powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
VIỆT NAM- Gốm BÁT TRÀNG
1. Gốm Bát Tràng
BÀI VIẾT
Gốm Bát Tràng
Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại
làng Bát Tràng (缽塲), một làng gốm cổ truyền và nổi tiếng của Việt
Nam. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát (缽) là chén bát, đồ gốm và chữ
Tràng (塲 hay Trường) là chỗ đất dành riêng cho chuyên môn.
Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm
Vị trí địa lý
Xã Bát Tràng (缽塲社) gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao thuộc
huyện Gia Lâm, Hà Nội. Trước đây thôn Bát Tràng là một xã riêng. Thời
Page 1
2. Gốm Bát Tràng
nhà Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn
Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn
Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh. Lúc này xã Bát Tràng thuộc
tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, đến năm 1862 chia về
phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn.
Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng
Yên. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội.
Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành
xã Quang Minh. Nhưng từ năm 1964, tên xã Bát Tràng được khôi phục
gồm Bát Tràng và Giang Cao như hiện nay.
Từ Hà Nội, có thể theo đường thuỷ từ bến Chương Dương hoặc bến Phà
Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua
cầu Chương Dương (hay cầu Long Biên) rồi theo đê sông Hồng đến đốc
Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng (khoảng 15 km) hoặc theo quốc lộ số 5
đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn
đến Bát Tràng (khoảng hơn 20 km).
Sự hình thành làng gốm
Theo sử biên niên có thể xem thế kỷ 14-15 là thời gian hình thành làng
gốm Bát Tràng.
• Đại Việt sử ký toàn thư chép "Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thú
12 (1352) mùa thu, tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa
má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu và Thuận An bị hại nhất". Xã
Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn
sông Nhị, tức sông Hồng ngày nay.
• Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc
Nam chinh, đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông xuất phát từ
Thăng Long xuôi theo sông Nhị (sông Hồng) đi qua "bến sông xã Bát"
tức bến sông Hồng thuộc xã Bát Tràng.
• Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép "Làng Bát Tràng làm đồ bát
chén" và còn có đoạn "Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Câu thuộc
Page 2
3. Gốm Bát Tràng
huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70
bộ bát đĩa, 200 tấm vải thâm"...
Nhưng theo những câu chuyện thu thập được ở Bát Tràng thì làng gốm
này có thể ra đời sớm hơn. Tại Bát Tràng đến nay vẫn lưu truyền những
huyền thoại về nguồn gốc của nghề gốm như sau:
• Vào thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay
Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi
sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều
Châu (Quảng Đông) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba
ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân
chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men trắng.
Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc) nước
men sắc đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh
Hà Bắc) nước men màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu
truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng
vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống
nghĩa là trước năm 1127.
• Theo ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát
Tràng, dòng họ Nguyễn Ninh Tràng là cư dân bản địa và lâu đời nhất, nên
được giữ vị trí tôn trọng trong ngôi thứ cũng như trong lễ hội của làng. Có
ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh,
một lò gốm ở Thanh Hoá, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một
số dòng họ ở Bát Tràng như họ Trịnh, Lê, Vương, Phạm, Nguyễn... ghi
nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và
Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang
Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn
Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã
Yên Thành, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét
trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một
số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề
gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất
nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này.
Page 3
4. Gốm Bát Tràng
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành
trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh
thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long
hành nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác
động mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có
làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn
nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra
đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường
(phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một
làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được
triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân
vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Những công trình
khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch
sử và những di tích của làng gốm Bát Tràng. Chỉ có điều chắc chắn là
gốm Bát Tràng xuất hiện từ rất sớm, vào giai đoạn cuối của Văn hoá Hoà
Bình đầu Văn hoá Bắc Sơn. Trong quá trình phát triển nghề gốm, đương
nhiện có nhiều quan hệ giao lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận
một số ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc.
Những thời kỳ phát triển
Thế kỷ 15–16
Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này
là cởi mở, không chủ trương "ức thương" như trước nên kinh tế hàng hoá
có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng
được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có
minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua
những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan
chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã
Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mỹ quốc công phu
nhân... Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm
nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
Page 4
5. Gốm Bát Tràng
Thế kỷ 16–17
Sau những phát kiến địa lý cuối thế kỷ 15, nhiều nước phát triển của Tây
Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt
động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời
càng trở nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống
buôn bán châu Á và với thị trường thế giới đang hình thành.
Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn
bán với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung
Quốc bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị
trường ở vùng Đông Nam Á. Khi nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính
sách bế quan toả cảng (1567) nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên
liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ buôn bán
giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua đó nhiều đồ gốm Bát
Tràng được nhập cảng vào Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển
buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan.
Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có
Page 5
6. Gốm Bát Tràng
đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều
kiện phát triển mạnh.
Thế kỷ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm
xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và
nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và
Phố Hiến (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại
trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng
có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở
khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thuỷ nối liền hai đô thị
này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn
Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây,
đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á,
Nam Á.
Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong
phương thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua
nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển
buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan.
Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có
đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều
kiện phát triển mạnh.
Thế kỷ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm
xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và
nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và
Phố Hiến (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại
trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng
có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở
khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thuỷ nối liền hai đô thị
này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn
Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây,
Page 6
7. Gốm Bát Tràng
đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á,
Nam Á.
Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong
phương thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua
nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuối thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm
sút nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều
Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó,
gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam
Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời
gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh
được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước như tơ lụa, đường, gốm
sứ... mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài.
Page 7
8. Gốm Bát Tràng
Thế kỷ 18–19
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với những
hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng
với chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn
trong thế kỷ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 đã làm cho quan hệ
mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng
bị suy giảm. Đó là lý do khiến một số làng nghề gốm bị gián đoạn sản
xuất (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh
hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu
thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và
gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường.
Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm
Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong
nước.
Gốm Bát Tràng từ thế kỷ 19 đến nay
• Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí
nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được
hoạt động bình thường.
• Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), tại Bát Tràng thành
lập Xí nghiệp gốm Bát Tràng (1958), Xí nghiệp X51, X54 (1988) cùng
một số hợp tác xã như Hợp Thành (1962), Hưng Hà (1977), Hợp Lực
(1978), Thống Nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ
(1984)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một
số hàng mỹ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng
như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn...
đào tạo được nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các
tỉnh.
• Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo
hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển
Page 8
9. Gốm Bát Tràng
thành công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn
tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ
gia đình. Từ thôn Bát Tràng, nghề gốm nhanh chóng lan sang thôn Giang
Cao và đến nay, cả xã Bát Tràng (gồm hai thôn Bát Tràng, Giang Cao) trở
thành một trung tâm gốm lớn.
• Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và
đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản
xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như
các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các
loại sứ cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của
nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được
xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều
nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản
xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một
số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý,
Trần, Lê, Mạc...
Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng
Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu
chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ
men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền
đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da,
thứ ba dạc lò".
Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào
một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết
hợp hài hòa của Ngũ hành (五行) là kim (金), mộc (木),
thuỷ (水), hoả (火) và thổ (土). Sự phát triển của nghề
nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà
sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao
động sáng tạo với những qui trình kỹ thuật chặt chẽ,
chuẩn xác.
Page 9
10. Gốm Bát Tràng
Gốm Bát Tràng-Lư Hương
Ảnh minh hoạ: kiểu tạo dáng sản phẩm bằng bàn xoay
Quá trình tạo cốt gốm
Chọn đất
Page 10
11. Gốm Bát Tràng
Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là
nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm
thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất
tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ
Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định
cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ
đất sét trắng ở đây. Đến thế kỷ 18, nguồn đất sét trắng tại
chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm
nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng
vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông
qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai
thác các nguồn đất mới. Từ Bát Tràng ngược sông Hồng
lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi
dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác đất sét trắng ở
Hồ Lao, Trúc Thôn.
Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt
mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C.
Thành phần hoá học (tính trung bình theo % trọng
lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al203: 27,07; Si02:
55,87; Fe203 1,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O:
2,01; Ti02: 0,81. Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm
Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số
hạn chế như chứa hàm lượng ôxít sắt khá cao, độ ngót
khi sấy khô lớn và bản thân nó không được trắng.
Xử lý, pha chế đất
Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra
tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể
có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm
phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền
thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể
chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Page 11
12. Gốm Bát Tràng
Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm
đất sét thô và nước (thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng).
Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt
nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân
gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã "chín"
(cách gọi dân gian), đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt
đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp
lỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi
là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại đây đất sét bắt đầu lắng
xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên,
tiến hành loại bỏ chúng.
Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể
phơi", người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3
ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ". Tại bể
ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng
phương pháp lên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá
khử các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu càng
tốt.
Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng
thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá
trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể
pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.
Tạo dáng
Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát
Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo
dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối
"vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc
này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một
cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và
tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào
bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi
Page 12
13. Gốm Bát Tràng
ném ("bắt nẩy") để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào
mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo
cho đất nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ
yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất
bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ
dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén
lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào
"bửng". Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban
đầu của sản phẩm là công việc bình thường phổ biến ở
mỗi lò gốm cổ Việt Nam (không chỉ riêng Bát Tràng)
nhưng lại rất xa lạ với một số người thợ gốm phương
Tây. Tuy thế, kỹ thuật này đã mất dần và hiện nay không
còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được
công việc này nữa. "Be chạch" cũng là một hình thức
vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ
đàn ông đảm nhiệm.
Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kỹ
thuật và mỹ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm
gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ
phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp
ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công
nghiệp hay mỹ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một
sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc
sản xuất hàng loạt.
Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch
cao hay khuôn gỗ) được tiến hành như sau: đặt khuôn
giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném
mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc
chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới
mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm
Bát Tràng sử dụng phổ biến kỹ thuật "đúc" hiện vật.
Muốn có hiện vật gốm theo kỹ thuật đúc trước hết phải
chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn
giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại
phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng
Page 13
14. Gốm Bát Tràng
của sản phẩm định tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một
lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất
nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương
pháp đổ rót: đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy" để tạo dáng sản
phẩm.
Phơi sấy và sửa hàng mộc
Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt
nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện
pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử
dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát.
Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy
hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc
hơi dần dần.
Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại
cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà
trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ
vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc"
cho đất ở chân "vóc" chặt lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi
là "lùa"). Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt
chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản
phẩm (như vòi ấm, quai tách...), khoan lỗ trên các sản
phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn
mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng
bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì
gọi là "làm hàng bàn".
Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài
vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp
phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên
mặt sản phẩm...
Page 14
15. Gốm Bát Tràng
Quá trình trang trí hoa văn và phủ men
Kỹ thuật vẽ
Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền
mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề
cao, hoa văn học tiết phải hài hoà với dáng gốm, các
trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ
thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng
đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả
nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men
màu...
Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kỹ thuật vẽ trên nền xương
gốm đã nung sơ lần 1 hoặc kỹ thuật hấp hoa, một lối
trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài.
Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống
của Bát Tràng. Những loại này không được coi là nghệ
thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như
gốm Việt Nam nói chung.
Chế tạo men
Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn
có men màu nâu, thành phần loại men này bao gồm men
tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ôxít sắt và ôxít
mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỷ 15 thợ gốm
Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại
men này được chế từ đá đỏ (có chứa ôxít côban) đá thối
(chứa ôxít mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men
lam phát màu ở nhiệt độ 1250°C. Đầu thế kỷ 17 người
Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội
(thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương) có màu hồng
nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn.
Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo
men theo phương pháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã
nghiền lọc kỹ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước
Page 15
16. Gốm Bát Tràng
đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và
bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó
chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong
quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận
thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ
hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu "nhỏ tro to
đàn".
Tráng men
Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể
nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem
tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó
trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm
Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp
lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước
khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi
lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi
tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của
xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của
mỗi loại men định tráng nên từng loại xương gốm, nồng
độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm... Kỹ
thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội
men nên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại
gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men
ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình
thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức
tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc,
còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây
là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa
là kỹ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế
hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây.
Sửa hàng men
Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối
trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kỹ từng
Page 16
17. Gốm Bát Tràng
sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi
quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò"
tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là
"sửa hàng men".
Quá trình nung
Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu
quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm.
Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với
người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén
hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù
giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần
nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín
thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của
khâu đốt lò.
Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các
loại lò như lò ếch (hay lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung
gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác,
càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác
hơn.
Lò nung
Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách
phổ biến ở khắp mọi nơi, hiện nay mất hết dấu tích nhưng
qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được
lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét,
bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng
khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang,
vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có
một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc
chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng
cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5
Page 17
18. Gốm Bát Tràng
khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa,
hàng chuột chạy và hàng mặt.
Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục
nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người
ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại.
Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỷ 19. Lò đàn có bầu lò
dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10
bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai
nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10
gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp.
Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói.
Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây
bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng
phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ
bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ
hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném
nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ
đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lò đàn có thể đạt
được 1250–1300°C.
Lò bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Lò bầu
chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng
có khi đến 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông
góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối
với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm
cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây
ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò
tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12°-15°.
Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300°C
Lò hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người
Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò
thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch
chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu
đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều,
Page 18
19. Gốm Bát Tràng
tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào
cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt
độ lò có thể đạt 1250°C.
Lò con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục):
Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm
những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, với
nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt
độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà
thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện
bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn
giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải là những lò
truyền thống của Bát Tràng.
Bao nung
Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch
vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba
lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như
sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng).
Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa
có mầu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung
hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỷ lệ 25–35% đất sét
và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa
đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem
in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột
lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp
xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung
có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả
là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và
cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến
20 lần.
Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen,
thường không cần dùng bao nung.
Nhiên liệu nung
Page 19
20. Gốm Bát Tràng
Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa
để đốt lò, sau đó Bát Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các
loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi phác và củi
bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò
gốm ở Bát Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được
xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi
mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta
đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ
giòi, lỗ đậu vào trong lò.
Ngày xưa dân làng Giang Cao chuyên lo công việc vớt
củi từ dưới sông Hồng mang lên và cưa ra từng đoạn
ngắn để dân làng Nang Dư (Thanh Trì) chuyên lo việc bổ
củi phục vụ cho các lò gốm Bát Tràng. Vì thế mà ở đây
hình thành hai phường là phường Hàng cầu và phường
Bổ củi.
Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính
là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào
trộn kỹ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành
khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người
ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước
nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được
ngay.
Chồng lò
Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được
đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như
thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của
bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian
trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu
nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc
chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng.
Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới
cửa lò, còn đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm
từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa
Page 20
21. Gốm Bát Tràng
kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung
ở ngoài). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu tiên) nơi giành để đốt
nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các
loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được
xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp,
tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình
trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc,
xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao
nung đều được chèn các viên than.
Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi
phường thường gồm 7 người (3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1
thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm
có 1 thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ
bưng bao nung và sản phẩm mộc phục vụ cho cả 3 nhóm
trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao
nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên), nhóm thứ hai có
nhiệm vụ chồng giữa (xếp ba lớp giữa), còn nhóm thứ ba
là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất
trong lò). Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp
những người thợ gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Tây) và
Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chuyên phục vụ chơ các lò
gốm Bát Tràng.
Đốt lò
Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy
trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của
mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa trong
toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày
kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để
sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa
ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì
việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục
ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh
nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng
ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã
Page 21
22. Gốm Bát Tràng
chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản
phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết
định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9-10 bó
củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Trong
phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách
chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới),
bốn người chuyên ném củi bửa qua cấc lỗ giòi (đốt trên).
Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ
xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò
kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1
ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.
Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì
khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc
việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người
thợ đốt lò dù có dầy dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể
làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn
nhất trong khâu kỹ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng
gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa
cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy
hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò
kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài
khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò
được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật
(nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.
Những đặc điểm của gốm Bát Tràng
Căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu
men, đề tài trang trí và đặc biệt nhờ các dòng minh văn,
có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của gốm cổ Bát
Tràng.
Loại hình
Page 22
23. Gốm Bát Tràng
Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ
công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu
truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn
nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng
tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men
khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát
Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men
trắng thường ngả mầu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng
gốm có các dòng men riêng từ loại men xanh rêu cùng
với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có
mầu xám nâu. Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia
loại hình của đồ gốm Bát Tràng như sau:
• Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu
hoa, âu, thạp, ang, bát, chén, khay trà, ấm, điếu, nậm
rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ.
• Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại
chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và
kiếm. Trong đó, chân đèn, lư hương và đỉnh là những sản
phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại vì lẽ
trên nhiều chiếc có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả,
quê quán và năm tháng chế tạo, nhiều chiếc còn ghi khắc
cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó là một nét đặc
biệt trong đồ gốm Bát tràng.
• Đồ trang trí: Bao gồm mô hình nhà, long đình,
các loại tượng như tượng nghê, tượng ngựa, tượng Di
Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng
người ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng.
Trang trí
• Thế kỷ 14–15: Hình thức trang trí trên gốm Bát
Tràng bao gồm các kiểu như khắc chìm, tô men nâu theo
kỹ thuật gốm hoa nâu thời Lý–Trần, kết hợp với chạm
nổi và vẽ men lam. Khoảng thời gian này đánh dấu sự ra
Page 23
24. Gốm Bát Tràng
đời của dòng gốm hoa lam đồng thời xuất hiện những đồ
gốm hoa nâu vẽ theo gốm hoa lam. Đề tài trang trí còn
giới hạn trong các đồ án hoa lá, tiếp nối gốm hoa nâu thời
Trần.
Sư tử-long mã chạm nổi trên gốm thế kỷ 18 (ảnh chụp tại
Bảo tàng lịch sử Việt Nam)
• Thế kỷ 16, cùng với việc xuất hiện những chân
đèn, lư hương có kích thước lớn hơn, kỹ thuật trang trí
chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo.
Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ
cụm mây, ngựa có cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng,
hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thuỷ... Trang trí vẽ men
lam còn giữ được nhịp độ phát triển, nhiều loại văn hình
học và hoa lá còn thấy gần gũi với đồ gốm hoa lam xuất
hiện cùng thời ở Chu Đậu, (Hải Dương).
• Thế kỷ 17, kỹ thuật chạm khắc, đắp nổi trên gốm
Bát Tràng càng tinh tế, cầu kỳ, gần gũi với chạm đá và
gỗ. Đề tài trang trí tiếp nối thế kỷ 16, đồng thời xuất hiện
các đề tài trang trí mới: bộ tứ linh, hổ phù, nghê, hạc ...
Những đề tài chạm nổi, để mộc điển hình khác như bông
cúc hình ôvan, bông hoa 8 cánh, bông cúc tròn, cánh hoa
hình lá đề, cánh sen vuông, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)...
Việc sử dụng men lam kém dần, tuy đề tài trang trí vẽ
tương đồng với chạm nổi. Thế kỷ 17 xuất hiện dòng gốm
men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật như rồng,
tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai. Trong khoảng thời gian này
còn xuất hiện loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là màu
Page 24
25. Gốm Bát Tràng
xanh rêu với các đề tài trang trí độc đáo: hoa sen, chim,
nghê, hình người...
• Thế kỷ 18, trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ
đạo thay thế hẳn trang trí vẽ men lam trên gốm Bát
Tràng. Các kỹ thuật đúc nổi, dán ghép, chạm khắc nổi đã
thích ứng với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám
và men rạn). Đề tài trang trí ngoài bộ tứ linh, rồng, nghê
còn thể hiện các loài cây tượng trưng cho bốn mùa. Ngoài
đề tài sen, trúc, chim và hoa lá còn thấy xuất hiện các loại
văn bát quái, lá lật... Hoa văn đường diềm phát triển
manh các nền gấm, chữ vạn, cánh sen nhọn, hồi văn, sóng
nước...
• Thế kỷ 19, gốm hoa lam Bát Tràng phục hồi và
phát triển phong cách kết hợp sử dụng nhiều loại men vào
trang trí. Bên cạnh các đề tài đã có, Bát Tràng còn xuất
hiện thêm các đề tài du nhập từ nước ngoài theo các điển
tích Trung Quốc như Ngư ông đắc lợi, Tô Vũ chăn dê,
Bát tiên quá Hải, Ngư ông kéo lưới...
Đối với các nhà khảo cổ, các nhà sưu tầm đổ cổ và các
nhà nghiên cứu mỹ thuật, chủ đề rồng thể hiện qua các
thời kỳ được nhiều người quan tâm nhất vì nó có những
sự thay đổi đáng kể. Rồng là đề tài thường được trang trí
trên nhiều loại hình, đặc biệt trên chân đèn và lư hương.
• Thế kỷ 16, rồng được đắp nổi hoặc để mộc như
trên đồ gốm thời Nguyên (Trung Quốc) hay vẽ men lam,
rồng có đôi cánh mọc ra từ chân trước, cong như cánh
bướm. Rồng cùng với phượng mở ra cấu trúc trang trí
rồng bay phượng múa.
• Đầu thế kỷ 17, rồng vẫn giữ nhiều nét tương đồng
rồng thế kỷ 16, nhưng sau đó được cách điệu với 4 khúc
không đều nhau, mở ra một kiểu rồng mới, khác lạ. Rồng
bố cục theo chiều ngang, dáng rồng ngắn, thân uốn hình
Page 25
26. Gốm Bát Tràng
cánh cung, tay trước nắm râu. Rồng chạm nổi trong hình
khánh hay thấu kính có thân nhỏ và đều có những dải
mấy lửa kiểu đao mác. Nửa sau thế kỷ 17 lại xuất hiện
dáng rồng gần gũi với rồng điêu khắc trên gỗ. Đuôi rồng
từ bên trái trườn qua bên phải, đầu quay vào giữa. Mặt
rồng tả chính diện, tay trước nắm râu. Xung quanh rồng
có nhiều dải mây nổi vẽ men lam. Một kiểu rồng nữa
được thể hiện trên lư hương, đế nghê, mô hình nhà là
rồng nổi, đuôi vút lên trên, hai chân trước chống, đầu uốn
lên, bố cục trong hình chữ nhật.
• Thế kỷ 18, rồng thân dài, đắp nổi theo dạng phù
điêu, đầu nghiêng, hai mắt lồi, sừng và râu cong, bờm
gáy dày, vây cá nhọn, vảy rắn, xung quanh rồng có những
dải mây nổi hình 3 ngọn lửa. Sau đó, rồng ổ xuất hiện bao
gồm một rồng mẹ và 6 rồng con, xen kẽ các dải mây hình
khánh. Rồng được thể hiện trên bình con voi, lư hương
hoặc trên bao kiếm thờ...Với rồng đắp nổi, chỉ thể hiện
đầu rồng chính diện, hai chân trước dang rộng, lộ mũi
hẹp, mắt lồi, miệng ngậm vòng tròn hay chữ Thọ kiểu
triện còn được thể hiện trên những chiếc đỉnh.
• Thế kỷ 19, rồng lại được thể hiện theo phong cách
tượng tròn với thân ngắn, mình tròn, đầu rồng có miệng
rộng, mũi cao, vây cá, vảy tròn và được trang trí theo
kiểu đắp nổi hoặc vẽ men lam trên đỉnh gốm hoặc trên
bình men rạn vẽ nhiều màu. Ngoài ra, còn có đầu rồng
với mặt nhìn chính diện, hai chân xoè ngang năm hai dải
mây, miệng ngậm vòng...
Page 26
27. Gốm Bát Tràng
Minh văn trên gốm: Bát Tràng xã, Đỗ Xuân Vi tạo
Các dòng men
Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng được thể hiện
qua mỗi thời kỳ khác nhau để tạo nên những sản phẩm
đặc trưng khác nhau: men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát
Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến đen sẫm;
men nâu thể hiện theo phong cách truyền thống và được
vẽ theo kỹ thuật men lam; men trắng ngà sử dụng trên
nhiều loại hình đồ gốm từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, men
này mỏng, màu vàng ngà, bóng thích hợp với các trang trí
nổi tỉ mỉ; men xanh rêu được dùng kết hợp với men trắng
ngà và nâu tạo ra một đòng Tam thái rất riêng của Bát
Tràng ở thế kỷ 16–17 và men rạn là dòng men chỉ xuất
hiện tại Bát Tràng từ cuối thế kỷ 16 và phát triển liên tục
qua các thế kỷ 17–19.
Men lam
Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ
thế kỷ 14. Men lam là men gốm được cộng thêm với gốc
màu là ôxít côban. Thợ Bát Tràng sử dụng men lam đồng
thời với kỹ thuật dùng bút lông làm công cụ vẽ trên đồ
Page 27
28. Gốm Bát Tràng
gốm. Men lam không để để trần như men nâu mà bao giờ
cũng được phủ lớp men mầu trắng bóng, có độ thuỷ tinh
hoá cao sau khi nung. Men lam có sắc độ từ xanh chì đến
xanh sẫm. Bên cạnh điểm tương đồng với các loại bình
gốm hoa lam sản xuất ở lò Chu Đậu (Hải Dương), gốm
hoa lam Bát Tràng ngay ở thời kỳ đầu đã có những nét
riêng về dáng và về hoạ tiết trang trí. Những bát, âu, lọ,
chân đèn gốm hoa lam của Bát Tràng thế kỷ 14–15 có nét
chung dễ nhận là lối vẽ phóng bút, dù là vẽ phong cảnh,
hoa dây lá hay vẽ rồng.
Gốm hoa lam Bát Tràng thế kỷ 16, có sắc xanh đen. Men
lam dùng để vẽ mây kết hợp với trang trí hình rồng nổi để
mộc, vẽ cánh sen, các băng đường diềm các cặp chân đèn
ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng,
hoa dây và cánh sen của chân đèn và lư hương.
Thế kỷ 17 là một thời kỳ men lam kém phát triển tại Bát
Tràng. Trên một số các chân đèn, lư hương, hũ, tượng
gốm Bát Tràng (thế kỷ 17) hiện còn, lớp men vẽ trang trí
màu nâu ở những chỗ men phủ màu trắng ngà rạn bị bong
tróc, chỗ còn men phủ, màu nâu có sắc xanh chì, đặc biệt
là chân đèn và lư hương, các hình vẽ men lam kém chau
chuốt và tình trạng khá phổ biến men lam chảy nhoè,
không nhận ra các họa tiết. Trong khi đó khắc chạm nổi,
để mộc rất tỷ mỉ, đạt tới đỉnh cao.
Cuối thế kỷ 18, trong đỉnh cao về men rạn, Bát Tràng
xuất hiện lối kết hợp trang trí nổi với vẽ lam như trên
chân đèn, men lam được khôi phục trở lại trên đồ gốm
Bát Tràng.
Thế kỷ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình,
lọ, bát hương, nậm rượn phủ men rạn trắng ngà hoặc đỉnh
gốm, bình gốm men nhiều màu. Nét biểu hiện đặc trưng
của men lam gốm Bát Tràng là sắc màu và lối vẽ, nhìn
chung có sắc trầm. Dùng men lam vẽ phong cảnh sơn
Page 28
29. Gốm Bát Tràng
thủy, nhà cửa, lâu đài, nhân vật khá thành công trên bình.
Men lam có sắc tươi dùng tô vẽ trang trí nồi trên đỉnh có
thể là một trong số những tiêu bản gốm hoa lam đẹp nhất
của gốm Bát Tràng ở cuối thế kỷ 19.
Trong xu hướng ảnh hưởng kiểu dáng, đề tài và cạnh
tranh thị trường với gốm sứ Trung Quốc, đồ gốm Bát
Tràng ở thế kỷ 19 còn có nhiều trường hợp dùng nhiều
màu men. Chẳng hạn, để thể hiện đê tài Bát Tiên quá hải
người thợ Bát Tràng dùng men nâu và men lam tô lên các
hình trang trí nồi sau đó phủ men trắng rạn. Men lam
cùng với men trắng vẽ các đề tài mã liễu, tiêu tượng, tùng
lộc trên lư gốm men nâu, men lam vẽ cành liễu, khóm
lan, bụi cỏ trong bức tranh nổi Tô Vũ chăn dê, men lam
cùng với men nâu sắc sẫm và nhạt tạo nên chiếc đỉnh
gốm men nhiều màu đồ sộ. Đó cũng là bằng chứng sinh
động về bàn tay tài khéo của nhiều đời thợ gốm Bát
Tràng được kế thừa và không ngừng tiến triển.
Men nâu
Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng
là men nâu, sắc độ màu của men phụ thuộc nhiều vào
xương gốm (xương gốm Bát tràng dày và thường có mầu
nâu xám). Trên các đồ gốm có niên đại thế kỷ 14 đầu thế
kỷ 15, men nâu được dùng tô lên các đồ án trang trí kết
hợp với men nền mầu trắng ngà bao gồm chân đèn, thạp,
chậu, âu, đĩa...Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu
bã trầu (chocolate), men này không bóng, trên bề mặt
men thường có vết sần. Men nâu còn được dùng phủ toàn
bộ rồi cạo bỏ phần men tạo thành đồ án hoa văn mộc. Thế
kỷ 14, thợ gốm Bát Tràng đã biết hạn chế sự ảnh hưởng
màu men nâu do mộc bằng cách vẽ men nâu trên lớp men
trắng ngà để chuyển men nâu đỏ sang vàng nâu.
Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mâu thế
kỷ 16–17, men nâu được dùng xen lẫn với men xanh rêu,
Page 29
30. Gốm Bát Tràng
men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu giữ vị trí
các đường chỉ chia băng, tô lên hoa sen hoặc các hình
rồng, đối với lư hương chữ nhật men nâu tô lên phần
chân đế...
Các đồ gốm thế kỷ 18 tiếp tục sử dụng men nâu nhiều
theo cách thức cổ truyền, một số nghệ nhân tìm tòi phát
huy thêm để làm phong phú màu men này, đặc biệt trên
cặp tượng hổ chế tạo khoảng năm 1740, men nâu dưới
lớp men rạn tạo nên bộ da hổ có màu sắc đa dạng hơn.
Thế kỷ 19, men nâu dùng làm nền cho các trang trí men
trắng và xanh. Những bình, lọ men rạn ngà, thể hiện đề
tài trang trí: Ngư ông đắc lợi, tùng hạc, Tô Vũ chăn dê,
Bát tiên quá hải... men nâu dùng để tô trên những thân
cây tùng, cây liễu hoặc điểm thêm vào các dải mây, tà áo
của Bát tiên. Thế kỷ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu đã
chuyển sắc thành một loại men bóng (thường gọi là men
da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới tận ngày
nay.
Men trắng (ngà)
Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng
ngà, bóng khi nhiệt độ nung đạt độ cao nhưng cũng nhiều
trường hợp có màu trắng xám, trắng sữa, đục. Cùng với
kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên một
nét riêng biệt của đồ gốm Bát Tràng. Men trắng ngà đã
thấy sử dụng phủ lên trang trí men lam hay men nâu,
nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng chỉ thấy dùng
men trắng ngà.
Gốm Bát Tràng thế kỷ 17 đạt đỉnh cao trong kỹ thuật
trang trí nổi với hầu hết các thủ pháp kỹ thuật chạm trổ,
dán ghép. Men trắng ngà được sử dụng trên các lư hương
để phủ trên các rìa, ước và đường viền ngoài phần trang
trí nổi, rất ít khi phủ lên hình trang trí. Vì men trắng
Page 30
31. Gốm Bát Tràng
mỏng, xương gốm được lọc luyện kỹ và độ nung cao nên
có chất lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên
trang trí nổi dầy vẫn có vết rạn men.
Thế kỷ 18, men trắng ngà còn thấy sử dụng trên một số
loại hình khác nhau cùng trang trí nổi để mộc. Những lư
hương tròn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt, phần
còn lại phủ men trắng ngà.
Vào thế kỷ 19, gốm Bát Tràng chưa mất hẳn kiểu trang trí
nổi để mộc, men ngà còn thấy sử dụng trên các loại bình,
lọ, lư hương, tượng tròn. Bình gốm có nắp có các hình
rồng mây và lục bảo trang trí nổi để mộc, phần còn lại
phủ men trắng ngà. Trên các loại bình, lư hương quai
tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân rắn,
tượng rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật
Bà Quan Âm ngồi trên toà sen đều thấy sử dụng men ngà,
xám.
Men xanh rêu
Thế kỷ 14–19 men xanh rêu được dùng khá nổi trội cùng
với men trắng ngà và nâu. Men xanh rêu, men ngà và nâu
tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát Tràng thế kỷ 16–
17. Trên chân đèn men xanh rêu tô lên những bông sen
nổi, băng hoa tròn của dải cánh sen các bông hoa tròn
hình bánh xe, các hình rồng, các bông hoa nổi đường
diềm quanh vai.
Men xanh rêu còn dùng vẽ mây, tô lên nhiều góc mảng
diềm, đế và các cột dọc của long đình; men rêu sắc sẫm ở
các cột vuông mô hình nhà 2 tầng hay một số mảng
đường diềm lư hương chữ nhật. Men xanh rêu, sắc nhạt,
trên chân đèn, đế nghê. Trên lư hương tròn men xanh rêu
thấy điểm vào 4 hình chữ S nổi giữa thân và chân cùng
một đôi chỗ trên bụng. Men xanh rêu sắc sẫm còn thấy tô
Page 31
32. Gốm Bát Tràng
trên một số mảng trang trí nổi, hình nghê của lư tròn và
trên diềm trang trí nổi chân trước tượng nghê.
Men xanh rêu, dù ở các sắc độ khác nhau nhưng sự xuất
hiện của nó mang ý nghĩa rất lớn vì chỉ thấy trên đồ gốm
Bát Tràng thế kỷ 16–17 và có thể xem đây là một dữ kiện
đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát
Tràng trên nhiều loại hình khác nhau.
Men rạn
Bình gốm Bát Tràng, men rạn, thế kỷ 19, vẽ nhiều màu
Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về
độ co giữa xương gốm và men. Cho đến nay các tài liệu
gốm men cổ ở Việt Nam xác nhận mang men rạn chỉ
được sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỷ
16 và kéo dài tới đầu thế kỷ 20.
Lư hương khắc minh văn, do gia đình Đỗ Phủ sản xuất
vào cuối thế kỷ 16 thể hiện lớp men rạn trên 2 phần dưới
của lư hương tròn có thể xem là tiêu bản gốm men rạn
sớm nhất. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc
và ngang chia ra nhiều hình tam giác, tứ giác.
Cặp chân đèn do "Đỗ phủ xã Bát Tràng" tạo tạo khoảng
năm 1600–1618, trong đó men rạn phủ toàn bộ từ miệng
tới chân, có màu vàng ngà, rạn trong men, đường chỉ rạn
màu đen. Những cặp hiện vật men rạn này rêu có trang trí
nổi, ngoài men rạn ra không còn loại men nào khác, đó là
Page 32
33. Gốm Bát Tràng
những tiêu bản men rạn chuẩn mực của Bát Tràng vào thế
kỷ 17.
Thế kỷ 18 Bát Tràng còn sản xuất nhiều đồ gốm men rạn
có ghi niên đại. Đỉnh gốm men rạn chế tạo năm 1736,
men rạn có màu trắng xám. Một đỉnh gốm men rạn khác,
có nắp, thân và đế, chế tạo vào khoảng năm 1740–1768
lại dùng men rạn có màu vàng ngà... Men rạn còn được
sù dụng trên các loại hình: chân nến trúc hoá long; ấm có
nắp, đài thờ các nắp, cặp tượng nghê.
Thế kỷ 19, các đồ gốm dòng men rạn còn tiếp tục phát
triển, bên cạnh việc sử dụng kết hợp men rạn với trang trí
vẽ lam. Trên các đồ gốm, thợ Bát Tràng còn đắp nổi,
khắc chìm hoặc không trang trí, men rạn có mầu trắng
xám.
Minh văn trên gốm: Thuận an phủ, Gia Lâm huyện, Bát
Tràng xã, sinh đồ Vũ Xuân tạo tác
Minh văn
Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện
bằng khắc chìm hay viết bằng men lam dưới men trắng.
Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên quê
quán tác giả chế tạo cùng họ tên, có khi là cả chức tước
của người đặt hàng.
Thế kỷ 15, một minh văn khắc trên phần dưới chân đèn
có ghi: Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã tín
thí Hoàng Li tỉnh thê Nguyễn Thị Bảo. Trên đai tô nâu
giũa phần dưới chân đèn có viết bằng men 6 chữ Hán:
Page 33
34. Gốm Bát Tràng
Thời Trung xã, Hoàng Phúc tạo. Hoặc cặp phần dưới
chân đèn minh văn cho biết: Tác giả: Vũ Ngộ Trên, Bùi
Thị Đỗ, Hoàng Thị Vệ, Bùi Huệ, và Trần Thị Ngọ; Thời
gian chế tạo: niên hiệu Diên Thành. Có minh văn ghi rõ
người đặt hàng như cặp chân đèn hai phần: Người đặt
hàng: Lê Thị Lộc, ở Vân Hoạch, Xuân Canh huyện Đông
Ngạn. Thời gian chế tạo: Năm Diên Thành thứ 2. Một
cặp chân đèn khác có khắc minh văn dài, một bên khắc 3
dòng và một bên 14 dòng, cho biết: Tác giả: Bùi Huệ và
Bùi Thị Đỗ; thời gian chế tạo: ngày 25 tháng 11 năm
Diên Thành thứ 3; những người đặt hàng: gia đình họ
Lưu cùng họ Nguyễn, Lê, Đinh... Trong đớ, họ Lưu, tước
Ninh Dương Bá, làm việc ở Thanh Tây vệ, Ty Đô chỉ huy
sứ, Đô chỉ huy kiểm sự. Quê quán nhà họ Lưu: xã Lai Xá,
huyện Đan Phượng, Phủ Quốc Oai...
Và còn rất nhiều sản phẩm có ghi minh văn, những sản
phẩm này một số đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam, một số tại các bảo tàng nước ngoài, một số
hiện được sở hữu bởi các nhà sưu tầm đồ cổ, một số lưu
lạc trong dân gian và một số còn chìm sâu trong lòng đất.
Tham khảo
• Gốm Bát Tràng thế kỷ 14–19. Phan Huy Lê,
Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc
HẾT
Page 34