56 câu hỏi tự luận và đáp án chi tiết Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh
1. Bài Tiểu Luận Môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, quan điểm và ý đồ đồng nhất
hóa các giá trị văn hóa, các chuẩn mực xã hội theo một mô hình nào đó tự
cho là kiểu mẫu đối với toàn bộ thế giới đang tồn tại và trở thành vấn đề tập
trung chú ý của nhiều quốc gia, với những phản ứng khác nhau.Hồ Chí Minh
với tư cách là một nhà nhân văn chân chính, nhà văn hóa kiệt xuất ngay từ
rất sớm đã nắm bắt được quy luật hình thành, vận động và phát triển của một
nền văn hóa. Trong nhận thức của Người, "Văn hóa Việt Nam chứa đựng sự
kỳ diệu giữa cái ổn định và cái linh hoạt" bởi lẽ nền văn hóa này có sợi dây
liên hệ bền chặt với cuộc sống. Và, một trong những nội dung cơ bản trong
tư tưởng của Người về văn hóa đó là "Văn hóa phải gắn liền với cuộc sống".
Tư tưởng cốt lõi này trở thành nội dung xuyên suốt được quán triệt sâu sắc
góp phần mang lại nét độc đáo riêng có trong hầu hết các giá trị văn hóa mà
Hồ Chí Minh để lại.
Qua nghiên cứu nhận thức của Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta nhận
thấy Người đã xuất phát từ phạm trù "sinh tồn" để kiến giải phạm trù văn
hóa.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và
khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta
đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là
nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội
chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu
nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự
hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững
độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì
dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng
chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước
của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn.
Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của
2. thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong
đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có
đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan
khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào,
các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị
dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu
buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong
cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn
trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua
nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác -
Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho
rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên:
“Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta!” (1). Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân
thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng
tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu
nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với
Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản
ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa
điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí
Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng
góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc
địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải
phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần
chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa
cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Người coi văn hóa là kết quả tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của
loài người thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời
sống xã hội. Từ sự nhận thức đó, Hồ Chí Minh chỉ ra: kiến thiết xã hội phải
(1)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.127.
(2)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 314.
3. có bốn lĩnh vực (kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội) cùng được coi trọng.
Trong đó, văn hóa ở vào vị trí trung tâm, có vai trò điều tiết xã hội. Theo
Người muốn xác định vai trò đó, mọi hoạt động văn hóa phải thực sự hòa
quyện, thâm nhập vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của đông đảo quần
chúng nhân dân với đầy đủ những mảng tối sáng đầy góc cạnh của nó làm
đối tượng phản ánh và phục vụ. Quan trọng hơn, văn hóa phải "thiết thực
phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh
của quần chúng" (Hồ Chí Minh toàn tập, Tr. 10, Tr. 59) góp phần "soi đường
cho quốc dân đi", tạo sức mạnh dời non lấp bể như gốc của cây, nguồn của
sông. Theo lôgíc của lập luận này, Hồ Chí Minh khẳng định chính đời sống
hiện thực là "kho tài nguyên vô tận" để khơi đậy những mạch nguồn sáng
tạo. Nếu người cán bộ văn hóa xa rời cuộc sống, đứng ngoài cuộc sống,
không theo kịp mạch đập của cuộc sống tất sẽ phải đối diện với sự khô héo,
cằn cỗi, nghèo nàn và nhàm chán trong chính sáng tạo của mình. Ngược lại,
nếu biết bắt nhịp với cuộc sống đời thường vốn trần trụi, gai góc và đang
hối hả trào tuôn thì khi đó văn hóa sẽ được sống bằng nguồn năng lượng vô
cùng mà đời sống trao cho.
Gắn văn hóa với đời sống, Hồ Chí Minh xác định cơ chế vận hành của nền
văn hóa trên trục trung tâm là các hoạt động của con người. Từ chỗ đặt các
vấn đề văn hóa của con người vào vị trí những dự kiến quan trọng nhất,
Người cho rằng con người với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa - chủ thể
cuộc sống, chủ thể của quá trình lao động sản xuất phải được bồi dưỡng, vun
đắp.
Thực chất của những tư tưởng này là, Hồ Chí Minh không chỉ coi trình độ,
các giá trị nhân bản là "chất liệu", là "sự nghiệp trăm năm của văn hóa", mà
văn hóa phải là động lực cho sự phát triển. Vì vậy quan điểm này không chỉ
có ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa thuộc về con
người, quan trọng hơn còn chỉ ra cơ sở mang lại sức sống mãnh liệt cho văn
hóa.
Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay thực sự là cuộc
hành trình đến những giá trị văn hóa đích thực nhất. Bởi lẽ, CNXH chính là
biểu trưng giá trị cao đẹp nhất, sáng tạo nhất mà dân tộc Việt Nam có thể
xem là một chủ thể xứng đáng. Tuy nhiên, hành trình đến CNXH không là
con đường bằng phẳng trơn tru. Thực tiễn đang có nhiều vấn đề mới nảy
sinh, trong đó xu hướng toàn cầu hóa với việc mở cửa, hội nhập đang đòi hỏi
mỗi dân tộc cần thiết phải khẳng định bản lĩnh của mình. Trong tất cả những
sức mạnh cần khẳng định, sức mạnh văn hóa cần thiết phải đặt vào vị trí
hàng đầu, vì "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao, chiều sâu
về trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong
4. quan hệ giữa người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hóa là
động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng".
Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, "Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn
hóa". Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai
trò là nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở nên dồi dào nếu
nền văn hóa được xây dựng, giữ gìn và phát huy đúng hướng. Muốn thế,
phương châm của mọi hoạt động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu
phản ánh những cơ tầng đa diện, sâu sắc của cuộc sống và hướng đến phục
vụ cuộc sống.