SlideShare a Scribd company logo
1 of 26
LỜI NÓI ĐẦU

       Ở bất cứ đất nước nào, dù là nước nghèo hay nước giàu, nông nghiệp đều
có vị trí quan trọng. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền
kinh tế cung cấp những sản phảm thiết yếu như lương thực, thực phẩm cho con
người tồn tại. Trong quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp cần được phát
triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực và thực phẩm của xã
hội. Vì thế, sự ổn định xã hội và mức an ninh về lương thực và thực phẩm của
xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nông nghiệp.
       Những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc
độ tăng trưởng GDP cao và ổn định. Đời sống của người dân không ngừng được
cải thiện. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có
được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to
lớn của ngành nông nghiệp.
      Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân số
sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Có thể
nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế quốc dân
của Việt Nam.
       Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ
chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội, sự phát
triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
      Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong
những năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành
tựu. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn trở
thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
      Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt
Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát triển
nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thực sự xử dụng hiệu quả
và phát huy hết các nguồn lực ....
      Do dó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và
đề xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp,nhóm chúng
em đã chọn tiến hành nghiên cứu đề tài : ” Phát triển nông nghiệp bền vững của
Việt Nam hiện nay ”.

Phần I: Một số lý thuyết chung về phát triển nông nghiệp
bền vững
1.1 Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp:
1.1.1 Đặc điểm của nông nghiệp :
       Trong nền kinh tế, sự phát triển của nông nghiệp cũng gắn liền với quá
trình phát triển kinh tế nói chung, tuy nhiên với những đặc điểm riêng có của
sẳn xuất nông nghiệp mà ngành này có những ảnh hưởng khác nhau trong quá
trình phát triển kinh tế. Khi đề cập đến phát triển nông nghiệp cần phải gắn liền
với những đặc điểm tất yếu của ngành sản xuất này.
       Thứ nhất, đối tượng của ngành nông nghiệp là cây trồng vật nuôi vì vậy
chúng tồn tại và phát triển theo quy luật tự nhiên với thời gian sinh trưởng, điều
kiện sinh trưởng khác nhau.
      Thứ hai, trong sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và
đặc biệt quan trọng nhưng nó bị giới hạn bởi yếu tố diện tích. Do vậy việc mở
rộng quy mô của sản xuất nông nghiệp và việc tang lợi nhuận trong nông nghiệp
có giới hạn nhất định.
       Thứ ba, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ lớn. Trong quá trình sản
xuất , có thời kì nhu cầu về tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn rất căng
thẳng. Ngược lại có thời kỳ rất nhàn rỗi.
       Thứ tư, trong sản xuất nông nghiệp lao động không được chuyển hóa trực
tiếp mà phải thông qua cây trồng vật nuôi tuy nhiên đây là ngành sử dụng nhiều
lao động. Trong nông nghiệp thời gian lao động không trùng khớp với thời gian
tạo ra sản phẩm, nghĩa là khi kết thúc một quá trình lao động cụ thể như làm
đất, gieo hạt, chăm sóc…chưa có sản phầm ngay mà phải chờ tới khi thu hoạch.
      Thứ năm, chu kỳ sản xuất nông nghiệp nói chung là dài và không giống
nhau giữa các loại cây trồng và vật nuôi.
1.1.2 Vai trò của nông nghiệp với quá trình phát triển kinh tế
       Vai trò đầu tiên và trên hết có nghĩa quyết định đến sự tồn tại của xã hội
là đáp ứng một trong ba nhu cầu cơ bản nhất của con người: nhu cầu ăn, mặc và
ở. Tất cả các nguồn dinh dưỡng cung cấp cho nhu cầu của con người đều có
nguồn gốc bắt đầu từ những sản phẩm của nông nghiệp.Do vậy trong xu hướng
dân số thế giới gia tang ngày một nhiều thì nhu cầu về lương thực thực phẩm
ngày càng gia tăng nhanh, vấn đề an ninh lương thực và đảm bảo an ninh lương
thực không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề mang tính
toàn cầu.
      Thứ hai, sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với sự phát triển của các
ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến. Nông nghiệp là điều kiện
để tồn tại và phát triển của các ngành công nghiệp sử dụng đầu vào là các sản
phẩm nông nghiệp như các ngành công nghiệp chế biến cây công nghiệp: chè,
cà phê, cao su, thuốc lá, mía , dầu cọ, dầu lạc…Ngoài ra còn có các ngành công
nghiệp khác: phân bón, rượu bia, giấy, thuộc da, dệt….
       Thứ ba, nông nghiệp là nguồn cung caaos lao động phục vụ công nghiệp
và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Kinh nghiệm cho thấy trong quá
trình phát triển dần dần tỷ trọng lao động tham gia vào khu vực nông nghiệp sẽ
giảm xuống và đặc biệt là lao động dư thừa đã chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang các khu vực công nghiệp và dịch vu. Do vậy, việc nâng cao trình
độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho lực lượng lao động ở nông thôn cùng với quá
trình đầu tư để đổi mới trang thiết bị, công cụ lao động và tổ chức hợp lý quá
trình lao động là điều kiện cơ bản để tăng năng xuất lao động trong nông nghiệp
và các ngành khác ở nông thôn.
      Thứ tư, nông nghiệp là ngành kinh tế ra đời đầu tiên nên cũng giữ vai trò
quan trọng trong việc tích lũy và cung cấp vốn cho việc phát triển các ngành
nghề kinh tế khác, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cách mạng công nghiệp ở
các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế phát triển , trình độ chuyên môn
hóa được nâng cao việc sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm có nguồn gốc
từ nông nghiệp cũng là nguồn cung cấp lượng ngoại tệ khá lớn giúp cho các
nước đang phát triển đầu tư phát triển, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa
nền kinh tế.
       Thứ năm, nông nghiệp và nông thôn luôn là khu vực hình thành nên
những thị trường lớn đối với các ngành kinh tế khác đặc biệt là đối với các
ngành nông nghiệp sản xuất vật tư sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp mang lại cũng giúp cho tần lớp dân cư nâng cao
khả năng thanh toán, thúc đẩy nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng
của khu vực nông thôn đặc biệt khi các sản phẩm công nghiệp đã bão hòa trong
khu vực thành thị. Việc tăng cường sử dụng đầu vào từ công nghiệp tạo điều
kiện nâng cao năng suất lao động , nâng cao sản lượng, thu nhập của khu vực
nông nghiệp sẽ kéo theo nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp tăng lên. Như
vậy ngành nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ đối với các ngành khác trong
nền kinh tế quốc dân, đó vừa là mối liên kết xuôi, vừa là mối liên kết ngược gắn
liền với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
       Thứ sáu, phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa qua trọng trong việc bảo
vệ và cải tạo môi trường thiên nhiên. Với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật
nuôi gắn liền với đất đai, việc phát triển nông nghiệp tạo nên một hệ sinh thái
hoàn chỉnh, đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc
bảo vệ môi sinh. Tuy nhiên muốn được nhưu vậy phải kết hợp nhiều loại nông
sản theo một hệ sinh thái hoàn chỉnh, tránh sử dụng quá mức các loại hóa chất,
tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp sinh thái. Như
vậy xét về mặt kinh tế xã hội và môi trường thì nông nghiệp có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước.
Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhận thức được rằng nếu
không có nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền kinh
tế quốc dân khó có thể phát triển với tốc độ cao được. Vì vậy, phát triển nông
nghiệp là cơ sở quan trọng để đảm bảo ổng định chính trị, xã hội và phát triển
kinh tế bền vững củng cố và tang cường quốc phòng an ninh và là cơ sở để thúc
đảy sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế nhiều nước đã chứng minh nước
nào có nền nông nghiệp phát triển vững chắc đều đạt được sự phát triển bền
vững cho nền kinh tế.

1.2 Một số khái niệm liên quan
      - Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản
xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn
những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của tương lai.
      - Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
(Hội đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc - WCED)
       - Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về
vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa , sự bình đẳng của các công dân và
sự đồng thuận của xã hội.Phát triển bền vững phải có sự kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là
tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã
hội, giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt
là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng
chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên).
        - Quan điểm phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và
chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 36 CT/TW ngày 25 tháng 6
năm 1998 của Bộ chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời
kỳ CNH-HĐH đất nước nhấn mạnh : “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ
bản không thể tách rời trong đường lối ,chủ trương và kế hoạch phát triển kinh
tế -xã hội của tất cả các cấp,các ngành ,là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển
bền vững,thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước”.Quan điểm phát
triển bền vững được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội IX của Đảng
cộng sản Việt Nam và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 là:
“phát triển nhanh ,hiệu quả và bền vững , tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “phát triển kinh tế- xã
hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi
trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”
- Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của
thế hệ hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai
sau (Tổ chức sinh thái và môi trường Thế giới – WORD)
      - Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu
cầu cơ bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên
thiên nhiên cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng,
không khí, khí quyển và tính đa dạng sinh học…..
      - Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu
về sinh thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Phần II: Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững của
Việt Nam hiện nay:
2.1 Phần thực trạng phát triển nông nghiệp của VN:
2.1.1 Giá trị sản lượng và tỉ trọng ngành nông nghiệp đóng góp vào GDP cả
nước. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp VN và cơ cấu nội bộ ngành.

2.1.1.1 Giá trị sản lượng và tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP cả nước.

       Từ năm 2000 đến nay, tăng trưởng giá trị sản xuất của nông nghiệp bình
quân đạt gần 5,5%/năm. Tăng trưởng của GDP nông nghiệp thời gian qua có xu
hướng giảm sút do sản xuất nông nghiệp phải đương đầu với hàng loạt rủi ro về
dịch bệnh, thiên tai và cạnh tranh trên thị trường diễn ra quyết liệt và người
nông dân luôn phải chịu vị thế bất lợi..
       Tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản)
trong tổng GDP cả nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,3% năm 2007
và tăng trở lại 22,1% năm 2008, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp thì tăng so
với các năm trước.
       Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng đầu năm 2011 ước đạt
162.000 tỷ đồng, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, ước cả năm, tốc độ tăng
GDP nông, lâm, thủy sản đạt 2,4-2,6%. Năm 2011 cũng là năm được mùa lúa
với sản lượng ước đạt 41,5 triệu tấn, tăng khoảng 1,5 triệu tấn so với năm 2010.

   2.1.1.2   Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp và cơ cấu nội bộ ngành.

      -Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp:

             Giai đoạn 1995 - 2000, tốc độ tăng GDP nông nghiệp là 4%, thì
      giai đoạn 2000 - 2007 giảm xuống còn 3,7%. Riêng năm 2008, trong bối
      cảnh giá nông sản trên thế giới tăng vọt, sản xuất nông nghiệp đã khôi
      phục mức tăng trưởng lên 4,1%.
-Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp:

            Cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản chuyển dịch tích cực theo
     hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị
     trường. Trong nội bộ ngành đang có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thuỷ
     sản, giảm tỷ trọng trồng trọt trong giá trị sản lượng. Trong giai đoạn 2000
     - 2008, tỷ trọng thuỷ sản tăng từ 16% lên 23% trong khi trồng trọt giảm
     từ 65% xuống còn 57%.
             Trong trồng trọt, giai đoạn 2000 - 2008 diện tích gieo trồng lúa
     giảm hơn 250.000 ha, trong khi diện tích các cây công nghiệp, rau màu và
     cây ăn quả tiếp tục mở rộng. Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang
     trại, gia trại đang thay thế dần mô hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia
     đình. Nhưng chất lượng một số vật nuôi chưa cao; mô hình chăn nuôi
     công nghiệp chưa thật sự phát triển, khả năng kiểm soát dịch bệnh còn rất
     khó khăn.
            Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát triển nhanh. Diện tích
     nuôi trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2008 tăng
     408.100 ha. Nuôi trồng Thủy sản tiếp tục đa loài, đa loại hình, đa phương
     thức hướng thân thiện với môi trường. Sản phẩm nuôi trồng, khai thác
     thủy sản ngày càng gia tăng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
     nước mà còn cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên,
     các vùng nuôi trồng thủy sản cũng ở trong tình trạng thiếu ổn định. Khi
     giá tăng thì nông dân ồ ạt phá rừng, phá lúa, chuyển sang nuôi trồng thủy
     sản và ngược lại khi giá xuống lại diễn ra tình trạng ứ thừa hàng hóa và
     nông dân san lấp các ao hồ nuôi trồng thủy sản để quay trở lại các cây
     trồng khác.Diện tích một số các vùng nuôi lớn với mức độ thâm canh cao,
     xử lý chưa tốt đã gây ô nhiễm môi trường.

            Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất được đẩy mạnh với
     chương trình trồng mới 5 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2008 đạt
     38,7%. Nhiều nơi đã tiến hành khai thác kinh doanh tổng hợp, phát triển
     chế biến lâm sản. Đồ gỗ sau chế biến đã trở thành một mặt hàng xuất
     khẩu quan trọng. Tuy đóng góp của lâm nghiệp trong tăng trưởng kinh tế
     còn thấp so với tiềm năng. Nghề rừng hiện nay đang thể hiện tích cực vai
     trò đảm bảo cân bằng sinh thái, môi trường trong khi vai trò là một ngành
     kinh tế chưa được khai thác hết. Thu nhập từ lâm nghiệp mới đóng góp
     một phần rất nhỏ trong tổng GDP và trong cơ cấu thu nhập của hộ nông
     thôn. Tuy có những tiến bộ rõ rệt nhưng tình trạng phá rừng, cháy rừng,
     khai thác động thực vật hoang dã vẫn diễn ra. Xuất khẩu đồ gỗ phát triển
     nhanh nhưng phần lớn nguyên liệu vẫn phải nhập khẩu.
2.1.2 Tình hình an ninh lương thực thực phẩm và giá trị xuất khẩu của
ngành nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp phát triển từng bước đáp ứng tốt nhu cầu của
      thị trường trong nước. 10 năm qua, vượt qua biến động thị trường, thiên
      tai, dịch bệnh, sản xuất lương thực thực phẩm tiếp tục phát triển, nhờ đó
      bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg năm 2000 lên 501 kg năm
      2008, Việt Nam đảm bảo đủ nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu
      trung bình hơn 4 triệu tấn gạo/năm. Mức tiêu dùng lương thực giảm
      xuống (tiêu dùng gạo giảm từ 12 kg/người/tháng năm 2002 xuống 11,4
      kg/người/tháng năm 2006; tương tự, tiêu dùng các loại lương thực khác
      cũng giảm từ 1,4 kg/người/tháng năm 2002 xuống 1,0 kg/người/tháng
      năm 2006). Ngược lại, tiêu dùng thực phẩm tăng lên (tiêu dùng thịt các
      loại tăng từ 1,3 kg/người/tháng năm 2002 lên 1,5 kg/người/tháng năm
      2006, tiêu dùng tôm, cá tăng mạnh từ 1,1 kg/người/tháng năm 2002 lên
      1,5 kg/người/tháng năm 2006...). So với các nước trong vùng, giá nông
      sản, nhất là giá lương thực, thực phẩm ở Việt Nam ở mức tương đối thấp
      đã giữ giá ngày công lao động thực ở mức khá thấp, hấp dẫn thu hút đầu
      tư nước ngoài và góp phần thiết thực cho công tác xóa đói giảm nghèo.
             Xuất khẩu các loại nông, lâm sản tiếp tục được mở rộng, một số
      ngành có thị phần lớn trong khu vực và thế giới như: gạo, cao su, cà phê,
      hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ gỗ, thuỷ sản.... Giá trị kim ngạch xuất khẩu
      nông, lâm, thuỷ sản giai đoạn 2000 - 2007 đạt 51,9 tỷ USD, bình quân
      mỗi năm đạt khoảng 6,5 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 14,9%/năm. Kim
      ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 11,2 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm 2000, trong
      đó: cao su gấp 8,3 lần; cà phê 3,8 lần; gạo 2,2 lần; chè 1,6 lần; hạt điều
      3,9 lần; hồ tiêu 2,0 lần, sản phẩm gỗ 5,9 lần. Kim ngạch xuất khẩu năm
      2008 đạt khoảng 16 tỷ USD gấp 3,8 lần năm 2000, trong đó tăng trưởng
      trung bình của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2008 là:
      gạo 13,6%, cà phê 19,4%; cao su 32,5%; điều 27,8%; hải sản 19,1%.
            Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 4,5 tỷ đô la,
      chiếm 25% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của khối nông, lâm, ngư
      nghiệp. Đã có 5 mặt hàng đạt mức trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, cà phê, gạo,
      cao su, đồ gỗ. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực duy nhất trong
      nền kinh tế liên tục xuất siêu, năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong
      những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn.
2.1.3 Tình hình phân bố cây trồng,vật nuôi.
            Trong nông nghiệp, sự chuyên môn hóa ngày càng rõ nét, thể hiện
      ở việc hình thành các vùng chuyên canh. Điều này tạo điều kiện cho nông
      nghiệp phát huy lợi thế của mình và ngày càng tiến tới phát triển bền
      vững.
            Khu vực phân bố của một số cây trồng, vật nuôi:
            - Cây lương thực, cây lúa phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông
                Hồng và sông Cửu Long vì ở đây có điều kiện tự nhiên rất
                thuận lợi cho cây lương thực phát triển như đất phù sa màu mỡ,
khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều, nguồn nước dồi
                dào từ sông, ngòi, ao, hồ, kênh rạch...
             - Cây hoa màu, lương thực như ngô, khoai, sắn tập trung ở Đông
                Nam Bộ, Tây Bắc và đông bằng sông Hồng.
             - Cây thực phẩm rau đậu trồng ở khắp các địa phương.
             - Cây công nghiệp có 2 loại chính cây công nghiệp lâu năm và
                cây công nghiệp hằng năm.
                   + Cây công nghiệp lâu năm chè trồng ở trung du miền núi
             Bắc Bộ, Tây Nguyên, cà phê trồng chủ yếu ở Tây Nguyên
             (Đăklăk),cao su trồng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
                   + Cây công nghiệp hằng năm như mía ở đồng bằng sông
             Cửu Long, Đông Nam Bộ; lạc ở Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ;
             đậu tương ở vùng Đông Bắc và vùng đồng bằng sông Hồng; bông
             thuốc lá ở Đông Nam Bộ.
             - Về chăn nuôi gia súc gia cầm: trâu phân bố tập trung ở miền
                Bắc; bò ở khắp các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, ven các thành
                phố lớn; lợn ở đồng bằng song Hồng, Bắc Trung Bộ, Đông Nam
                Bộ; gà ở khắp các vùng trên cả nước; vịt ở đồng bằng sông Cửu
                Long; ngan ngỗng ở đồng bằng sông Hồng, Duyên Hải Nam
                Trung Bộ.
             - Về nuôi trồng thủy hải sản tập trung chủ yếu ở các vùng ven
                biển và đông bằng sông Cửu Long.
2.1.4 Tình hình sử dụng tài nguyên nông nghiệp.
             Năm 2005 có 9.4 triệu ha đất sử dụng trong nông nghiệp chiếm
      hơn 28% tổng diện tích đất tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp tính theo
      đầu người là 0.1 ha.
             Nhiều vấn đề tồn tại trong việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên
      nhiên: Khả năng mở rộng đất ở đồng bằng và miền núi là không nhiều.
      Đặc biệt tại Tây Nguyên, diện tích rừng tự nhiên giảm liên tục, do khai
      thác quá mức và chưa ngăn chặn được hoạt động khai thác bất hợp pháp.
      Rừng trồng không đạt chỉ tiêu. Phát triển cây trồng chưa gắn với khả
      năng tưới. Phát triển cây trồng trên địa hình không thuận lợi, chưa gắn
      với việc sử dụng kỹ thuật canh tác thích hợp. Do vậy, càng phát triển
      càng kém bền vững. Nhiều giải pháp tương đối toàn diện đã được kiến
      nghị. Một số nghiên cứu chuyên đề, như phương án sử dụng đất ở huyện
      Ngọc Hồi và Sa Thầy, đã được hoàn thành và bàn giao cho địa phương sử
      dụng.
             Vấn đề suy thoái chất lượng đất do lượng phân bón sử dụng còn
      thấp, chưa bù lại được lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi, hoặc do sự
      mất cân đối trong sử dụng phân hoá học. Cũng có nhiều nơi dư lượng
      thuốc bảo vệ thực vật còn tồn lưu trong đất khá cao, ảnh hưởng tới chất
      lượng sảm phẩm cây trồng.
Về mặt đa dạng sinh học, nhiều giống cây trồng, vật nuôi cổ truyền
      có giá trị về gen đã bị thất thoát, thí dụ 56 giống lúa, trong đó có 30 giống
      có chất lượng gạo ngon.
             Các loài thiên địch trong vùng trồng lúa cũng đã giảm đi 23 loài và
      giảm trên 50% về số lượng.
             Vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về nông nghiệp và thuỷ hải sản,
      nhưng cũng có những trở ngại lớn về mặt môi trường do chế dộ thuỷ văn
      và tình hình khai thác trên sông Mê Công, do ảnh hưởng của bán nhật
      triều Biển Đông, lại là vùng có những diện tích đất phèn rộng lớn và miền
      đất ngập nước nhậy cảm.
             Tác động của các bờ bao làm thay đổi quan hệ dòng chảy tiêu biểu
      là ở sông Tiền và sông Hậu và thúc đẩy hiện tượng sạt lở bờ và tăng bồi
      lấp ở cửa sông.
             Việc sử dụng kém hiệu quả tài nguyên nuớc, cùng những tồn tại,
      yếu kém trong quản lý và bảo vệ tài nguyên nước chủ yếu tại lưu vực các
      con sông lớn như sông Hồng, sông Đồng Nai… là nguyên nhân làm suy
      giảm và thiếu nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và cũng như nước phục vụ
      tưới tiêu cho nông nghiệp. Điều này đòi hỏi việc thực hiện Luật về tài
      nguyên nước.
             Hiện tượng hoang mạc hoá xuất hiện ở nước ta và có nguy cơ lan
      rộng tại một số tỉnh Nam Trung Bộ. Nguyên nhân của các hiện tượng
      này do đặc điểm địa hình, điều kiện khí hậu khô nóng, tính chất cực đoan
      của khí hậu-thuỷ văn giữa mùa khô và mùa mưa, thành phần thạch học
      của đất đá, các phương thức canh tác lạc hậu và việc chăn thả gia súc quá
      tải...Nhiều biện pháp đã được đề xuất, liên quan đến vấn đề quy hoạch,
      các giải pháp kỹ thuật trong sản xuất và các giải pháp về tổ chức và quản
      lý. Một số mô hình dựa trên các kinh nghiệm của nhân dân đã được
      nghiên cứu, cải tiến và đang thử nghiệm, bước đầu cho kết quả tốt.

2.1.5 Tình hình ứng dụng KH-CN vào sx nông nghiệp.
2.1.5.1Việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp:

             Ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong lĩnh vực nông nghiệp
      được coi là giải pháp đột phá xây dựng nền nông nghiệp nước ta phát
      triển toàn diện theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, việc đầu tư nghiên cứu
      ứng dụng CNSH vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu
      phục vụ sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

           Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, đến hết năm 2010, chương trình
      trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực nông nông
      nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 đã phê duyệt đưa
vào thực hiện được 90 nhiệm vụ khoa học công nghệ (78 đề tài và 12 dự
án sản xuất thử nghiệm), trong đó có 35 đề tài kết thúc năm 2010.

      Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định, các kết quả
nghiên cứu đã tạo ra hoặc tiếp nhận và làm chủ được một số CNSH hiện
đại đưa vào ứng dụng hiệu quả chủ yếu tập trung ở những lĩnh vực chính
như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm
tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết
khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm
sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi.

      Nhiều địa phương đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt và chăn nuôi
đạt hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử như việc triển khai 14 đề tài chọn tạo
giống cây trồng nông, lâm nghiệp bằng phương pháp chỉ thị phân tử đã
chọn tạo được 7 giống lúa chịu hạn, 2 giống lúa kháng đạo ôn, 4 giống
lúa kháng rầy nâu, 2 giống lúa thơm chất lượng cao, 2 giống chè có triển
vọng về năng suất, chất lượng, 8 giống bông kháng bệnh xanh lùn...

      Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được
môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công
nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống
nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ
180kg/con lên 250-300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở
nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn
nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm
chi phí đầu vào.

       Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nghiên cứu CNSH đã được ứng
dụng vào sản xuất thì vẫn còn một số đề tài CNSH vẫn chỉ là thí nghiệm,
nhiều nhiệm vụ chậm triển khai thậm chí không ít đề tài đang nằm lưu
cữu trong phòng thí nghiệm.Ngoài ra, các nhà khoa học thủy lợi còn đề
xuất được qui trình công nghệ tưới tiết kiệm nước cho vùng khan hiếm
nước ở Nam Trung Bộ, Miền núi phía Bắc, ĐBSCL. Mô hình phục hồi
đất thoái hóa, nhiễm mặn do nuôi trồng thủy sản cho vùng bán đảo Cà
Mau và vùng ven ĐBSCL. Nhiều quy trình công nghệ mới được phát
triển và ứng dụng như công nghệ ngăn sông vùng ven biển, công nghệ
đập trụ bao liên hợp để đưa ra phương án thiết kế ngăn các cửa sông lớn
tại ĐBSCL và ĐBSH.

      Cũng trong 5 năm từ 2006 - 2010, Bộ NN&PTNT đã nghiên cứu
tạo ra được 273 giống cây trồng, trong đó có 97 giống cây được công
nhận chính thức gồm 28 giống lúa, 10 giống ngô, 11 giống đậu đỗ, 4
giống cây có củ, 8 giống rau, 4 giống cây ăn quả,… nhiều loại giống đã
      được công nhận và cho sản xuất thử.

             Trong chăn nuôi thú y, Bộ NN&PTNN cũng đã lai tạo thành công
      giống lợn lai cho từng vùng đưa năng suất chăn nuôi lên cao. Nghiên cứu
      trong lâm nghiệp cũng cho ra đời 87 giống mới, gồm 78 dòng và 9 giống
      cây lâm nghiệp,… gắn bó với nghề nông.

2.1.5.2 Về sử dụng máy móc.


            Cả nước có khoảng 22.000 ô tô loại nhỏ, 20.000 tàu, thuyền gắn
      máy có thể đảm bảo 80% việc vận chuyển ở nông thôn. Số lượng máy
      kéo các loại có khoảng 300.000 chiếc, tổng công suất 3,5 triệu mã lực.
      Trong đó đa phần là máy léo 2 bánh dưới 15 mã lực (75,3%), máy kéo 4
      bánh 15-35 mã lực (15,2%), máy kéo trên 35 mã lực chỉ chiếm 9,5%. Tây
      Nguyên là địa bàn có tỷ lệ sử dụng máy nông ngiệp cao nhất, chiếm
      34,45%, thấp nhất là trung du miền núi phía Bắc (4,47-6%) và duyên hải
      Nam Trung Bộ (4,29-4,53%).

2.1.6 Tình hình thiên tai, dịch bệnh và công tác dự báo thiên tai, cảnh báo dịch
bệnh ảnh hưởng đến nông nghiệp.


             Trong thời gian gần đây, do diễn biến xấu của tình trạng nóng lên
       toàn cầu, do sự phá hoại môi trường của các hoạt động sản xuất và phát
       triển không bền vững, diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp hàng năm
       gây ra thiệt hại lớn về người và của cho sản xuất nông nghiệp và đời
       sống người dân. Tần suất thiên tai ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng
       và quy mô ngày càng lớn. Ở nước ta trong các năm qua liên tục xuất hiện
       bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở đất, hạn hán, cháy rừng,...
             Theo số liệu thống kê nhiều năm thì trung bình hàng năm có
       khoảng 5 - 6 cơn bão và 2 - 3 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam.
       Ngoài ra, gió mùa (gió mùa Tây Nam khô nóng và gió mùa Đông Bắc
       lạnh)và một số kiểu thời tiết khắc nghiệt như : mưa dông kèm lốc xoáy
       và vòi rồng, mưa đá, sương muối, sương giá… cũng gây ra những thiệt
       hại lớn cho sản xuất nông nghiệp.
             Trung bình hàng năm có 37,9% và 16,7% hộ nông dân bị thiệt hại
       do mất mùa và thiên tai. Năm 2007, ước tính thiệt hại do thiên tai gây ra
       làm 462 người chết và 11.514 tỷ đồng, bằng gần 1% GDP. Trong tương
       lai, xu hướng nóng lên toàn cầu sẽ tiếp tục gây thiệt hại lớn cho Việt
       Nam.
             Thêm vào đó là tình trạng dịch bệnh diễn biến phức tạp trên quy
       mô rộng cho cả cây trồng, vật nuôi và con người. Trên lúa xuất hiện dịch
rầy nâu, vàng lùn xoắn lá,... trên gia súc xuất hiện bệnh lở mồm long
       móng, lợn tai xanh, cúm lợn... trên gia cầm bệnh cúm tiếp tục đe dọa,...
       Các bệnh dịch này chẳng những gây thiệt hại trực tiếp cho sản xuất mà
       một số loại bệnh của gia súc, gia cầm có nguy cơ lây lan sang cho người,
       gây khó khăn ổn định kinh tế xã hội. Với nuôi trồng thủy hải sản thì một
       số dịch bệnh hay gặp phải là: bệnh đốm trắng và bệnh đầu vàng đối với
       tôm sú và tôm chân trắng, bệnh hội chứng Taura đối với tôm chân trắng.
             - Công tác dự báo thiên tai và cảnh báo dịch bệnh.

                                                                  , rađa thời tiết
          người ta có thể phát hiện được bão, dông, tố, lốc, mưa đá, sương mù...
          song do các hiện tượng trên xảy ra quá nhanh hoặc diễn biến phức tạp
          nên chỉ có thể dự báo cực ngắn. Tuy vậy do điều kiện thông tin truyền
          thông, thông tin dự báo đến cộng đồng
                                         .
                Với nước ta hiện nay căn cứ vào điều kiện và khả năng hình
          thành thiên tai trong những hệ thống thời tiết nhất định chúng ta chỉ
          có thể cảnh báo khả năng xuất hiện chúng để phục vụ công tác phò



           nghiệp nói riêng vẫn là chiến lược lâu dài và hiệu quả nhất đối với
           công tác phòng chống thiên tai, giảm nhẹ thiệt hại.
                 Với dịch bệnh thì hàng năm các cơ quan chức trách vẫn có
           những cảnh báo cho người sản xuất nông nghiệp theo mùa, tháng mà
           dịch bệnh phát triển mạnh. Tuy nhiên, do công tác thanh tra kiểm tra
           còn yếu kém và hệ thống thông tin chậm nên dịch bệnh dễ bị lan
           rộng, khó kiểm soát dẫn tới hậu quả khó lường trong sản xuất nồn
           nghiệp.
2.1.7 Hệ thống thủy lợi trong cả nước.
2.1.7.1 Hiện trạng thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp.
              Sau nhiều năm đầu tư, với mục tiêu chủ yếu là đảm bảo an ninh
       lương thực quốc gia tiến tới xuất khẩu. Đến nay, cả nước đã có 75 hệ
       thống thuỷ lợi vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thuỷ lợi nhỏ với tổng giá trị
       tài sản cố định khoảng 60.000 tỷ đồng (chưa kể giá trị đất và công sức
       nhân dân đóng góp). Các hệ thống thuỷ lợi năm 2000 đã đảm bảo tưới
       cho 3 triệu ha đất canh tác, tiêu 1.4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh bắc bộ,
       ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1.6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng sông
       Cửu Long. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu ha
       chiếm 84% diện tích lúa. Các công trình thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha
       rau màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Lượng nước sử dụng cho nông
       nghiệp rất lớn. Theo tính toán năm 1985 đã sử dụng 41 tỷ m3 chiếm
89,8% tổng lượng nước tiêu thụ, năm 1990 sử dụng 46,9 tỷ m3 chiếm
      90% và năm 2000 khoảng trên 60 tỷ m3
            Nhờ các biện pháp thuỷ lợi và các biện pháp nông nghiệp khác
      trong vòng 10 năm qua sản lượng lương thực tăng bình quân 1.1 triệu
      tấn/năm. Tổng sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34,5 triệu tấn, đưa
      bình quân lương thực đầu người 330 kg năm 1990 lên 444 kg năm 2000.
      Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
      với mức gần 4 triệu tấn/năm.

2.1.7.2 Công tác thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản

             Tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản nước ta khá lớn, nhiều
      hệ thống thuỷ lợi khi xây dựng đã xét đến việc kết hợp cấp nước để nuôi
      trồng thuỷ sản. Khi xây dựng các hồ chứa nước vấn đề phát triển thuỷ sản
      trong hồ chứa cũng được đề cập đến. Vài năm gần đây do hiệu quả của
      nuôi trồng thuỷ sản nhất là tôm sú nhiều vùng đất ven biển đã được xây
      dựng thành những khu vực nuôi trồng thuỷ sản tập trung. Tuy nhiên việc
      xây dựng các hệ thống thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu sản xuất chưa được quan
      tâm đúng mức, chưa có qui hoạch và các giải pháp đồng bộ. Hầu hết đều
      do dân tự phát, tự tổ chức xây dựng theo kinh nghiệm. Nhiều nơi, đã có
      hiện tượng thủy hải sản bị bệnh, tôm chết hàng loạt mà nguyên nhân là do
      môi trường nước không đảm bảo liên quan đến hệ thống cấp nước và
      thoát nước. Một số vùng đã có tranh chấp giữa nuôi tôm và trồng lúa gắn
      với nó là ranh giới mặn, ngọt cũng là vấn đề công tác thuỷ lợi phải xem
      xét, giải quyết.
             Việc phát triển thuỷ sản ở các hồ chứa nước cũng rất hạn chế, ở
      hầu hết các hồ chứa vừa và lớn chủ yếu chỉ khai thác nguồn lợi thủy sản
      tự nhiên nên chỉ sau 1 thời gian ngắn nguồn lợi này đã cạn kiệt. Đây là
      một tiềm năng lớn nhưng chưa được quan tâm tổ chức, đầu tư.
2.2 Thành tựu và thách thức trong phát triển nông nghiệp ở Việt
Nam
2.2.1 Thành tựa đạt được :
             Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, vượt qua bao gian
      khó, đến nay nền nông nghiệp nước ta đã từng bước trưởng thành và
      đóng góp nhiều thành tựu vào sự nghiệp phát triển kinh tế, trong đó nổi
      bật là những vấn đề sau đây:
             - Thành tựu nổi bật nhất là nông nghiệp VN tăng trưởng cao,liên
      tục, đặc biệt là căn bản giải quyết được vấn đề lương thực cho đất nước.
      tăng trưởng bình quân hàng năm về nông lâm và ngư nghiệp thời kì 1991
      – 2000 đạt 4,3% trong đó nông nghiệp đạt 5,4% ( riêng lương thực đạt
      4,2%, cây công nghiệp đạt 10%, chăn nuôi 5,4%) thủy sản tăng 9,1%.lâm
nghiệp tăng 2,1%.sản xuất lương thực nước ta đã đạt được kết quả to lớn
từ 13,478 triệu tấn lương thực năm 1976 đã tăng lên 14,309 triệu tấn năm
1980, lên 18,20 triệu tấn 1985, lên 21,488 triệu tấn năm 1990, lên 27,570
triệu tấn năm 1995 và lên 34,254 triệu tấn năm 1999, đáng chú ý là năm
1999 so với năm 1994 sản lượng lương thực tăng 8,055 triệu tấn, hàng
năm tăng bình quân 1,611 triệu tấn.nếu so với năm 1976 săn lượng lương
thực năm 1999 tăng 154.41% trong đó lúa gạo tăng 133.75%.tính bình
quân lương thực đầu người từ 274.4kg năm 1990 lên 372.5kg năm 1995
lên 407.9kg năm 1998 và lên 433.9kg năm 2000. Giá trị sản xuất
lâm,nông nghiệp và thủy sản năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính
đạt 232.7 nghỉn tỷ đồng, tăng 4.7 % so với năm 2009, bao gồm nông
nghiệp đạt 168.4 nghìn tỷ đồng, tăng 4.2%; lâm nghiệp đạt 7.4 nghìn tỷ
đồng tăng 4.6%; thủy sản đạt 56.9 nghìn tỷ đồng tăng 6.1%
       Trong hơn bốn thập kỷ lương thực đối với nước ta luôn là vấn đề
nóng bỏng, tình trạng thiếu lương thực diễn ra triền miên. Tính riêng 13
năm(1976-1988) Việt Nam đã nhập 8.5 triệu tấn gạo, hàng năm nhập
0.654 triệu tấn gạo, trong đó thời kỳ 1976 – 1980 bình quân hàng năm
1.12 triệu tấn. thời kỳ 1981 – 1988 bình quân hàng năm nhập 0.3625 triệu
tấn.song từ năm 1989 lại đây sản xuất lương thực, sản xuất lương thực
nước ta chẳng những đa trang trải nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, có
lương thực dữ trữ cần thiết mà còn dư thừa để xuất khẩu, hàng năm xuất
khẩu từ 1,5 – 2,0 triệu tấn gạo thời kỳ 1989 – 1995 và tăng lên 3 – 4,6
triệu tấn, tăng 1,04 triệu tấn so với năm 2009 do cả diện tích và năng suất
đều tăng, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7513,7 nghìn ha, tăng
76,5 nghìn ha so với năm trước : năng suất đạt 53,2 tạ/ha,tăng 0,8 tạ/ha.
       Giải quyết tốt vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để đa dạng
hóa độc canh lúa nước, từ khi giải quyết được vấn đề lương thực, mới có
điều kiện để đa dạng hóa theo hướng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng
tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả…Năm 2000 tỷ trọng cây lương thực
là 67,11%, trong đó lúa chiếm 61,38%, tỷ trọng cây công nghiệp chiếm
6,33%, riêng cây công nghiệp lâu năm chiếm 11,21%, tỷ trọng cây ăn
quả tăng 29,34%.Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú đã tạo
điều kiện để phát triển chăn nuôi. Từ năm 1981 trở lại đây con bò lại
được xác định không chỉ để cày kéo mà là nguồn cung cấp thịt, sữa cho
nhân dân, 11 đàn bò nước ta đã tăng lên nhanh chóng, năm 2000 đàn bò
cả nước tăng lên 4,1279 triệu con tăng 152,21% so với năm 1976, trong
đó đàn bò miền Bắc gấp 3,2 lần. Hiện nay lợn là gia súc cung cấp nguồn
thịt chủ yếu cho nhân dân, số lượng đàn lợn từ 8,9581 triệu con năm
1976 tăng lên 12,2605, tăng 36,86%, đó là thời kỳ lương thực đang gặp
khó khăn đàn lợn tăng chậm. Từ năm 1991 trở đi lương thực được giải
quyết vững chắc, đàn lợn đã tăng nhanh từ 12,1404 triệu con tăng lên
17,6359 triệu con, chỉ trong vòng 7 năm số lượng đàn lợn tăng thêm
nhiều hơn 2,29 lần của 15 năm trước đó. Điều đáng chú ý là số lượng đàn
lợn năm 2000 tăng 125,42% so với năm 1976, trong khi đó sản lượng thịt
lợn hơi tăng 326,85%. Đạt được kết quả đó là do chất lượng đàn lợn tăng
lên. Ngoài lợn, trâu bò chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về số
lượng và chủng loại, cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông
dân đã tiếp thu phát triển chăn nuôi kiểu công nghiệp. Năm 2010 đàn lợn
cả nước có 27,37 triệu con, giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm 2009.
Đàn gia cầm có 300,5 triệu con, tăng 7,3%. Đàn trâu có 2913,4 nghìn con,
tăng 0,9%. Đàn bò có 5916,3 nghìn con, giảm 3,1%. Sản lượng thịt trâu
hơi xuất chuồng năm 2010 ước tính 84,2 nghìn tấn, tăng 6,5% so với năm
2009. Sản lượng thịt bò 278,9 nghìn tấn, tăng 5,9%. Sản lượng thịt lợn
3036,4 nghìn tấn, tăng 0,2%. Sản lượng thịt gia cầm 621,2 nghìn tấn, tăng
17,5%. Trứng gia cầm 6371,8 triệu quả, tăng 16,5%.
       Những năm gần đây thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kể, công
tác nuôi trồng thủy sản được coi trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ
sở sản xuất giống và nuôi tôm xuất khẩu được triển khai ở ven biển miền
Trung. Việc đánh bắt hải sản đang được khôi phục và phát triển ở nhiều
địa phương, tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt được tăng cường,
nhất là hiện nay các tỉnh đang triển khai dự án đánh bắt cá xa bờ, tiềm
lực của thuỷ sản được tăng nhanh, nhờ vậy mà sản lượng thuỷ sản tăng
nhanh, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn. Sản lượng thuỷ sản năm 2010
ước tính đạt 5127,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm 2009, trong đó cá đạt
3847,7 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm 588,8 nghìn tấn, tăng 7,1%.
       - Từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá với
qui mô lớn. Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất
nông sản hàng hoá, nông nghiệp nước ta đã và đang từng bước hình thành
các vùng sản xuất chuyên môn hoá với qui mô lớn. Hai vùng trọng điểm
lúa của nước ta là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng đó
là hai vùng sản xuất lúa lớn nhất của đất nước. Ở đồng bằng sông Cửu
Long, năm 2000 diện tích gieo trồng lúa đạt 3,936 triệu ha, hàng năm
diện tích trồng lúa cần được mở rộng, trong đó có những tỉnh có qui mô
diện tích tương đối lớn, như tỉnh Kiên Giang có gần 540 ngàn ha, An
Giang có 464 ngàn ha, Cần Thơ có 413 ngàn ha v.v...
      Cà phê là sản phẩm hàng hoá xuất khẩu quan trọng sau lúa gạo,
năm 2000 diện tích cà phê cả nước đạt 516,7 ngàn ha với sản lượng hơn
698,2 ngàn tấn cà phê nhân. Năm 2010 diện tích cà phê cả nước 548,2
nghìn ha, sản lượng cà phê ước tính 1105,7 nghìn tấn, tăng 4,6% so với
năm 2009. Cà phê được phân bố tập trung nhất ở vùng Tây Nguyên
chiếm 80,25% diện tích và 85,88 sản lượng, riêng tỉnh ĐăkLăk chiếm
48,93% diện tích và 64,73% sản lượng cà phê nhân cả nước... Ngoài vùng
cà phê Tây Nguyên, cà phê cũng phát triển mạnh ở vùng Đông Nam Bộ,
chiếm 13,27% diện tích và 11,85% sản lượng cà phê của cả nước, trong
đó tập trung nhất là tỉnh Bình Phước.
       Cao su là cây công nghiệp lâu năm được phát triển mạnh ở nước
ta, đến năm 2000 Việt Nam đã có 406,9 ngàn ha, với sản lượng mủ khô
291,9 ngàn tấn và lượng cao su mủ khô đã xuất khẩu năm 2000 là 280,0
ngàn tấn. Sản xuất cao su được phân bổ chủ yếu vùng Đông Nam Bộ,
trong đó tập trung ở hai tỉnh Bình Phước và ở Tây Nguyên.
      Năm 2010 sản lượng một số cây ăn quả cũng tăng khá, trong đó sản
lượng cam, quýt cả năm ước tính đạt 729,4 nghìn tấn, tăng 5,2% so với
năm trước; dứa 502,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; chuối 1,7 triệu tấn, tăng 3%;
xoài 574 nghìn tấn, tăng 3,6%, bưởi 394,1 nghìn tấn, tăng 3,4%.
       Về chăn nuôi được phân bố đồng đều ở các vùng trong cả nước,
tính tập trung chưa cao, song bước đầu đã thể hiện sự hình thành vùng
sản xuất hàng hoá tương đối rõ. Lợn là vật nuôi quan trọng, cung cấp
nguồn thực phẩm chủ yếu cho nhân dân nước ta, sản lượng thịt hơi chiếm
76,8% tổng sản lượng thịt hơi. Tính bình quân cả nước trên 1 ha đất canh
tác hàng năm có 3,18 con lợn và sản xuất được 207,8 kg thịt hơi, trong
lúc đó vùng đồng bằng sông Hồng là nơi chăn nuôi lợn khá tập trung,
chiếm 22,19% tổng đàn lợn và 26,41% tổng sản lượng thịt hơi sản xuất ra
của cả nước tính trên ha đất canh tác hàng năm có 6,2 con lợn, cao gấp
hai lần bình quân chung cả nước và 503,9 kg thịt hơi, cao gấp 2,5 lần so
với bình quân chung cả nước. Đàn bò cả nước có gần 4,0 triệu con năm
1997, tính bình quân trên 1 ha đất nông nghiệp có 0,51 con và sản xuất
được 9,4 kg thịt hơi, trong đó vùng Duyên hải miền Trung đạt mức cao
nhất - 1,83 con/ha và 33,63 kg thịt hơi/ha cao gấp ba lần bình quân chung
cả nước. Tiếp đó là vùng khu 4 đạt mức 1,29 con/ha và 13,48 kg thịt
hơi/ha.
      Nhờ quá trình chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá theo
hướng đa dạng đã tạo điều kiện để từng bước hình thành những vùng sản
xuất chuyên môn hoá, có qui mô sản phẩm hàng hoá lớn.
       Nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng
xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để
tăng trưởng kinh tế, nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ và chuyển
biến tích cực. Năm 1986, giá trị xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản đạt 513
triệu đô la tăng lên 3168,3 triệu đô la năm 1996. Sau 10 năm kim ngạch
xuất khẩu đã cao gấp hơn 6 lần. Đáng chú ý là thời kỳ 1991-1995 trong
10 năm hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn của cả nước thì nông lâm thuỷ
sản có 6 mặt hàng, đó là gạo, cà phê, cao su, hạt điều, lạc nhân và thuỷ
sản.
Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã đạt
trên 18 tỷ USD, đưa nước ta thành một trong những quốc gia xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản lớn trên thế giới. Năng suất lúa năm 2010 đạt 53
tạ/ha, gấp 4,4 lần năng suất năm 1945 và gần gấp hai lần năm 1985. Sản
lượng lúa năm 2010 đạt gần 40 triệu tấn; sản lượng thịt tăng gấp năm lần
so với năm 1985; độ che phủ của rừng tăng lên 39,5% vào năm 2010.
Thủy sản năm 2010 đạt tổng sản lượng 4,8 triệu tấn. Sản lượng muối đạt
1,1 triệu tấn. Nước ta đã tham gia xuất khẩu gạo, cà-phê, cao-su, chè,
điều, hồ tiêu, thủy sản, các loại lâm sản với số lượng và chất lượng ngày
càng tăng. Hạt điều, hạt tiêu có giá trị xuất khẩu cao nhất thế giới và được
đánh giá cao về chất lượng; gạo, cà-phê đứng thứ hai, cao-su đứng thứ tư,
thủy sản đứng thứ năm, chè đứng thứ bảy... Ðã có năm mặt hàng kim
ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên là gạo, thủy sản, đồ gỗ, cà-phê và
cao-su. Hàng nghìn công trình thủy lợi được xây dựng trong 65 năm qua,
trong đó có nhiều công trình quy mô lớn. Hệ thống thủy lợi với hàng
nghìn hồ đập, trạm bơm, hàng chục nghìn km kênh mương, đê kè đã được
hình thành.
       Trong sự phát triển nhanh chóng của ngành nông lâm nghiệp trong
những năm qua có sự đóng góp đáng kể của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ
thuật thuộc các viện, các trung tâm nghiên cứu các trường đại học và cán
bộ khuyến nông, khuyến lâm ở khắp mọi miền đất nước. Thành tựu nổi
bật nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay là GDP hằng năm
tăng trưởng tương đối ổn định, bình quân từ 4,2% đến 4,5%/năm. Tổng
giá trị nông, lâm và thủy sản năm sau thường cao hơn năm trước, năm
2009 đã đạt khoảng 12,5 tỷ USD. Hiện nay, nhiều tiến bộ khoa học và
công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp đã tạo ra giá trị gia tăng
trong tăng trưởng nông nghiệp khoảng 30%. Những năm qua, các cơ
quan nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thành công các
quy trình công nghệ và chọn tạo được nhiều giống cây trồng, gia súc...
Những tiến bộ kỹ thuật đó được được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp
trên nhiều lĩnh vực như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và chế
biến sau thu hoạch. Năm 2011 cũng là năm thứ 21, nước ta thực hiện kim
ngạch xuất khẩu gạo cao. Khả năng cả năm 2010, xuất khẩu đạt 6,5 triệu
tấn, trong đó đến ngày 9-11-2010 đã giao cho bạn hàng nước ngoài 5,9
triệu tấn gạo, với giá trị kim ngạch 2,5 tỷ USD (giá FOB) tăng 9% về số
lượng và 14% giá trị kim ngạch. Giá gạo xuất khẩu đang ngày càng tăng
dần, bình quân đạt 424 USD/tấn, tăng 18,58 USD/tấn so cùng kỳ năm
2009.. Với sản lượng lúa chiếm hơn 90% số sản lượng các cây lương thực
có hạt, Việt Nam đang trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
       - Nông nghiệp đã tạo nhiều việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo
(tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 2%/năm). Trước đổi mới, số người sống dưới
mức đói nghèo là 60%, năm 2003 giảm xuống còn 29% và năm 2006 còn
19%. Mức giảm đói nghèo ấn tượng này chỉ có Việt Nam và Trung Quốc
     đạt được trong thời gian qua, chủ yếu là nhờ thành tựu to lớn trong lĩnh
     vực nông nghiệp, phát triển nông thôn. Trong khi công nghiệp và dịch vụ
     còn đang lấy đà thì nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn là nơi tạo việc
     làm chính cho dân cư nông thôn
           - Môi trường được cải thiện một cách rõ rệt. Thập kỷ 90 của thế kỷ
     20 chứng kiến những bước ngoặt quan trọng về nhận thức và hành động
     của lâm nghiệp, chuyển từ khai thác rừng tự nhiên sang bảo vệ rừng, tăng
     đầu tư trồng mới, khoanh nuôi; xã hội hoá hoạt động trồng và bảo vệ
     rừng. Chương trình Phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327), Chương trình
     trồng mới 5 triệu hecta rừng cùng các chính sách giao đất, giao rừng và
     hạn chế khai thác gỗ đã góp phần tăng tỷ lệ che phủ rừng từ 33,2% (năm
     1999) lên 38% (năm 2006), tăng lên 39,5% vào năm 2010.
            - Công tác thuỷ lợi và phòng chống thiên tai có chuyển biến tích
     cực. Đến nay, cả nước có 75 hệ thống thuỷ lợi lớn; 800 hồ chứa lớn;
     3.500 hồ chứa dung tích trên 1 triệu m3; trên 1.000 trạm bơm; hàng vạn
     công trình khác có khả năng tưới trực tiếp cho 3, 45 triệu hecta, tiêu cho
     1, 7 triệu hecta, ngăn mặn 0, 87 triệu hecta, cải tạo chua phèn 1, 6 triệu
     hecta và cấp hơn 5 tỷ m3/năm cho sinh hoạt và công nghiệp. Bên cạnh
     đó, hệ thống đê điều đồ sộ với 5.700km đê sông, 2.000km đê biển,
     23.000km bờ bao làm nền cho công tác phòng chống thiên tai.
           Đặc biệt năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO đã đánh dấu một
     bước chuyển biến lớn của kinh tế cả nước nói chung và ngành nông
     nghiệp nói riêng. Sau 3 năm gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam đã
     đạt được những kết quả rõ rệt. Giá trị xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng.
     Nếu như năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt xấp xỉ 12,5 tỷ USD thì năm
     2008, con số này là 16 tỷ USD và năm 2009 xuất khẩu đạt 15,4 tỷ USD.
     Cán cân thương mại nông lâm thủy sản năm 2007 xuất siêu 5,450 tỷ
     USD, năm 2008 tiếp tục tăng xuất siêu với mức 5,874 tỷ USD và năm
     2009 là 7,3 tỷ USD.
           Như vậy, sau 3 năm hội nhập WTO với 3 cú sốc về giá lương thực,
     giá xăng dầu, và khủng hoảng kinh tế toàn cầu phủ “bóng đen” lên Việt
     Nam, nông nghiệp đã thể hiện được vai trò “trụ đỡ” trong việc chống chọi
     được với những tác động của khủng hoảng kinh tế.




2.2.2Những thách thức của nông nghiệp VN
Do ảnh ảnh hưởng suy thoái của kinh tế thế giới và những rủi ro,
      bất lợi về thời tiết, ngành nông nghiệp đã phải gánh chịu nhiều khó khăn
      trong năm trước đây. Những khó khăn này cũng đặt nông nghiệp Việt
      Nam trong năm tới trước nhiều thách thức.

2.2.2.1 Vấn đề môi trường trong nông nghiệp nông thôn:

             Cháy rừng đang là một vấn nạn của ngành nông nghiệp, vừa trực
      tiếp gây mất rừng vừa gián tiếp gây ra hiệu ứng khí thải nhà kính. Ảnh
      hưởng của biến đổi khí hậu làm thay đổi quy luật thủy văn các con sông,
      gây nên hiện tượng hạn hán trên diện rộng tại các tỉnh đồng bằng sông
      Hồng và gây ra nhiều áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ở khu vực phía Nam.
      Tại đồng bằng sông Cửu Long, mực nước trên sông có khuynh hướng
      tăng, gây ngập trên diện rộng. Đồng thời đồng bằng sông Cửu Long còn
      phải hứng chịu hiện tượng nước mặn xâm nhập vào nội địa gây thiếu
      nghiêm trọng nước ngọt phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Bên cạnh đó, tác
      động của biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ làm quá trình xâm nhập mặn vào
      nội địa đồng bằng sông Cửu Long sâu hơn, không loại trừ địa phương nào
      và nước ngọt sẽ trở nên khan hiếm hơn. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu
      Long cần lựa chọn giải pháp tối ưu để ứng phó. Thời tiết thay đổi thất
      thường cũng làm tăng nguy cơ xuất hiện các loại dịch bệnh mới.

2.2.2.2 Đời sống dân cư nông thôn

             Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức trên
      2 lần. Tỷ lệ nghèo khu vực nông thôn (18,1%) cao gấp 6 lần khu vực
      thành thị (3,1%). Gần 90% hộ nghèo tập trung ở vùng thường xuyên gánh
      chịu thiên tai nên khả năng tái nghèo rất lớn. Ảnh hưởng của thời tiết và
      thiên tai ngày một nhiều có khả năng làm giảm sản lượng lương thực,
      thực phẩm gây nguy cơ đói cục bộ tại các vùng khó khăn. Tỷ lệ nghèo ở
      nhóm dân tộc ít người vẫn ở mức rất cao và tốc độ giảm nghèo rất chậm.
      Lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 70% trong tổng
      số lao động nông thôn và 50% lao động xã hội. Xét về độ tuổi, lao động
      nông thôn tương đối trẻ, với 47,7% nằm trong độ tuổi từ 15-35 tuổi. Tuy
      có số lượng lao động trẻ dồi dào nhưng chất lượng lao động nông thôn
      còn thấp, cản trở đầu tư tư nhân vào nông nghiệp nông thôn, cũng như
      việc rút lao động nông thôn vào khu vực công nghiệp - dịch vụ chính thức
      ở đô thị.

             Tăng trưởng nông nghiệp suy giảm trong bối cảnh giá XK giảm
      sút, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người nông dân tại các vùng
      XK nông-lâm-thủy sản. Nông hộ buộc phải giảm chi tiêu.

            - 68,4% số hộ giảm chi tiêu cho thịt cá khoảng 18,5%.
- 65,2% số hộ giảm chi tiêu cho đồ dùng lâu bền khoảng 13,6%.

            - 52,3% số hộ giảm chi tiêu cho xây dựng khoảng 25,9%.

2.2.2.3 DN nông nghiệp nông thôn

            Tính đến năm 2009 có khoảng gần 20.000 cơ sở sản xuất công
      nghiệp nông thôn, tăng gần 78% so với năm 2005 (thời điểm Luật doanh
      nghiệp ra đời). Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là
      thuần nông. Các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công
      nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Hoạt động của nhiều DNNN vẫn kém hiệu
      quả, 27% DN làm ăn thua lỗ.

             Bên cạnh khó khăn của khu vực DN, kinh tế trang trại cũng phát
      triển rất chậm, chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông - lâm - ngư nghiệp của
      cả nước. Mức độ trang bị cơ giới và áp dụng khoa học công nghệ của các
      trang trại này còn rất yếu kém, khả năng liên kết với thị trường rất hạn
      chế, khả năng cạnh tranh kém.

            Kinh tế hợp tác phát triển chậm, chủ yếu là các HTX cũ chuyển
      đổi. Số lao động thường xuyên trong các HTX chỉ chiếm 5% tổng số lao
      động nông – lâm - ngư nghiệp. 54% số hợp tác xã hiện nay có hiệu quả
      hoạt động ở mức trung bình và yếu.

2.3 Mục Tiêu Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững
2.3.1 Mục tiêu chung

             Mục tiêu chiên lược của các nước nông nghiệp là xây dựng và phát
      triển một nên nông nghiệp bền vững. Mục tiêu tổng quát đến năm 2015
      là: “xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất
      hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường; gắn
      phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống
      nhân dân”.

2.3.2 Mục tiêu cụ thể

            Mục tiêu cụ thể đến năm 2015: Tạo sự chuyển biến rõ nét trong sản
      xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên
      cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất
      lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất chuyên canh,
      sử dụng giống mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đẩy mạnh cơ giới hóa,
      trong sản xuất; gắn sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ và mở rộng
      xuất khẩu. Đến năm 2015, diện tích cây ăn trái 34.500 ha, sản lượng
442.000 tấn; 53.500 ha dừa, sản lượng 494 triệu trái; diện tích vùng
      chuyên canh sản xuất lúa tập trung 26.500 ha, sản lượng đạt 331.600 tấn;
      vùng mía nguyên liệu 4.300 ha, sản lượng 365.500 tấn; diện tích đất có
      rừng đạt 4.400 ha; đàn bò 220.000 con, đàn heo 350.000 con, đàn gia cầm
      5 triệu con; diện tích nuôi thủy sản đạt 46.000 ha, trong đó nuôi tôm biển
      thâm canh bán thâm canh 5.500 ha, sản lượng thủy sản nuôi đạt 195.000
      tấn; sản lượng thủy hải sản đánh bắt đạt 90.000 tấn. Tốc độ tăng trưởng
      giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp bình quân hàng năm 5,63%.

             Phấn đấu trong giai đoạn 2011 – 2015 được mức tăng trưởng toàn
      ngành là 3.5% - 3.8% / năm .Kế hoạch năm 2011 đạt múc tăng trưởng
      của ngành là 4,5% - 5% so với năm 2010 trên cơ sở tập trung ưu tiên
      nguồn lực cho nâng cao năng suất , chất lượng các sản phẩm chủ lực như
      cá tra, tôm nước lợ, lúa gạo, cao su, cà phê, điều, hạt tiêu, lạc, đậu tương,
      chăn nuooi gia súc, chăn nuôi gia cầm. Đối với lĩnh vực trồng trọt, mục
      tiêu đến năm 2015 ổn định diện tích đất lúa 3,8 triệu ha, sản lượng thu
      hoạch 40 triệu tấn / năm. Tổng sản lượng cây có hạt đạt 46,3 triệu tấn.

            Với chăn nuôi, mục tiêu giai đoạn 2011 – 2015 đạt mức tăng giá trị
      sản xuất binh quân 6 – 7% /năm. Năm 2012 sẽ sản xuất 4,28 triệu tấn thịt
      hơi các loại, 6,53 tỷ quả trứng, 230 nghìn tấn sữu tươi, 2 triệu tấn thức ăn
      chăn nuôi .

            Ngành thủy sản phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 6% - 7%/năm,
      riêng năm 2011 tăng trưởng 7% và cho tổng sản lượng 5,3 triệu tấn thủy
      sản. Kim ngạch xuất khẩu phải trên 5 tỷ USD.

              Ngành lâm nghiệp phấn đấu phát triển toàn diện trong 5 năm tới,
      giá trị sản xuất tăng bình quân 1,5 – 2%/ năm, sẽ trồng mới 200 nghìn ha
      rừng, khoanh nuôi tái sinh thêm 100 nghìn ha, khoán bảo vệ rừng thêm
      2,26 triệu ha. Năm 2011 Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đề
      nghị Chính Phủ, Quốc Hội tiếp tục cho triên khai cơ chế chính sách để
      bảo vệ phát triển rừng nâng cao chất lượng rừng phấn đấu mục tiêu đến
      2015 nâng độ che phủ rừng đạt 45%, Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng
      thay mặt Chính Phủ đã biểu dương ngành Nông Nghiệp, thành tựu ngành
      nông nghiệp năm 2011 cho thấy nghị quyết Trung Ương 7 bắt đầu đạt
      kết quả trong cuộc sống. Trong tình hình vài năm gần đây, nền kinh tế
      nước ta nói chung gặp nhiều khó khăn nhưng nông nghiệp vẫn phát triển
      tự hào tôn vinh người nông dân .

Phần III.Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững:
3.1.Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp.
Trong bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn
   kiệt, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải cung cấp sản lượng lương thực
   nhiều hơn nữa, Việt Nam cần xây dựng chương trình tái cơ cấu ngành
   nông nghiệp để phát triển hiệu quả, bền vững.

             Những vấn đề cần giải quyết để tái cơ cấu ngành nông
              nghiệp.

- Tái cơ cấu lại đầu tư.
- Ứng dụng và đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất.
- Chú trọng đào tạo cho người nông dân – nguồn nhân lực chính phục vụ
  phát triển nông thôn.
- Cải cách hành chính, xây dựng khuôn khổ pháp luật cần thiết cho việc tái
  cơ cấu ngành.

             Định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng
              cao giá trị gia tăng.

       Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhấn mạnh yêu cầu: Bước sang giai
đoạn phát triển mới, ngành nông nghiệp cần có những định hướng tập trung
phát triển mới. “Đó là việc hướng tới việc khai thác tối đa tiềm năng và lợi
thế phát triển của ngành hiện còn rất lớn. Tiềm năng đó là giá trị gia tăng và
chất lượng các sản phẩm nông, thủy hải sản”

   -Ngành trồng trọt

      Ưu tiên cao hơn cho nhóm cây rau và hoa; tiếp tục khai thác khả năng
tăng giá trị gia tăng trong trồng trọt theo hướng đổi mới trong khâu giống,
thâm canh, ứng dụng công nghệ cao, thực hành GAP nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm; chú trọng nâng cao giá trị gia tăng trong khâu sau thu hoạch
và chế biến.

   -Ngành chăn nuôi

          Tái cơ cấu đàn vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng gia cầm, bò sữa;
   chuyển dịch mạnh chăn nuôi nhỏ lẻ sang trang trại, gia trại theo kiểu công
   nghiệp và công nghệ cao đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng
   chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường; chuyển dịch dần chăn nuôi từ
   đồng bằng lên vùng trung du, miền núi, hình thành các vùng chăn nuôi
   tập trung xa thành phố, khu dân cư.

- Ngành thủy sản
Ưu tiên phát triển tôm, cá tra và nhuyễn thể; tập trung phát triển nuôi
  trồng theo hướng công nghiệp, thâm canh, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an
  toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường; ưu tiên cao cho việc đầu tư
  phát triển nuôi trồng ở vùng ĐBSCL, vùng ven biển.

  - Ngành lâm nghiệp

Ưu tiên phát triển rừng kinh tế; rừng phòng hộ lưu vực xung yếu, rừng ngập
mặn ven biển, rừng biên giới.

  - Phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn

        Khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu
  nhằm nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp; phát triển ngành
  nghề nông thôn, gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch
  vụ du lịch và bảo tồn phát triển văn hóa truyền thống.

        Trong 5 năm tới, ngành nông nghiệp cần tập trung tối đa cho các giải
  pháp tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
  vững. Việc tái cơ cấu cần đồng bộ, trước hết là trong chuyển đổi cơ cấu vốn
  đầu tư, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách, có chính sách thu hút đầu tư
  ngoài xã hội, nhất là đầu tư nước ngoài để ưu tiên cho các chương trình
  KHCN, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng, giá trị cao. Đặc biệt là gia
  tăng hàm lượng, giá trị chế biến trong tất cả các sản phẩm nông, lâm, thủy
  hải sản, coi đây là khâu đột phá để vừa đảm bảo ổn định về tăng trưởng vừa
  nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp.

3.2 Sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp
            Nền kinh tế nước ta vẫn còn phải dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên
     nhiên (TNTN). Riêng giá trị sản lượng nông nghiệp còn chiếm tới 23%
     tổng giá trị GDP. Nếu tính cả các lĩnh vực khác, thì có thể thấy TNTN đã
     đóng góp tới 50% tổng giá trị GDP, 60-70% tổng giá trị hàng xuất khẩu,
     và mang lại việc làm cho hàng triệu người lao động. Nước ta có nguồn
     TNTN tương đối phong phú, nhưng cũng có những nét đặc thù. Tài
     nguyên sinh vật phong phú và có tính đa dạng sinh học cao, tài nguyên
     nước và tài nguyên khoáng sản thuộc loại trung bình, nhưng tài nguyên
     đất thì lại hạn chế. Tình hình bảo vệ không tốt, khai thác bừa bãi, thiếu kỹ
     thuật, chế biến và sử dụng kém hiệu quả TNTN là tương đối phổ biến
     hiện nay, đã và đang gây tổn thất và làm cạn kiệt, suy thoái nhiều nguồn
     tài nguyên.

           Kết quả nghiên cứu đã cho thấy nhiều vấn đề tồn tại trong việc khai
     thác sử dụng TNTN. Tại Tây Nguyên, diện tích rừng tự nhiên giảm liên
tục, do khai thác quá mức và chưa ngăn chặn được hoạt động khai thác
bất hợp pháp. Rừng trồng không đạt chỉ tiêu. Phát triển cây trồng chưa
gắn với khả năng tưới. Phát triển cây trồng trên địa hình không thuận lợi,
chưa gắn với việc sử dụng kỹ thuật canh tác thích hợp. Do vậy, càng phát
triển càng kém bền vững. Nhiều giải pháp tương đối toàn diện đã được
kiến nghị. Một số nghiên cứu chuyên đề, như phương án sử dụng đất ở
huyện Ngọc Hồi và Sa Thầy, đã được hoàn thành và bàn giao cho địa
phương sử dụng. Chuyên đề nghiên cứu quy luật phân bố và triển vọng
khoáng sản quý hiếm ở Tây Nguyên đã xác định 4 kiểu nguồn gốc đá
quý, trong đó 2 kiểu có giá trị công nghiệp và đã sơ bộ khoanh vùng triển
vọng phát hiện đá quý ở Tây Nguyên.
       Vùng ĐBSH đất chật người đông, cho nên tài nguyên đất đặc biệt
có ý nghĩa. Trong thập kỷ qua, do phát triển thâm canh nông nghiệp,
ngoài những thành tựu to lớn đã đạt được, cần quan tâm hơn đến vấn đề
suy thoái chất lượng đất do lượng phân bón sử dụng còn thấp, chưa bù lại
được lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi, hoặc do sự mất cân đối trong
sử dụng phân hoá học. Cũng có nhiều nơi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
còn tồn lưu trong đất khá cao, ảnh hưởng tới chất lượng sảm phẩm cây
trồng. Về mặt đa dạng sinh học, nhiều giống cây trồng, vật nuôi cổ truyền
có giá trị về gen đã bị thất thoát, thí dụ 56 giống lúa, trong đó có 30 giống
có chất lượng gạo ngon. Các loài thiên địch trong vùng trồng lúa cũng đã
giảm đi 23 loài và giảm trên 50% về số lượng. Nhiều kiến nghị cũng đã
được đề xuất, như việc cải tiến công tác quy hoạch, các giải pháp về sử
dụng hợp lý đất và cải thiện chất lượng môi trường đất bằng các phương
pháp canh tác hợp lý, các biện pháp bảo vệ đất, hạn chế sử dụng hoá chất
bảo vệ thực vật, tăng cường sử dụng các phương pháp sinh học.
       Vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về nông nghiệp và thuỷ hải sản,
nhưng cũng có những trở ngại lớn về mặt môi trường do chế dộ thuỷ văn
và tình hình khai thác trên sông Mê Công, do ảnh hưởng của bán nhật
triều Biển Đông, lại là vùng có những diện tích đất phèn rộng lớn và miền
đất ngập nước nhậy cảm. Sau các biện pháp thoát lũ, còn có những vấn đề
phải nghiên cứu giải quyết tiếp, như phân chia lại dòng tràn đồng và dòng
chính, tác động của các bờ bao làm thay đổi quan hệ dòng chảy ở sông
Tiền và sông Hậu và thúc đẩy hiện tượng sạt lở bờ và tăng bồi lấp ở cửa
sông. Có nhiều biện pháp đã được đề xuất về việc sử dụng hợp lý tài
nguyên; đa dạng hoá nền kinh tế, mà trước hết là đa dạng hoá nông
nghiệp; tăng cường hệ số trao đổi nước; lợi dụng nước lũ để thay nước
vùng phèn và vùng nước mặn để ngọt hoá; tăng lượng trữ nước trên đồng
bằng; xử lý các chất thải, kể cả trong mùa lũ; xây dựng các khu dân cư
sinh thái; tăng cường công tác khảo sát đo đạc để có thể dự báo sớm nguy
cơ sạt lở; sử dụng các biện pháp công trình và phi công trình để phòng
ngừa và hạn chế nguy cơ sạt lở; bảo vệ đa dạng sinh học và kiểm soát
    việc nhập nội các loài lạ vv...
           Hiện tượng hoang mạc hoá làm ảnh hưởng tới đời sống của hàng
    trăm triệu người trên thế giới, hàng năm gây thiệt hại khoảng trên 40 tỷ
    USD. Hiện tượng này cũng xuất hiện ở nước ta và có nguy cơ lan
    rộng tại một số tỉnh Nam Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã
    làm rõ nguyên nhân của các hiện tượng này do đặc điểm địa hình, điều
    kiện khí hậu khô nóng, tính chất cực đoan của khí hậu-thuỷ văn giữa mùa
    khô và mùa mưa, thành phần thạch học của đất đá, các phương thức canh
    tác lạc hậu và việc chăn thả gia súc quá tải...Nhiều biện pháp đã được đề
    xuất, liên quan đến vấn đề quy hoạch, các giải pháp kỹ thuật trong sản
    xuất và các giải pháp về tổ chức và quản lý. Một số mô hình dựa trên các
    kinh nghiệm của nhân dân đã được nghiên cứu, cải tiến và đang thử
    nghiệm, bước đầu cho kết quả tốt.
3.3 Tăng cường chuyển giao khoa học công nghệ cho người lao
động
          Việc nâng cao tay nghề và kĩ năng sản xuất cho người nông dân là
    một việc hết sức quan trọng và cần thiết nhằm phát triển nền nông nghiệp
    bền vững ở nước ta. Việc chuyển công nghệ cần được thực hiện thường
    xuyên và rộng khắp trong cả nước, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc ít
    người, giúp họ nâng cao năng suất, giảm tỷ lệ đói nghèo. Góp phần tích
    cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo Nhà nước ta đang thực hiện.
Kinh te phat trien 45F nhom 2(ĐHTM)

More Related Content

What's hot

Tiểu luận kinh tế nông nghiệp phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...
Tiểu luận kinh tế nông nghiệp  phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...Tiểu luận kinh tế nông nghiệp  phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...
Tiểu luận kinh tế nông nghiệp phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...Nguyễn Thị Thanh Tươi
 
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam nataliej4
 
Cnh hdh va vai tro cua no
Cnh hdh va vai tro cua no Cnh hdh va vai tro cua no
Cnh hdh va vai tro cua no tocxanh08
 
Cnhhđh gắn với tri thức.
Cnhhđh gắn với tri thức.Cnhhđh gắn với tri thức.
Cnhhđh gắn với tri thức.Bảo Phạm
 
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005) LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005) nataliej4
 
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2t
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2tNg4yeen 35s th66ngs 2e 2t
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2ttranngochieu92
 
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóaQuan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóaSon Lã
 
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệ
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệCNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệ
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệHương Nguyễn
 
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓAĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓAdinhtrongtran39
 
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookbooming
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookboomingChương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookbooming
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookboomingbookbooming
 
Kinh tế trước đổi mới
Kinh tế trước đổi mớiKinh tế trước đổi mới
Kinh tế trước đổi mớiTru Gia
 

What's hot (19)

Luận án: Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở CHDCND Lào, HAY
Luận án: Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở CHDCND Lào, HAYLuận án: Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở CHDCND Lào, HAY
Luận án: Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở CHDCND Lào, HAY
 
Tailieu.vncty.com da8
Tailieu.vncty.com da8Tailieu.vncty.com da8
Tailieu.vncty.com da8
 
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững ở Hà Nội, HAY
 
Tiểu luận kinh tế nông nghiệp phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...
Tiểu luận kinh tế nông nghiệp  phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...Tiểu luận kinh tế nông nghiệp  phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...
Tiểu luận kinh tế nông nghiệp phát triển nông sản vùng đbscl_Nhận làm luận v...
 
Duong loi
Duong loiDuong loi
Duong loi
 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nền công nghiệp 4.0
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nền công nghiệp 4.0Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nền công nghiệp 4.0
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nền công nghiệp 4.0
 
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam
Chuyên Đề CNH, HĐH Gắn Với Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam
 
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAYĐề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
 
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệpLuận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
 
Cnh hdh va vai tro cua no
Cnh hdh va vai tro cua no Cnh hdh va vai tro cua no
Cnh hdh va vai tro cua no
 
Cnhhđh gắn với tri thức.
Cnhhđh gắn với tri thức.Cnhhđh gắn với tri thức.
Cnhhđh gắn với tri thức.
 
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005) LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)
LỊCH SỬ NGÀNH Y TẾ BÌNH DƯƠNG TẬP II (1975 – 2005)
 
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2t
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2tNg4yeen 35s th66ngs 2e 2t
Ng4yeen 35s th66ngs 2e 2t
 
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóaQuan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
 
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệ
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệCNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệ
CNH, HĐh gđ 1986_2011. Liên hệ
 
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓAĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
 
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookbooming
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookboomingChương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookbooming
Chương 4 đường lối công nghiệp hóa Đường lối CMĐ ĐHNT- bookbooming
 
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh tháiLuận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
 
Kinh tế trước đổi mới
Kinh tế trước đổi mớiKinh tế trước đổi mới
Kinh tế trước đổi mới
 

Viewers also liked

290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI
290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI
290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢIDung Lê
 
bài tập kinh tế vi mô
bài tập kinh tế vi môbài tập kinh tế vi mô
bài tập kinh tế vi môTrung Billy
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phucSon Nguyen
 
Tri thuc nhan loai
Tri thuc nhan loaiTri thuc nhan loai
Tri thuc nhan loaidinhnam0005
 
Bi mat cua may man
Bi mat cua may manBi mat cua may man
Bi mat cua may mandinhnam0006
 
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009Hung Cuong Do
 
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)Phật Ngôn
 
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...Phật Ngôn
 
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.Org
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.OrgCương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.Org
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.OrgDailyf5.com
 
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992triday19
 
Ly Thuyet Kinh Te Vi Mo
Ly Thuyet Kinh Te Vi MoLy Thuyet Kinh Te Vi Mo
Ly Thuyet Kinh Te Vi Mohsplastic
 
[123doc.vn] luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...
[123doc.vn]   luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...[123doc.vn]   luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...
[123doc.vn] luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...Ngọc Lê
 
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)Dat Namikaze
 
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜIGIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜIVo Hieu Nghia
 
Tailieu.vncty.com luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...
Tailieu.vncty.com   luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...Tailieu.vncty.com   luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...
Tailieu.vncty.com luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...Trần Đức Anh
 
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc đạt lai lạt ma
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc   đạt lai lạt ma[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc   đạt lai lạt ma
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc đạt lai lạt maĐặng Phương Nam
 
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt MaTuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt MaHuu Nguyen Tat
 
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copy
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copyđIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copy
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copyDangnguyetanh1941
 
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Phật Ngôn
 

Viewers also liked (20)

290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI
290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI
290 CÂU TRẮC NGHIỆM KINH TẾ VĨ MÔ CÓ LỜI GIẢI
 
bài tập kinh tế vi mô
bài tập kinh tế vi môbài tập kinh tế vi mô
bài tập kinh tế vi mô
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 
Tri thuc nhan loai
Tri thuc nhan loaiTri thuc nhan loai
Tri thuc nhan loai
 
Bi mat cua may man
Bi mat cua may manBi mat cua may man
Bi mat cua may man
 
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009
Thong Diep Cua Duc Da Lai La Ma 2009
 
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)
Giữa Lòng Cuộc Đời (Quách Thoại)
 
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...
Ánh sáng Chân Tâm (Lời Khuyên Về Sống Tốt và Ra Đi trong Tỉnh Thức - Đạt Lai ...
 
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.Org
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.OrgCương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.Org
Cương yếu hành chánh Gia Đình Phật Tử | AoLam.Org
 
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992
100 cau hoi ly thuyet vat li hoc bua.10992
 
Ly Thuyet Kinh Te Vi Mo
Ly Thuyet Kinh Te Vi MoLy Thuyet Kinh Te Vi Mo
Ly Thuyet Kinh Te Vi Mo
 
[123doc.vn] luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...
[123doc.vn]   luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...[123doc.vn]   luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...
[123doc.vn] luan-van-giai-phap-phat-trien-kinh-te-nong-nghiep-tren-dia-ban-...
 
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)
Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam (2011-2013)
 
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜIGIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
 
Tailieu.vncty.com luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...
Tailieu.vncty.com   luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...Tailieu.vncty.com   luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...
Tailieu.vncty.com luan van-thac_sy_co_so_ly_thuyet_de_nang_cao_nang_luc_can...
 
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc đạt lai lạt ma
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc   đạt lai lạt ma[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc   đạt lai lạt ma
[Sách] Nghệ thuật tạo hạnh phúc đạt lai lạt ma
 
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt MaTuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
 
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copy
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copyđIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copy
đIểm tin mấy ngày qua số 64 (1) copy
 
Ca dao trào phúng
Ca dao trào phúngCa dao trào phúng
Ca dao trào phúng
 
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
 

Similar to Kinh te phat trien 45F nhom 2(ĐHTM)

BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệp
BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệpBTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệp
BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệpCnglNguyn1
 
luan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdfluan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdfNguyễn Công Huy
 
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta | luận văn 2 s
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta |  luận văn 2 sNgành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta |  luận văn 2 s
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta | luận văn 2 sLuận Văn 2S
 
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...https://www.facebook.com/garmentspace
 

Similar to Kinh te phat trien 45F nhom 2(ĐHTM) (20)

Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp.docxCơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp.docx
 
Đề tài: Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu xoài Đồng Tháp, HAY, 9đ
Đề tài: Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu xoài Đồng Tháp, HAY, 9đĐề tài: Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu xoài Đồng Tháp, HAY, 9đ
Đề tài: Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu xoài Đồng Tháp, HAY, 9đ
 
Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp.docx
Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp.docxCơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp.docx
Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp.docx
 
Cơ sơ lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiêp̣.docx
Cơ sơ lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiêp̣.docxCơ sơ lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiêp̣.docx
Cơ sơ lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiêp̣.docx
 
Cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp.docx
Cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp.docxCơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp.docx
Cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp.docx
 
Tiểu luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp.docx
Tiểu luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp.docxTiểu luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp.docx
Tiểu luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp.docx
 
Tiểu Luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp, 9 điểm.docx
Tiểu Luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp, 9 điểm.docxTiểu Luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp, 9 điểm.docx
Tiểu Luận Đẩy Mạnh Phát Triển Xuất Khẩu Xoài Đồng Tháp, 9 điểm.docx
 
BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệp
BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệpBTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệp
BTTH1 phân tích và dự báo giá trong nông nghiệp
 
Ljnhljnh
LjnhljnhLjnhljnh
Ljnhljnh
 
Đề Tài Nghiên Cứu Thạc Sĩ Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Núi Th...
Đề Tài Nghiên Cứu Thạc Sĩ Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Núi Th...Đề Tài Nghiên Cứu Thạc Sĩ Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Núi Th...
Đề Tài Nghiên Cứu Thạc Sĩ Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Núi Th...
 
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồngLuận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng
Luận văn: Phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào cộng đồng
 
luan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdfluan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdf
 
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...
Luận văn: Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương hiệu quả kinh tế và giải pháp ph...
 
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta | luận văn 2 s
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta |  luận văn 2 sNgành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta |  luận văn 2 s
Ngành công nghiệp trọng điểm là gì? Các ngành cntđ của nước ta | luận văn 2 s
 
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Phát triển nông nghiệp tại thị xã An Khê, tỉnh Gia L...
 
Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Trà Bồng, Tỉnh Quảng Ngã...
Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Trà Bồng, Tỉnh Quảng Ngã...Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Trà Bồng, Tỉnh Quảng Ngã...
Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Trà Bồng, Tỉnh Quảng Ngã...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
 
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
 
Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam.docPhát triển bền vững nông nghiệp Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Luận văn: Phát triển ngành trồng trọt tại Tỉnh Quảng Ngãi.TT, HAY
Luận văn: Phát triển ngành trồng trọt tại Tỉnh Quảng Ngãi.TT, HAYLuận văn: Phát triển ngành trồng trọt tại Tỉnh Quảng Ngãi.TT, HAY
Luận văn: Phát triển ngành trồng trọt tại Tỉnh Quảng Ngãi.TT, HAY
 

Kinh te phat trien 45F nhom 2(ĐHTM)

  • 1. LỜI NÓI ĐẦU Ở bất cứ đất nước nào, dù là nước nghèo hay nước giàu, nông nghiệp đều có vị trí quan trọng. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế cung cấp những sản phảm thiết yếu như lương thực, thực phẩm cho con người tồn tại. Trong quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực và thực phẩm của xã hội. Vì thế, sự ổn định xã hội và mức an ninh về lương thực và thực phẩm của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nông nghiệp. Những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện. Đến năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp. Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Có thể nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế quốc dân của Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội, sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong những năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành tựu. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn trở thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát triển nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thực sự xử dụng hiệu quả và phát huy hết các nguồn lực .... Do dó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và đề xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp,nhóm chúng em đã chọn tiến hành nghiên cứu đề tài : ” Phát triển nông nghiệp bền vững của Việt Nam hiện nay ”. Phần I: Một số lý thuyết chung về phát triển nông nghiệp bền vững
  • 2. 1.1 Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp: 1.1.1 Đặc điểm của nông nghiệp : Trong nền kinh tế, sự phát triển của nông nghiệp cũng gắn liền với quá trình phát triển kinh tế nói chung, tuy nhiên với những đặc điểm riêng có của sẳn xuất nông nghiệp mà ngành này có những ảnh hưởng khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế. Khi đề cập đến phát triển nông nghiệp cần phải gắn liền với những đặc điểm tất yếu của ngành sản xuất này. Thứ nhất, đối tượng của ngành nông nghiệp là cây trồng vật nuôi vì vậy chúng tồn tại và phát triển theo quy luật tự nhiên với thời gian sinh trưởng, điều kiện sinh trưởng khác nhau. Thứ hai, trong sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và đặc biệt quan trọng nhưng nó bị giới hạn bởi yếu tố diện tích. Do vậy việc mở rộng quy mô của sản xuất nông nghiệp và việc tang lợi nhuận trong nông nghiệp có giới hạn nhất định. Thứ ba, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ lớn. Trong quá trình sản xuất , có thời kì nhu cầu về tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn rất căng thẳng. Ngược lại có thời kỳ rất nhàn rỗi. Thứ tư, trong sản xuất nông nghiệp lao động không được chuyển hóa trực tiếp mà phải thông qua cây trồng vật nuôi tuy nhiên đây là ngành sử dụng nhiều lao động. Trong nông nghiệp thời gian lao động không trùng khớp với thời gian tạo ra sản phẩm, nghĩa là khi kết thúc một quá trình lao động cụ thể như làm đất, gieo hạt, chăm sóc…chưa có sản phầm ngay mà phải chờ tới khi thu hoạch. Thứ năm, chu kỳ sản xuất nông nghiệp nói chung là dài và không giống nhau giữa các loại cây trồng và vật nuôi. 1.1.2 Vai trò của nông nghiệp với quá trình phát triển kinh tế Vai trò đầu tiên và trên hết có nghĩa quyết định đến sự tồn tại của xã hội là đáp ứng một trong ba nhu cầu cơ bản nhất của con người: nhu cầu ăn, mặc và ở. Tất cả các nguồn dinh dưỡng cung cấp cho nhu cầu của con người đều có nguồn gốc bắt đầu từ những sản phẩm của nông nghiệp.Do vậy trong xu hướng dân số thế giới gia tang ngày một nhiều thì nhu cầu về lương thực thực phẩm ngày càng gia tăng nhanh, vấn đề an ninh lương thực và đảm bảo an ninh lương thực không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Thứ hai, sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với sự phát triển của các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến. Nông nghiệp là điều kiện để tồn tại và phát triển của các ngành công nghiệp sử dụng đầu vào là các sản phẩm nông nghiệp như các ngành công nghiệp chế biến cây công nghiệp: chè,
  • 3. cà phê, cao su, thuốc lá, mía , dầu cọ, dầu lạc…Ngoài ra còn có các ngành công nghiệp khác: phân bón, rượu bia, giấy, thuộc da, dệt…. Thứ ba, nông nghiệp là nguồn cung caaos lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Kinh nghiệm cho thấy trong quá trình phát triển dần dần tỷ trọng lao động tham gia vào khu vực nông nghiệp sẽ giảm xuống và đặc biệt là lao động dư thừa đã chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực công nghiệp và dịch vu. Do vậy, việc nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho lực lượng lao động ở nông thôn cùng với quá trình đầu tư để đổi mới trang thiết bị, công cụ lao động và tổ chức hợp lý quá trình lao động là điều kiện cơ bản để tăng năng xuất lao động trong nông nghiệp và các ngành khác ở nông thôn. Thứ tư, nông nghiệp là ngành kinh tế ra đời đầu tiên nên cũng giữ vai trò quan trọng trong việc tích lũy và cung cấp vốn cho việc phát triển các ngành nghề kinh tế khác, đặc biệt trong giai đoạn đầu của cách mạng công nghiệp ở các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế phát triển , trình độ chuyên môn hóa được nâng cao việc sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp cũng là nguồn cung cấp lượng ngoại tệ khá lớn giúp cho các nước đang phát triển đầu tư phát triển, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế. Thứ năm, nông nghiệp và nông thôn luôn là khu vực hình thành nên những thị trường lớn đối với các ngành kinh tế khác đặc biệt là đối với các ngành nông nghiệp sản xuất vật tư sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp mang lại cũng giúp cho tần lớp dân cư nâng cao khả năng thanh toán, thúc đẩy nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng của khu vực nông thôn đặc biệt khi các sản phẩm công nghiệp đã bão hòa trong khu vực thành thị. Việc tăng cường sử dụng đầu vào từ công nghiệp tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động , nâng cao sản lượng, thu nhập của khu vực nông nghiệp sẽ kéo theo nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp tăng lên. Như vậy ngành nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ đối với các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, đó vừa là mối liên kết xuôi, vừa là mối liên kết ngược gắn liền với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Thứ sáu, phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa qua trọng trong việc bảo vệ và cải tạo môi trường thiên nhiên. Với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật nuôi gắn liền với đất đai, việc phát triển nông nghiệp tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh, đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ môi sinh. Tuy nhiên muốn được nhưu vậy phải kết hợp nhiều loại nông sản theo một hệ sinh thái hoàn chỉnh, tránh sử dụng quá mức các loại hóa chất, tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp sinh thái. Như vậy xét về mặt kinh tế xã hội và môi trường thì nông nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước.
  • 4. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhận thức được rằng nếu không có nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền kinh tế quốc dân khó có thể phát triển với tốc độ cao được. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là cơ sở quan trọng để đảm bảo ổng định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế bền vững củng cố và tang cường quốc phòng an ninh và là cơ sở để thúc đảy sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế nhiều nước đã chứng minh nước nào có nền nông nghiệp phát triển vững chắc đều đạt được sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. 1.2 Một số khái niệm liên quan - Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của tương lai. - Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. (Hội đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc - WCED) - Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa , sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội.Phát triển bền vững phải có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). - Quan điểm phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 36 CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước nhấn mạnh : “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối ,chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của tất cả các cấp,các ngành ,là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững,thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước”.Quan điểm phát triển bền vững được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 là: “phát triển nhanh ,hiệu quả và bền vững , tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”
  • 5. - Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau (Tổ chức sinh thái và môi trường Thế giới – WORD) - Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu cầu cơ bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng, không khí, khí quyển và tính đa dạng sinh học….. - Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về sinh thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Phần II: Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững của Việt Nam hiện nay: 2.1 Phần thực trạng phát triển nông nghiệp của VN: 2.1.1 Giá trị sản lượng và tỉ trọng ngành nông nghiệp đóng góp vào GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp VN và cơ cấu nội bộ ngành. 2.1.1.1 Giá trị sản lượng và tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP cả nước. Từ năm 2000 đến nay, tăng trưởng giá trị sản xuất của nông nghiệp bình quân đạt gần 5,5%/năm. Tăng trưởng của GDP nông nghiệp thời gian qua có xu hướng giảm sút do sản xuất nông nghiệp phải đương đầu với hàng loạt rủi ro về dịch bệnh, thiên tai và cạnh tranh trên thị trường diễn ra quyết liệt và người nông dân luôn phải chịu vị thế bất lợi.. Tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản) trong tổng GDP cả nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,3% năm 2007 và tăng trở lại 22,1% năm 2008, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp thì tăng so với các năm trước. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng đầu năm 2011 ước đạt 162.000 tỷ đồng, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, ước cả năm, tốc độ tăng GDP nông, lâm, thủy sản đạt 2,4-2,6%. Năm 2011 cũng là năm được mùa lúa với sản lượng ước đạt 41,5 triệu tấn, tăng khoảng 1,5 triệu tấn so với năm 2010. 2.1.1.2 Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp và cơ cấu nội bộ ngành. -Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp: Giai đoạn 1995 - 2000, tốc độ tăng GDP nông nghiệp là 4%, thì giai đoạn 2000 - 2007 giảm xuống còn 3,7%. Riêng năm 2008, trong bối cảnh giá nông sản trên thế giới tăng vọt, sản xuất nông nghiệp đã khôi phục mức tăng trưởng lên 4,1%.
  • 6. -Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường. Trong nội bộ ngành đang có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thuỷ sản, giảm tỷ trọng trồng trọt trong giá trị sản lượng. Trong giai đoạn 2000 - 2008, tỷ trọng thuỷ sản tăng từ 16% lên 23% trong khi trồng trọt giảm từ 65% xuống còn 57%. Trong trồng trọt, giai đoạn 2000 - 2008 diện tích gieo trồng lúa giảm hơn 250.000 ha, trong khi diện tích các cây công nghiệp, rau màu và cây ăn quả tiếp tục mở rộng. Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại đang thay thế dần mô hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia đình. Nhưng chất lượng một số vật nuôi chưa cao; mô hình chăn nuôi công nghiệp chưa thật sự phát triển, khả năng kiểm soát dịch bệnh còn rất khó khăn. Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát triển nhanh. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2008 tăng 408.100 ha. Nuôi trồng Thủy sản tiếp tục đa loài, đa loại hình, đa phương thức hướng thân thiện với môi trường. Sản phẩm nuôi trồng, khai thác thủy sản ngày càng gia tăng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, các vùng nuôi trồng thủy sản cũng ở trong tình trạng thiếu ổn định. Khi giá tăng thì nông dân ồ ạt phá rừng, phá lúa, chuyển sang nuôi trồng thủy sản và ngược lại khi giá xuống lại diễn ra tình trạng ứ thừa hàng hóa và nông dân san lấp các ao hồ nuôi trồng thủy sản để quay trở lại các cây trồng khác.Diện tích một số các vùng nuôi lớn với mức độ thâm canh cao, xử lý chưa tốt đã gây ô nhiễm môi trường. Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất được đẩy mạnh với chương trình trồng mới 5 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2008 đạt 38,7%. Nhiều nơi đã tiến hành khai thác kinh doanh tổng hợp, phát triển chế biến lâm sản. Đồ gỗ sau chế biến đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Tuy đóng góp của lâm nghiệp trong tăng trưởng kinh tế còn thấp so với tiềm năng. Nghề rừng hiện nay đang thể hiện tích cực vai trò đảm bảo cân bằng sinh thái, môi trường trong khi vai trò là một ngành kinh tế chưa được khai thác hết. Thu nhập từ lâm nghiệp mới đóng góp một phần rất nhỏ trong tổng GDP và trong cơ cấu thu nhập của hộ nông thôn. Tuy có những tiến bộ rõ rệt nhưng tình trạng phá rừng, cháy rừng, khai thác động thực vật hoang dã vẫn diễn ra. Xuất khẩu đồ gỗ phát triển nhanh nhưng phần lớn nguyên liệu vẫn phải nhập khẩu. 2.1.2 Tình hình an ninh lương thực thực phẩm và giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp.
  • 7. Sản xuất nông nghiệp phát triển từng bước đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường trong nước. 10 năm qua, vượt qua biến động thị trường, thiên tai, dịch bệnh, sản xuất lương thực thực phẩm tiếp tục phát triển, nhờ đó bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg năm 2000 lên 501 kg năm 2008, Việt Nam đảm bảo đủ nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu trung bình hơn 4 triệu tấn gạo/năm. Mức tiêu dùng lương thực giảm xuống (tiêu dùng gạo giảm từ 12 kg/người/tháng năm 2002 xuống 11,4 kg/người/tháng năm 2006; tương tự, tiêu dùng các loại lương thực khác cũng giảm từ 1,4 kg/người/tháng năm 2002 xuống 1,0 kg/người/tháng năm 2006). Ngược lại, tiêu dùng thực phẩm tăng lên (tiêu dùng thịt các loại tăng từ 1,3 kg/người/tháng năm 2002 lên 1,5 kg/người/tháng năm 2006, tiêu dùng tôm, cá tăng mạnh từ 1,1 kg/người/tháng năm 2002 lên 1,5 kg/người/tháng năm 2006...). So với các nước trong vùng, giá nông sản, nhất là giá lương thực, thực phẩm ở Việt Nam ở mức tương đối thấp đã giữ giá ngày công lao động thực ở mức khá thấp, hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài và góp phần thiết thực cho công tác xóa đói giảm nghèo. Xuất khẩu các loại nông, lâm sản tiếp tục được mở rộng, một số ngành có thị phần lớn trong khu vực và thế giới như: gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ gỗ, thuỷ sản.... Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản giai đoạn 2000 - 2007 đạt 51,9 tỷ USD, bình quân mỗi năm đạt khoảng 6,5 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 14,9%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 11,2 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm 2000, trong đó: cao su gấp 8,3 lần; cà phê 3,8 lần; gạo 2,2 lần; chè 1,6 lần; hạt điều 3,9 lần; hồ tiêu 2,0 lần, sản phẩm gỗ 5,9 lần. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt khoảng 16 tỷ USD gấp 3,8 lần năm 2000, trong đó tăng trưởng trung bình của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2008 là: gạo 13,6%, cà phê 19,4%; cao su 32,5%; điều 27,8%; hải sản 19,1%. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 4,5 tỷ đô la, chiếm 25% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của khối nông, lâm, ngư nghiệp. Đã có 5 mặt hàng đạt mức trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, cà phê, gạo, cao su, đồ gỗ. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực duy nhất trong nền kinh tế liên tục xuất siêu, năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn. 2.1.3 Tình hình phân bố cây trồng,vật nuôi. Trong nông nghiệp, sự chuyên môn hóa ngày càng rõ nét, thể hiện ở việc hình thành các vùng chuyên canh. Điều này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát huy lợi thế của mình và ngày càng tiến tới phát triển bền vững. Khu vực phân bố của một số cây trồng, vật nuôi: - Cây lương thực, cây lúa phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long vì ở đây có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho cây lương thực phát triển như đất phù sa màu mỡ,
  • 8. khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều, nguồn nước dồi dào từ sông, ngòi, ao, hồ, kênh rạch... - Cây hoa màu, lương thực như ngô, khoai, sắn tập trung ở Đông Nam Bộ, Tây Bắc và đông bằng sông Hồng. - Cây thực phẩm rau đậu trồng ở khắp các địa phương. - Cây công nghiệp có 2 loại chính cây công nghiệp lâu năm và cây công nghiệp hằng năm. + Cây công nghiệp lâu năm chè trồng ở trung du miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, cà phê trồng chủ yếu ở Tây Nguyên (Đăklăk),cao su trồng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. + Cây công nghiệp hằng năm như mía ở đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ; lạc ở Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ; đậu tương ở vùng Đông Bắc và vùng đồng bằng sông Hồng; bông thuốc lá ở Đông Nam Bộ. - Về chăn nuôi gia súc gia cầm: trâu phân bố tập trung ở miền Bắc; bò ở khắp các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, ven các thành phố lớn; lợn ở đồng bằng song Hồng, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ; gà ở khắp các vùng trên cả nước; vịt ở đồng bằng sông Cửu Long; ngan ngỗng ở đồng bằng sông Hồng, Duyên Hải Nam Trung Bộ. - Về nuôi trồng thủy hải sản tập trung chủ yếu ở các vùng ven biển và đông bằng sông Cửu Long. 2.1.4 Tình hình sử dụng tài nguyên nông nghiệp. Năm 2005 có 9.4 triệu ha đất sử dụng trong nông nghiệp chiếm hơn 28% tổng diện tích đất tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp tính theo đầu người là 0.1 ha. Nhiều vấn đề tồn tại trong việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên: Khả năng mở rộng đất ở đồng bằng và miền núi là không nhiều. Đặc biệt tại Tây Nguyên, diện tích rừng tự nhiên giảm liên tục, do khai thác quá mức và chưa ngăn chặn được hoạt động khai thác bất hợp pháp. Rừng trồng không đạt chỉ tiêu. Phát triển cây trồng chưa gắn với khả năng tưới. Phát triển cây trồng trên địa hình không thuận lợi, chưa gắn với việc sử dụng kỹ thuật canh tác thích hợp. Do vậy, càng phát triển càng kém bền vững. Nhiều giải pháp tương đối toàn diện đã được kiến nghị. Một số nghiên cứu chuyên đề, như phương án sử dụng đất ở huyện Ngọc Hồi và Sa Thầy, đã được hoàn thành và bàn giao cho địa phương sử dụng. Vấn đề suy thoái chất lượng đất do lượng phân bón sử dụng còn thấp, chưa bù lại được lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi, hoặc do sự mất cân đối trong sử dụng phân hoá học. Cũng có nhiều nơi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật còn tồn lưu trong đất khá cao, ảnh hưởng tới chất lượng sảm phẩm cây trồng.
  • 9. Về mặt đa dạng sinh học, nhiều giống cây trồng, vật nuôi cổ truyền có giá trị về gen đã bị thất thoát, thí dụ 56 giống lúa, trong đó có 30 giống có chất lượng gạo ngon. Các loài thiên địch trong vùng trồng lúa cũng đã giảm đi 23 loài và giảm trên 50% về số lượng. Vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về nông nghiệp và thuỷ hải sản, nhưng cũng có những trở ngại lớn về mặt môi trường do chế dộ thuỷ văn và tình hình khai thác trên sông Mê Công, do ảnh hưởng của bán nhật triều Biển Đông, lại là vùng có những diện tích đất phèn rộng lớn và miền đất ngập nước nhậy cảm. Tác động của các bờ bao làm thay đổi quan hệ dòng chảy tiêu biểu là ở sông Tiền và sông Hậu và thúc đẩy hiện tượng sạt lở bờ và tăng bồi lấp ở cửa sông. Việc sử dụng kém hiệu quả tài nguyên nuớc, cùng những tồn tại, yếu kém trong quản lý và bảo vệ tài nguyên nước chủ yếu tại lưu vực các con sông lớn như sông Hồng, sông Đồng Nai… là nguyên nhân làm suy giảm và thiếu nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và cũng như nước phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp. Điều này đòi hỏi việc thực hiện Luật về tài nguyên nước. Hiện tượng hoang mạc hoá xuất hiện ở nước ta và có nguy cơ lan rộng tại một số tỉnh Nam Trung Bộ. Nguyên nhân của các hiện tượng này do đặc điểm địa hình, điều kiện khí hậu khô nóng, tính chất cực đoan của khí hậu-thuỷ văn giữa mùa khô và mùa mưa, thành phần thạch học của đất đá, các phương thức canh tác lạc hậu và việc chăn thả gia súc quá tải...Nhiều biện pháp đã được đề xuất, liên quan đến vấn đề quy hoạch, các giải pháp kỹ thuật trong sản xuất và các giải pháp về tổ chức và quản lý. Một số mô hình dựa trên các kinh nghiệm của nhân dân đã được nghiên cứu, cải tiến và đang thử nghiệm, bước đầu cho kết quả tốt. 2.1.5 Tình hình ứng dụng KH-CN vào sx nông nghiệp. 2.1.5.1Việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp: Ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong lĩnh vực nông nghiệp được coi là giải pháp đột phá xây dựng nền nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, việc đầu tư nghiên cứu ứng dụng CNSH vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, đến hết năm 2010, chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực nông nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 đã phê duyệt đưa
  • 10. vào thực hiện được 90 nhiệm vụ khoa học công nghệ (78 đề tài và 12 dự án sản xuất thử nghiệm), trong đó có 35 đề tài kết thúc năm 2010. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định, các kết quả nghiên cứu đã tạo ra hoặc tiếp nhận và làm chủ được một số CNSH hiện đại đưa vào ứng dụng hiệu quả chủ yếu tập trung ở những lĩnh vực chính như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Nhiều địa phương đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt và chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử như việc triển khai 14 đề tài chọn tạo giống cây trồng nông, lâm nghiệp bằng phương pháp chỉ thị phân tử đã chọn tạo được 7 giống lúa chịu hạn, 2 giống lúa kháng đạo ôn, 4 giống lúa kháng rầy nâu, 2 giống lúa thơm chất lượng cao, 2 giống chè có triển vọng về năng suất, chất lượng, 8 giống bông kháng bệnh xanh lùn... Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên 250-300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nghiên cứu CNSH đã được ứng dụng vào sản xuất thì vẫn còn một số đề tài CNSH vẫn chỉ là thí nghiệm, nhiều nhiệm vụ chậm triển khai thậm chí không ít đề tài đang nằm lưu cữu trong phòng thí nghiệm.Ngoài ra, các nhà khoa học thủy lợi còn đề xuất được qui trình công nghệ tưới tiết kiệm nước cho vùng khan hiếm nước ở Nam Trung Bộ, Miền núi phía Bắc, ĐBSCL. Mô hình phục hồi đất thoái hóa, nhiễm mặn do nuôi trồng thủy sản cho vùng bán đảo Cà Mau và vùng ven ĐBSCL. Nhiều quy trình công nghệ mới được phát triển và ứng dụng như công nghệ ngăn sông vùng ven biển, công nghệ đập trụ bao liên hợp để đưa ra phương án thiết kế ngăn các cửa sông lớn tại ĐBSCL và ĐBSH. Cũng trong 5 năm từ 2006 - 2010, Bộ NN&PTNT đã nghiên cứu tạo ra được 273 giống cây trồng, trong đó có 97 giống cây được công nhận chính thức gồm 28 giống lúa, 10 giống ngô, 11 giống đậu đỗ, 4
  • 11. giống cây có củ, 8 giống rau, 4 giống cây ăn quả,… nhiều loại giống đã được công nhận và cho sản xuất thử. Trong chăn nuôi thú y, Bộ NN&PTNN cũng đã lai tạo thành công giống lợn lai cho từng vùng đưa năng suất chăn nuôi lên cao. Nghiên cứu trong lâm nghiệp cũng cho ra đời 87 giống mới, gồm 78 dòng và 9 giống cây lâm nghiệp,… gắn bó với nghề nông. 2.1.5.2 Về sử dụng máy móc. Cả nước có khoảng 22.000 ô tô loại nhỏ, 20.000 tàu, thuyền gắn máy có thể đảm bảo 80% việc vận chuyển ở nông thôn. Số lượng máy kéo các loại có khoảng 300.000 chiếc, tổng công suất 3,5 triệu mã lực. Trong đó đa phần là máy léo 2 bánh dưới 15 mã lực (75,3%), máy kéo 4 bánh 15-35 mã lực (15,2%), máy kéo trên 35 mã lực chỉ chiếm 9,5%. Tây Nguyên là địa bàn có tỷ lệ sử dụng máy nông ngiệp cao nhất, chiếm 34,45%, thấp nhất là trung du miền núi phía Bắc (4,47-6%) và duyên hải Nam Trung Bộ (4,29-4,53%). 2.1.6 Tình hình thiên tai, dịch bệnh và công tác dự báo thiên tai, cảnh báo dịch bệnh ảnh hưởng đến nông nghiệp. Trong thời gian gần đây, do diễn biến xấu của tình trạng nóng lên toàn cầu, do sự phá hoại môi trường của các hoạt động sản xuất và phát triển không bền vững, diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp hàng năm gây ra thiệt hại lớn về người và của cho sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Tần suất thiên tai ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy mô ngày càng lớn. Ở nước ta trong các năm qua liên tục xuất hiện bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở đất, hạn hán, cháy rừng,... Theo số liệu thống kê nhiều năm thì trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6 cơn bão và 2 - 3 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam. Ngoài ra, gió mùa (gió mùa Tây Nam khô nóng và gió mùa Đông Bắc lạnh)và một số kiểu thời tiết khắc nghiệt như : mưa dông kèm lốc xoáy và vòi rồng, mưa đá, sương muối, sương giá… cũng gây ra những thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp. Trung bình hàng năm có 37,9% và 16,7% hộ nông dân bị thiệt hại do mất mùa và thiên tai. Năm 2007, ước tính thiệt hại do thiên tai gây ra làm 462 người chết và 11.514 tỷ đồng, bằng gần 1% GDP. Trong tương lai, xu hướng nóng lên toàn cầu sẽ tiếp tục gây thiệt hại lớn cho Việt Nam. Thêm vào đó là tình trạng dịch bệnh diễn biến phức tạp trên quy mô rộng cho cả cây trồng, vật nuôi và con người. Trên lúa xuất hiện dịch
  • 12. rầy nâu, vàng lùn xoắn lá,... trên gia súc xuất hiện bệnh lở mồm long móng, lợn tai xanh, cúm lợn... trên gia cầm bệnh cúm tiếp tục đe dọa,... Các bệnh dịch này chẳng những gây thiệt hại trực tiếp cho sản xuất mà một số loại bệnh của gia súc, gia cầm có nguy cơ lây lan sang cho người, gây khó khăn ổn định kinh tế xã hội. Với nuôi trồng thủy hải sản thì một số dịch bệnh hay gặp phải là: bệnh đốm trắng và bệnh đầu vàng đối với tôm sú và tôm chân trắng, bệnh hội chứng Taura đối với tôm chân trắng. - Công tác dự báo thiên tai và cảnh báo dịch bệnh. , rađa thời tiết người ta có thể phát hiện được bão, dông, tố, lốc, mưa đá, sương mù... song do các hiện tượng trên xảy ra quá nhanh hoặc diễn biến phức tạp nên chỉ có thể dự báo cực ngắn. Tuy vậy do điều kiện thông tin truyền thông, thông tin dự báo đến cộng đồng . Với nước ta hiện nay căn cứ vào điều kiện và khả năng hình thành thiên tai trong những hệ thống thời tiết nhất định chúng ta chỉ có thể cảnh báo khả năng xuất hiện chúng để phục vụ công tác phò nghiệp nói riêng vẫn là chiến lược lâu dài và hiệu quả nhất đối với công tác phòng chống thiên tai, giảm nhẹ thiệt hại. Với dịch bệnh thì hàng năm các cơ quan chức trách vẫn có những cảnh báo cho người sản xuất nông nghiệp theo mùa, tháng mà dịch bệnh phát triển mạnh. Tuy nhiên, do công tác thanh tra kiểm tra còn yếu kém và hệ thống thông tin chậm nên dịch bệnh dễ bị lan rộng, khó kiểm soát dẫn tới hậu quả khó lường trong sản xuất nồn nghiệp. 2.1.7 Hệ thống thủy lợi trong cả nước. 2.1.7.1 Hiện trạng thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp. Sau nhiều năm đầu tư, với mục tiêu chủ yếu là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia tiến tới xuất khẩu. Đến nay, cả nước đã có 75 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thuỷ lợi nhỏ với tổng giá trị tài sản cố định khoảng 60.000 tỷ đồng (chưa kể giá trị đất và công sức nhân dân đóng góp). Các hệ thống thuỷ lợi năm 2000 đã đảm bảo tưới cho 3 triệu ha đất canh tác, tiêu 1.4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh bắc bộ, ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1.6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu ha chiếm 84% diện tích lúa. Các công trình thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha rau màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Lượng nước sử dụng cho nông nghiệp rất lớn. Theo tính toán năm 1985 đã sử dụng 41 tỷ m3 chiếm
  • 13. 89,8% tổng lượng nước tiêu thụ, năm 1990 sử dụng 46,9 tỷ m3 chiếm 90% và năm 2000 khoảng trên 60 tỷ m3 Nhờ các biện pháp thuỷ lợi và các biện pháp nông nghiệp khác trong vòng 10 năm qua sản lượng lương thực tăng bình quân 1.1 triệu tấn/năm. Tổng sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34,5 triệu tấn, đưa bình quân lương thực đầu người 330 kg năm 1990 lên 444 kg năm 2000. Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn với mức gần 4 triệu tấn/năm. 2.1.7.2 Công tác thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản Tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản nước ta khá lớn, nhiều hệ thống thuỷ lợi khi xây dựng đã xét đến việc kết hợp cấp nước để nuôi trồng thuỷ sản. Khi xây dựng các hồ chứa nước vấn đề phát triển thuỷ sản trong hồ chứa cũng được đề cập đến. Vài năm gần đây do hiệu quả của nuôi trồng thuỷ sản nhất là tôm sú nhiều vùng đất ven biển đã được xây dựng thành những khu vực nuôi trồng thuỷ sản tập trung. Tuy nhiên việc xây dựng các hệ thống thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu sản xuất chưa được quan tâm đúng mức, chưa có qui hoạch và các giải pháp đồng bộ. Hầu hết đều do dân tự phát, tự tổ chức xây dựng theo kinh nghiệm. Nhiều nơi, đã có hiện tượng thủy hải sản bị bệnh, tôm chết hàng loạt mà nguyên nhân là do môi trường nước không đảm bảo liên quan đến hệ thống cấp nước và thoát nước. Một số vùng đã có tranh chấp giữa nuôi tôm và trồng lúa gắn với nó là ranh giới mặn, ngọt cũng là vấn đề công tác thuỷ lợi phải xem xét, giải quyết. Việc phát triển thuỷ sản ở các hồ chứa nước cũng rất hạn chế, ở hầu hết các hồ chứa vừa và lớn chủ yếu chỉ khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên nên chỉ sau 1 thời gian ngắn nguồn lợi này đã cạn kiệt. Đây là một tiềm năng lớn nhưng chưa được quan tâm tổ chức, đầu tư. 2.2 Thành tựu và thách thức trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam 2.2.1 Thành tựa đạt được : Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, vượt qua bao gian khó, đến nay nền nông nghiệp nước ta đã từng bước trưởng thành và đóng góp nhiều thành tựu vào sự nghiệp phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là những vấn đề sau đây: - Thành tựu nổi bật nhất là nông nghiệp VN tăng trưởng cao,liên tục, đặc biệt là căn bản giải quyết được vấn đề lương thực cho đất nước. tăng trưởng bình quân hàng năm về nông lâm và ngư nghiệp thời kì 1991 – 2000 đạt 4,3% trong đó nông nghiệp đạt 5,4% ( riêng lương thực đạt 4,2%, cây công nghiệp đạt 10%, chăn nuôi 5,4%) thủy sản tăng 9,1%.lâm
  • 14. nghiệp tăng 2,1%.sản xuất lương thực nước ta đã đạt được kết quả to lớn từ 13,478 triệu tấn lương thực năm 1976 đã tăng lên 14,309 triệu tấn năm 1980, lên 18,20 triệu tấn 1985, lên 21,488 triệu tấn năm 1990, lên 27,570 triệu tấn năm 1995 và lên 34,254 triệu tấn năm 1999, đáng chú ý là năm 1999 so với năm 1994 sản lượng lương thực tăng 8,055 triệu tấn, hàng năm tăng bình quân 1,611 triệu tấn.nếu so với năm 1976 săn lượng lương thực năm 1999 tăng 154.41% trong đó lúa gạo tăng 133.75%.tính bình quân lương thực đầu người từ 274.4kg năm 1990 lên 372.5kg năm 1995 lên 407.9kg năm 1998 và lên 433.9kg năm 2000. Giá trị sản xuất lâm,nông nghiệp và thủy sản năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 232.7 nghỉn tỷ đồng, tăng 4.7 % so với năm 2009, bao gồm nông nghiệp đạt 168.4 nghìn tỷ đồng, tăng 4.2%; lâm nghiệp đạt 7.4 nghìn tỷ đồng tăng 4.6%; thủy sản đạt 56.9 nghìn tỷ đồng tăng 6.1% Trong hơn bốn thập kỷ lương thực đối với nước ta luôn là vấn đề nóng bỏng, tình trạng thiếu lương thực diễn ra triền miên. Tính riêng 13 năm(1976-1988) Việt Nam đã nhập 8.5 triệu tấn gạo, hàng năm nhập 0.654 triệu tấn gạo, trong đó thời kỳ 1976 – 1980 bình quân hàng năm 1.12 triệu tấn. thời kỳ 1981 – 1988 bình quân hàng năm nhập 0.3625 triệu tấn.song từ năm 1989 lại đây sản xuất lương thực, sản xuất lương thực nước ta chẳng những đa trang trải nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, có lương thực dữ trữ cần thiết mà còn dư thừa để xuất khẩu, hàng năm xuất khẩu từ 1,5 – 2,0 triệu tấn gạo thời kỳ 1989 – 1995 và tăng lên 3 – 4,6 triệu tấn, tăng 1,04 triệu tấn so với năm 2009 do cả diện tích và năng suất đều tăng, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7513,7 nghìn ha, tăng 76,5 nghìn ha so với năm trước : năng suất đạt 53,2 tạ/ha,tăng 0,8 tạ/ha. Giải quyết tốt vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để đa dạng hóa độc canh lúa nước, từ khi giải quyết được vấn đề lương thực, mới có điều kiện để đa dạng hóa theo hướng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả…Năm 2000 tỷ trọng cây lương thực là 67,11%, trong đó lúa chiếm 61,38%, tỷ trọng cây công nghiệp chiếm 6,33%, riêng cây công nghiệp lâu năm chiếm 11,21%, tỷ trọng cây ăn quả tăng 29,34%.Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú đã tạo điều kiện để phát triển chăn nuôi. Từ năm 1981 trở lại đây con bò lại được xác định không chỉ để cày kéo mà là nguồn cung cấp thịt, sữa cho nhân dân, 11 đàn bò nước ta đã tăng lên nhanh chóng, năm 2000 đàn bò cả nước tăng lên 4,1279 triệu con tăng 152,21% so với năm 1976, trong đó đàn bò miền Bắc gấp 3,2 lần. Hiện nay lợn là gia súc cung cấp nguồn thịt chủ yếu cho nhân dân, số lượng đàn lợn từ 8,9581 triệu con năm 1976 tăng lên 12,2605, tăng 36,86%, đó là thời kỳ lương thực đang gặp khó khăn đàn lợn tăng chậm. Từ năm 1991 trở đi lương thực được giải quyết vững chắc, đàn lợn đã tăng nhanh từ 12,1404 triệu con tăng lên 17,6359 triệu con, chỉ trong vòng 7 năm số lượng đàn lợn tăng thêm
  • 15. nhiều hơn 2,29 lần của 15 năm trước đó. Điều đáng chú ý là số lượng đàn lợn năm 2000 tăng 125,42% so với năm 1976, trong khi đó sản lượng thịt lợn hơi tăng 326,85%. Đạt được kết quả đó là do chất lượng đàn lợn tăng lên. Ngoài lợn, trâu bò chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về số lượng và chủng loại, cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông dân đã tiếp thu phát triển chăn nuôi kiểu công nghiệp. Năm 2010 đàn lợn cả nước có 27,37 triệu con, giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm 2009. Đàn gia cầm có 300,5 triệu con, tăng 7,3%. Đàn trâu có 2913,4 nghìn con, tăng 0,9%. Đàn bò có 5916,3 nghìn con, giảm 3,1%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng năm 2010 ước tính 84,2 nghìn tấn, tăng 6,5% so với năm 2009. Sản lượng thịt bò 278,9 nghìn tấn, tăng 5,9%. Sản lượng thịt lợn 3036,4 nghìn tấn, tăng 0,2%. Sản lượng thịt gia cầm 621,2 nghìn tấn, tăng 17,5%. Trứng gia cầm 6371,8 triệu quả, tăng 16,5%. Những năm gần đây thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kể, công tác nuôi trồng thủy sản được coi trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ sở sản xuất giống và nuôi tôm xuất khẩu được triển khai ở ven biển miền Trung. Việc đánh bắt hải sản đang được khôi phục và phát triển ở nhiều địa phương, tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt được tăng cường, nhất là hiện nay các tỉnh đang triển khai dự án đánh bắt cá xa bờ, tiềm lực của thuỷ sản được tăng nhanh, nhờ vậy mà sản lượng thuỷ sản tăng nhanh, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn. Sản lượng thuỷ sản năm 2010 ước tính đạt 5127,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm 2009, trong đó cá đạt 3847,7 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm 588,8 nghìn tấn, tăng 7,1%. - Từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá với qui mô lớn. Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất nông sản hàng hoá, nông nghiệp nước ta đã và đang từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá với qui mô lớn. Hai vùng trọng điểm lúa của nước ta là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng đó là hai vùng sản xuất lúa lớn nhất của đất nước. Ở đồng bằng sông Cửu Long, năm 2000 diện tích gieo trồng lúa đạt 3,936 triệu ha, hàng năm diện tích trồng lúa cần được mở rộng, trong đó có những tỉnh có qui mô diện tích tương đối lớn, như tỉnh Kiên Giang có gần 540 ngàn ha, An Giang có 464 ngàn ha, Cần Thơ có 413 ngàn ha v.v... Cà phê là sản phẩm hàng hoá xuất khẩu quan trọng sau lúa gạo, năm 2000 diện tích cà phê cả nước đạt 516,7 ngàn ha với sản lượng hơn 698,2 ngàn tấn cà phê nhân. Năm 2010 diện tích cà phê cả nước 548,2 nghìn ha, sản lượng cà phê ước tính 1105,7 nghìn tấn, tăng 4,6% so với năm 2009. Cà phê được phân bố tập trung nhất ở vùng Tây Nguyên chiếm 80,25% diện tích và 85,88 sản lượng, riêng tỉnh ĐăkLăk chiếm 48,93% diện tích và 64,73% sản lượng cà phê nhân cả nước... Ngoài vùng cà phê Tây Nguyên, cà phê cũng phát triển mạnh ở vùng Đông Nam Bộ,
  • 16. chiếm 13,27% diện tích và 11,85% sản lượng cà phê của cả nước, trong đó tập trung nhất là tỉnh Bình Phước. Cao su là cây công nghiệp lâu năm được phát triển mạnh ở nước ta, đến năm 2000 Việt Nam đã có 406,9 ngàn ha, với sản lượng mủ khô 291,9 ngàn tấn và lượng cao su mủ khô đã xuất khẩu năm 2000 là 280,0 ngàn tấn. Sản xuất cao su được phân bổ chủ yếu vùng Đông Nam Bộ, trong đó tập trung ở hai tỉnh Bình Phước và ở Tây Nguyên. Năm 2010 sản lượng một số cây ăn quả cũng tăng khá, trong đó sản lượng cam, quýt cả năm ước tính đạt 729,4 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm trước; dứa 502,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; chuối 1,7 triệu tấn, tăng 3%; xoài 574 nghìn tấn, tăng 3,6%, bưởi 394,1 nghìn tấn, tăng 3,4%. Về chăn nuôi được phân bố đồng đều ở các vùng trong cả nước, tính tập trung chưa cao, song bước đầu đã thể hiện sự hình thành vùng sản xuất hàng hoá tương đối rõ. Lợn là vật nuôi quan trọng, cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho nhân dân nước ta, sản lượng thịt hơi chiếm 76,8% tổng sản lượng thịt hơi. Tính bình quân cả nước trên 1 ha đất canh tác hàng năm có 3,18 con lợn và sản xuất được 207,8 kg thịt hơi, trong lúc đó vùng đồng bằng sông Hồng là nơi chăn nuôi lợn khá tập trung, chiếm 22,19% tổng đàn lợn và 26,41% tổng sản lượng thịt hơi sản xuất ra của cả nước tính trên ha đất canh tác hàng năm có 6,2 con lợn, cao gấp hai lần bình quân chung cả nước và 503,9 kg thịt hơi, cao gấp 2,5 lần so với bình quân chung cả nước. Đàn bò cả nước có gần 4,0 triệu con năm 1997, tính bình quân trên 1 ha đất nông nghiệp có 0,51 con và sản xuất được 9,4 kg thịt hơi, trong đó vùng Duyên hải miền Trung đạt mức cao nhất - 1,83 con/ha và 33,63 kg thịt hơi/ha cao gấp ba lần bình quân chung cả nước. Tiếp đó là vùng khu 4 đạt mức 1,29 con/ha và 13,48 kg thịt hơi/ha. Nhờ quá trình chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá theo hướng đa dạng đã tạo điều kiện để từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá, có qui mô sản phẩm hàng hoá lớn. Nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ và chuyển biến tích cực. Năm 1986, giá trị xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản đạt 513 triệu đô la tăng lên 3168,3 triệu đô la năm 1996. Sau 10 năm kim ngạch xuất khẩu đã cao gấp hơn 6 lần. Đáng chú ý là thời kỳ 1991-1995 trong 10 năm hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn của cả nước thì nông lâm thuỷ sản có 6 mặt hàng, đó là gạo, cà phê, cao su, hạt điều, lạc nhân và thuỷ sản.
  • 17. Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã đạt trên 18 tỷ USD, đưa nước ta thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn trên thế giới. Năng suất lúa năm 2010 đạt 53 tạ/ha, gấp 4,4 lần năng suất năm 1945 và gần gấp hai lần năm 1985. Sản lượng lúa năm 2010 đạt gần 40 triệu tấn; sản lượng thịt tăng gấp năm lần so với năm 1985; độ che phủ của rừng tăng lên 39,5% vào năm 2010. Thủy sản năm 2010 đạt tổng sản lượng 4,8 triệu tấn. Sản lượng muối đạt 1,1 triệu tấn. Nước ta đã tham gia xuất khẩu gạo, cà-phê, cao-su, chè, điều, hồ tiêu, thủy sản, các loại lâm sản với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Hạt điều, hạt tiêu có giá trị xuất khẩu cao nhất thế giới và được đánh giá cao về chất lượng; gạo, cà-phê đứng thứ hai, cao-su đứng thứ tư, thủy sản đứng thứ năm, chè đứng thứ bảy... Ðã có năm mặt hàng kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên là gạo, thủy sản, đồ gỗ, cà-phê và cao-su. Hàng nghìn công trình thủy lợi được xây dựng trong 65 năm qua, trong đó có nhiều công trình quy mô lớn. Hệ thống thủy lợi với hàng nghìn hồ đập, trạm bơm, hàng chục nghìn km kênh mương, đê kè đã được hình thành. Trong sự phát triển nhanh chóng của ngành nông lâm nghiệp trong những năm qua có sự đóng góp đáng kể của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật thuộc các viện, các trung tâm nghiên cứu các trường đại học và cán bộ khuyến nông, khuyến lâm ở khắp mọi miền đất nước. Thành tựu nổi bật nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay là GDP hằng năm tăng trưởng tương đối ổn định, bình quân từ 4,2% đến 4,5%/năm. Tổng giá trị nông, lâm và thủy sản năm sau thường cao hơn năm trước, năm 2009 đã đạt khoảng 12,5 tỷ USD. Hiện nay, nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp đã tạo ra giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông nghiệp khoảng 30%. Những năm qua, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thành công các quy trình công nghệ và chọn tạo được nhiều giống cây trồng, gia súc... Những tiến bộ kỹ thuật đó được được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp trên nhiều lĩnh vực như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và chế biến sau thu hoạch. Năm 2011 cũng là năm thứ 21, nước ta thực hiện kim ngạch xuất khẩu gạo cao. Khả năng cả năm 2010, xuất khẩu đạt 6,5 triệu tấn, trong đó đến ngày 9-11-2010 đã giao cho bạn hàng nước ngoài 5,9 triệu tấn gạo, với giá trị kim ngạch 2,5 tỷ USD (giá FOB) tăng 9% về số lượng và 14% giá trị kim ngạch. Giá gạo xuất khẩu đang ngày càng tăng dần, bình quân đạt 424 USD/tấn, tăng 18,58 USD/tấn so cùng kỳ năm 2009.. Với sản lượng lúa chiếm hơn 90% số sản lượng các cây lương thực có hạt, Việt Nam đang trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. - Nông nghiệp đã tạo nhiều việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 2%/năm). Trước đổi mới, số người sống dưới mức đói nghèo là 60%, năm 2003 giảm xuống còn 29% và năm 2006 còn
  • 18. 19%. Mức giảm đói nghèo ấn tượng này chỉ có Việt Nam và Trung Quốc đạt được trong thời gian qua, chủ yếu là nhờ thành tựu to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn. Trong khi công nghiệp và dịch vụ còn đang lấy đà thì nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn là nơi tạo việc làm chính cho dân cư nông thôn - Môi trường được cải thiện một cách rõ rệt. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 chứng kiến những bước ngoặt quan trọng về nhận thức và hành động của lâm nghiệp, chuyển từ khai thác rừng tự nhiên sang bảo vệ rừng, tăng đầu tư trồng mới, khoanh nuôi; xã hội hoá hoạt động trồng và bảo vệ rừng. Chương trình Phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327), Chương trình trồng mới 5 triệu hecta rừng cùng các chính sách giao đất, giao rừng và hạn chế khai thác gỗ đã góp phần tăng tỷ lệ che phủ rừng từ 33,2% (năm 1999) lên 38% (năm 2006), tăng lên 39,5% vào năm 2010. - Công tác thuỷ lợi và phòng chống thiên tai có chuyển biến tích cực. Đến nay, cả nước có 75 hệ thống thuỷ lợi lớn; 800 hồ chứa lớn; 3.500 hồ chứa dung tích trên 1 triệu m3; trên 1.000 trạm bơm; hàng vạn công trình khác có khả năng tưới trực tiếp cho 3, 45 triệu hecta, tiêu cho 1, 7 triệu hecta, ngăn mặn 0, 87 triệu hecta, cải tạo chua phèn 1, 6 triệu hecta và cấp hơn 5 tỷ m3/năm cho sinh hoạt và công nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống đê điều đồ sộ với 5.700km đê sông, 2.000km đê biển, 23.000km bờ bao làm nền cho công tác phòng chống thiên tai. Đặc biệt năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO đã đánh dấu một bước chuyển biến lớn của kinh tế cả nước nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Sau 3 năm gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả rõ rệt. Giá trị xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng. Nếu như năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt xấp xỉ 12,5 tỷ USD thì năm 2008, con số này là 16 tỷ USD và năm 2009 xuất khẩu đạt 15,4 tỷ USD. Cán cân thương mại nông lâm thủy sản năm 2007 xuất siêu 5,450 tỷ USD, năm 2008 tiếp tục tăng xuất siêu với mức 5,874 tỷ USD và năm 2009 là 7,3 tỷ USD. Như vậy, sau 3 năm hội nhập WTO với 3 cú sốc về giá lương thực, giá xăng dầu, và khủng hoảng kinh tế toàn cầu phủ “bóng đen” lên Việt Nam, nông nghiệp đã thể hiện được vai trò “trụ đỡ” trong việc chống chọi được với những tác động của khủng hoảng kinh tế. 2.2.2Những thách thức của nông nghiệp VN
  • 19. Do ảnh ảnh hưởng suy thoái của kinh tế thế giới và những rủi ro, bất lợi về thời tiết, ngành nông nghiệp đã phải gánh chịu nhiều khó khăn trong năm trước đây. Những khó khăn này cũng đặt nông nghiệp Việt Nam trong năm tới trước nhiều thách thức. 2.2.2.1 Vấn đề môi trường trong nông nghiệp nông thôn: Cháy rừng đang là một vấn nạn của ngành nông nghiệp, vừa trực tiếp gây mất rừng vừa gián tiếp gây ra hiệu ứng khí thải nhà kính. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu làm thay đổi quy luật thủy văn các con sông, gây nên hiện tượng hạn hán trên diện rộng tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng và gây ra nhiều áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ở khu vực phía Nam. Tại đồng bằng sông Cửu Long, mực nước trên sông có khuynh hướng tăng, gây ngập trên diện rộng. Đồng thời đồng bằng sông Cửu Long còn phải hứng chịu hiện tượng nước mặn xâm nhập vào nội địa gây thiếu nghiêm trọng nước ngọt phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Bên cạnh đó, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ làm quá trình xâm nhập mặn vào nội địa đồng bằng sông Cửu Long sâu hơn, không loại trừ địa phương nào và nước ngọt sẽ trở nên khan hiếm hơn. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cần lựa chọn giải pháp tối ưu để ứng phó. Thời tiết thay đổi thất thường cũng làm tăng nguy cơ xuất hiện các loại dịch bệnh mới. 2.2.2.2 Đời sống dân cư nông thôn Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức trên 2 lần. Tỷ lệ nghèo khu vực nông thôn (18,1%) cao gấp 6 lần khu vực thành thị (3,1%). Gần 90% hộ nghèo tập trung ở vùng thường xuyên gánh chịu thiên tai nên khả năng tái nghèo rất lớn. Ảnh hưởng của thời tiết và thiên tai ngày một nhiều có khả năng làm giảm sản lượng lương thực, thực phẩm gây nguy cơ đói cục bộ tại các vùng khó khăn. Tỷ lệ nghèo ở nhóm dân tộc ít người vẫn ở mức rất cao và tốc độ giảm nghèo rất chậm. Lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 70% trong tổng số lao động nông thôn và 50% lao động xã hội. Xét về độ tuổi, lao động nông thôn tương đối trẻ, với 47,7% nằm trong độ tuổi từ 15-35 tuổi. Tuy có số lượng lao động trẻ dồi dào nhưng chất lượng lao động nông thôn còn thấp, cản trở đầu tư tư nhân vào nông nghiệp nông thôn, cũng như việc rút lao động nông thôn vào khu vực công nghiệp - dịch vụ chính thức ở đô thị. Tăng trưởng nông nghiệp suy giảm trong bối cảnh giá XK giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người nông dân tại các vùng XK nông-lâm-thủy sản. Nông hộ buộc phải giảm chi tiêu. - 68,4% số hộ giảm chi tiêu cho thịt cá khoảng 18,5%.
  • 20. - 65,2% số hộ giảm chi tiêu cho đồ dùng lâu bền khoảng 13,6%. - 52,3% số hộ giảm chi tiêu cho xây dựng khoảng 25,9%. 2.2.2.3 DN nông nghiệp nông thôn Tính đến năm 2009 có khoảng gần 20.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, tăng gần 78% so với năm 2005 (thời điểm Luật doanh nghiệp ra đời). Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông. Các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Hoạt động của nhiều DNNN vẫn kém hiệu quả, 27% DN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh khó khăn của khu vực DN, kinh tế trang trại cũng phát triển rất chậm, chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông - lâm - ngư nghiệp của cả nước. Mức độ trang bị cơ giới và áp dụng khoa học công nghệ của các trang trại này còn rất yếu kém, khả năng liên kết với thị trường rất hạn chế, khả năng cạnh tranh kém. Kinh tế hợp tác phát triển chậm, chủ yếu là các HTX cũ chuyển đổi. Số lao động thường xuyên trong các HTX chỉ chiếm 5% tổng số lao động nông – lâm - ngư nghiệp. 54% số hợp tác xã hiện nay có hiệu quả hoạt động ở mức trung bình và yếu. 2.3 Mục Tiêu Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững 2.3.1 Mục tiêu chung Mục tiêu chiên lược của các nước nông nghiệp là xây dựng và phát triển một nên nông nghiệp bền vững. Mục tiêu tổng quát đến năm 2015 là: “xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống nhân dân”. 2.3.2 Mục tiêu cụ thể Mục tiêu cụ thể đến năm 2015: Tạo sự chuyển biến rõ nét trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất chuyên canh, sử dụng giống mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đẩy mạnh cơ giới hóa, trong sản xuất; gắn sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ và mở rộng xuất khẩu. Đến năm 2015, diện tích cây ăn trái 34.500 ha, sản lượng
  • 21. 442.000 tấn; 53.500 ha dừa, sản lượng 494 triệu trái; diện tích vùng chuyên canh sản xuất lúa tập trung 26.500 ha, sản lượng đạt 331.600 tấn; vùng mía nguyên liệu 4.300 ha, sản lượng 365.500 tấn; diện tích đất có rừng đạt 4.400 ha; đàn bò 220.000 con, đàn heo 350.000 con, đàn gia cầm 5 triệu con; diện tích nuôi thủy sản đạt 46.000 ha, trong đó nuôi tôm biển thâm canh bán thâm canh 5.500 ha, sản lượng thủy sản nuôi đạt 195.000 tấn; sản lượng thủy hải sản đánh bắt đạt 90.000 tấn. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp bình quân hàng năm 5,63%. Phấn đấu trong giai đoạn 2011 – 2015 được mức tăng trưởng toàn ngành là 3.5% - 3.8% / năm .Kế hoạch năm 2011 đạt múc tăng trưởng của ngành là 4,5% - 5% so với năm 2010 trên cơ sở tập trung ưu tiên nguồn lực cho nâng cao năng suất , chất lượng các sản phẩm chủ lực như cá tra, tôm nước lợ, lúa gạo, cao su, cà phê, điều, hạt tiêu, lạc, đậu tương, chăn nuooi gia súc, chăn nuôi gia cầm. Đối với lĩnh vực trồng trọt, mục tiêu đến năm 2015 ổn định diện tích đất lúa 3,8 triệu ha, sản lượng thu hoạch 40 triệu tấn / năm. Tổng sản lượng cây có hạt đạt 46,3 triệu tấn. Với chăn nuôi, mục tiêu giai đoạn 2011 – 2015 đạt mức tăng giá trị sản xuất binh quân 6 – 7% /năm. Năm 2012 sẽ sản xuất 4,28 triệu tấn thịt hơi các loại, 6,53 tỷ quả trứng, 230 nghìn tấn sữu tươi, 2 triệu tấn thức ăn chăn nuôi . Ngành thủy sản phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 6% - 7%/năm, riêng năm 2011 tăng trưởng 7% và cho tổng sản lượng 5,3 triệu tấn thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu phải trên 5 tỷ USD. Ngành lâm nghiệp phấn đấu phát triển toàn diện trong 5 năm tới, giá trị sản xuất tăng bình quân 1,5 – 2%/ năm, sẽ trồng mới 200 nghìn ha rừng, khoanh nuôi tái sinh thêm 100 nghìn ha, khoán bảo vệ rừng thêm 2,26 triệu ha. Năm 2011 Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đề nghị Chính Phủ, Quốc Hội tiếp tục cho triên khai cơ chế chính sách để bảo vệ phát triển rừng nâng cao chất lượng rừng phấn đấu mục tiêu đến 2015 nâng độ che phủ rừng đạt 45%, Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng thay mặt Chính Phủ đã biểu dương ngành Nông Nghiệp, thành tựu ngành nông nghiệp năm 2011 cho thấy nghị quyết Trung Ương 7 bắt đầu đạt kết quả trong cuộc sống. Trong tình hình vài năm gần đây, nền kinh tế nước ta nói chung gặp nhiều khó khăn nhưng nông nghiệp vẫn phát triển tự hào tôn vinh người nông dân . Phần III.Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững: 3.1.Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp.
  • 22. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải cung cấp sản lượng lương thực nhiều hơn nữa, Việt Nam cần xây dựng chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp để phát triển hiệu quả, bền vững.  Những vấn đề cần giải quyết để tái cơ cấu ngành nông nghiệp. - Tái cơ cấu lại đầu tư. - Ứng dụng và đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất. - Chú trọng đào tạo cho người nông dân – nguồn nhân lực chính phục vụ phát triển nông thôn. - Cải cách hành chính, xây dựng khuôn khổ pháp luật cần thiết cho việc tái cơ cấu ngành.  Định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhấn mạnh yêu cầu: Bước sang giai đoạn phát triển mới, ngành nông nghiệp cần có những định hướng tập trung phát triển mới. “Đó là việc hướng tới việc khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế phát triển của ngành hiện còn rất lớn. Tiềm năng đó là giá trị gia tăng và chất lượng các sản phẩm nông, thủy hải sản” -Ngành trồng trọt Ưu tiên cao hơn cho nhóm cây rau và hoa; tiếp tục khai thác khả năng tăng giá trị gia tăng trong trồng trọt theo hướng đổi mới trong khâu giống, thâm canh, ứng dụng công nghệ cao, thực hành GAP nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; chú trọng nâng cao giá trị gia tăng trong khâu sau thu hoạch và chế biến. -Ngành chăn nuôi Tái cơ cấu đàn vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng gia cầm, bò sữa; chuyển dịch mạnh chăn nuôi nhỏ lẻ sang trang trại, gia trại theo kiểu công nghiệp và công nghệ cao đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường; chuyển dịch dần chăn nuôi từ đồng bằng lên vùng trung du, miền núi, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung xa thành phố, khu dân cư. - Ngành thủy sản
  • 23. Ưu tiên phát triển tôm, cá tra và nhuyễn thể; tập trung phát triển nuôi trồng theo hướng công nghiệp, thâm canh, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường; ưu tiên cao cho việc đầu tư phát triển nuôi trồng ở vùng ĐBSCL, vùng ven biển. - Ngành lâm nghiệp Ưu tiên phát triển rừng kinh tế; rừng phòng hộ lưu vực xung yếu, rừng ngập mặn ven biển, rừng biên giới. - Phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn Khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp; phát triển ngành nghề nông thôn, gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch vụ du lịch và bảo tồn phát triển văn hóa truyền thống. Trong 5 năm tới, ngành nông nghiệp cần tập trung tối đa cho các giải pháp tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Việc tái cơ cấu cần đồng bộ, trước hết là trong chuyển đổi cơ cấu vốn đầu tư, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách, có chính sách thu hút đầu tư ngoài xã hội, nhất là đầu tư nước ngoài để ưu tiên cho các chương trình KHCN, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng, giá trị cao. Đặc biệt là gia tăng hàm lượng, giá trị chế biến trong tất cả các sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản, coi đây là khâu đột phá để vừa đảm bảo ổn định về tăng trưởng vừa nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. 3.2 Sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp Nền kinh tế nước ta vẫn còn phải dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên (TNTN). Riêng giá trị sản lượng nông nghiệp còn chiếm tới 23% tổng giá trị GDP. Nếu tính cả các lĩnh vực khác, thì có thể thấy TNTN đã đóng góp tới 50% tổng giá trị GDP, 60-70% tổng giá trị hàng xuất khẩu, và mang lại việc làm cho hàng triệu người lao động. Nước ta có nguồn TNTN tương đối phong phú, nhưng cũng có những nét đặc thù. Tài nguyên sinh vật phong phú và có tính đa dạng sinh học cao, tài nguyên nước và tài nguyên khoáng sản thuộc loại trung bình, nhưng tài nguyên đất thì lại hạn chế. Tình hình bảo vệ không tốt, khai thác bừa bãi, thiếu kỹ thuật, chế biến và sử dụng kém hiệu quả TNTN là tương đối phổ biến hiện nay, đã và đang gây tổn thất và làm cạn kiệt, suy thoái nhiều nguồn tài nguyên. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy nhiều vấn đề tồn tại trong việc khai thác sử dụng TNTN. Tại Tây Nguyên, diện tích rừng tự nhiên giảm liên
  • 24. tục, do khai thác quá mức và chưa ngăn chặn được hoạt động khai thác bất hợp pháp. Rừng trồng không đạt chỉ tiêu. Phát triển cây trồng chưa gắn với khả năng tưới. Phát triển cây trồng trên địa hình không thuận lợi, chưa gắn với việc sử dụng kỹ thuật canh tác thích hợp. Do vậy, càng phát triển càng kém bền vững. Nhiều giải pháp tương đối toàn diện đã được kiến nghị. Một số nghiên cứu chuyên đề, như phương án sử dụng đất ở huyện Ngọc Hồi và Sa Thầy, đã được hoàn thành và bàn giao cho địa phương sử dụng. Chuyên đề nghiên cứu quy luật phân bố và triển vọng khoáng sản quý hiếm ở Tây Nguyên đã xác định 4 kiểu nguồn gốc đá quý, trong đó 2 kiểu có giá trị công nghiệp và đã sơ bộ khoanh vùng triển vọng phát hiện đá quý ở Tây Nguyên. Vùng ĐBSH đất chật người đông, cho nên tài nguyên đất đặc biệt có ý nghĩa. Trong thập kỷ qua, do phát triển thâm canh nông nghiệp, ngoài những thành tựu to lớn đã đạt được, cần quan tâm hơn đến vấn đề suy thoái chất lượng đất do lượng phân bón sử dụng còn thấp, chưa bù lại được lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi, hoặc do sự mất cân đối trong sử dụng phân hoá học. Cũng có nhiều nơi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật còn tồn lưu trong đất khá cao, ảnh hưởng tới chất lượng sảm phẩm cây trồng. Về mặt đa dạng sinh học, nhiều giống cây trồng, vật nuôi cổ truyền có giá trị về gen đã bị thất thoát, thí dụ 56 giống lúa, trong đó có 30 giống có chất lượng gạo ngon. Các loài thiên địch trong vùng trồng lúa cũng đã giảm đi 23 loài và giảm trên 50% về số lượng. Nhiều kiến nghị cũng đã được đề xuất, như việc cải tiến công tác quy hoạch, các giải pháp về sử dụng hợp lý đất và cải thiện chất lượng môi trường đất bằng các phương pháp canh tác hợp lý, các biện pháp bảo vệ đất, hạn chế sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, tăng cường sử dụng các phương pháp sinh học. Vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về nông nghiệp và thuỷ hải sản, nhưng cũng có những trở ngại lớn về mặt môi trường do chế dộ thuỷ văn và tình hình khai thác trên sông Mê Công, do ảnh hưởng của bán nhật triều Biển Đông, lại là vùng có những diện tích đất phèn rộng lớn và miền đất ngập nước nhậy cảm. Sau các biện pháp thoát lũ, còn có những vấn đề phải nghiên cứu giải quyết tiếp, như phân chia lại dòng tràn đồng và dòng chính, tác động của các bờ bao làm thay đổi quan hệ dòng chảy ở sông Tiền và sông Hậu và thúc đẩy hiện tượng sạt lở bờ và tăng bồi lấp ở cửa sông. Có nhiều biện pháp đã được đề xuất về việc sử dụng hợp lý tài nguyên; đa dạng hoá nền kinh tế, mà trước hết là đa dạng hoá nông nghiệp; tăng cường hệ số trao đổi nước; lợi dụng nước lũ để thay nước vùng phèn và vùng nước mặn để ngọt hoá; tăng lượng trữ nước trên đồng bằng; xử lý các chất thải, kể cả trong mùa lũ; xây dựng các khu dân cư sinh thái; tăng cường công tác khảo sát đo đạc để có thể dự báo sớm nguy cơ sạt lở; sử dụng các biện pháp công trình và phi công trình để phòng
  • 25. ngừa và hạn chế nguy cơ sạt lở; bảo vệ đa dạng sinh học và kiểm soát việc nhập nội các loài lạ vv... Hiện tượng hoang mạc hoá làm ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu người trên thế giới, hàng năm gây thiệt hại khoảng trên 40 tỷ USD. Hiện tượng này cũng xuất hiện ở nước ta và có nguy cơ lan rộng tại một số tỉnh Nam Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã làm rõ nguyên nhân của các hiện tượng này do đặc điểm địa hình, điều kiện khí hậu khô nóng, tính chất cực đoan của khí hậu-thuỷ văn giữa mùa khô và mùa mưa, thành phần thạch học của đất đá, các phương thức canh tác lạc hậu và việc chăn thả gia súc quá tải...Nhiều biện pháp đã được đề xuất, liên quan đến vấn đề quy hoạch, các giải pháp kỹ thuật trong sản xuất và các giải pháp về tổ chức và quản lý. Một số mô hình dựa trên các kinh nghiệm của nhân dân đã được nghiên cứu, cải tiến và đang thử nghiệm, bước đầu cho kết quả tốt. 3.3 Tăng cường chuyển giao khoa học công nghệ cho người lao động Việc nâng cao tay nghề và kĩ năng sản xuất cho người nông dân là một việc hết sức quan trọng và cần thiết nhằm phát triển nền nông nghiệp bền vững ở nước ta. Việc chuyển công nghệ cần được thực hiện thường xuyên và rộng khắp trong cả nước, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc ít người, giúp họ nâng cao năng suất, giảm tỷ lệ đói nghèo. Góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo Nhà nước ta đang thực hiện.