dân tộc, thành ngày hội tụ của con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Đúng vào ngày mồng mười, từ sáng sớm tinh mơ, người người đã đổ về đây chứng kiến cuộc tế lễ Vua Hùng. Từ đại diện cấp cao của nhà nước cho đến những người dân bình thường, ai
  • 46. 42 nấy đều thành kính thắp nén nhang thơm tỏ lòng biết ơn công đức cao, dày của Đức quốc Tổ Hùng Vương. Đó là truyền thống văn hoá đặc biệt Việt Nam thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và ý thức tôn vinh kính trọng công lao dựng nước của các Vua Hùng và các thế hệ cha ông đối với dân tộc Việt Nam. Như vậy, có thể thấy rằng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình, làng xã mà nó còn được mở rộng ra trong phạm vi thờ cúng tổ tiên của cả nước, ở đó thờ vị tổ chung của cả quốc gia dân tộc. nhưng ở cấp độ nào, hình thức nào thì nó vẫn không ngoài ý nghĩa là sự tưởng nhớ về cội nguồn, về những người có công sinh thành nuôi dưỡng, những người khai làng lập ấp, khai thiên lập địa... họ là những người đã có công tạo lập cuộc sống cho chúng ta ngày hôm nay. 1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường, Tày với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 1.4.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường Thờ cúng tổ tiên của người Mường mang những nét đặc trưng riêng và cũng có những nét chung với người Việt. Cũng như người Việt chúng ta, thì tín ngưỡng tổ tiên của dân tộc Mường đã in đậm trong tâm thức người Mường từ rất lâu rồi. Người Mường quan niệm người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ (trời đất), nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Vì vậy, bổn phận của người sống phải phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người sống yên ổn, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Người Mường quan niệm có gốc mới có ngọn nên người Mường lấy gian đầu cầu thang lên làm gian gốc, gọi là gian thờ. Cột cái gian gốc ở nhà sàn Mường có tên là cột chồ, còn gọi là cột thờ vì ở ngang vách sát cột thờ,