1. LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU BA NGÔI
ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc
I. BA NGÔI THIÊN CHÚA TRONG PHỤNG VỤ NHỮNG THẾ KỶ ĐẦU
Niềm tin của Dân Thiên Chúa khai sinh trong môi trường phụng vụ. Vậy muốn
biết rõ nội dung của niềm tin, cần phải trở về với phụng vụ của Giáo Hội trong
những thế kỷ đầu :
A. ĐỨC TIN PHÉP RỬA
1. Phụng vụ phép Rửa
Theo đa số các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, mệnh lệnh truyền giáo phổ
quát của Đức Kitô phục sinh trong Phúc âm Mt 28,19-20 là một công thức rửa tội
phát xuất từ môi trường phụng vụ : "Các ngươi hãy đi thâu nạp môn đệ khắp
muôn dân, thanh tẩy chúng nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần".
Quả thực, công thức này có ở trong những bản văn phụng vụ rất cựu trào :
"Sau khi dạy dỗ tất cả những điều cần thiết, hãy rửa tội trong dòng nước chảy,
nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nếu không có dòng
nước chảy, hãy làm phép rửa trong thứ nước khác. Nếu không thể rửa trong
nước lạnh, hãy dùng nước nóng. Nếu không có dòng nước hãy dội nước trên đầu
ba lần nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (R4. Didachè
c.7)
40 năm sau, bản văn của thánh Justinô mô tả phép Rửa tội tỉ mỉ hơn, nhưng vẫn
có cùng một cấu trúc nòng cốt :
2. "Ai được chịu phép Rửa tội, được dẫn đến nơi có nước, và ở đó họ được tái sinh
cũng như chúng ta đã được tái sinh. Họ được rửa trong nước nhân Danh Thiên
Chúa và là Chúa mọi loài, nhân Danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta,
và nhân Danh Chúa Thánh Thần" (I Apologia 61,3 ; R 126).
30 năm sau Justinô, giáo phụ Irênê trình bày và giải thích nghi thức Rửa tội,
cũng theo cùng một cơ cấu, mặc dù có kèm thêm những lời diễn giảng đầy đủ và
phong phú hơn :
"Đây là điều mà đức tin khẳng định, như các trưởng lão, môn đệ của các Tông
đồ, đã truyền lại cho chúng ta : trước tiên niềm tin ấy bắt chúng ta phải nhớ là
chúng ta đã chịu phép Rửa để được tha tội, nhân Danh Thiên Chúa Cha, nhân
Danh Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chết và đã phục sinh, và
trong Thánh Thần Thiên Chúa.
Khi chúng ta đã được tái sinh bởi phép Rửa nhân Danh Ba Ngôi Vị ấy, chúng ta
nhận được trong lúc tái sinh, những kho tàng có nơi Thiên Chúa, nhờ Chúa Con
với Chúa Thánh Thần. Những ai chịu phép Rửa nhận lãnh Thánh Thần Thiên
Chúa ; Thánh Thần dâng hiến họ cho Ngôi Lời hay Chúa Con và Chúa Con dâng
họ cho Chúa Cha để Chúa Cha ban cho họ Ơn hằng sống. Nếu không có Thánh
Thần, không thể nhìn thấy Ngôi Lời Thiên Chúa ; không có Chúa Con, không thể
đến cùng Chúa Cha. Tri thức Cha, chính là Con và chỉ biết được Con nhờ Thánh
Thần, tùy như sở thích tốt lành của Chúa Cha cho những ai Chúa Cha muốn và
theo thể thức Chúa Cha muốn" (Démonstration de la prédication apostolique c.3)
Trong giai đoạn tranh luận gắt gao về tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, công thức và
nghi lễ Rửa tội trở thành lý lẽ vững chắc chống lại các bè rối :
"Nếu những người theo Ariô có lý, nếu Con và Thánh Thần chỉ là tạo vật, chúng
ta đã được thánh hiến trong phép Rửa tội cho một Đấng Tạo hóa và hai tạo vật,
chúng ta dấn thân đức tin của chúng ta, dâng lời cầu nguyện của chúng ta cho
3. Thiên Chúa và hai tạo vật" (Athanasiô, Orat. Cont. ar, II, 41 ; Grêgôriô Nazian or.
37,18 ; Grêgôriô Nysse, Orat. Catech. 39).
Lý lẽ này vững chắc nhất, vì công thức và nghi lễ Rửa tội không phát sinh từ một
tranh luận nào, nhưng có trước mọi tranh luận ; và ngay cả các bè rối cũng dùng.
Những người theo lạc thuyết của Marcion thường rửa tội với công thức sau đây
mà thánh Irênê đã ghi lại :
"Họ rửa tội, nhân Danh Vị Cha Vô Hình của vũ trụ, nhân Danh Công Lý, Mẹ của
các hữu thể, và nhân Danh Đấng đã ngự xuống trên Đức Giêsu" (Adversus
Haereses 1,21)
1. Tuyên tín trong phép Rửa
Trong bí tích thanh tẩy, có một yếu tố rất quan trọng về phương diện đức tin, đó
là lời tuyên tín.
Ở đây, xin ghi lại một vài đoạn tuyên tín phép Rửa trích từ các tác phẩm có giá trị
truyền thống và lịch sử trong Giáo Hội :
"Khi được hỏi : ngươi có tin Thiên Chúa là Cha Toàn Năng không ? ngươi trả lời :
tôi tin, và ngươi được nhận xuống, nghĩa là được mai táng. Rồi ngươi lại được hỏi
: ngươi có tin Đức Giêsu Kitô và Thập Giá của Người không ? ngươi trả lời : tôi
tin, ngươi lại được nhận xuống lần nữa, và ngươi được cùng mai táng với Chúa
Kitô, và ai chết với Chúa Kitô, sẽ được sống lại với Người. Được hỏi lần thứ ba :
ngươi có tin Chúa Thánh Thần không ? ngươi đáp : có, và ngươi được nhận
xuống lần thứ ba ; như thế mọi tội lỗi ngươi đã phạm đều được tha vì ba lần
tuyên xưng này" (De Sacramentis II,7 ; Pl, XVI, 429).
"Anh có tin hết lòng Thiên Chúa là Cha Toàn Năng và là Đấng tạo dựng muôn
vật hữu hình và vô hình không ? Palmatius trả lời : tôi tin - Anh có tin Đức Giêsu
Kitô Con Thiên Chúa không ? Palmatius đáp : tôi tin - Anh có tin Người là Đấng
được sinh ra bởi quyền năng Thánh Thần và trong lòng Đức Trinh Nữ không ?
4. Thưa có - Anh có tin Chúa Thánh Thần, Hội Thánh công giáo, phép tha tội và sự
sống lại không ? Palmatius òa lên khóc và nói : thưa ngài, tôi tin" (Martyrium
sancti Callixti papae et sociorum ejus, cité par Hahn, Bibliotek der Symbole, p.
34, n. 30).
Nghi thức Rửa tội và việc tuyên xưng đức tin là hai yếu tố không thể tách rời
trong phép Rửa ; cả hai phần đều nói lên niềm tin chắc chắn nhất của Giáo Hội
những thế kỷ đầu vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Biến chuyển của lời tuyên tín phép Rửa
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội đòi hỏi những ai sắp chịu phép Rửa tội phải
tuyên xưng đức tin :
"Philip nói : Nếu Ngài tin hết lòng, thì được phép. Ông ấy đáp : Tôi tin Đức Giêsu
Kitô là Con Thiên Chúa. Rồi ông ra lệnh cho xe dừng lại, và cả hai cùng xuống
nước, Philip và viên hoạn quan. Và Philip đã ban phép thanh tẩy cho ông" (Cv
8,37-38).
"Nếu ngươi tuyên xưng nơi miệng ngươi : Giêsu là Chúa ! Và nếu ngươi tin trong
lòng ngươi : Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết ! ngươi sẽ được cứu "
(Rm 10,8).
Trong một số các lời tuyên tín mà Tân Ước trích dẫn, cấu trúc "Ba Ngôi" chưa
rõ nét. Chỉ bắt đầu với Clêmentê thành Rôma, cấu trúc này mới được rõ ràng :
"Chúc tụng Thiên Chúa, Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô và Thánh Linh, đối tượng
đức tin và niềm hy vọng của những người được tuyển chọn" (1 Cr 58,2).
Một số nhà chuyên môn về lịch sử tín điều cho rằng "công thức Kitô" (formule
christologique) có trước "công thức Ba Ngôi" (formule trinitaire). Nhưng cũng có
người chủ trương rằng : ngay từ đầu, đã có hai loại công thức tuyên tín : một
đàng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha toàn năng, Con Duy Nhất của Ngài, và
5. Thánh Thần Thiên Chúa ; đàng kia tuyên xưng các mầu nhiệm Kitô như "nhập
thể, tử nạn, phục sinh.", dần dần hai cách tuyên xưng ấy dung hòa với nhau và
Ki-tô-học được lồng trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Với thánh Justinô, hai loại công thức này mới gặp gỡ nhau, chưa dung hợp hoàn
toàn. Trong các công thức Ba Ngôi, điều khoản thứ hai được nối dài hơn, và nhờ
đó, đã có một Ki-tô-học tiềm tàng : ". nhân Danh Đức Giêsu Kitô, đã chịu đóng
đinh dưới thời Pontiô Pilatô." (1 Apol. 61). Ngược lại, các công thức Kitô cũng bắt
đầu mang sắc thái Ba Ngôi : ". chúng ta nói rằng Ngôi Lời, Trưởng Tử của Thiên
Chúa, Đức Giêsu Kitô, Vị Thầy của chúng ta, đã được sinh ra mà không cần
hành vi nhục thể, đã chịu đóng đinh, đã chịu chết." (1 Apol. 21).
Với thánh Irênê, sự dung hợp hoàn hảo và tự nhiên hơn :
" Người ta cầu khản Danh Thiên Chúa Cha trtên những ai muốn được tái sinh. và
Danh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh dưới thời Pontiô Philatô. và Danh Chúa
Thánh Thần , đấng đã tiên báo, nhờ các ngôn sứ, cuộc đời của Đức Giêsu Kitô ."
( Adv. Haereses I, 10,1 )
Trong cuộc chiến của Irênê chống lại các lạc thuyết, lời tuyên tín Phép Rửa được
coi như " quy luật đức tin không thay đổi " :
" đây là giáo huấn đức tin, nền tảng của tòa nha và căn bản của ơn cứu độ
chúng ta :
- Điều thứ nhất : Thiên Chúa là Cha, không được tạo thành, không được sinh ra,
là Đấng Vô Hình, là Thiên Chúa Duy Nhất.
- Điều thứ hai : Ngôi Lời Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta, đã hiện ra với các ngôn sứ dưới nhiều hình dạng được các sấm ngôn
mô tả. Ngài đã làm người, sinh bởi con người, đã trở thành hữu hình và sờ mó
được. để phá tan sự chết và tỏ bày sự sống lại. ; để đưa tới sự hiệp thông giữa
Thiên Chúa và loài người.
6. - Điều thứ ba : Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã phán qua các ngôn sứ, đã dạy
dỗ cha ông chúng ta những mầu nhiệm thần thiêng, và đã dẫn đưa những người
công chính đi trên con đường ngay thẳng. ; Ngài được đổ xuống trên nhân loại,
khi thời sung mãn đến, lúc Thiên Chúa đổi mới con người trên khắp mặt đất"
(Démonstration, c. 6).
Bản văn trên của Irênê không ghi lại từng chữ Tuyên tín phép Rửa, nhưng chú
giải vắn tắt và gồm ba phần rõ rệt :
- Phần thứ I về Chúa Cha,
- Phần thứ II về Chúa Con,
- Phần thứ III về Chúa Thánh Thần.
Do đó có thể dễ dàng nhận ra cơ cấu của "Lời Tuyên tín phép Rửa". Lời tuyên tín
này khai triển công thức rửa tội mà Giáo Hội vẫn dùng cho đến ngày hôm nay ;
quả thực đó là quy luật đức tin :
"Hỡi bạn, đó là lời rao giảng chân lý và là quy luật cứu độ, đó là con đường dẫn
tới sự sống mà các ngôn sứ đã loan báo, Đức Kitô đã thiết lập, các Tông đồ đã
truyền lại, và Giáo Hội cống hiến cho con cái mình khắp nơi" (Démonstration, c.
98).
Các lạc thuyết thường đi ngược lại một trong ba điều khoản đó của đức tin :
"Lạc giáo đã xa lìa chân lý trong ba điều khoản chính yếu của phép Rửa tội.
Hoặc họ coi thường Chúa Cha, hoặc họ không chấp nhận Chúa Con khi chống
lại nhiệm cục nhập thể và cứu độ, hoặc họ không nhận có Thánh Thần, nghĩa là
coi thường lời ngôn sứ" (Démonstration, c. 100).
Giáo huấn của Irênê không phải là những lý luận thần học của riêng ông, nhưng
là giáo lý tông truyền, là tín điều vững chắc chống lại các bè rối :
7. "Giáo Hội, dù rải rác khắp nơi trên thế giới đến tận cùng trái đất, đã nhận lãnh từ
các Tông đồ niềm tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất, Đấng tạo thành trời đất,
biển khơi và mọi tạo vật : một Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, đã nhập thể để
cứu độ chúng ta ; một Thánh Thần đã loan báo, nhờ các ngôn sứ, chương trình
cứu độ và các biến cố Giáng Sinh, Khổ Nạn, Phục Sinh, Lên Trời và Quang Lâm
của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Từ trời, Đức Kitô sẽ xuất hiện bên hữu Chúa
Cha, để tái tạo mọi sự và làm cho xác thể loài người sống lại, để mọi đầu gối
phải bái quỳ, trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục.
Đó là giáo lý mà Giáo Hội đã lãnh nhận, đó là đức tin phổ quát ; và dù Giáo Hội
rải rác khắp năm châu, Giáo Hội vẫn cố gắng gìn giữ kỹ lưỡng như ở trong cùng
một nhà ; Giáo Hội nhất trí tin như vậy, ví dường như có cùng một linh hồn, một
con tim. Đồng một lòng Giáo Hội rao giảng, dạy dỗ và lưu truyền đức tin đó, như
một miệng lưỡi duy nhất. Dĩ nhiên các ngôn sứ trên thế giới có khác nhau, nhưng
sức mạnh và truyền thống là một và đồng nhất.
Giống như mặt trời, khắp nơi cũng là một, sự rao giảng chân lý chói sáng mọi nơi
và soi sáng mọi người muốn nhận biết chân lý" (Adversus Haereses I, 10,2).
Đối diện với lạc giáo chia rẽ thành năm bè bảy mối, Giáo Hội chỉ cần nhắc lại
một quy luật duy nhất. Đó là quy luật chân lý nhận lãnh trong phép Rửa.
Người bảo đảm cho quy luật ấy, chính là Con Thiên Chúa, Nguồn gốc của mọi
truyền thống ; là các Tông đồ và các giám mục liên tiếp kế vị các ngài.
Chứng từ của Hyppolite trong tác phẩm "TRUYỀN THỐNG TÔNG ĐỔ" (Traditio
Apostolica) cũng quan trọng không kém chứng từ của Irênê và cần ghi lại để làm
nổi bật niềm tin của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu :
". Chủ sự đặt tay trên đầu thụ nhân và làm phép Rửa lần thứ nhất. Sau đó người
nói : ngươi có tin Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, sinh bởi Thánh Thần và Trinh
Nữ Maria, chịu đóng đinh thời Pontio Pilatô, chịu chết và chịu táng xác, ngày thứ
8. ba sống lại từ cõi chết, lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, sẽ trở lại phán xét kẻ
sống và người chết không ? Thụ nhân trả lời : tôi tin ; và lại được rửa lần thứ hai.
Chủ sự hỏi lần nữa : ngươi có tin Thánh Thần, Giáo Hội và xác thể ngày sau
sống lại không ? Thụ nhân đáp : tôi tin ; và như thế lại được rửa lần thứ ba" (Le
è
symbole romain au II siècle. Revue bénédictime, 1927).
Đoạn trích dẫn chứng từ của Hyppolite thiếu mất phần đầu, nhưng cũng có thể
sắp đặt lại, và nhờ đó, chúng ta có được cấu trúc chính yếu của "Kinh Tuyên tín
Tông đồ" (Symbole des apôtres) :
"Ngươi có tin Thiên Chúa là Cha Toàn năng không ?
Ngươi có tin Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa,
sinh bởi Thánh Thần và từ cung lòng Trinh Nữ Maria,
chịu đóng đinh thời Pontiô Pilatô, chịu chết và chịu táng xác,
ngày thứ ba sống lại từ trong kẻ chết,
lên trời ngự bên hữu Chúa Cha
và sẽ trở lại phán xét kẻ sống và kẻ chết ?
Ngươi có tin Chúa Thánh Thần,
Giáo Hội thánh thiện và sự phục sinh thân xác không ?"
Tertullien coi lời tuyên tín phép Rửa và nghi thức Rửa tội như hai yếu tố gắn liền
nhau, tạo thành một toàn bộ mà ông gọi là "Bí tích Đức Tin" (Sacramentum fidei).
Lời tuyên tín đôi khi cũng được gọi là "Bí Tích" (sacramentum), hoặc để nhắc lại
liên hệ với phép Rửa, hoặc để tuyên thệ giống như lời thề thánh hiến người ki-tô-
hữu gia nhập vào đạo binh của Chúa Kitô.
9. Tertullien dùng ngôn từ rất mạnh mẽ để làm nổi bật tầm quan trọng của "quy luật
đức tin" : "Adversus regulam nihil scire omnia scire est" (không biết điều gì ngược
lại quy luật đức tin là biết tất cả - De praescr. 14).
Tóm lại, so với vai trò của Kinh Tin Kính Nicée-Contanstinople trong thời gian
tranh luận vào thế kỷ IV, chỗ đứng của lời Tuyên tín phép Rửa trong Giáo Hội sơ
khai còn quan trọng hơn. Không những đối với từng ki-tô-hữu, mà còn đối với
toàn thể Giáo Hội, lời Tuyên tín phép Rửa là kho tàng quý giá nhất, là diễn từ
chính xác nhất về mầu nhiệm đức tin, và do đó đã trở thành quy luật, tiêu chuẩn
để phê phán cá nhân ki-tô-hữu hay các cộng đoàn địa phương : ai không ở trong
quy luật ấy, thì không còn ở trong đức tin của Giáo Hội Chúa Kitô.
Nhiều giáo phụ đã làm chứng về sự hiện hữu của lời Tuyên tín phép Rửa vào
những thế kỷ đầu của Giáo Hội, nhưng không ai ghi chép trọn vẹn. Mãi đến thế
kỷ IV mới được chép lại nguyên văn bởi "Rufin thành Aquila", bằng tiếng Latinh,
và "Marcel d?Ancyre" bằng tiếng Hylạp.
A. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội luôn luôn nối kết "Thánh Thể" với "phép Rửa".
Phaolô, trong thư I gửi giáo đoàn Côrintô, đã làm việc này một cách rất tự nhiên
và sâu sắc. Biến cố Xuất hành và đời sống của Dân Chúa trong sa mạc là khởi
điểm cho những suy tư của ông :
"Và tôi không muốn để anh em không hay không biết sự này, hỡi anh em : là cha
ông chúng ta, hết thảy đã ở dưới áng mây, hết thảy đã ngang qua Biển, hết thảy
đã thanh tẩy mình trong Môsê, dưới áng mây, trong lòng biển ; hết thảy đã được
ăn cùng một lương thực thần thiêng ; hết thảy đã được uống cùng một của uống
thần thiêng, quả họ đã uống từ Tảng đá thần thiêng đi theo họ, - Tảng đá ấy là
Đức Kitô - song nơi phần đông trong họ, Thiên Chúa đã chẳng được hài lòng. Vì
họ đã bị phơi thây trong sa mạc". (1 Cr 10,1-5)
10. Bí tích Thánh Thể là Trung tâm điểm của đời sống phượng tự Kitô-giáo. Nhờ việc
cử hành Thánh Thể, người tín hữu được nối kết chặt chẽ với Chúa Kitô, là Thầy,
là Chúa và là Đấng Cứu độ, được chia phần sự sống với Người.
Nếu châm ngôn "lex orandi, lex credendi" (quy tắc cầu nguyện cũng là quy tắc
đức tin) áp dụng chính xác cho phép Rửa tội, thì trong Phụng vụ Thánh Thể, giá
trị của châm ngôn này càng rõ ràng và nổi bật hơn. Phụng vụ Thánh Thể biểu lộ
niềm tin của người ki-tô-hữu ở mức độ cao nhất và đầy đủ nhất.
Những người cử hành phụng vụ Thánh Thể là những người đã chịu phép Rửa ;
điều họ cử hành cũng lặp lại niềm Tin phép Rửa. Nhưng họ được đưa dẫn sâu xa
hơn vào điều họ đã tin, được tham dự trọn vẹn hơn vào các mầu nhiệm của đời
sống đức tin ki-tô-giáo.
Đức tin tuyên xưng trong phụng vụ Thánh Thể khai triển và phát huy niềm tin đã
nhận lãnh trong bí tích Rửa tội. Nếu các công thức tuyên tín trong phép Rửa tội
bày tỏ Niềm tin chắc chắc và phổ quát của Giáo Hội, thì các công thức trong
phụng vụ Thánh Thể càng biểu lộ rõ ràng và đầy đủ hơn nội dung đức tin ki-tô-
giáo.
Nếu đã nhấn mạnh khía cạnh " Tông truyền" của đức tin trong phép Rửa tội, thì
càng phải nhấn mạnh đặc tính này của phụng vụ Thánh Thể. Đoạn tường thuật
việc thành lập phép Thánh Thể trong thư I gửi tín hữu Côrintô đã được Phaolô
nhấn mạnh là phát xuất từ Truyền thống mà chính ông đã nhận lãnh :
"Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh em, là :
Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy Bánh, và tạ ơn xong, Ngài
đã bẻ ra và nói : Này là Mình Ta, vì các ngươi, hãy làm sự này mà nhớ
đến Ta. Cũng vậy, về Chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói : Chén
này là Giao ước mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi
khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh ấy và uống chén ấy,
anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến. Cho nên kẻ ăn Bánh
11. hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, tất sẽ mắc tội đối với Mình và Máu
Chúa". (1 Cr 11,23-27)
Nếu phân tích lịch sử của Lời tuyên tín phép Rửa dẫn đưa chúng ta tới "Kinh Tin
Kính Tông đồ", thì tìm hiểu phụng vụ Thánh Thể cũng giúp ích rất nhiều để tìm
lại Niềm Tin của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu.
1. Chứng từ của sách Didachè
Cũng như trong phần phụng vụ phép Rửa, chứng từ của sách Didachè về
phụng vụ Thánh Thể là một chứng từ quý giá vì rất cổ xưa.
Chương IX và X là những chương phong phú nhất. Vì giá trị của chúng,
chúng tôi xin trích dẫn cả hai chương :
"Khi cử hành lễ Tạ ơn (Eucharistie), hãy cảm tạ thế này :
Trước hết, hãy dâng lời cảm tạ trên chén :
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha,
vì Vườn Nho Thánh thiện của Đavít, tôi tớ Cha
mà Cha đã cho chúng con biết nhờ Đức Giêsu Tôi tớ Cha.
Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Sau đó, hãy dâng lời cảm tạ trên bánh đã bẻ ra :
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha,
vì sự Sống và Tri thức
mà Cha đã cho chúng con nhờ Đức Giêsu Tôi tớ Cha.
12. Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Như chiếc bánh đã bẻ ra, được làm bằng những hạt lúa miến từ các núi
đồi, và được kết hợp lại để trở thành một. Cũng thế, xin Cha hãy quy tụ
Giáo Hội từ các miền xa xăm trên địa cầu, vào trong Vương quốc của
Cha.
Vinh hiển và uy quyền thuộc về Cha mãi mãi đến muôn đời, nhờ Đức
Giêsu Kitô.
Chỉ có những người đã chịu phép Rửa nhân Danh Chúa Kitô mới được ăn
bánh và uống chén, bởi vì chính Chúa đã căn dặn : đừng vất những của
thánh cho chó" (Didachè IX, 1-5)
"Khi đã dùng xong, hãy tạ ơn như sau :
Lạy Cha chí thánh, chúng con cảm tạ Cha
vì Danh chí thánh của Cha
mà Cha đặt để trong tâm hồn chúng con
và vì sự hiểu biết, đức tin và sự bất tử
mà Cha đã ban cho chúng con nhờ Đức Giêsu Tôi tớ của Cha.
Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Chính Cha là Đấng Toàn Năng
đã tạo dựng vũ trụ
vì Vinh quang của Danh Cha.
13. Cha đã cho loài người hưởng dùng của ăn và thức uống để họ cảm tạ
Cha.
Đối với chúng con, Cha đã thương ban của ăn thức uống thiêng liêng và
sự sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Tôi tớ của Cha.
Chúng con cảm tạ Cha trên hết mọi sự, vì Cha là Đấng Quyền năng.
Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến Giáo Hội Chúa, hãy giải thoát Giáo Hội khỏi
mọi sự dữ và hãy kiện toàn Giáo Hội trong đức ái, xin hãy qui tụ Giáo Hội
từ bốn phương vào Vương quốc Ngài đã dọn saün, vì Quyền Năng và
Vinh Quang thuộc về Chúa muôn đời.
Xin Hồng ân Người hãy đến và thế gian này hãy qua đi.
Hoan hô Thiên Chúa của Đavít.
Ai đã trong sạch thì hãy đến
Ai chưa sạch hãy ăn năn đền tội.
Lạy Chúa, xin hãy đến. Amen" (Didachè X, 1-6)
Có nhiều ý kiến khác nhau về ý nghĩa của Lời Tạ Ơn (Eucharistia) được
ghi lại trong các đoạn trích dẫn ở trên. Có người cho rằng đó chính là
phụng vụ Thánh Thể, vì có nhắc tới bánh và rượïu, đến phép Rửa là điều
kiện cần thiết để tham gia bàn Tiệc Thánh Thể. Hơn nữa cung điệu của
Lời Kinh gần giống như Kinh Tiền tụng, và Lời Kinh còn kết thúc bằng viễn
tượng cánh chung.
Nhưng cũng có người nghĩ là không phải. Trong thế giới Do-thái thời Chúa
Kitô, cũng có những bữa ăn thánh thiện, trong đó người ta cảm tạ Thiên
Chúa và đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu. Các bữa ăn đó vẫn tồn tại
14. trong thời gian đầu của Giáo Hội. Hơn thế nữa, sách Didachè sẽ nói tới
phụng vụ Thánh Thể trong chương XIV.
Vì hai lý do này không vững chắc đủ, đa số các nhà chuyên môn theo ý
kiến đầu. Nhưng cũng không ai dám xác định đó là một Kinh nguyện
Thánh Thể như sẽ có sau này vào thế kỷ III.
Điều quan trọng cần lưu ý là chỗ đứng nổi bật của Chúa Cha trong Lời
Kinh cảm tạ.
Lời nguyện luôn luôn hướng về Chúa Cha, vì mọi sự đều là Hồng ân của
Chúa Cha. Cha là Thiên Chúa, là Đấng Tạo dựng vũ trụ. Người ban cho
chúng ta sự Sống, Tri thức ; Người cho chúng ta thuộc về Giáo Hội.
Vai trò Trung Gian của Đức Giêsu, Tôi tớ của Chúa Cha cũng được lặp lại
nhiều lần. Tước hiệu này là một trong những tước hiệu Giáo Hội sơ khai
rất ưa thích.
Chương XIV sách Didachè đề cập trực tiếp đến phụng vụ Thánh Thể ngày
Chúa Nhật, nhưng vắn tắt hơn và không khai triển các ý tưởng nòng cốt về
mầu nhiệm Thiên Chúa :
"Anh chị em hãy tụ họp lại vào ngày của Chúa, hãy bẻ bánh và tạ ơn, sau
khi thú nhận tội lỗi, để lễ tế của các ngươi được tinh tuyền. Ai trong anh
chị em còn bất bình với một người bạn, không nên tham gia với anh chị
em cho tới khi cả hai được giải hòa, để khỏi làm ô uế lễ tế của anh chị em.
Chính Lời của Chúa đã căn dặn : mọi thời và mọi nơi ai ai cũng phải dâng
cho Ta một lễ tế tinh tuyền, vì Ta là Vua vĩ đại, và Danh Ta thật đáng kính
sợ giữa chư dân" (Didachè, XIV, 1-3).
2. Chứng từ của Justinô
15. Xét dưới khía cạnh mô tả hay tường thuật, chứng từ của Justinô quan
trọng hơn sách Didachè.
Chúng ta có thể thấy cơ cấu chính yếu của phụng vụ Thánh Thể trong
những thế kỷ đầu nhờ bài tường thuật khá tỉ mỉ và khách quan của
Justinô. Trong tác phẩm "Hộ Giáo" I, Justinô cố gắng trình bày và giải
thích cho người ngoại đạo nghi thức phượng tự quan trong nhất của Kitô-
giáo :
"Ngày mà người ta gọi là ngày của mặt trời, mọi người ở thành thị và thôn
quê, tụ họp nhau lại trong cùng một nơi. Người ta đọc lại ký sự của các
Tông đồ và tác phẩm của các Ngôn sứ, bao lâu thời giờ cho phép. Sau khi
đọc xong, vị chủ tế lên tiếng dặn dò và khuyến khích người nghe thực
hành những giáo huấn tốt đẹp ấy. Sau đó, chúng tôi đứng dậy và cùng
cầu nguyện lớn tiếng. Và khi cầu nguyện xong, người ta đưa bánh, rượu
và nước tới. Chủ sự ngước mắt lên trời, dâng những lời cầu nguyện và
cảm tạ, theo như sức lực của người cho phép, và toàn dân đáp lại bằng
tiếng tung hô : Amen ! Sau đó, người ta phân phát của ăn đã được hiến
thánh cho mọi người, và nhờ các phó tế đưa tới cho những người vắng
mặt" (Apologia I, c. 67).
Bài tường thuật của Justinô ghi lại những nét chính yếu của phụng vụ
Thánh lễ lúc ban đầu : phụng vụ Lời Chúa, Bải giảng, Lời nguyện giáo
dân, phần dâng lễ, Kinh "Cảm tạ" (Eucharistia), phần rước lễ.
Justinô nối kết chặt chẽ Lễ Tạ ơn với đức tin phép Rửa :
"Chúng tôi gọi thức ăn ấy là "Của lễ Tạ ơn", và không ai có quyền tham
gia ngoài những kẻ tin vào Sự Thật của giáo thuyết chúng tôi, những kẻ
đã chịu phép Rửa tha tội và tái sinh, và sống theo giới răn Chúa Kitô"
(Apologia I, c. 65)
16. Những lời Kinh không được Justinô ghi lại đầy đủ như trong sách Didachè.
Nhưng qua các phần mô tả của Justinô, chúng ta có thể nhận ra nội dung
của lời Kinh, và niềm tin mà lời Kinh ấy diễn tả :
"Mỗi khi dâng lễ, chúng tôi chúc tụng Đấng Tạo dựng vũ trụ nhờ Con của
Người là Đức Giêsu Kitô và nhờ Thánh Thần" (Apologia I, c.67)
Justinô còn giải thích ý nghĩa của ngày Chúa Nhật :
"Chúng tôi họp nhau lại vào ngày mặt trời, bởi vì đó là ngày thứ nhất, ngày
mà Thiên Chúa lôi kéo vật chất ra khỏi bóng tối, tạo dựng nên vũ trụ. Và
đó cũng là ngày mà Đấng Cứu độ chúng ta sống lại từ cõi chết. Hôm
trước ngày Thổ tinh, Người đã chịu đóng đinh, nhưng hôm sau ngày ấy
nghĩa là ngày mặt trời, Người đã hiện ra với các Tông đồ và môn đệ."
(Apologia I, c. 67).
Trong lời giải thích, Justinô nối kết một cách khéo léo Tạo dựng và Cứu
độ, công trình của Chúa Cha và Chúa Con. Vì Cha của vũ trụ, cũng là
Cha của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể.
Mầu nhiệm Phục sinh được cử hành trong phụng vụ Thánh lễ ngày Chúa
Nhật được coi như Đích điểm và Hoàn tất công trình Tạo dựng.
Nói tóm lại, trong lời tường thuật của thánh Justinô về phụng vụ Thánh lễ,
chúng ta thấy được cả cộng đồng Dân Chúa hướng về Chúa Cha để dâng
lời cảm tạ, vì Chúa Cha đã tạo dựng con người, ban cho Hồng Ân tinh
thần và vật chất. Trong khi cử hành Thánh lễ Tạ ơn, Cộng đồng Dân Chúa
tưởng niệm cuộc Tử Nạn - Phục Sinh của Chúa Kitô.
Vai trò Trung gian của Đức Kitô cũng được đề cập đến nhưng chưa rõ
ràng. Chỗ đứng của Chúa Thánh Thần còn rất khiêm tốn.
3. Chứng từ của Hyppolite
17. Chứng từ của sách Didachè và của thánh Justinô không được đầy đủ, nếu
xét riêng rẽ. Nếu nhập chung lại, hai chứng từ bổ sung cho nhau. Một
đàng gợi lên những âm vang của các lời nguyện khi cử hành lễ Tạ ơn,
đàng kia tường thuật cách sắp xếp và tổ chức lễ Tạ Ơn. Nhưng chưa có
chứng từ nào ghi lại trọn vẹn cơ cấu và nội dung của phần quan trọng và
trung tâm nhất trong lễ Tạ Ơn, mà hôm nay chúng ta gọi là KINH
NGUYỆN THÁNH THỂ.
Trong những thế kỷ đầu, chủ tế thường "cầu nguyện tự phát" khi cử hành
Thánh lễ, do đó khó có bản văn phụng vụ nào được ghi nhớ và gìn giữ
trọn vẹn.
Phải đợi đến thế kỷ III, chúng ta mới có bằng chứng đầy đủ, đó là Kinh
nguyện Thánh Thể trong "TRUYỀN THỐNG TÔNG ĐỔ" của Hyppolite.
Kinh nguyện Thánh Thể của Hyppolite tuy vắn gọn, nhưng đã có một cơ
cấu khá rõ rệt về hình thức cũng như nội dung.
Về phương diện nội dung, cơ cấu Kitô - Ba Ngôi nổi bật. Kinh nguyện gán
cho Chúa Cha việc sai phái Chúa Con, công cuộc cứu thế cho Chúa Con,
sự thánh hóa và hiệp nhất Giáo Hội cho Chúa Thánh Thần.
Giống như phượng tự của người Do-thái, phụng vụ Thánh Thể luôn luôn
mang chiều kích cứu độ. Nhưng điểm khác biệt là Phụng vụ Ki-tô-giáo quy
chiếu về Chúa Kitô là Trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Chính vì thế mà
Kinh nguyện Thánh Thể thường xuyên nhắc đến các mầu nhiệm và biến
cố liên hệ tới Đức Giêsu Kitô như bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ nạn, cái chết và
sự phục sinh của Ngài :
"Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con yêu
dấu của Cha, mà trong những ngày sau cùng, Cha đã sai đến làm Đấng
Cứu độ chúng con, và làm sứ thần thực hiện thánh ý của Cha. Người là
18. Ngôi Lời không tách biệt khỏi Cha, và nhờ Người mà Cha làm nên mọi sự.
Người là Đấng làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Từ trời, Cha đã sai Người
xuống trong lòng Trinh Nữ. Người đã nhập thể, sinh bởi Thánh Thần và
bởi Trinh Nữ.
Để chu toàn Thánh ý Cha và để gây dựng cho Cha một dân tộc thánh
thiện, Người đã giang tay chịu khổ hình, hầu giải thoát mọi khổ nạn những
kẻ tin vào Người. Người đã tự nguyện chịu đau khổ, hầu phá hủy sự chết,
đập tan xiềng xích địa ngục, chiếu sáng cho những người công chính và
tỏ bày sự sống lại.
Người cầm lấy bánh, tạ ơn và phán : "Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là
Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con". Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén
và phán : "Này là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con, hãy làm việc này mà nhớ
đến Ta".
Khi kính nhớ Con Chúa chịu chết và sống lại, chúng con dâng lên Cha
bánh và chén này để tạ ơn Cha, vì Cha đã thương cho chúng con được
xứng đáng hầu cận trước Nhan Cha và phụng sự Cha. Chúng con nài xin
Cha sai Thánh Thần xuống trên lễ vật của Hội Thánh. Xin Cha hợp nhất
tất cả những người đang thông công, xin ban cho họ tràn đầy Thánh Thần
để củng cố niềm tin của họ trong chân lý. Chúng con muốn chúc tụng và
ngợi khen Cha, nhờ Con yêu dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô. Nhờ Người,
chúc tụng và vinh quang đều dâng về Thiên Chúa : Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh của Ngài, bây giờ và mãi mãi thiên
thu vạn đại. Amen". (Traditio Apostolica)
4. Phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương
Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, ngoài Giáo đô Rôma, Giáo Hội Đông
phương có nhiều thủ phủ quan trọng khác có ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt
của Giáo Hội : Constantinople là thủ phủ vùng Tiểu Á, Antiôkia là thủ phủ vùng
19. Syria và Mêsôpôtamia, Alexandria là thủ phủ vùng Ai-Cập, Giêrusalem là thủ phủ
vùng Palestina.
Từ các thủ phủ này, xuất hiện các thứ phụng vụ khác nhau về sau được sắp xếp
làm hai loại chính : mẫu Syrien và mẫu Alexandrien.
Chúng ta không thể trích dẫn ra ở đây tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể Đông
phương thuộc các thế kỷ IV và V, nhưng sẽ lần lượt phân tích một vài đoạn của
các Kinh nguyện Thánh Thể quan trọng để hiểu rõ hơn sinh hoạt phụng vụ của
Giáo Hội trong giai đoạn lịch sử này. Điều quan trọng đối với chúng ta là tìm hiểu
niềm tin của Dân Chúa vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong
sinh hoạt phụng vụ.
Kinh nguyện Thánh Thể của Giám mục Sérapion, là một trong những kinh
nguyện Tạ ơn đẹp nhất của phụng vụ thế kỷ IV.
Toàn bộ Kinh nguyện hướng về Thiên Chúa Cha như mọi Kinh nguyện Thánh
Thể khác, nhưng có phần dành riêng để ca ngợi, chúc tụng Thiên Chúa Cha
(phần ấy, hôm nay chúng ta gọi là Kinh Tiền Tụng) :
"Lạy Cha, ca ngợi, chúc tụng Cha, thật là xứng đáng và cần thiết, Cha là Đấng
không được tạo thành, là Cha của Chúa Con Duy nhất, Đức Giêsu Kitô.
Cha là Nguồn Sống, là Ánh Sáng, là Khởi Nguyên của mọi Hồng Ân và Chân Lý.
Cha là bạn của nhân loại. Bạn của người nghèo. Cha thương xót mọi người và lôi
cuốn mọi người về cùng Cha.
Cha vượt trên mọi Quyền năng, Sức mạnh, Danh hiệu. đời này và đời sau."
Kinh nguyện có sắc thái Ba Ngôi nhiều hơn là Kitô. Phần dành cho Đức Kitô là
lịch sử cứu độ tương đối vắn tắt. Phần "Tưởng niệm" (Anamnèse) chỉ nhắc
thoáng qua cái chết của Đức Giêsu :
20. "Vì thế, lạy Cha, trong khi tưởng niệm cái chết của Người, chúng con dâng lên
Cha bánh này và cầu xin : nhờ Hy tế này, lạy Thiên Chúa Chân lý, xin hãy đoái
nhìn đến chúng con".
Cơ cấu Ba Ngôi rõ ràng ngay cả trên bình diện từ ngữ : "Lạy Thiên Chúa là Đấng
không được tạo thành, chúng con đã kêu cầu Thiên Chúa, nhờ Chúa Con Duy
nhất, trong Chúa Thánh Thần".
Khi khảo sát Kinh Nguyện Thánh Thể trong "HIẾN CHẾ TÔNG TRUYỀN"
(Constitutions Apostoliques) thuộc thế kỷ IV, chúng ta nhận ra cơ cấu "Ba Ngôi"
không những nổi bật trong ngôn từ sử dụng, mà còn rõ ràng trong cách sắp xếp
phân đoạn : Tạo Dựng và Cứu Độ liên hệ mật thiết. Tạo dựng hướng tới Cứu độ,
và cả hai đều được nhắc nhở đầy đủ. Công trình tạo dựng được tường thuật tỉ mỉ
để gợi lên tâm tình ngưỡng mộ, cảm tạ và biết ơn đối với Thiên Chúa. Các yếu tố
thiên nhiên như đại dương và sông ngòi, tinh tú trên trời, lửa và nước, ánh sáng
và bóng tối đều biểu lộ tình thương bao la của Thiên Chúa.
Lịch sử cứu độ cũng được ghi lại đầy đủ, từ biến cố Ađam phạm tội đến cái chết
và sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô.
Qua đoạn tường thuật về lịch sử cứu độ của Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta
thấy rõ sự gần gũi giữa phụng vụ và Kinh Thánh, vì mục tiêu là hiện tại hóa Lịch
sử cứu độ, đưa con người đi vào dòng lịch sử thánh, để con người được tham gia
sự sống của Thiên Chúa và làm vinh quang cho Thiên Chúa.
Vai trò trung gian của Đức Giêsu Kitô được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cùng
một đoạn, bằng cùng một từ ngữ (per), sau này sẽ trở thành một từ ngữ cốt yếu
(mot-clé) và không thay đổi, dùng trong các Kinh nguyện Thánh Thể và trong câu
kết của các lời nguyện (đặc thái của Kinh nguyện Kitô-giáo, phân biệt với Kinh
nguyện Do-thái-giáo và các tôn giáo). Nhờ từ ngữ vắn gọn này, mà người ki-tô-
hữu luôn luôn nhớ rằng họ chỉ có một Đấng trung gian cứu độ duy nhất là Đức
Kitô :
21. "Lạy Cha là Thiên Chúa vĩnh cửu, Ngài đã tạo dựng mọi sự nhờ Đức Kitô, nhờ
Người, Cha săn sóc mọi loài với sự quan phòng âu yếm. Nhờ Người, Cha đã
ban ơn hiện hữu. Nhờ Người, Cha ban cho hạnh phúc. Cha là Thiên Chúa và là
Cha của Chúa Con Duy Nhất. Nhờ Người, trước hết Cha đã dựng nên các thiên
thần Kêrubim và Sêraphim, các đạo binh Thiên quốc, các Quyền thần và Quản
thần, các thần thánh và ngai tòa, các Tổng lãnh và thiên thần. Sau đó, nhờ
Người, Cha đã dựng nên thế giới hữu hình và những gì chứa đựng trong đó".
Cũng có một phần đặc biệt dành riêng cho Chúa Thánh Thần, mà sau này phụng
vụ gọi là Epiclèse. Ngay cả trong phần này, lời nguyện không hướng về Chúa
Thánh Thần, mà vẫn hướng về Chúa Cha, để xin Cha ban "Thánh Thần". Chúa
Cha vẫn là Khởi Nguyên và là Nguồn Suối, mặc dù Chúa Thánh Thần là tác giả
hiển thánh bánh và rượu, là Đấng thanh tẩy là hiệp nhất Giáo Hội :
"Xin Cha hãy sai Thánh Thần là Đấng làm chứng cho những đau khổ của Chúa
Giêsu xuống trên Hy lễ này, để Người hiển thánh bánh này trở thành Thân Thể
Đức Kitô, và chén này trở nên Máu Đức Kitô.
Xin cho tất cả những người đang thông công được củng cố lòng đạo đức, được
tha thứ tội lỗi, được giải thoát khỏi quỷ dữ, được tràn đầy Chúa Thánh Thần và
trở nên xứng đáng với Đức Kitô, được sự sống vĩnh cửu và hòa giải với Cha, là
Chúa Toàn Năng".
II. BA NGÔI THIÊN CHÚA TRONG KINH NGUYỆN NHỮNG THẾ
KỶ ĐẦU
A. Dẫn nhập
Kinh nguyện Kitô-giáo "thoát thai" từ trong lòng dân tộc Israel. Dân
Thiên Chúa trong Cựu Ước là một dân tư tế, một dân tộc biết cầu
nguyện. Kỳ diệu thay những lời kinh đầy ứ tâm tình tôn giáo, trải dài
22. hàng bao nhiêu thế kỷ ! Quả thực, Dân Thiên Chúa luôn luôn tìm cơ
hội để ca ngợi, cảm tạ và xin ơn Người.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chỗ đứng của kinh nguyện rất đặc
biệt. Đó là một kho tàng thiêng liêng vô cùng phong phú và sinh
động. Những gì sâu thẳm nhất trong tâm hồn các tổ phụ, các ngôn
sứ và toàn thể dân tộc đều bộc lộ qua kinh nguyện.
Trong những thế kỷ đầu, Giáo Hội Kitô-giáo dùng ngôn từ Kinh
Thánh để cầu nguyện. Là dân Israel-mới, Giáo Hội đã học hỏi và
hát những bài Thánh Vịnh.
Các kinh nguyện cổ xưa nhất của Giáo Hội ghi lại trong Tân Ước
như kinh Magnificat, Benedictus, và ngay cả kinh Lạy Cha., đầy
dẫy những hoài niệm Cựu Ước.
Không những chỉ có Kinh Thánh, mà ngay cả những công thức
phụng vụ Do-thái cũng ảnh hưởng tới những bài ca và lời nguyện
của Giáo Hội.
Kinh nguyện vĩ đại của thánh Clêmentê thành Rôma nhắc lại nhiều
nét của 18 lời chúc tụng Do-thái :
"Chúa triệt hạ lòng kiêu căng hỗn xược,
Chúa phá vỡ mưu đồ của chư dân,
Chúa nâng cao người phận nhỏ,
Chúa lật đổ kẻ uy quyền,
Chúa làm giầu ai nghèo khó,
Chúa cất đi và ban sự sống,
23. Chúa thấu suốt tâm hồn nhân loại,
Chúa canh giữ hành động con người,
Chúa trợ giúp cơn nguy khốn,
Chúa cứu độ người thất vọng,
Chúa dựng và gìn giữ mọi thiên thần,
Chúa cho dân cư địa cầu được đông số.
Giữa chư nước, Chúa lựa chọn những ai kính mến Ngài,
nhờ Đức Giêsu-Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài.
Nhờ Người, Chúa đã dạy dỗ, thánh hóa và cho họ được rạng rỡ.
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng, chúng con cầu xin Chúa :
xin hãy đến trợ giúp và bênh vực chúng con,
xin cứu thoát người bị áp bức,
xót thương kẻ bé mọn,
nâng dậy người sa ngã.
Xin tỏ hiện cho người thiếu thốn,
chữa lành kẻ yếu đau,
đưa người lầm lạc trong Dân Chúa trở về.
Xin ban thức ăn cho người đói khát,
24. ban tự do cho kẻ tù đày,
củng cố những con người yếu đuối,
ủy lạo con người non dạ.
Xin cho mọi dân tộc đều nhận biết :
chỉ có một mình Ngài là Thiên Chúa ;
nhận biết Đức Giêsu-Kitô là Con của Ngài,
nhận ra chúng con là Dân của Ngài,
là thành phần thuộc chuồng chiên của Ngài." (Ad Corinthios ch.
59.62)
Tuy nhiên, Kinh Nguyện Kitô-giáo không phải là kinh nguyện Do-
thái, vì có một điểm khác biệt cơ bản : kinh nguyện hướng về Thiên
Chúa nhờ sự bầu cử của Chúa Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô là Trung
Gian : nhờ Người, chúng ta được cứu độ. Đức Giêsu là Thượng Tế :
nhờ Người, lời cầu nguyện của chúng ta được dâng lên Thiên Chúa.
Để có thể hướng lên cùng Thiên Chúa, người kitô-hữu luôn luôn
đến cùng Chúa Giêsu. Lời Kinh vẫn là lời kinh của người Do-thái,
nhưng niềm tin hoàn toàn mới mẻ.
Xét về phương diện chất liệu, Kinh Nguyện Kitô-giáo những thế kỷ
đầu thường được cấu tạo bằng nhiều yếu tố : trước hết là một nền
tảng rút từ Cựu Ước và các truyền thống Do-thái ; sau đó là một số
yếu tố mới lấy từ Tân Ước, nhưng đặc biệt hơn cả là một ý hướng
mới mẻ. Kitô-hữu còn sử dụng và biến đổi những lời chúc tụng
dùng cho các vua chúa hay thần minh :
25. "Caesar, in te salus, in te vita ; in te omnia, per te omnia !" (Lạy
Ngài César, hạnh phúc ở nơi Ngài, sự sống ở nơi Ngài ; mọi sự
trong Ngài và mọi sự nhờ Ngài !)
"Jupiter, optime, tibi gratias !
Apollo venerabilis, tibi gratias !
Maxime Auguste, tibi gratias !"
(lạy Ngài Jupiter, rất tốt lành, tạ ơn Ngài !
lạy Ngài Apollô đáng kính, tạ ơn Ngài !
lạy Ngài Augustô vĩ đại, tạ ơn Ngài !)
"Quod imperium suscepisti, gratias agimus !" (chúng tôi cảm tạ
Ngài, vì Ngài đã nhận lãnh quyền cao)
Cảm hứng tự phát của cá nhân cũng đóng một vai trò quan trọng.
Đức tin nồng cháy bừng lên từ tâm hồn các kitô-hữu và phát ra từ
môi miệng trở thành những lời kinh mới mẻ.
Trong trường hợp các Tử Đạo, đức tin thúc đẩy họ đương đầu với
quan án và lý hình. Đức tin bộc lộ thành lời cầu nguyện sốt sắng và
đầy ứ tâm tình :
"Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài ! Con nay 56 tuổi đời. Con đã gìn
giữ tâm hồn trinh trắng, con đã tin theo Phúc Âm, con đã rao giảng
đức tin và chân lý.
Lạy Thiên Chúa là Chúa cả trời đất,
lạy Đức Giêsu-Kitô, con xin dâng cho Chúa đầu con làm lễ tế.
26. Chúa là Đấng Hằng Sống muôn đời" (Félix de Thibinca).
Đức tin nồng nàn nhưng sáng suốt của Giáo Hội những thế kỷ đầu
phải thường xuyên chống chọi với các lạc giáo có tác dụng hủy hoại
từ bên trong. Lời kinh của các giáo phụ đầy chất thần học, nhưng
không kém phần sốt sắng. Sự cầu nguyện giúp các giáo phụ thấu
hiểu những điều mà suy luận không giúp ích gì :
"Tình yêu tiến tới và bước vào nơi mà khoa học không làm gì được"
(Guillaume de St. Thierry).
"Lạy Thiên Chúa vượt trên hết mọi loài,
Làm sao gọi Ngài bằng một Danh Xưng khác ?
Bài ca nào có thể chúc tụng Chúa ?
Không lời nào mô tả được Ngài !
Tinh thần nào thấu hiểu được Ngài ?
Không trí tuệ nào quan niệm được Ngài.
Chỉ một mình Ngài là khôn tả,
Mọi điều nói ra phát xuất từ Ngài.
Chỉ một mình là khôn dò thấu,
Mọi điều suy nghĩ bắt nguồn nơi Ngài.
Muôn vật đều chúc tụng Chúa,
Thọ tạo biết nói và loài không biết nói,
27. mọi hữu thể ngợi khen Ngài,
hữu thể tư duy và không có tư duy." (Grêgôriô thành Nazian)
Nhịp điệu thông thường của đời sống hằng ngày cũng là cơ hội để
người kitô-hữu dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện chân
thành :
"Satan, hãy xéo đi, hãy rời khỏi nhà này ; ở đây không có chỗ và có
phần cho mi ; ở đây có Phêrô, ở đây có Phaolô, ở đây có Tin Mừng
; ở đây ta muốn, sau khi làm việc thờ phượng, được ngủ nghỉ bình
an, nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ."
"Nhân Danh Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng con, xin hãy sai Thánh
Thần Chúa đến trong con, xin đặt để trong con sự khôn ngoan của
Thần Linh Chúa, xin gìn giữ linh hồn và thân xác con, mọi chi thể
và sự sống của thân xác, khỏi mọi sự dữ, khỏi cạm bẫy của ma
quỷ và mọi cám dỗ của tội lỗi ; xin dạy con biết tạ ơn Chúa, lạy
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần"
Những dịp đặc biệt như mùa gặt, hoặc lúc lên đường đi xa, người
kitô-hữu cùng cầu nguyện sốt sắng :
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Đấng yêu thương loài người, xin hãy
chúc lành cho hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho chúng con,
xin chúc lành cho các tôi tớ Chúa tụ họp vì vụ mùa này ; xin ban ơn
cứu độ cho những ai có hoa màu, để họ thực hành bác ái đối với
người nghèo, khi họ đã được Chúa ban cho sung túc ; xin hãy đón
nhận lòng tôn sùng của tất cả chúng con, vì mọi vinh quang đều
thuộc về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần . "
B. THIÊN CHÚA CHA TRONG KINH NGUYỆN KITÔ-GIÁO
28. Kinh Nguyện Kitô-giáo những thế kỷ đầu thường hướng về Thiên
Chúa Cha, nhờ sự cầu bầu của Đức Giêsu-Kitô, Con Thiên Chúa.
Cộng đồng Giáo Hội dùng rất nhiều tên đặt cho Chúa Cha : Chúa,
Chủ, Tạo Hóa, Đấng Toàn năng. Những từ ngữ này chứng tỏ tâm
tình "tôn thờ", vẫn đậm nét trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng khi
dùng những Danh xưng trên áp dụng cho Chúa Cha, ki-tô-hữu
không quên mình là con. Họ luôn nương tựa vào sự cầu bầu của
Chúa Kitô. Gắn bó với Chúa Kitô nhắc cho họ những tương quan
mới mẻ, đầy ân tình với Cha trên trời. Trong các kinh nguyện ngoài
phụng vụ, tâm tình phụ tử bộc lộ rất tự nhiên và đậm đà.
Kinh nguyện phổ quát lồng trong thư của Clément thành Rôma gởi
tín hữu Corintô là chứng từ rất quý báu về ngôn ngữ và cung điệu
của các lời nguyện trong những thế kỷ đầu. Những từ ngữ mà Kinh
nguyện này dùng chứng tỏ có một thần học phôi thai về Thiên
Chúa bắt đầu hình thành : Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, là Thiên
Chúa Thánh Thiện, là Đấng Tạo Hóa, là Chúa Tể, là Thiên Chúa
của mọi xác phàm. Những ai quen thuộc với Cựu Ước có thể thấy
rằng hầu hết các thánh thi trong Cựu Ước đều có âm vang trong
Kinh nguyện này. Dù vậy, Kinh nguyện vẫn là một "bài ca mới mẻ",
vì "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu Kitô, "Đấng Thượng tế vĩ đại"
thường xuyên được nhắc tới và luôn luôn gắn liền với Thiên Chúa
Cha.
Ở đây chúng ta trích dẫn một đoạn làm tiêu biểu :
"Lạy Thiên Chúa, chính Ngài đã tạo dựng nên trái đất ; Ngài là
Đấng trung thành từ đời nọ sang đời kia. Ngài là Đấng Công Thẳng
trong phán quyết. Kỳ diệu thay sức mạnh và sự uy nghi của Ngài !
Ngài là Đấng Tạo Hóa rất khôn ngoan. Ngài khôn khéo củng cố
những điều Ngài tạo dựng.
29. Thiên Chúa là Đấng Nhân từ và Chạnh thương : xin Chúa hãy tha
thứ các lỗi lầm và bất công của chúng con. Xin hãy tha thứ những
sa ngã và lầm lạc của chúng con. Xin chớ chấp tội những tôi tớ
nam nữ của Chúa. Nhưng xin thanh tẩy chúng con nhờ chân lý của
Ngài và hướng dẫn bước đường chúng con đi. Xin cho chúng con
có tâm hồn thánh thiện và làm những điều tốt lành và đẹp lòng
Chúa.
Lạy Chúa Tể càn khôn, xin chiếu sáng trên chúng con Dung Nhan
của Chúa, xin cho chúng con được hưởng nhờ những hồng ân của
Chúa. Xin che chở chúng con với cánh tay uy hùng của Chúa. Xin
giải thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi, cứu chúng con khỏi những
người thù ghét chúng con một cách bất công. Xin ban sự hòa thuận
và bình an cho chúng con và mọi người trên trái đất như Ngài đã
ban cho cha ông chúng con, khi họ cầu xin Ngài một cách thánh
thiện trong đức tin và chân lý" (Ad Corinthios, c, 60).
Nếu đặt lời kinh này của thánh Clément trong bối cảnh lịch sử,
chúng ta càng cảm động hơn, khi nhận ra tâm tình khiêm tốn, tin
tưởng và bình an của Giáo chủ thành Rôma và của cả Giáo Hội,
trong một thời kỳ đen tối và gay cấn. Kinh nguyện phản ánh sự
vươn lên của tâm hồn ki-tô-hữu, bất chấp sự đau khổ trần gian. Họ
hướng lên Vị Thiên Chúa cao cả và chí thánh, Nguồi Suối của mọi
thực tại. Họ tôn thờ và chiêm ngưỡng sự vĩ đại cao cả của Thiên
Chúa trong công trình tạo dựng và cai trị thế giới. Họ nhớ tới lòng
nhân từ chăm sóc của Thiên Chúa đối với cha ông, và nhất là tiếng
gọi hướng đến những người được tuyển chọn để dẫn đưa từ bóng
tối đến ánh sáng, từ vô tri đến nhận biết Danh Ngài, nhờ Đức Giêsu
Kitô, Con yêu dấu của Ngài.
30. Trong các thư của thánh Ignatiô thành Antiôkia, không có công
thức cầu nguyện nào, nhưng đầy dẫy những ước vọng thánh thiện
của một tâm hồn luôn hướng về Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu
Kitô :
"Anh em ngợi khen Đức Giêsu Kitô nhờ sự hòa thuận và duy nhất
trong đức ái. Ước gì mọi người trong anh em đều bước vào ca đoàn
này. Với một giọng hát duy nhất, anh em sẽ ca tụng Thiên Chúa
Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, và Người sẽ nhậm lời anh em" (Ad
Ephesios 4,1-2).
"Nhờ đức ái, hãy tụ họp tất cả thành một ca đoàn, và hãy dâng lên
Thiên Chúa Cha một bài ca thánh, trong Đức Giêsu Kitô" (Ad
Romanos 2,2).
Ngôn từ của Ignatiô khác với ngôn từ của Clément thành Rôma.
Ignatiô ít gọi Thiên Chúa Cha là Chủ Tể, là Tạo Hóa, hay Đấng
Toàn Năng, nhưng thích gọi Người bằng Danh xưng là Cha, nhờ
Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tư tưởng và ngôn từ của Ignatiô ít
chịu ảnh hưởng của môi trường Dothái-giáo đương thời.
Thần học của thánh Pôlycarpô tử đạo rất gần với thần học của
Ignatiô. Nhưng đặc biệt, Kinh nguyện vĩ đại và nổi tiếng mà ông để
lại cho Giáo Hội đầy dẫy hoài niệm và âm vang của những lời kinh
phụng vụ :
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, là Cha của Đức Giêsu Kitô,
Con Yêu Dấu và đáng chúc tụng. Chính Đức Giêsu Kitô đã dạy
chúng con nhận biết Cha, là Thiên Chúa các đạo binh thiên thần,
các quyền năng, tất cả các tạo vật và tất cả giống nòi những người
công chính luôn sống trước nhan Cha.
31. Con xin chúc tụng Cha, vì Cha đã xét thấy con xứng đáng với ngày
này và giờ này, xứng đáng thông phần, cùng với các tử đạo, chén
đắng của Đức Kitô, để được phục sinh hồn và xác trong sự sống
bất hoại của Chúa Thánh Thần.
Ước gì, cùng với họ, con được Cha thương nhận làm của lễ quý giá
và đẹp lòng Cha. Phần số mà Cha chuẩn bị và cho con thấy trước,
hôm nay Cha thực hiện, vì Cha là Thiên Chúa chân thật không nói
dối bao giờ !
Vì hồng ân này và vì mọi thứ khác, con ngợi khen Cha, con chúc
tụng Cha, nhờ Đấng Thượng tế vĩnh cửu trên trời, là Đức Giêsu
Kitô, Con yêu dấu của Cha. Chính nhờ Người mà mọi chúc tụng và
vinh quang đều quy về Cha, cùng với Người và Chúa Thánh Thần
muôn đời. Amen" (Le Martyre de Polycarpe. XIV, 1).
Đây là một chứng từ quý báu nhất, vì nhiều lý do : là môn đệ của
thánh Gioan Tông Đồ, Pôlycarpô truyền lại cho chúng ta truyền
thống các Tông đồ ; là Giám mục, ông dạy chúng ta giáo huấn của
Hội Thánh ; là Tử đạo, ông tuyên xưng một niềm tin sâu xa và cảm
động. Đức tin mà chúng ta gặp thấy trong lời nguyện vắn tắt nhưng
trang trọng này là đức tin công giáo, là đức tin của những người
dạy đạo, và là đức tin của các tân tòng tuyên xưng khi chịu phép
Rửa. Nhưng đây không phải là một công thức vô hồn cần học thuộc
lòng một cách máy móc, mà là những lời lẽ sống động nhất của
một tâm hồn tin tưởng và tự hiến mình vì tình yêu.
Pôlycarpô tôn thờ Chúa Cha như Đấng Tạo Hóa Toàn Năng của
thế giới, và là Thiên Chúa của những người được tuyển chọn, mà
sự quan phòng rất cụ thể và cảm nghiệm được. Đức Giêsu Kitô
không tách rời khỏi Chúa Cha, là Con yêu dấu và đáng chúc tụng
của Chúa Cha, là Đấng Mạc khải Chúa Cha, là Thượng tế vĩnh cửu
32. trên trời. Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự sống vĩnh cửu của tâm
hồn và thể xác, Người là Thánh Thần ban sự sống như về sau Giáo
Hội vẫn tuyên xưng.
C. ĐỨC KITÔ TRONG KINH NGUYỆN KITÔ GIÁO
Lời cầu của Dân Chúa thường hướng lên Thiên Chúa Cha, Nguồi Suối mọi ân
sủng. Giáo Hội tôn thờ Chúa Cha, cảm tạ và xin ơn Người, nhờ Đức Giêsu Kitô là
Con yêu dấu của Người.
Đức Kitô thường xuất hiện với vai trò Trung Gian, nhưng có khi được gọi là Đấng
Cứu độ, là Thầy và là Chúa.
1. Việc tôn thờ Đức Kitô
Việc tôn thờ Đức Kitô như Thiên Chúa là một đặc điểm cốt yếu phân biệt
Kitô-giáo với Dothái-giáo và các tôn giáo khác. Sự kiện này cũng được các
người ngoài Kitô-giáo nhắc tới.
Trong bản báo cáo cho hoàng đế Trajan, Pline le Jeune tóm lược bản điều
tra của ông về phượng tự Kitô-giáo như sau :
"Những người Kitô-giáo có thói quen tụ họp nhau lại vào ngày cố định,
trước khi mặt trời mọc. Họ hát ca đối đáp để tôn vinh Đấng Kitô giống như
Thiên Chúa".
Chứng từ của Celse là một chứng từ gián tiếp, vì mục tiêu của ông là chỉ
trích Kitô-giáo. Nhưng chính vì sự ác cảm và gay gắt của ông, đồng thời
với sự sắc bén về phương diện tri thức, mà chứng từ của ông càng quan
trọng hơn. Ông muốn đánh vào điểm trọng tâm nhất của Kitô-giáo :
"Nếu họ chỉ tôn thờ Thiên Chúa Duy Nhất, thì họ sẽ có những lý chứng
chắc chắn chống lại địch thù của họ ; nhưng họ tôn thờ quá đáng một con
33. người đã sống trong thời gian mới đây, dù vậy, họ vẫn không nghĩ rằng
làm như thế là xúc phạm đến Thiên Chúa, vì là tôn thờ một trong các tôi
tớ của Người.
Nếu ai muốn cho họ hiểu rằng con người đó không phải là Con Thiên
Chúa, và chỉ nên tôn thờ Vị Cha duy nhất của nhân loại, họ sẽ không
đồng ý, trừ phi là phải tôn thờ con người ấy nữa, con người mà họ coi là
Đấng Khởi Xướng cho sự phản kháng của họ. Và họ đã gọi ông là Con
Thiên Chúa, không phải vì họ muốn tôn thờ Thiên Chúa cho xứng đáng,
nhưng vì họ muốn đề cao con người ấy".
Origène trả lời vấn nạn bằng cách trích dẫn câu Phúc âm của Gioan : "Ta
và Cha là một". Ông lý luận rằng việc tôn thờ Đức Giêsu Kitô, đối với Giáo
Hội, không chia cắt sự tôn thờ Thiên Chúa ra làm hai, nhưng chỉ là một
phượng tự duy nhất : tôn thờ Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha, Con và Thánh
Thần.
Ngoài sự phi bác của những người trí thức trong xã hội thời bấy giờ, dân
chúng cũng chế diễu người theo đạo Kitô bằng những lời lẽ bình dân và
thô tục. Thế kỷ III của Công nguyên để lại một di tích lịch sử giúp chúng ta
biết được não trạng của dân ngoại thời bấy giờ đối với Kitô-giáo : một ảnh
vẽ trên tường hình dung một nhân vật mình người đầu lừa bị treo trên thập
giá, gần đó có vẽ thêm một người đang phủ phục và có ghi chú :
"Alexamenos tôn thờ Thiên Chúa của hắn".
Tóm lại, dư luận của người ngoại đạo đối với Kitô-giáo trong những thế kỷ
đầu làm nổi bật những điều cốt yếu của Kitô-giáo nhìn từ bên trong lẫn
bên ngoài :
Trước hết, người Kitô-hữu khẳng định tôn giáo của họ là độc thần chống
lại các tôn giáo đa thần. Và đây cũng là điều khoản đầu tiên mà các giáo
phụ hộ giáo cố gắng minh chứng.
34. Nhưng việc tôn thờ Đấng Kitô cũng là yếu tố nòng cốt của tôn giáo mới
này. Bất chấp những lời phi bác và sỉ nhục của kẻ thù, không người ki-tô-
hữu nào chối bỏ điều đó. Ngoài Đức Kitô, không một con người nào khác
được tôn thờ như Ngài.
2. Các thánh thi kính Chúa Kitô
Quả thực, ngay từ những thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội tôn thờ Đức Kitô, ngợi
khen, tung hô và cầu nguyện với Ngài.
Những chứng từ cổ xưa nhất thường là những công thức rất ngắn ngủi
còn ghi lại trên các di tích lịch sử :
"Bình an của Chúa Kitô ở cùng anh em"
"Trong bình an của Chúa Kitô"
"Lạy Đức Kitô, xin hãy cứu giúp"
"Ước gì anh em được sống trong Chúa Kitô"
"Chúa Kitô hiển thắng"
Ngoài những công thức ngắn ngủi trên, Cộng đồng Dân Chúa còn đặt ra
những thánh thi có nguồn gốc rất lâu đời. Ngay trong Tân Ước, đã có sự
hiện diện của các thánh thi Kitô, đặc biệt là trong các thư Phaolô và trong
sách Khải huyền (Kh 1,5-6 ; 4,11 ; 15,3-4 ; 19,1-7).
Thói quen dùng thánh vịnh làm lời ca để chúc tụng Chúa Kitô đã có ngay
từ thế kỷ đầu trong Giáo Hội. Thánh Ignatiô thành Antiôkia làm chứng về
điều này trong các thư của ông, và Pline le Jeune cũng có nói đến.
Khởi đầu là việc sử dụng các thánh vịnh theo chiều hướng Kitô. Chứng từ
của Justinô trong tác phẩm "Đối thoại với Tryphon" thật là quý báu. Lối
35. giải thích và sử dụng thánh vịnh của Justinô không phải là của riêng ông,
mà là của cả Giáo Hội :
"Hãy cho tôi trích dẫn cả thánh vịnh 22 để cho ông hiểu được lòng đạo
đức của Đức Giêsu đối với Cha của Ngài. Ngài quy mọi sự về Chúa Cha,
xin Chúa Cha cho thoát khỏi cái chết. Ngài cũng nói đến những kẻ âm
mưu chống lại Ngài, và chứng minh rằng Ngài đã làm người thực, cảm
nghiệm được sự đau đớn" (Dialogue avec Tryphon, 98).
Thánh vịnh 99 ca ngợi Giavê Thiên Chúa là Vua công chính và thánh
thiện được đem áp dụng cho Chúa Kitô tiền hữu (Dialogue avec Tryphon,
64).
Thánh vịnh 45 cũng được dùng để ca ngợi vẻ đẹp và uy quyền của Đức
Kitô (Dialogue avec Tryphon, 38).
Thánh vịnh 24 (đề cập đến việc đưa lều chứng vào trong Đền thờ) được
áp dụng để ca tụng Đức Kitô vinh hiển (Dialogue avec Tryphon, 36).
Ngoài việc sử dụng gia tài Cựu Ước để lại, khả năng sáng tạo của Cộng
đồng Dân Chúa đặc biệt hướng về Chúa Kitô, vì niềm tin sâu xa và tình
yêu nồng thắm dành cho Ngài. Các thánh thi thường được hình thành
trong các buổi "Agapê" lúc mà hứng thơ của các ki-tô-hữu dào dạt.
Một số thánh thi mai một và không có âm hưởng lâu dài, nhưng chắc chắn
có những bài thánh thi khác có giá trị rất cao, mà cũng thất lạc. Di sản để
lại rất ít, vừa đủ để làm chứng cho niềm tin của Giáo Hội những thế kỷ
đầu.
Trước hết, Giáo Hội Đông phương có bài thánh thi "ÁNH SÁNG VUI
MỪNG" (Fôs ilaron) rất nổi tiếng, cả về nội dung lẫn hình thức :
"Hỡi Đức Giêsu Kitô thánh thiện và đáng chúc phúc,
36. Ánh sáng vui mừng do vinh quang chí thánh của Thiên Chúa là Cha bất
tử.
Khi chiều xuống và sao hôm xuất hiện,
Chúng con ca ngợi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Lạy Con Thiên Chúa là Đấng ban sự sống,
Ngài xứng đáng được chúc phúc mọi lúc bằng giọng ca đạo đức.
Chính vì đó mà thế giới tôn vinh Ngài" (S. Basile, De Spiritu Sancto,
29,33)
"Thánh thi buổi sáng" được phổ biến trong cả Giáo Hội Latinh lẫn Giáo Hội
Hylạp, được đưa vào phần đầu của phụng vụ Thánh lễ và sửa chữa nhiều
lần để cuối cùng mặc lấy hình thức trọn hảo và uy nghi của bản KINH
VINH DANH hiện thời.
Thánh Clément thành Alexandria có ghi lại một bài thánh thi rất đẹp trong
tác phẩm "PROTREPTIQUE" :
"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ca hát
và hãy nói cho tôi về Thiên Chúa là Cha của Ngài,
lời nói của Ngài sẽ cứu độ tôi,
bài ca của Ngài sẽ giáo dục tôi,
cho tới hôm nay, tôi lang thang mò mẫm đi tìm Thiên Chúa.
Nhưng nhờ Ngài dẫn dắt, lạy Chúa,
nhờ Ngài, tôi tìm thấy Thiên Chúa.
37. Từ Ngài, tôi đã đón nhận Chúa Cha, và trở thành đồng thừa tự,
bởi Ngài đã không tỏ ra xấu hổ vì đứa em của Ngài" (Propreptique II,
113,4-5).
Những bài thánh ca được để lại dưới nhan đề là "ODES DE SALOMON"
(những đoản ca của Salômon) khám phá vào đầu thế kỷ XX và được các
nhà chuyên môn định vị vào thời gian đầu thế kỷ II của Công nguyên là
những bài ca tuyệt diệu, đầy sức sống thiêng liêng và thần bí, với những
tâm tình đạo đứùc nồng cháy và thanh thoát :
"Ngài yêu tôi,
và tôi đã không thể yêu Ngài,
nếu Ngài đã không yêu tôi trước.
Ai có thể hiểu được tình yêu, nếu không phải là kẻ đang yêu ?
Tôi đã yêu Ngài, và hồn tôi mến Ngài.
Nơi Ngài ngự, đó có tôi, tôi không là người lạ mặt,
không có hận thù bên Chúa Tối Cao và NhânTừ,
Tôi hòa lẫn với Ngài, như người yêu gặp được kẻ mình yêu.
Vì yêu Ngài là Con, tôi sẽ trở thành con.
Ai ở gần Đấng không chết, sẽ trở thành bất tử.
Và ai thích sự sống sẽ trở nên hằng sống" (III, 2-12).
38. Lời lẽ trong các bài ca của Salômon rất thay đổi, trình diễn nhiều điệu hát
khác nhau : lúc thì điệu hát của tâm hồn ki-tô-hữu, lúc là bài ca của Toàn
Thể Giáo Hội, lúc khác là tiếng nói của Ngôi Lời Thiên Chúa :
"Ta đã gieo vãi hoa trái của Ta trong các tâm hồn
và Ta đã biến chúng thành của Ta
chúng nhận lãnh phép lành của Ta và được sống.
Chúng tề tựu quanh Ta và được cứu độ,
Vì chúng là chi thể của Ta và Ta là Đầu của chúng.
Vinh Danh Ngài, lạy Chúa Giêsu, là Đầu của chúng tôi.
Ngôi Lời Thiên Chúa ở với chúng ta để chỉ đường cho chúng ta.
Đấng Cứu độ giải thoát linh hồn chúng ta
Ngài đã hạ mình và đã được vinh thăng.
Con Thiên Chúa Tối Cao đã xuất hiện trong vinh quang của Chúa Cha"
3. Đức Kitô và các Tử đạo
Cả Giáo Hội đều yêu mến Chúa Kitô và tôn vinh Chúa Kitô, nhưng đặc biệt hơn
cả là các thánh tử đạo đã lấy máu đào làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Kitô.
Các lời nguyện họ dâng lên Chúa Kitô đã được viết bằng máu. Qua các lời
nguyện, đôi khi rất đơn sơ và vắn tắt, chúng ta có cảm tưởng những giọt máu của
các tử đạo hòa tan với dòng máu của Chúa Kitô và tưới gội trên tâm hồn các tín
hữu, trên "Thửa vườn của Thiên Chúa". Lời kinh của họ chứa chan sự sống, đầy
tràn Thánh Thần có sức tái tạo không ngừng đối với Giáo Hội và nhân loại.
39. Giữa vị tử đạo và Chúa Kitô, có một liên hệ đặc biệt và mật thiết, vì Đức Kitô là
Đấng Tử đạo đầu tiên, là chứng nhân đầu tiên và đích thực nhất cho Thiên Chúa.
Khi một ki-tô-hữu phải chết vì Thiên Chúa và vì Chúa Kitô, họ cảm nghiệm sự
gần gũi thân mật và mới mẻ giữa họ với Chúa Kitô.
Trong kinh nguyện của các Tử đạo, chúng ta gặp rất nhiều tâm tình khác nhau,
tâm tình của những con người như chúng ta trước vấn đề tình yêu và sự chết.
Các tâm tình ấy được biểu lộ một cách thấm thía, nhưng bao giờ cũng chan hòa
sự an bình và tin tưởng.
Chứng từ của thánh Ignatiô thành Antiôkia, tuy không phải là một lời nguyện,
nhưng là một chứng từ cảm động và quý giá hơn hết mà Giáo Hội cần phải nhắc
đi nhắc lại, mỗi lần nghĩ tới các vị Tử đạo hay nghĩ đến tình yêu phải có của
người ki-tô-hữu đối với Chúa Kitô :
"Đừng tạo vật nào, dù hữu hình hay vô hình, tìm cách ngăn cản, không cho tôi
chiếm hữu Đức Giêsu Kitô ! Lửa thiêu, thập tự, thú dữ, xé thịt, phanh thây, đập
xương, nghiền tán thân thể, tất cả các hình khổ do ma quỷ dữ tợn bày ra, tôi xin
chịu, miễn là tôi có được Đức Giêsu Kitô ! . Tôi tìm kiếm Ngài, là Đấng đã chịu
chết vì chúng tôi. Tôi mơ ước Ngài, là Đấng đã sống lại vì chúng tôi ! Tôi bắt đầu
cảm nghiệm những đau đớn của thời thai nghén ; Hãy buông tha cho tôi, hỡi anh
em, đừng ngăn cản tôi sống, đừng muốn cho tôi chết. Đừng nộp cho thế gian và
sự quyến rũ của vật chất kẻ muốn thuộc về Thiên Chúa. Hãy để cho tôi thấy ánh
sáng tinh tuyền, vì nơi đó, tôi sẽ là người đích thực. Hãy để cho tôi bắt chước
cuộc khổ nạn của Chúa tôi. Nếu ai có trong mình cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô,
người ấy sẽ hiểu những ước muốn của tôi, người ấy sẽ thông cảm với sự khắc
khoải đang thúc bách tôi" (Ad Romanos, 5-6).
Tâm tình của Ignatiô phản ảnh tâm tình của hầu hết các Tử đạo ước ao được bắt
chước Chúa Kitô, được chiếm hữu Chúa, chấp nhận chịu mọi khổ hình vì tình
yêu đối với Ngài.
40. Đức Kitô chịu khổ nạn không chỉ là gương mẫu xa vời, mà các Tử đạo cố gắng
họa lại, nhưng là nguyên lý sự sống bên trong có sức lôi cuốn tới vinh quang
Thiên Chúa, vượt qua khổ hình sự chết.
Một phần lớn kinh nguyện của các Tử đạo hướng về Chúa Kitô, vì Chúa Kitô là Vị
Thiên Chúa gần gũi nhất, và là con người cùng dòng máu với con người. Chúa
Kitô chia sẻ sự đau khổ của họ, yêu thương và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa.
Ngoài chứng từ của Ignatiô, còn rất nhiều chứng từ khác được ghi trong hạnh
các thánh Tử đạo. Sau đây là lời nguyện rất cảm động của vị chân phước
Donatien cầu xin cho bạn mình là chân phước Rogatien :
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, Ngài lắng nghe tất cả những ước muốn tốt lành. Chúng
con chỉ cần ước muốn là đủ, vì thực hiện không tùy thuộc chúng con. Chúa đã
cho phép chúng con lựa chọn, nhưng dành riêng cho Chúa việc thi hành. Đối với
Rogatien, ước gì đức tin tinh tuyền thay thế phép Rửa bằng nước. Nếu ngày mai
đây, theo lệnh quan, chúng con phải chết, xin cho máu đổ ra trở nên Bí tích và
biến thành Dầu xức cho bạn con".
Cũng có những lời nguyện cảm tạ Đức Giêsu Kitô đã đoái thương cho được biết
Ngài và được tham gia cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài ; hoặc là những lời
van xin khẩn thiết sự phù giúp của Ngài :
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con cảm tạ Ngài không bao giờ đủ, vì Ngài đã lôi
kéo chúng con, những kẻ tội lỗi và bất xứng, ra khỏi sự lầm lạc của ngoại giáo,
đã dẫn đưa chúng con, vì Danh Ngài, đến cuộc Khổ nạn vĩ đại và cao vời này, và
cho chúng con tham gia vinh quang của các thánh. Chúc tụng và ngợi khen
Ngài. Trong tay Ngài, chúng con phó thác linh hồn chúng con" (Lucien et
Marcien, 205).
"Lạy Đức Kitô, con cảm tạ Ngài : xin hãy gìn giữ con, con chịu khổ vì Ngài. Con
thờ lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Con thờ lạy Ba Ngôi cực
41. thánh. Ngoài Ba Ngôi, không có Thiên Chúa nào khác. Lạy Đức Kitô, con cảm tạ
Ngài, xin đến cứu giúp con, lạy Chúa Kitô ! Con chịu khổ vì Ngài, lạy Đức Kitô !"
(Euplus, 304).
Sự gắn bó với Chúa Kitô không tách rời tâm hồn các Tử đạo ra khỏi tương quan
với Thiên Chúa như một số người nghĩ. Ai có Chúa Kitô trong mình, thì sẽ nghe
tiếng nói của Thánh Thần thúc giục mau đến cùng Chúa Cha. Và ai chịu đau khổ
vì Chúa Kitô, sẽ được tham gia hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa Hằng Sống.
Đó là niềm tin của các thánh Tử đạo và là niềm tin của cả Giáo Hội. Niềm tin vào
sự duy nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trước khi trở thành
công thức tín điều, đã tiềm tàng, nhưng không kém rõ ràng và chắc chắn trong
tâm hồn các tín hữu, mà tử đạo là một dịp tuyên xưng.
Có những chứng từ rất chắc chắn do lịch sử để lại, như trường hợp lời thẩm vấn
thánh Pionius và các bạn tử đạo :
"Polémon hỏi Pionius : Anh tôn thờ Thiên Chúa nào ?
Pionius trả lời : Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất và tất cả chúng
ta, Đấng ban cho chúng ta mọi sự sung túc, Đấng mà chúng tôi biết được nhờ
Ngôi Lời của Ngài là Đức Kitô.
Polémon nói : Hãy tế lễ tôn thờ cả hoàng đế nữa !
Pionius trả lời : Tôi không tế lễ tôn thờ một con người, vì tôi là ki-tô-hữu.
Polémon hỏi Sabine : Nàng tôn thờ ai ?
Sabine trả lời : Thiên Chúa Toàn Năng.
Polémon hỏi Asclépiade : Anh thờ ai ?
Asclépiade trả lời : Đức Giêsu Kitô.
42. Polémon nói : Ông ấy là một Thiên Chúa khác à ?
Asclépiade đáp : Không ! Ngài là một với Đấng mà những người này đã tuyên
xưng" (Actes de Pionius, 8-9 ; 250).
Trong Giáo Hội những thế kỷ đầu, các thánh Tử đạo không chỉ là những giới ưu
tú, nhưng thuộc mọi thành phần, và ở khắp mọi nơi trong đế quốc Lamã, vì thế
chứng từ của họ vô cùng quý báu. Chứng từ ấy không chỉ là niềm tin được ghi
thành chữ viết, nhưng là niềm tin sống động của cả Cộng đồng Dân Chúa. Sự
bắt bớ không phải chỉ đe dọa ở một nơi, đối với một giới cố định, nhưng đe dọa
toàn thể Giáo Hội và sự sống thường nhật của mọi người ki-tô-hữu. Theo
Origène mô tả, đời sống của Giáo Hội lúc ban đầu đầy những nét hào hùng,
hăng say và tin tưởng trong một bầu không khí duy nhất bao trùm tất cả các sinh
hoạt, dù là sinh hoạt phụng vụ, sinh hoạt huấn giáo, hay các sinh hoạt tương trợ :
"Lúc bấy giờ, ki-tô-hữu quả thực là tín đồ, vì vừa sinh ra trong Giáo Hội, họ đã
bắt đầu tuẫn giáo. Khi đưa xác các tử đạo từ nghĩa địa trở về, chúng tôi gia nhập
các cộng đồng tế lễ, và toàn thể Giáo Hội đứng đó, thực là kiên vững. Các dự
tòng được dạy dỗ trong lúc tử đạo, lúc các ki-tô-hữu chịu chết để tuyên xưng
chân lý đến giọt máu cuối cùng. Họ vững vàng lướt thắng các thử thách, gắn bó
với Thiên Chúa và không sợ hãi. Chính lúc bấy giờ, chúng tôi ý thức rằng mình
đang chứng kiến những điềm thiêng dấu lạ. Chính lúc bấy giờ, các tín hữu, dù là
thiểu số vẫn trung thành tiến tới, theo con đường hẹp, và gai góc đưa đến sự
sống" (PG. XIII, 288-289).
A. CHÚA THÁNH THẦN TRONG KINH NGUYỆN KITÔ-GIÁO
Thánh Thần là Hồng ân của Thiên Chúa. Đời sống kinh nguyện phản ánh khía
cạnh này nhiều hơn hết. Trong những thế kỷ đầu, chỉ có một số lời nguyện rất ít,
trong đó Chúa Thánh Thần được kêu cầu như Chúa Con và Chúa Cha :
43. "Chúng ta phải cầu nguyện với Chúa chúng ta, là Chúa Thánh Thần, xin Ngài
đoái thương cất đi mọi áng mây và bóng tối che khuất cái nhìn của con tim
chúng ta và các vết nhơ tội lỗi, để chúng ta có thể thấu hiểu lề luật của Ngài
bằng trí tuệ thiêng liêng và kỳ diệu" (In Lev. Hom. 1,1 ; 12,406).
Nhưng thường xuyên hơn, người ki-tô-hữu cầu xin Chúa Cha ban cho họ Ơn
Thánh Thần. Origène mô tả đời sống ki-tô-hữu như một lễ Hiện xuống liên tục.
Vào thế kỷ II, lời cầu xin ơn Thánh Thần được đưa vào kinh Lạy Cha. Thay vì câu
"Nước Cha trị đến", một số nơi trong Giáo Hội thế vào bằng câu "Xin cho Thánh
Thần của Ngài đến trong chúng con và thanh tẩy chúng con".
Thánh Thần xuất hiện nhiều hơn trong các lời kinh phụng vụ, và đặc biệt là trong
các Kinh nguyện Thánh Thể. Sự cầu nguyện hướng tới Chúa Thánh Thần chỉ trở
thành thông dụng sau này, khi có những người chối bỏ thiên tính của Người.
Mãi tới thời Trung cổ mới có những bài ca kính Chúa Thánh Thần.
II. CÁC LÝ THUYẾT NGỘ ĐẠO VÀ THẦN HỌC CỦA IRÊNÊ
A. Dẫn nhập
Tất cả các chân lý thuộc mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi đều đã được mạc khải trong Kinh Thánh Tân
Ước. Nhưng Tân Ước không phải là một hệ thống các tín điều, mà
chỉ là "Nguồn đầu tiên và quan trọng nhất" của Đức tin Công giáo.
Trên bình diện lịch sử tư tưởng, thời gian hình thành Tân Ước chưa
phải là thời gian va chạm mạnh. Sự xung đột dần dần xuất hiện, khi
Kitô-giáo bắt đầu lan rộng và Nhập Thể vào nền văn hóa La - Hy.
Nhờ các va chạm, Giáo Hội bắt đầu minh định rõ ràng hơn nội dung
đức tin : không thêm gì vào nguồn mạc khải, nhưng giải thích đúng
đắn nguồn mạc khải. Trong việc minh định này, Giáo Hội dựa trên
Thánh Truyền sống động, luôn là một, nhưng luôn mới mẻ.
44. Là một, vì những điều chính yếu đã có từ lúc ban đầu, vẫn được
trung thành lưu truyền từ đời nọ sang đời kia với sự trợ giúp của
Chúa Thánh Thần.
Luôn mới mẻ, vì Giáo Hội chạm trán không ngừng với các lý thuyết
khác nhau, đòi hỏi phải làm nổi bật và đào sâu hơn các khía cạnh
của nội dung đức tin.
Các lạc giáo xuất hiện trong bối cảnh một nền văn hóa hỗn tạp,
pha trộn nhiều lý thuyết khác nhau về vũ trụ và nhân sinh, gồm
nhiều tập tục tôn giáo phát xuất từ nhiều nơi khác nhau. Lối sống
thực tế cũng không đơn giản và an bình như thường nghĩ, nhưng
còn nhiều mặt hỗn độn, nhiều vấn đề sôi động hoặc âm ỉ trên bình
diện xã hội và chính trị.
Khi nói tới Đế quốc Lamã trong những thế kỷ đầu, có người nghĩ
ngay đến một cách đánh giá cổ điển và nổi danh : "Lamã chiến
thắng về quân sự, Hylạp chiến thắng về văn hóa". Nhận định này
có phần đúng, vì các tư tưởng chủ yếu trong nền văn hóa La - Hy
thời bấy giờ hầu hết phát xuất từ môi trường Hylạp. Dù vậy, không
thể bỏ quên sự góp mặt của Dothái-giáo và các tôn giáo huyền bí
Đông phương. Ngoài ra còn có một kho tàng kinh nghiệm của dân
Rôma về quân sự và luật pháp, về tổ chức và hành chính.
Việc hiểu biết thế giới La - Hy và thế giới Đông phương cổ càng
ngày càng rộng rãi và đích xác hơn. Và nhờ biết rõ môi trường,
người ta hiểu đúng đắn hơn lịch sử tư tưởng Kitô-giáo.
Năm thế kỷ đầu của Công nguyên là thời kỳ rất quan trọng của
Giáo Hội về mặt tổ chức cũng như tư tưởng. Trong thời gian này,
Giáo Hội trải qua những tranh luận lớn nhất, nhờ đó đã lần lượt xác
45. định nội dung đức tin và đưa ra những định thức tín điều cơ bản
của giáo lý Công giáo.
Đây cũng là thời gian Giáo Hội có nhiều Giáo phụ nổi danh và vĩ
đại, và là thời kỳ các Đại công đồng quan trọng hơn hết trong lịch
sử đức tin Công giáo.
Chúng ta chỉ đề cập đến các lạc thuyết và tranh luận liên hệ tới
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Các vấn đề tranh luận và các cố
gắng giải quyết sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của các chân
lý đức tin.
B. NGỘ ĐẠO THUYẾT (Gnosticisme)
Trên bình diện lịch sử tư tưởng thần học, Ngộ đạo thuyết là lạc
thuyết đầu tiên và quan trọng nhất mà Giáo Hội phải đương đầu
ngay từ thời các Tông đồ, đặc biệt là trong thời kỳ kế tiếp, vào
khoảng thế kỷ II ; đặc điểm của lạc thuyết này là "pha trộn" Kitô-
giáo với một số ý tưởng ngoại lai phát xuất từ thế giới Hylạp và
Đông phương. Ngộ đạo thuyết không phải là một lý thuyết duy nhất,
rõ ràng, có thể tìm hiểu và trình bày dễ dàng, nhưng là một phong
trào mạo nhận có sứ mạng truyền lại "bí mật cứu rỗi" do chính
Chúa Giêsu và các Tông đồ "mạc khải".
Tuy bề ngoài có nhiều điểm Kitô-giáo, rút ra từ Kitô-giáo, các lý
thuyết Ngộ đạo có bản chất rất khác biệt, cả trên bình diện hình
thức lẫn nội dung.
Các phái Ngộ đạo chủ trương rằng đức tin của các tín hữu tầm
thường chưa phải là điều kiện đủ để được cứu độ. Phải bổ túc bằng
một loại tri thức làm cho người có đạo trở thành "giác ngộ", "thiêng
liêng" hay "thần linh".
46. Trên bình diện nội dung giáo lý, Ngộ đạo thuyết chạm vào cốt tủy
của Kitô-giáo, vấn đề tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và
thế giới. Kitô-giáo bị đả thương ở một điểm tế nhị và khúc mắc nhất,
cũng là vấn đề muôn thuở của con người : quyền lực sự dữ thống
trị muôn loài. "Đức Giêsu có chiến thắng sự dữ không ? Có thể tin
vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đồng thời chấp nhận thực tại sự
dữ ở bên trong và bên ngoài chúng ta không ?"
Với những khám phá mới mẻ của các khoa khảo cổ và sử học, Ngộ
đạo thuyết không còn được coi như một học thuyết kỳ quái đầy
những tư tưởng phi lý. Các nhà phân tâm học, khoa học huyền bí,
hiện tượng luận, các tiểu thuyết gia hiện sinh, các nhà văn siêu
thực. muốn đưa con người ngày nay trở lại với tiềm thức, khám phá
lại những hình ảnh hoặc biểu tượng thường xuất hiện trong đời
sống tiềm thức.
Với đà tiến của khoa lịch sử tôn giáo, lãnh vực của Ngộ đạo thuyết
càng ngày càng rộng rãi hơn : các học giả ngày nay đều coi "Ngộ
đạo" như một hiện tượng phổ quát mà các tôn giáo lớn đều có, trải
qua các thời đại.
Các nhà chú giải, sử gia và triết gia, mỗi ngày thêm quan tâm đến
các lý thuyết Ngộ đạo vì nhận thấy có "quan hệ bà con" giữa các
chủ đề tư tưởng Ngộ đạo và các chủ đề tư tưởng hiện đại.
Quả thực, nếu đi sâu vào tâm thức của con người hiện đại, sẽ thấy
rằng vấn đề gay cấn nhất hiện nay vẫn là vấn đề sự dữ. Thái độ
hữu thần hoặc vô thần không đương nhiên giải quyết hay xóa bỏ
vấn đề sự dữ.
Con người nghĩ không thể xóa bỏ, nhưng chỉ có thể lướt thắng sự
dữ. Và kinh nghiệm cho thấy "chiến thắng sự dữ" không phải là một
47. chuyện đơn giản. Người vô thần có những khó khăn của họ trước
vấn đề sự dữ, nhưng người hữu thần cũng có những khó khăn
riêng.
Đối với người hữu thần, vấn đề là làm thế nào dung hòa Thiên
Chúa Tình yêu với các điều dữ xảy ra đè nặng trên con người ? Sự
dữ bởi đâu ? Do ai ? Để bảo vệ niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu,
phải chăng nên gạt bỏ mọi trách nhiệm của Người ? Thiên Chúa ở
"bên kia" sự dữ, muốn tin Thiên Chúa, không nên để Người dây
mình vào thế giới sự dữ.
Có thể lý luận cách khác : dù toàn năng và tốt lành, Thiên Chúa
vẫn không thể ngăn cản sự dữ xảy ra. Con người phải chấp nhận
có một yếu tố tất định ngoài tầm tay của Thiên Chúa ; sự toàn năng
của Thiên Chúa có giới hạn.
Lập luận trên sẽ đưa tới hậu quả là chấp nhận có hai nguyên lý hữu
thể : nguyên lý sự thiện và nguyên lý sự dữ. Thiên Chúa tốt lành là
Nguồn Suối Sự Thiện. Nhưng ngoài Người ra, còn có nguyên lý sự
dữ. Vì sự dữ thống trị trong thế giới tạo vật, phải kết luận rằng thế
giới này không do Thiên Chúa tốt lành, nhưng do một Đấng Tạo
hóa khác với Người.
Đứng trước mâu thuẫn hiển nhiên là có hai nguyên lý tuyệt đối, có
người muốn giảm bớt cường độ mâu thuẫn và đặt nguyên nhân sự
dữ bên dưới nguyên lý sự thiện : sự dữ do một vị thần sa đọa từ
thiên giới.
Nói một cách thông thái và hợp lý hơn, sự dữ gắn liền với tiến trình
tạo dựng. Nó là một thực tại tất yếu đi đôi với tạo dựng, là hậu quả
gián tiếp, không thể tránh được của hành vi tạo dựng. Với giả
48. thuyết này, sự dữ không còn là cớ vấp phạm : Thiên Chúa và con
người đều không phải là nguyên nhân.
Nguồn gốc đầu tiên của con người là Thiên Chúa tốt lành, sự dữ
không thuộc về con người và bản chất con người là trong trắng.
Quãng cách giữa con người và Thiên Chúa không phải là tội lỗi,
nhưng là các tạo vật hữu hình. Để được kết hợp với Thiên Chúa,
con người chỉ cần nhớ lại đời sống vĩnh cửu của mình. Ơn cứu độ
không ở ngoài con người hoặc do ai khác đưa tới, nhưng ở bên
trong. Không cần hy vọng và tin tưởng, mà chỉ cần hiểu biết và giác
ngộ.
Như đã phân tích, các lý thuyết Ngộ đạo không hoàn toàn phi lý.
Chấp nhận tính tất yếu của sự dữ là một cách giải thoát không đòi
hỏi phấn đấu. Ý thức giác ngộ đưa con người xa rời thế giới sự dữ
và trở về hạnh phúc nguyên thủy trong "cõi viên mãn thần linh".
"Ngộ đạo" không phải là lý thuyết nhất thời chóng qua, nhưng là
một não trạng, một cách thức suy nghĩ xuất hiện nhiều lần trong
lịch sử tư tưởng, dưới nhiều hình thái khác nhau, từ sắc thái kỳ bí
trong những thế kỷ đầu của Công nguyên, đến hình thức suy lý
chặt chẽ như các hệ thống triết học của Spinoza và Hégel, và sau
cùng là các thứ triết học hiện sinh.
Vì Thiên Chúa siêu việt ở xa, con người không ngạc nhiên khi nhìn
thấy sự dữ thi nhau xuất hiện, đau khổ và tranh chấp tiếp tục lan
tràn.
Nếu không là vô thần, cũng không phải là hữu thần theo nghĩa Kitô-
giáo (chấp nhận rằng Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra vì tự do
của con người), thì không còn thái độ nào hợp lý và hấp dẫn đối với
trí tuệ hơn là chủ trương "Ngộ đạo".
49. Khi công nhận có một số chủ đề tư tưởng hiện đại rất gần với các lý
thuyết Ngộ đạo, chúng ta sẽ hiểu Ngộ đạo thuyết không phải là một
sai lạc tầm thường, mà là một thái độ cơ bản của tinh thần con
người trước vấn đề ý nghĩa cuộc sống, là một lập trường cạnh tranh
và đương đầu với Kitô-giáo. Jean Guitton gọi thái độ hay lập trường
này là "Khuynh hướng phân ly" : tinh thần con người không chấp
nhận được sự pha trộn giữa cỏ lùng và lúa miến, nhưng khao khát
chiếm hữu "thực tại tinh tuyền", vội vã đi tìm và muốn có ngay.
Nếu đưa vào Kitô-giáo, não trạng này có khuynh hướng chối bỏ yếu
tố lịch sử và thời gian, tách rời Đức Kitô vĩnh cửu và hằng sống ra
khỏi con người Giêsu thành Nazarét, và vì thế hủy hoại tận gốc rễ
mầu nhiệm Nhập Thể.
C. GIÁO PHỤ IRÊNÊ, ANH HÙNG CHỐNG THUYẾT NGỘ
ĐẠO
1-Dẫn nhập
Một trong các Giáo phụ được công đồng Vatican II trích dẫn nhiều nhất là Irênê
thành Lyon. Lý do quan trọng hơn cả là tính cách vừa hiện đại, vừa chính thống
của tư tưởng thần học của ông.
Ai hiểu biết chút ít về Irênê, đều nhận rằng những điều ông nói, nhiều người đã
nói trước ông, như Justinô tử đạo, Thêôphilô thành Antiôkia v.v... Ông chưa xây
dựng được một hệ thống thần học chặt chẽ như các Giáo phụ Đông phương và
Tây phương sau này. Nhưng tư tưởng thần học của ông đã có một tầm quan
trọng rất lớn, có ảnh hưởng và sức hấp dẫn phi thường.
Trường hợp của ông là một trường hợp đặc biệt làm cho các nhà thần học hiện
đại suy nghĩ : tư tưởng mới mẻ nhất sinh ra từ lập trường chính thống nhất. Nhìn
vào con người của Irênê và thần học của ông, ai cũng thấy được tầm quan trọng
50. của "Đức tin chân truyền" : nếu có đức tin chân truyền sẽ có Thánh Thần luôn
đổi mới mọi sự.
Trường hợp của Irênê còn gián tiếp làm nổi bật tầm quan trọng của các lạc giáo :
đối diện và đương đầu với với những sai lầm lớn, chân lý dần dần được sáng tỏ.
Gặp kỳ phùng địch thủ, Dân Chúa có dịp triển khai các ngón võ. Càng đối phó
với các lạc giáo nguy hiểm, Giáo Hội càng biểu lộ sức sống kỳ diệu và phong
phú.
Cũng có người nghĩ ngược lại : càng sử dụng bút chiến, Giáo Hội càng làm mất
đi những yếu tố chân lý. Nhưng không thể áp dụng lập luận này cho Irênê, vì ông
đã không bỏ mất một yếu tố chân lý nào ông gặp được. Ông vừa là hiệp sĩ đức
tin, vừa là sứ giả hòa bình. Sử gia Eusebius, trong tác phẩm "LỊCH SỬ GIÁO
HỘI", đã gọi ông là "con người thiết lập hòa bình" đúng với cái tên của ông.
Hai tác phẩm chính của ông là "Adversus Haereses" phi bác các lý thuyết
ngộ đạo, và "Demonstratio Praedicationis Apostolicae" trình bày và minh
chứng vắn tắt nội dung đức tin Công giáo.
Irênê là thần học gia đầu tiên nêu gương về hướng đi phải có của thần học :
không lý luận dài dòng, không tưởng tượng viễn vông, nhưng dựa trên nền tảng
vững chắc là Lời Chúa. Chỉ có Lời Kinh Thánh là mạc khải chân thật và chắc
chắn (sola illa vera et firma). Dựa trên mạc khải chân chính sẽ có đức tin chân
chính và vững chắc. Nhờ đức tin chân chính, sẽ có tri thức đúng đắn và đích
thực về Thiên Chúa (firma et vera de Deo scientia).
Ông không chấp nhận một lý thuyết nào khác về Thiên Chúa ngoài nội dung của
Mạc khải lịch sử : chỉ có thể đến với Thiên Chúa trên con đường Người đã đến
với chúng ta. Không có gì làm sỉ nhục Thiên Chúa bằng khinh dể Mạc khải của
Người, để đi tìm một Thiên Chúa "ẩn giấu" theo ý riêng. Người đã tự biểu lộ cho
chúng ta thế nào, phải tin tưởng tôn thờ Người như vậy.