SlideShare a Scribd company logo
1 of 11
Download to read offline
2
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀ CÁC NGUYÊN TẮC
TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
GS, TSKH. Đào Trí Úc
Chủ tịch Hội đồng Viện Chính sách Công và Pháp luật
1. Về vai trò và sứ mệnh mới của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII Kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm
2014. Là Luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam và với vị trí pháp lý cao nhất, bằng cả lời
văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và
động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền
tảng dân chủ, pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam phản ảnh nhu cầu bức xúc của
sự phát triển mọi mặt của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập, bảo đảm sự phù
hợp với các giá trị căn bản của thời đại.
Những giá trị mới đó ở nước ta là gì? Có thể khẳng định rằng, đó là chủ quyền tối cao
và không thể chia sẻ của nhân dân, theo đó là những lợi ích cơ bản, sống còn của đất nước,
của dân tộc vượt lên trên những khác biệt giai cấp, xã hội vì sự đồng thuận và đoàn kết xã hội.
Đó là các giá trị tự do, công bằng, dân chủ, quyền con người chân chính, các giá trị liên quan
đến thị trường, tự do kinh doanh, tự do làm giàu chính đáng và hợp pháp. Đó là những giá trị
văn hóa phản ánh bản sắc và truyền thống dân tộc, là chế độ pháp quyền XHCN với cam kết
về sự thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý của công dân; sự phân công và phối
hợp của các thiết chế quyền lực nhà nước, sự độc lập của Tòa án; bảo đảm các cam kết quốc
tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Có thể khẳng định rằng, quá trình đổi mới đất nước đã tạo nên và làm giàu thêm những
giá trị xã hội quan trọng này và, đến ngày hôm nay, những giá trị đó phải được coi là thành
quả to lớn của nhân dân ta, đất nước và xã hội ta, không thể đảo ngược.
Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là kết tinh trí tuệ và văn minh nhân loại, là thành quả
đấu tranh bền bỉ của nhân dân. Tư tưởng đó đã chuyển hóa, phát triển từ quan điểm, học
thuyết trong các cuộc tranh luận học thuật và quan điểm thành các chế định dân chủ và pháp
quyền được ghi nhận trong các Hiến pháp, pháp luật và trong tổ chức thực hiện quyền lực.
Nguyên tắc chủ đạo của chế độ pháp quyền là nguyên tắc về sự tối thượng của Hiến pháp, là
thể hiện sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, quyền của nhân dân kiểm soát Nhà nước.
Nhà nước chịu sự ràng buộc của Hiến pháp là chịu sự ràng buộc của Nhân dân. Quyền của
nhân dân đối với Nhà nước là quyền của chủ nhân quyền thực hiện khả năng kiểm soát và
giám sát người được giao quyền, được ủy quyền. Đó là một nguyên lý chắc chắn không thể
nghi ngờ hoặc tranh cãi.
3
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
2. Các nguyên tắc chủ đạo của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức quyền lực nhà nước.
2.1. Nguyên tắc dân chủ XHCN và chủ quyền nhân dân
2.1.1. Dân chủ XHCN- nguyên tắc xuyên suốt của tổ chức và hoạt động hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước ở nước ta.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, từng bước Đảng ta đã xác định ngày càng rõ nét
hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn và ở trình độ cao hơn vấn đề dân chủ và pháp quyền. Cùng với
những bước tiến vững chắc của công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng về dân chủ và pháp
quyền cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một phạm trù chính trị biểu thị một hình thức chính trị - nhà
nước mà ở đó quyền con người, các quyền tự do, bình đẳng của công dân được thừa nhận, tôn
trọng và bảo vệ; trong chế độ đó nhân dân phải là chủ thể đích thực và cao nhất của quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước. Ở đó, mọi thiết chế quyền lực đều được đặt dưới sự kiểm tra,
giám sát, trước hết là của nhân dân.
Những năm qua, các hình thức dân chủ đã từng bước được củng cố và hoàn thiện. Các
tiến bộ trong việc thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đã có khả năng
thâm nhập sâu rộng vào mọi tầng lớp nhân dân và mọi vùng của đất nước, đang tạo ra những
mô hình, những điển hình có sức lan tỏa mới.
Trong khi khẳng định những kết quả quan trọng trên đây, chúng ta cũng thấy trong việc
thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại những vấn đề bức xúc.
Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người
đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ, công
chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ. Tình
hình đó làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của nhà nước và năng
lực lãnh đạo điều hành của hệ thống chính trị. Tệ quan liêu, tình hình tham nhũng có chiều
hướng gia tăng, nhưng chưa kiểm soát được.
Một trong những nguyên nhân của tình hình này là vấn đề dân chủ và kỷ luật trong hệ thống
chính trị nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng. Một mặt, đây là vấn đề về hiệu quả và
năng lực lãnh đạo, điều hành của hệ thống chính trị: cần phải tạo dựng và hoàn thiện các cơ chế để
quyền lực luôn luôn có thể được kiểm soát trong quỹ đạo phục vụ lợi ích của đất nước, của nhân
dân, đủ năng lực nắm bắt, phản ánh và phục vụ các nhu cầu đa dạng của nhân dân, xã hội, bảo vệ
một cách có hiệu quả quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường khả năng
“miễn dịch” đối với tệ quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác.
Khi bàn về quyền lực, các nhà nghiên cứu xã hội học nhấn mạnh vai trò kết nối, quản lý,
phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực của xã hội, vai trò và khả năng liên hệ của quyền lực
chính trị, vai trò hóa giải mâu thuẫn xung đột xã hội của quyền lực chính trị.
4
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
Từ đó, lãnh đạo, quản lý, với tính chất là chức năng của các thiết chế của hệ thống chính
trị là quá trình và phương pháp phản ánh mối quan hệ đó. Xử lý mối quan hệ này là biểu hiện
tập trung nhất của năng lực và hiệu quả và quản lý của hệ thống chính trị.
Năng lực của hệ thống chính trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, trước
hết phải kể đến những tố chất vốn có của hệ thống chính trị. Đó là tính mở. Tính mở của các
thiết chế chính trị tạo ra sự liên hệ mật thiết giữa chúng với nhau và của toàn bộ hệ thống
chính trị với đời sống xã hội. Tính mở tạo nên mối liên hệ dân chủ trong mối quan hệ giữa các
bộ phận bên trong của các thiết chế chính trị, tăng cường khả năng tiếp nhận thông tin từ bên
ngoài hệ thống.
Bản chất dân chủ của chế độ chính trị nước ta đòi hỏi mọi quyết định và hành động của
các thiết chế quyền lực nhà nước đều phải bắt nguồn từ ý chí đích thực của nhân dân. Tiền đề
pháp lý đó đã được Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ” (Điều 2).
Khi chúng ta nói phải bảo đảm để quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, để quyền lực
đó không bị tha hóa, việc sử dụng và thực thi quyền lực không đi chệch ra khỏi quỹ đạo phục
vụ lợi ích của nhân dân là nói đến vấn đề phản ánh lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong quá
trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, áp dụng chính sách và pháp luật.
Nói về dân chủ XHCN ở nước ta, có thể nêu lên những nhận xét sau đây:
Thứ nhất, đó là sự nổi trội của hệ thống dân chủ đại diện so với hình thức dân chủ trực
tiếp. Điều đó dẫn đến sự nghèo nàn của các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta, sự kém chất
lượng của chế độ bầu cử, các hình thức dân chủ trực tiếp khác trong thực tế. Chính xuất phát
từ tình hình này cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp 2013 đã có một điểm nhấn quan trọng về
dân chủ trực tiếp. Theo đó, “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp,
bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của nhà
nước (Điều 6). Đây là một tín hiệu quan trọng trong đời sống chính-xã hội nước ta.
Thứ hai, đó là sự thiếu vắng cơ chế thực thi các quyền hiến định của công dân một cách
trực tiếp hay là vấn đề hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp. Đây cũng là một trong những vấn đề
mới được Đảng ta chú ý khi xác định nhiệm vụ xây dựng và áp dụng cơ chế giám sát Hiến
pháp ở nước ta.
2.1.2. Nguyên tắc về chủ quyền nhân dân và trách nhiệm của bộ máy nhà nước trước
nhân dân.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1959, tiếp theo đó là Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992
trước khi được sửa đổi vào năm 2001 đã có những quy định như sau:
Một mặt, tiếp tục khẳng định nguồn gốc quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân: tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980,
Điều 2 Hiến pháp 1992, bản đầu tiên); mặt khác, quy định rằng, nhân dân sử dụng quyền lực
nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân (Điều 4, Hiến pháp 1959; Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992,
bản đầu tiên)
5
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
Điều đó có nghĩa rằng, nhân dân đã trao hết quyền lực vốn là của mình cho các cơ quan
đại biểu, trong khi đó, Hiến pháp năm 1946, trước khi xác định rằng, Nghị viện nhân dân là
cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã dành 2 điều để quy định
về quyền của nhân dân bãi miễn các đại biểu (điều 20) và về quyền của nhân dân phúc quyết
về Hiến pháp và về những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Nói khác đi, Hiến pháp 1946
đã xác định rất rõ rằng quyền lực của nhân dân là không trao hết cho các thiết chế nhà nước.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông
qua các thiết chế nhà nước. Trong bối cảnh mới, khi chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, khi việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi trên một bình diện
quan trọng theo hướng khẳng định những giá trị dân chủ và pháp quyền đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặt làm nền tảng cho chế độ nhà nước của nước ta từ ngày lập quốc. Đó là quan
điểm khẳng định mạnh mẽ chủ quyền tối cao của nhân dân. Nói khác đi, chúng ta đã đặt hi
vọng vào chế độ dân chủ đại diện với quan niệm Nhà nước có thể thay mặt được nhân dân
thực hiện quyền lực của nhân dân. Từ đó, chúng ta chỉ có thể đặt cược vào khả năng giữ mối
liên hệ giữa người chủ quyền lực là nhân dân, là cử tri, với người được cử làm đại biểu, đại
diện cho nhân dân và “chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đến lượt nó, chế định dân chủ đại
diện, con át chủ bài của chúng ta, lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà trước hết là: năng lực
đại diện của đại biểu; trách nhiệm của đại biểu và cơ chế để duy trì và củng cố mối liên hệ
giữa đại biểu với cử tri.
Đó là sự ghi nhận, sự thừa nhận điều kiện tiên quyết cho một chính quyền hợp pháp và
chính đáng: khi chính quyền đó được hình thành và hoạt động trên cơ sở sự đồng thuận của
nhân dân. Những hoạt động, những tổ chức do Nhà nước tiến hành sẽ bị coi là không hợp
pháp, “không có thẩm quyền nếu không có sự ưng thuận của nhân dân” (J.Locke).
Thừa nhận và bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp là sự thừa nhận về mặt pháp lý
chủ quyền của nhân dân. Chỉ số hiệu lực của Hiến pháp được phản ánh thông qua hoạt động
của các cơ quan quyền lực Nhà nước, toàn bộ sinh hoạt quốc gia, đời sống xã hội, ý thức và
hành động của công dân. Khi Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh có thể
thấy một nền Hiến pháp vững chắc, một xã hội bền vững và dân chủ pháp quyền được đề
cao. Ngược lại, khi Hiến pháp bị pháp luật lấn lướt thì kỷ cương quốc gia, trật tự xã hội,
quyền con người có vấn đề, bởi vì, Hiến pháp và văn bản có giá trị pháp lý cao nhất phản ánh
chủ quyền tối thượng của nhân dân, của quốc gia, của dân tộc. Chính vì vậy, Hiến pháp năm
2013 đã đặt ra một quy định mới chưa từng có trong tiền lệ sinh hoạt quốc gia ở nước ta. Theo
đó, “sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp”
(Khoản 7, Điều 70 Hiến pháp).
Hiến pháp đặt nền tảng cho việc hoàn thiện chế định bầu cử - hình thức dân chủ cao
6
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
nhất, để cử tri thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử và đề cao trách nhiệm của
đại biểu dân cử, coi trọng mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri, thực hiện quyền bãi nhiệm đại
biểu của cử tri tạo cơ chế để cử tri giám sát đại biểu. Theo đó, Hiến pháp đã thành lập Hội
đồng bầu cử quốc gia, một thiết chế hiến định độc lập để phục vụ cho mục đích này, tạo bước
đổi mới mạnh mẽ về bầu cử.
Quy định cụ thể hơn các quyền tự do dân chủ của công dân như quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu dân ý; xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để
công dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Trên cơ sở của nhận thức mới về quyền lập hiến, Hiến pháp đã bỏ nội dung điều 83
trước đây quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và điều
147: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp”, thay vào đó là cơ chế về khả năng có
sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến của Quốc hội và sáng kiến lập hiến của các cơ quan cấp
cao của Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với quyền lập hiến của nhân dân dưới hình thức
trưng cầu ý dân về bản Hiến pháp do Quốc hội thông qua.
2.2. Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Sự khẳng định tôn trọng Hiến pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư
tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, và sự minh bạch của nhà nước, khẳng định quyền lực của nhân dân như là lá chắn cho
việc bảo vệ quyền con người. Sự lạc hậu của Hiến pháp và cơ chế thực hiện trực tiếp Hiến
pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của con người có thể ảnh
hưởng đến lòng tin của người dân vào chế độ, vào bộ máy Đảng và Nhà nước, làm giảm hiệu
quả của những nỗ lực tạo ra sự đồng thuận xã hội, sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân.
Về mặt cơ cấu hình thức, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân đã được chuyển dịch từ vị trí chương V trong Hiến pháp lên vị trí Chương II, chỉ sau
Chương I về chế độ chính trị. Nhưng trước hết, quyền con người là nội dung được bổ sung
ngay trong chương I của Hiến pháp. Hơn thế nữa, tại rất nhiều chương điều khác, bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng hiện diện trong nội dung chức năng và nhiệm
vụ của các thiết chế Nhà nước như Quốc hội (Điều 70, khoản 14); Chính phủ (Điều 96, khoản
6); Tòa án nhân dân (Điều 102, khoản 3); Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107, khoản 3). Đây là
những nội dung hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1992 khi Hiến pháp 2013 trao những
chức năng, nhiệm vụ cho các thiết chế, quyền lực nhà nước tương ứng.
Làm rõ hơn. chuẩn xác hơn và phong phú hơn nội dung một số quyền và tự do trước đây
đã được đề cập nhưng chưa rõ, chưa chính xác, chưa đầy đủ so với các chuẩn mực pháp lý
quốc tế và thực tiễn ở nước ta. Theo đó, lần đầu tiên ở nước ta đã hiến định đầy đủ nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội hình sự.
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ
của pháp luật trong Tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người,
7
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công
dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa
nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của Tố tụng
hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới
về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 (Khoản 2, Điều 14). Đặc biệt bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc
này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán theo gốc
Latinh (praesumptio) có nghĩa là giả định thể hiện ở yêu cầu: bị can, bị cáo phải được coi là
vô tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh theo một trình tự do pháp luật
quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Yêu cầu đó đã được Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1, Điều 31).
Từ nội dung và đòi hỏi cơ bản nêu trên, nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đặt ra những đòi
hỏi cụ thể hơn mà Tố tụng hình sự Việt Nam phải bảo đảm.
Đặt ra yêu cầu này, Hiến pháp đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho công dân trong cuộc sống
và hoạt động của họ. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước
của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo đó, mọi người đều có quyền
hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là
phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng
minh theo pháp luật” (Điều 14.2 Công ước).
Nội dung này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế nhưng nhấn mạnh yêu cầu về
mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công
khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy
tiện. Công ước nói trên của Liên hợp quốc khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ
trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã
quy định” (Điều 9.1 Công ước).
Khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung của nguyên tắc mới về quyền
của người bị buộc tội được tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công
khai - một nội dung quan trọng của quyền tiếp cận công lý của công dân.
Những nguyên tắc hiến định này, mà sự cụ thể hóa chúng bằng pháp luật tố tụng và việc
thực hiện chúng trên thực tế sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chức năng, thẩm quyền, phương
thức hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở nước ta.
Cùng với việc xác định TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh
của TAND được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Có thể thấy đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại như nguyên tắc hai cấp xét
xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem
8
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những
nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét
tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta.
2.3.Nguyên tắc về tính thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
nhà nước
2.3.1. Về tính thống nhất của quyền lực nhà nước
Trong mọi thời đại, kể từ khi ra đời đến nay, quyền lực nhà nước là một thực thể thống
nhất. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước gắn liền với bản thân quyền lực như nó có từ
khi xuất hiện Nhà nước trên cơ sở xóa bỏ chế độ thị tộc cát cứ quyền lực. Sự thống nhất của
quyền lực nhà nước thể hiện trước hết ở chỗ, trong một quốc gia không thể có hai thứ quyền
lực nhà nước trở lên khác nhau về bản chất, định hướng, mục tiêu và những công cụ, phương
tiện thực thi quyền lực. Điều này không loại trừ cả ở những quốc gia được tổ chức dưới hình
thức Nhà nước liên bang vì ở đó, quyền lực nhà nước ở các bang đồng kiểu với quyền lực của
liên bang, phục tùng Nhà nước liên bang và tạo thành một thực thể quyền lực.
Trong tác phẩm nổi tiếng: “Về khế ước xã hội hay các nguyên tắc của quyền lực chính
trị” JJ. Rouseau đã đưa luận điểm về sự liên kết của những người sở hữu chủ thành Nhà nước
và phát triển thành học thuyết về khế ước xã hội. Theo học thuyết này, nhiệm vụ chủ yếu của
Khế ước là xác lập một tổ hợp (association) và thông qua đó bằng nỗ lực chung mà bảo vệ,
che chở tính mạng và tài sản của từng thành viên của tổ hợp đó. Tổ hợp là sự kết hợp thống
nhất của mọi người, nhưng mỗi thành viên là độc lập, vẫn tồn tại như trạng thái ban đầu và
hoàn toàn tự do và thuộc về chính mình.
Vì vậy, theo J.Rouseau, quyền lực không thể được phân chia mà quyền lực nhà nước và
chủ quyền tối cao phải thuộc về nhân dân; các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là
những biểu hiện cụ thể quyền lực tối cao của nhân dân mà thôi. Từ đó, mọi thành viên của
nhà nước, từ già đến trẻ cần tham gia vào việc quản lý nhà nước bằng cách hình thành ra “ý
chí chung”, thông qua các hội nghị nhân dân. Tuy nhiên, theo ông, ở những quốc gia lớn có
thể lập ra những cơ quan đại diện chung để thay mặt nhân dân quản lý các công việc đất nước.
Có thể xác định những đặc trưng sau đây về tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
- Đó là sự thống nhất về bản chất xã hội. Quyền lực nhà nước là sự thể hiện sự thống
nhất ý chí và lợi ích của các giai tầng xã hội và được biểu thị dưới các khái niệm, ý tưởng về
“quyền lực của nhân dân”, “quyền lực của nhân dân lao động”, “quyền lực của các lực lượng
yêu nước” và thực chất là sự hòa hợp lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội
vì những mục tiêu cơ bản nhất, chủ đạo nhất.
- Đó là sự thống nhất các mục tiêu và khuynh hướng có tính nguyên tắc trong tổ chức
và hoạt động của quyền lực nhà nước, của các cơ quan quyền lực nhà nước, xuất phát từ nhu cầu
phối hợp trong thực thi quyền lực.
- Đó là sự thống nhất về mặt tổ chức và pháp lý. Các cơ quan thực hiện quyền lực nhà
nước đều được tổ chức trên một nền tảng pháp lý thống nhất: một Hiến pháp, một hệ thống
pháp luật, được đặt trong một quỹ đạo chung là lợi ích quốc gia và dân tộc.
9
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước được bảo đảm bằng một Hiến pháp và một hệ
thống pháp luật: tất cả các cơ quan, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp đều được tổ chức và
thực hiện các hoạt động trên một cơ sở pháp lý chung của quốc gia.
Làn sóng sửa đổi, cải cách Hiến pháp, cải cách thể chế trên thế giới trong vài thập niên
trở lại đây cho thấy một khuynh hướng nổi bật, theo đó, các quốc gia cố gắng tìm kiếm những
phương thức thể hiện lợi ích vì một sự đồng thuận xã hội để phát triển, nhất là trong bối cảnh
xung đột sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, chính trị đang có chiều hướng gia tăng ở nhiều khu vực
trên thế giới. Vì vậy, Hiến pháp đã được trao trở lại sứ mệnh của một bản khế ước về mặt
pháp lý của các lực lượng xã hội mà đối tượng điều chỉnh trọng tâm là sự thoả hiệp lợi ích
giữa các giai tầng xã hội, các lực lượng xã hội, v.v.
Thực tế của nhiều chế độ chính trị ở các nước trên thế giới đã cho thấy những cách
tiếp cận khác nhau về sự thống nhất của quyền lực nhà nước, mặc dù chúng không hề làm mất
đi bản chất nguyên thủy của sự thống nhất đó. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực có thể bị
lợi dụng vì mục đích xác lập chế độ chính trị chuyên chế, nhưng tư tưởng đó lại cũng có thể
được sử dụng với mục đích tạo sự đồng thuận xã hội. Thống nhất quyền lực với tính cách là
sự thống nhất các mục tiêu và định hướng có tinh nguyên tắc trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thể có giá trị cao nhằm mục đích tập trung cao độ các nỗ lực của bộ máy nhà
nước trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp của một đất nước. Kinh nghiệm khắc phục
khủng hoảng kinh tế của các quốc gia vừa qua, cũng như trong các cuộc khủng hoảng chu kỳ
trước đây, là bằng chứng về điều đó. Bên cạnh đó, sự thống nhất quyền lực ở nghĩa tập trung
toàn bộ quyền lực vào một cơ quan, hay loại cơ quan lại không phải là một thực tiễn tốt vì đó
là mầm mống của một thứ quyền lực thiếu kiểm soát.
2.3.2.Những yếu tố của sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
Ngay từ đầu, trong tâm tưởng của các nhà tư tưởng thì mục đích cơ bản nhất của việc
phân quyền là để phòng ngừa sự lạm quyền, tiếm đoạt quyền lực bởi một nhóm hay những cá
nhân và duy trì tính toàn vẹn, tính thống nhất của quyền lực.
Cả lý thuyết và cả trong thực tiễn, sự thống nhất của quyền lực về mặt bản chất, về mặt xã
hội và tổ chức-pháp lý không loại trừ mà ngược lại, đòi hỏi có sự phân quyền. Trong trường
hợp này, cơ chế phân quyền được hiểu như là khía cạnh tổ chức - pháp lý của quyền lực nhà
nước mà không mang tính bản chất. Tính thống nhất và sự phân công, phối hợp quyền lực là
hai phương diện của cùng một vấn đề. Chính vì vậy mà ngay cả trong Hiến pháp Hoa Kỳ, một
quốc gia được coi là đạt tới sự phân quyền đầy đủ nhất, cũng đã ghi nhận và khẳng định cả hai
phương diện đó. Phân quyền không chỉ là đặc trưng của các quốc gia tư sản điển hình mà đã
hiện hữu trong hầu hết các quốc gia khác.
Như vậy, cần hiểu rằng sự phân quyền chỉ là biểu hiện về mặt tổ chức-pháp lý của một
quyền lực thống nhất về bản chất và về định hướng chính trị-xã hội trên những mặt quan
trọng nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong thực tiễn, cơ chế phân quyền ngoài các đặc trưng phổ biến còn có những biến thể
trên cơ sở đặc thù quốc gia, dân tộc và khu vực. Các đặc thù đó là biểu hiện của sự vận dụng
nguyên lý chung vào điều kiện cụ thể trên cơ sở những đặc điểm thuộc về quá trình phát triển
10
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
đất nước, liên quan đến trình độ phát triển và hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, đặc thù của xã hội, của nền kinh tế v.v.
Tại lần sửa đổi vào năm 2001, Hiến pháp nước ta đã bổ sung một nguyên tắc rất quan
trọng của cơ chế quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” (Điều 2). Từ yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN, Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng đã bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực vào
thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta.
Tuy nhiên, việc hiến định tính chất, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước từ đó đến nay chưa có những quy định về các yếu tố của cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 đã tiến thêm một bước mới nhằm tạo ra những yếu tố như vậy, theo đó:
Xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà nước với những thiết chế thực hiện các quyền
đó: Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; Chính quyền địa phương là chế
định được thay cho các thiết chế Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong Hiến pháp
hiện hành; hai thiết thế hiến định độc lập mới ra đời là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm
toán nhà nước.
Đáng chú ý, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp với quan điểm xuyên suốt và nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta về sứ mệnh và vị trí của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra những cơ sở pháp lý mới cao nhất về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Khi bàn về cơ chế phân công và phối hợp quyền lực, không thể không nói đến những giới
hạn của các bộ phận quyền lực nhà nước và nguyên tắc quan hệ qua lại về thẩm quyền. Từ
góc độ đó, có thể thấy một vài vấn đề sau đây cần được tiếp tục làm rõ.
Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua, nhiều đạo luật được ban hành nhưng hiệu lực thi
hành thấp và khó đi vào cuộc sống, phải sửa đổi bổ sung nhiều lần trong một thời gian ngắn.
Vì thế, nhiều nội dung điều chỉnh của Luật đã phải dựa vào cơ chế ủy quyền lập pháp, đã
chuyển cho Chính phủ và các Bộ, các ngành quy định trong các văn bản quy phạm khác,
trong khi chúng ta chưa thực sự có một cơ chế ủy quyền lập pháp đúng nghĩa của nó.
Thêm vào đó, cơ chế kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật qua nhiều năm vẫn chưa
hình thành rõ nét và có hiệu quả. Tất cả những yếu tố đó đã vô hiệu trên thực tế khả năng
kiểm soát quyền lực trên bình diện lập pháp mặc dù Hiến pháp đã quy định thẩm quyền của
Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, bãi bỏ
các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chỉnh phủ, Thủ tướng chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội (Điều 70).
11
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
Khi nói đến Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục quy định “chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội” song song với quy định Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước CH XHCN Việt Nam” (Điều 94).
Chính phủ phải là cơ quan có quyền chủ động về mặt hiến định, trong việc hoạch định
chính sách trên cơ sở pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Hiến pháp và pháp
luật chứ không chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Trong lĩnh vực lập pháp, sự phối hợp giữa Quốc hội với chính phủ ở nước ta thường
được lý giải bởi con số các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, trên 90% các
dự án luật, pháp lệnh là do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đó đã trở
thành thước đo trong hoạt động xây dựng pháp luật. Sự phối hợp trong hoạt động lập pháp là
điều kiện quan trọng để Chính phủ có thể chủ động đề xuất chính sách, đưa chính sánh lên
thành luật. Đây cũng là con đường quan trọng để Quốc hội có thể đứng trên lập trường của cơ
quan đại diện cho nhân dân kiểm tra hoạt động của Chính phủ, kiểm tra định hướng hành
động và sự thể hiện trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành pháp trước nhân dân.
Tuy nhiên, để làm được việc đó, Hiến pháp đã chưa tạo ra được một cơ chế đánh giá
trước và sau dự thảo dự án luật. Vì vậy, chất lượng dự án luật, thời hạn của kế hoạch xây dựng
pháp luật, yêu cầu về bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính hợp hiến của các văn bản pháp
luật là những vấn đề nổi cộm hiện nay trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta. Nhiều đạo
luật đã tạo những khoảng trống điều chỉnh dẫn đến sự tùy tiện giải thích và tùy tiện bổ sung
không đúng thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật từ phía các cơ quan hành pháp.
Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những bổ sung quan trọng bảo đảm vị thế và tính độc
lập của hoạt động tư pháp - một yêu cầu không thể thiếu được trong cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực ở nước ta.
Theo đó, Hiến pháp đã không tiếp tục quy định yêu cầu về việc Chánh án TAND địa
phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Theo các quy định trước đây, chế
độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của tất cả các Thẩm phán đều do pháp luật
quy định. Theo quy định mới của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Thẩm phán TAND tối cao trên cơ sở nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội và bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TAND tối cao và Thẩm phán các tòa án khác
(Khoản 7 Điều 70 và Khoản 3 Điều 88, Hiến pháp năm 2013).
Điểm mới và nổi bật của Hiến pháp năm 2013 là sự ra đời của hai thiết chế hiến định
độc lập là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Rồi đây, các quy định của
Chương X của Hiến pháp sẽ được các đạo luật cụ thể hóa. Vì vậy, nhất thiết phải bàn đến
nguyên tắc tổ chức của hoạt động đặc thù của các thiết chế hiến định độc lập này.
Tuân theo lý thuyết về tính chất của kiểm soát quyền lực, cơ chế kiểm soát nội tại nhất
thiết phải được hỗ trợ bởi những cơ chế kiểm soát quyền lực từ phía ngoài có tính độc lập cao
nhằm bảo đảm sự khách quan và tạo sự thống nhất, phối hợp của quyền lực nhà nước.
Các thiết chế hiến định độc lập cần có năng lực pháp lý cao trong việc thực hiện chức
năng kiểm tra, giám sát, tạo mối liên hệ phối thuộc với các thiết chế cơ bản của bộ máy nhà
nước và bảo đảm để các thiết chế cơ bản này vận hành có hiệu quả. Cần giới hạn thẩm quyền
12
Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi
của các thiết chế hiến định độc lập, bảo đảm để sự giám sát của các thiết chế này không cản
trở hay can thiệp vào chức năng và thẩm quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước.
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI CẢI CÁCH THỂ CHẾ
NHÀ NƯỚC NHÌN TỪ HIẾN PHÁP 2013
TS Vũ Công Giao
Khoa Luật ĐHQG Hà Nội,
Viện Chính sách công và Pháp luật
1. Những cơ hội
Với việc giảm 01 chương, 27 điều, chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa
đổi 101 điều so với Hiến pháp 1992,Hiến pháp2013 chứa đựng nhiều điểm mới, trong đó
những điểm mới mở ra triển vọng lớn về cải cách thể chế nhà nước của nước ta, mà có thể
khái quát như sau:
Thứ nhất, mở rộng dân chủ XHCN
Dân chủ trước hết gắn liền với quan niệm về chủ quyền của nhân dân với việc quản lý
nhà nước nói chung và việc xây dựng hiến pháp nói riêng. Đây là vấn đề quan trọng có tính
nền tảng thể hiện bản chất của nhà nước mà đã được nêu rất rõ trong Hiến pháp 1946 của
nước ta, song do một số lý do nên đã không được đề cập đúng mức trong các Hiến pháp
1959,1980,1992.
Hiến pháp 2013 đã tái khẳng định và làm rõ hơn chủ quyền nhân dân so với Hiến pháp
1946, thông qua một loạt quy định trong Lời nói đầu (khẳng định chủ thể xây dựng, thi hành
và bảo vệ hiến pháp là nhân dân); Điều 2 (khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân); Điều 4 (xác định Đảng, các tổ chức của Đảng và
đảng viên chịu giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết
định của mình); Điều 6 (xác định cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện); Điều 70 (bỏ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến); Điều 120 (quy định việc trưng cầu ý dân về hiến pháp)... Những điểm mới
này, cùng với việc viết hoa từ “Nhân dân” cho thấy vị trí, vai trò, quyền lực của nhân dân đã
được ghi nhận một cách thực sự trang trọng trong Hiến pháp 2013. Chúng cũng cho thấy sự
đổi mới quan niệm vềhiến pháp như là một đạo luật gốc đơn thuần do nhà nước xây dựng
sang một bản khế ước xã hội, trong đó người dân là chủ thể xác lập, trao quyền và đề ra
những cơ chế để kiểm soát hoạt động của chính quyền do mình lập ra1
.
Sự thay đổi này hứa hẹn sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta trong
những năm tới.
Thứ hai, thúc đẩy nhà nước pháp quyền XHCN
Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã được xác định trong lần sửa đổi thứ
nhất (năm 2001) của Hiến pháp 1992, nhưng tiếp tục được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013,
thông qua một loạt quy định như Điều 2 (Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
1
Xem TS Nguyễn Sĩ Dũng: Hiến pháp mới, hy vọng mới, tham luận tại Tọa đàm “Hiến pháp và vấn đề cải cách
thể chế” do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 23/01/2013.

More Related Content

More from Kien Thuc

Kỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKien Thuc
 
Chương 5 - Giao tiếp kết cuối
Chương 5 - Giao tiếp kết cuốiChương 5 - Giao tiếp kết cuối
Chương 5 - Giao tiếp kết cuốiKien Thuc
 
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểu
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểuChương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểu
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểuKien Thuc
 
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di động
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di độngChương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di động
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di độngKien Thuc
 
Chương 2 - Kênh vô tuyến di động
Chương 2 - Kênh vô tuyến di độngChương 2 - Kênh vô tuyến di động
Chương 2 - Kênh vô tuyến di độngKien Thuc
 
Chương 1 - Khái quát về thông tin di động
Chương 1 - Khái quát về thông tin di độngChương 1 - Khái quát về thông tin di động
Chương 1 - Khái quát về thông tin di độngKien Thuc
 
[Giáo án] Thông tin Di động
[Giáo án] Thông tin Di động[Giáo án] Thông tin Di động
[Giáo án] Thông tin Di độngKien Thuc
 
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tinGiáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tinKien Thuc
 
850 từ cơ bản trong tiếng Anh
850 từ cơ bản trong tiếng Anh850 từ cơ bản trong tiếng Anh
850 từ cơ bản trong tiếng AnhKien Thuc
 
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet namThuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet namKien Thuc
 
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)Kien Thuc
 
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...Kien Thuc
 
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...Kien Thuc
 
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...Kien Thuc
 
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...Kien Thuc
 
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thứcCNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thứcKien Thuc
 
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)Kien Thuc
 
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)Kien Thuc
 
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247Kien Thuc
 
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247Kien Thuc
 

More from Kien Thuc (20)

Kỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lông
 
Chương 5 - Giao tiếp kết cuối
Chương 5 - Giao tiếp kết cuốiChương 5 - Giao tiếp kết cuối
Chương 5 - Giao tiếp kết cuối
 
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểu
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểuChương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểu
Chương 4 - Các mạng vô tuyến di động tiêu biểu
 
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di động
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di độngChương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di động
Chương 3 - Các Kỹ thuật cơ bản trong thông tin vô tuyến di động
 
Chương 2 - Kênh vô tuyến di động
Chương 2 - Kênh vô tuyến di độngChương 2 - Kênh vô tuyến di động
Chương 2 - Kênh vô tuyến di động
 
Chương 1 - Khái quát về thông tin di động
Chương 1 - Khái quát về thông tin di độngChương 1 - Khái quát về thông tin di động
Chương 1 - Khái quát về thông tin di động
 
[Giáo án] Thông tin Di động
[Giáo án] Thông tin Di động[Giáo án] Thông tin Di động
[Giáo án] Thông tin Di động
 
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tinGiáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin
Giáo trình Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin
 
850 từ cơ bản trong tiếng Anh
850 từ cơ bản trong tiếng Anh850 từ cơ bản trong tiếng Anh
850 từ cơ bản trong tiếng Anh
 
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet namThuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam
Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam
 
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)
Ảnh hưởng của dân số đến phát triển kinh tế ở tỉnh Kon Tum (Hồ Thị Hòa)
 
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường cho học sinh...
 
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...
Biện pháp phòng chống bạo lực, bắt nạt, lạm dụng chất cấm trong học đường của...
 
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...
Quyền sở hữu trí tuệ - một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt N...
 
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...
Đóng góp của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam vào nền kinh tế tri thức: Thực...
 
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thứcCNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức
CNTT - Động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức
 
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)
Vai trò của khoa học cơ bản trong nền kinh tế tri thức (GS. VS. Nguyễn Văn Đạo)
 
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)
Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam (các luận đề)
 
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 2 (2000) - ebookfree247
 
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247
Kinh tế tri thức và những vần đề đặt ra đối với Việt Nam 1 (2000) - ebookfree247
 

Hiến pháp năm 2013 và các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước (GS, TSKH. Đào Trí Úc)

  • 1. 2 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀ CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GS, TSKH. Đào Trí Úc Chủ tịch Hội đồng Viện Chính sách Công và Pháp luật 1. Về vai trò và sứ mệnh mới của Hiến pháp năm 2013 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Là Luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam và với vị trí pháp lý cao nhất, bằng cả lời văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền tảng dân chủ, pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam phản ảnh nhu cầu bức xúc của sự phát triển mọi mặt của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập, bảo đảm sự phù hợp với các giá trị căn bản của thời đại. Những giá trị mới đó ở nước ta là gì? Có thể khẳng định rằng, đó là chủ quyền tối cao và không thể chia sẻ của nhân dân, theo đó là những lợi ích cơ bản, sống còn của đất nước, của dân tộc vượt lên trên những khác biệt giai cấp, xã hội vì sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Đó là các giá trị tự do, công bằng, dân chủ, quyền con người chân chính, các giá trị liên quan đến thị trường, tự do kinh doanh, tự do làm giàu chính đáng và hợp pháp. Đó là những giá trị văn hóa phản ánh bản sắc và truyền thống dân tộc, là chế độ pháp quyền XHCN với cam kết về sự thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý của công dân; sự phân công và phối hợp của các thiết chế quyền lực nhà nước, sự độc lập của Tòa án; bảo đảm các cam kết quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Có thể khẳng định rằng, quá trình đổi mới đất nước đã tạo nên và làm giàu thêm những giá trị xã hội quan trọng này và, đến ngày hôm nay, những giá trị đó phải được coi là thành quả to lớn của nhân dân ta, đất nước và xã hội ta, không thể đảo ngược. Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là kết tinh trí tuệ và văn minh nhân loại, là thành quả đấu tranh bền bỉ của nhân dân. Tư tưởng đó đã chuyển hóa, phát triển từ quan điểm, học thuyết trong các cuộc tranh luận học thuật và quan điểm thành các chế định dân chủ và pháp quyền được ghi nhận trong các Hiến pháp, pháp luật và trong tổ chức thực hiện quyền lực. Nguyên tắc chủ đạo của chế độ pháp quyền là nguyên tắc về sự tối thượng của Hiến pháp, là thể hiện sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, quyền của nhân dân kiểm soát Nhà nước. Nhà nước chịu sự ràng buộc của Hiến pháp là chịu sự ràng buộc của Nhân dân. Quyền của nhân dân đối với Nhà nước là quyền của chủ nhân quyền thực hiện khả năng kiểm soát và giám sát người được giao quyền, được ủy quyền. Đó là một nguyên lý chắc chắn không thể nghi ngờ hoặc tranh cãi.
  • 2. 3 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi 2. Các nguyên tắc chủ đạo của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức quyền lực nhà nước. 2.1. Nguyên tắc dân chủ XHCN và chủ quyền nhân dân 2.1.1. Dân chủ XHCN- nguyên tắc xuyên suốt của tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ở nước ta. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, từng bước Đảng ta đã xác định ngày càng rõ nét hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn và ở trình độ cao hơn vấn đề dân chủ và pháp quyền. Cùng với những bước tiến vững chắc của công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng về dân chủ và pháp quyền cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một phạm trù chính trị biểu thị một hình thức chính trị - nhà nước mà ở đó quyền con người, các quyền tự do, bình đẳng của công dân được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ; trong chế độ đó nhân dân phải là chủ thể đích thực và cao nhất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Ở đó, mọi thiết chế quyền lực đều được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát, trước hết là của nhân dân. Những năm qua, các hình thức dân chủ đã từng bước được củng cố và hoàn thiện. Các tiến bộ trong việc thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đã có khả năng thâm nhập sâu rộng vào mọi tầng lớp nhân dân và mọi vùng của đất nước, đang tạo ra những mô hình, những điển hình có sức lan tỏa mới. Trong khi khẳng định những kết quả quan trọng trên đây, chúng ta cũng thấy trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại những vấn đề bức xúc. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ. Tình hình đó làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của nhà nước và năng lực lãnh đạo điều hành của hệ thống chính trị. Tệ quan liêu, tình hình tham nhũng có chiều hướng gia tăng, nhưng chưa kiểm soát được. Một trong những nguyên nhân của tình hình này là vấn đề dân chủ và kỷ luật trong hệ thống chính trị nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng. Một mặt, đây là vấn đề về hiệu quả và năng lực lãnh đạo, điều hành của hệ thống chính trị: cần phải tạo dựng và hoàn thiện các cơ chế để quyền lực luôn luôn có thể được kiểm soát trong quỹ đạo phục vụ lợi ích của đất nước, của nhân dân, đủ năng lực nắm bắt, phản ánh và phục vụ các nhu cầu đa dạng của nhân dân, xã hội, bảo vệ một cách có hiệu quả quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường khả năng “miễn dịch” đối với tệ quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác. Khi bàn về quyền lực, các nhà nghiên cứu xã hội học nhấn mạnh vai trò kết nối, quản lý, phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực của xã hội, vai trò và khả năng liên hệ của quyền lực chính trị, vai trò hóa giải mâu thuẫn xung đột xã hội của quyền lực chính trị.
  • 3. 4 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi Từ đó, lãnh đạo, quản lý, với tính chất là chức năng của các thiết chế của hệ thống chính trị là quá trình và phương pháp phản ánh mối quan hệ đó. Xử lý mối quan hệ này là biểu hiện tập trung nhất của năng lực và hiệu quả và quản lý của hệ thống chính trị. Năng lực của hệ thống chính trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, trước hết phải kể đến những tố chất vốn có của hệ thống chính trị. Đó là tính mở. Tính mở của các thiết chế chính trị tạo ra sự liên hệ mật thiết giữa chúng với nhau và của toàn bộ hệ thống chính trị với đời sống xã hội. Tính mở tạo nên mối liên hệ dân chủ trong mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong của các thiết chế chính trị, tăng cường khả năng tiếp nhận thông tin từ bên ngoài hệ thống. Bản chất dân chủ của chế độ chính trị nước ta đòi hỏi mọi quyết định và hành động của các thiết chế quyền lực nhà nước đều phải bắt nguồn từ ý chí đích thực của nhân dân. Tiền đề pháp lý đó đã được Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (Điều 2). Khi chúng ta nói phải bảo đảm để quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, để quyền lực đó không bị tha hóa, việc sử dụng và thực thi quyền lực không đi chệch ra khỏi quỹ đạo phục vụ lợi ích của nhân dân là nói đến vấn đề phản ánh lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, áp dụng chính sách và pháp luật. Nói về dân chủ XHCN ở nước ta, có thể nêu lên những nhận xét sau đây: Thứ nhất, đó là sự nổi trội của hệ thống dân chủ đại diện so với hình thức dân chủ trực tiếp. Điều đó dẫn đến sự nghèo nàn của các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta, sự kém chất lượng của chế độ bầu cử, các hình thức dân chủ trực tiếp khác trong thực tế. Chính xuất phát từ tình hình này cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp 2013 đã có một điểm nhấn quan trọng về dân chủ trực tiếp. Theo đó, “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của nhà nước (Điều 6). Đây là một tín hiệu quan trọng trong đời sống chính-xã hội nước ta. Thứ hai, đó là sự thiếu vắng cơ chế thực thi các quyền hiến định của công dân một cách trực tiếp hay là vấn đề hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp. Đây cũng là một trong những vấn đề mới được Đảng ta chú ý khi xác định nhiệm vụ xây dựng và áp dụng cơ chế giám sát Hiến pháp ở nước ta. 2.1.2. Nguyên tắc về chủ quyền nhân dân và trách nhiệm của bộ máy nhà nước trước nhân dân. Bắt đầu từ Hiến pháp 1959, tiếp theo đó là Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 trước khi được sửa đổi vào năm 2001 đã có những quy định như sau: Một mặt, tiếp tục khẳng định nguồn gốc quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980, Điều 2 Hiến pháp 1992, bản đầu tiên); mặt khác, quy định rằng, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4, Hiến pháp 1959; Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992, bản đầu tiên)
  • 4. 5 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi Điều đó có nghĩa rằng, nhân dân đã trao hết quyền lực vốn là của mình cho các cơ quan đại biểu, trong khi đó, Hiến pháp năm 1946, trước khi xác định rằng, Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã dành 2 điều để quy định về quyền của nhân dân bãi miễn các đại biểu (điều 20) và về quyền của nhân dân phúc quyết về Hiến pháp và về những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Nói khác đi, Hiến pháp 1946 đã xác định rất rõ rằng quyền lực của nhân dân là không trao hết cho các thiết chế nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các thiết chế nhà nước. Trong bối cảnh mới, khi chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khi việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi trên một bình diện quan trọng theo hướng khẳng định những giá trị dân chủ và pháp quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt làm nền tảng cho chế độ nhà nước của nước ta từ ngày lập quốc. Đó là quan điểm khẳng định mạnh mẽ chủ quyền tối cao của nhân dân. Nói khác đi, chúng ta đã đặt hi vọng vào chế độ dân chủ đại diện với quan niệm Nhà nước có thể thay mặt được nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Từ đó, chúng ta chỉ có thể đặt cược vào khả năng giữ mối liên hệ giữa người chủ quyền lực là nhân dân, là cử tri, với người được cử làm đại biểu, đại diện cho nhân dân và “chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đến lượt nó, chế định dân chủ đại diện, con át chủ bài của chúng ta, lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà trước hết là: năng lực đại diện của đại biểu; trách nhiệm của đại biểu và cơ chế để duy trì và củng cố mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri. Đó là sự ghi nhận, sự thừa nhận điều kiện tiên quyết cho một chính quyền hợp pháp và chính đáng: khi chính quyền đó được hình thành và hoạt động trên cơ sở sự đồng thuận của nhân dân. Những hoạt động, những tổ chức do Nhà nước tiến hành sẽ bị coi là không hợp pháp, “không có thẩm quyền nếu không có sự ưng thuận của nhân dân” (J.Locke). Thừa nhận và bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp là sự thừa nhận về mặt pháp lý chủ quyền của nhân dân. Chỉ số hiệu lực của Hiến pháp được phản ánh thông qua hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước, toàn bộ sinh hoạt quốc gia, đời sống xã hội, ý thức và hành động của công dân. Khi Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh có thể thấy một nền Hiến pháp vững chắc, một xã hội bền vững và dân chủ pháp quyền được đề cao. Ngược lại, khi Hiến pháp bị pháp luật lấn lướt thì kỷ cương quốc gia, trật tự xã hội, quyền con người có vấn đề, bởi vì, Hiến pháp và văn bản có giá trị pháp lý cao nhất phản ánh chủ quyền tối thượng của nhân dân, của quốc gia, của dân tộc. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra một quy định mới chưa từng có trong tiền lệ sinh hoạt quốc gia ở nước ta. Theo đó, “sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp” (Khoản 7, Điều 70 Hiến pháp). Hiến pháp đặt nền tảng cho việc hoàn thiện chế định bầu cử - hình thức dân chủ cao
  • 5. 6 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi nhất, để cử tri thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử và đề cao trách nhiệm của đại biểu dân cử, coi trọng mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri, thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri tạo cơ chế để cử tri giám sát đại biểu. Theo đó, Hiến pháp đã thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia, một thiết chế hiến định độc lập để phục vụ cho mục đích này, tạo bước đổi mới mạnh mẽ về bầu cử. Quy định cụ thể hơn các quyền tự do dân chủ của công dân như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý; xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Trên cơ sở của nhận thức mới về quyền lập hiến, Hiến pháp đã bỏ nội dung điều 83 trước đây quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và điều 147: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp”, thay vào đó là cơ chế về khả năng có sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến của Quốc hội và sáng kiến lập hiến của các cơ quan cấp cao của Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với quyền lập hiến của nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về bản Hiến pháp do Quốc hội thông qua. 2.2. Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Sự khẳng định tôn trọng Hiến pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, và sự minh bạch của nhà nước, khẳng định quyền lực của nhân dân như là lá chắn cho việc bảo vệ quyền con người. Sự lạc hậu của Hiến pháp và cơ chế thực hiện trực tiếp Hiến pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của con người có thể ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào chế độ, vào bộ máy Đảng và Nhà nước, làm giảm hiệu quả của những nỗ lực tạo ra sự đồng thuận xã hội, sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân. Về mặt cơ cấu hình thức, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được chuyển dịch từ vị trí chương V trong Hiến pháp lên vị trí Chương II, chỉ sau Chương I về chế độ chính trị. Nhưng trước hết, quyền con người là nội dung được bổ sung ngay trong chương I của Hiến pháp. Hơn thế nữa, tại rất nhiều chương điều khác, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng hiện diện trong nội dung chức năng và nhiệm vụ của các thiết chế Nhà nước như Quốc hội (Điều 70, khoản 14); Chính phủ (Điều 96, khoản 6); Tòa án nhân dân (Điều 102, khoản 3); Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107, khoản 3). Đây là những nội dung hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1992 khi Hiến pháp 2013 trao những chức năng, nhiệm vụ cho các thiết chế, quyền lực nhà nước tương ứng. Làm rõ hơn. chuẩn xác hơn và phong phú hơn nội dung một số quyền và tự do trước đây đã được đề cập nhưng chưa rõ, chưa chính xác, chưa đầy đủ so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở nước ta. Theo đó, lần đầu tiên ở nước ta đã hiến định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội hình sự. Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong Tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người,
  • 6. 7 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của Tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Khoản 2, Điều 14). Đặc biệt bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”. Nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán theo gốc Latinh (praesumptio) có nghĩa là giả định thể hiện ở yêu cầu: bị can, bị cáo phải được coi là vô tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh theo một trình tự do pháp luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu đó đã được Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1, Điều 31). Từ nội dung và đòi hỏi cơ bản nêu trên, nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đặt ra những đòi hỏi cụ thể hơn mà Tố tụng hình sự Việt Nam phải bảo đảm. Đặt ra yêu cầu này, Hiến pháp đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho công dân trong cuộc sống và hoạt động của họ. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo đó, mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật” (Điều 14.2 Công ước). Nội dung này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế nhưng nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Công ước nói trên của Liên hợp quốc khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” (Điều 9.1 Công ước). Khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung của nguyên tắc mới về quyền của người bị buộc tội được tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai - một nội dung quan trọng của quyền tiếp cận công lý của công dân. Những nguyên tắc hiến định này, mà sự cụ thể hóa chúng bằng pháp luật tố tụng và việc thực hiện chúng trên thực tế sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chức năng, thẩm quyền, phương thức hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở nước ta. Cùng với việc xác định TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của TAND được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Có thể thấy đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại như nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem
  • 7. 8 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta. 2.3.Nguyên tắc về tính thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước 2.3.1. Về tính thống nhất của quyền lực nhà nước Trong mọi thời đại, kể từ khi ra đời đến nay, quyền lực nhà nước là một thực thể thống nhất. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước gắn liền với bản thân quyền lực như nó có từ khi xuất hiện Nhà nước trên cơ sở xóa bỏ chế độ thị tộc cát cứ quyền lực. Sự thống nhất của quyền lực nhà nước thể hiện trước hết ở chỗ, trong một quốc gia không thể có hai thứ quyền lực nhà nước trở lên khác nhau về bản chất, định hướng, mục tiêu và những công cụ, phương tiện thực thi quyền lực. Điều này không loại trừ cả ở những quốc gia được tổ chức dưới hình thức Nhà nước liên bang vì ở đó, quyền lực nhà nước ở các bang đồng kiểu với quyền lực của liên bang, phục tùng Nhà nước liên bang và tạo thành một thực thể quyền lực. Trong tác phẩm nổi tiếng: “Về khế ước xã hội hay các nguyên tắc của quyền lực chính trị” JJ. Rouseau đã đưa luận điểm về sự liên kết của những người sở hữu chủ thành Nhà nước và phát triển thành học thuyết về khế ước xã hội. Theo học thuyết này, nhiệm vụ chủ yếu của Khế ước là xác lập một tổ hợp (association) và thông qua đó bằng nỗ lực chung mà bảo vệ, che chở tính mạng và tài sản của từng thành viên của tổ hợp đó. Tổ hợp là sự kết hợp thống nhất của mọi người, nhưng mỗi thành viên là độc lập, vẫn tồn tại như trạng thái ban đầu và hoàn toàn tự do và thuộc về chính mình. Vì vậy, theo J.Rouseau, quyền lực không thể được phân chia mà quyền lực nhà nước và chủ quyền tối cao phải thuộc về nhân dân; các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là những biểu hiện cụ thể quyền lực tối cao của nhân dân mà thôi. Từ đó, mọi thành viên của nhà nước, từ già đến trẻ cần tham gia vào việc quản lý nhà nước bằng cách hình thành ra “ý chí chung”, thông qua các hội nghị nhân dân. Tuy nhiên, theo ông, ở những quốc gia lớn có thể lập ra những cơ quan đại diện chung để thay mặt nhân dân quản lý các công việc đất nước. Có thể xác định những đặc trưng sau đây về tính thống nhất của quyền lực nhà nước. - Đó là sự thống nhất về bản chất xã hội. Quyền lực nhà nước là sự thể hiện sự thống nhất ý chí và lợi ích của các giai tầng xã hội và được biểu thị dưới các khái niệm, ý tưởng về “quyền lực của nhân dân”, “quyền lực của nhân dân lao động”, “quyền lực của các lực lượng yêu nước” và thực chất là sự hòa hợp lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội vì những mục tiêu cơ bản nhất, chủ đạo nhất. - Đó là sự thống nhất các mục tiêu và khuynh hướng có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước, của các cơ quan quyền lực nhà nước, xuất phát từ nhu cầu phối hợp trong thực thi quyền lực. - Đó là sự thống nhất về mặt tổ chức và pháp lý. Các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước đều được tổ chức trên một nền tảng pháp lý thống nhất: một Hiến pháp, một hệ thống pháp luật, được đặt trong một quỹ đạo chung là lợi ích quốc gia và dân tộc.
  • 8. 9 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi Sự thống nhất của quyền lực nhà nước được bảo đảm bằng một Hiến pháp và một hệ thống pháp luật: tất cả các cơ quan, từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp đều được tổ chức và thực hiện các hoạt động trên một cơ sở pháp lý chung của quốc gia. Làn sóng sửa đổi, cải cách Hiến pháp, cải cách thể chế trên thế giới trong vài thập niên trở lại đây cho thấy một khuynh hướng nổi bật, theo đó, các quốc gia cố gắng tìm kiếm những phương thức thể hiện lợi ích vì một sự đồng thuận xã hội để phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, chính trị đang có chiều hướng gia tăng ở nhiều khu vực trên thế giới. Vì vậy, Hiến pháp đã được trao trở lại sứ mệnh của một bản khế ước về mặt pháp lý của các lực lượng xã hội mà đối tượng điều chỉnh trọng tâm là sự thoả hiệp lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các lực lượng xã hội, v.v. Thực tế của nhiều chế độ chính trị ở các nước trên thế giới đã cho thấy những cách tiếp cận khác nhau về sự thống nhất của quyền lực nhà nước, mặc dù chúng không hề làm mất đi bản chất nguyên thủy của sự thống nhất đó. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực có thể bị lợi dụng vì mục đích xác lập chế độ chính trị chuyên chế, nhưng tư tưởng đó lại cũng có thể được sử dụng với mục đích tạo sự đồng thuận xã hội. Thống nhất quyền lực với tính cách là sự thống nhất các mục tiêu và định hướng có tinh nguyên tắc trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thể có giá trị cao nhằm mục đích tập trung cao độ các nỗ lực của bộ máy nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp của một đất nước. Kinh nghiệm khắc phục khủng hoảng kinh tế của các quốc gia vừa qua, cũng như trong các cuộc khủng hoảng chu kỳ trước đây, là bằng chứng về điều đó. Bên cạnh đó, sự thống nhất quyền lực ở nghĩa tập trung toàn bộ quyền lực vào một cơ quan, hay loại cơ quan lại không phải là một thực tiễn tốt vì đó là mầm mống của một thứ quyền lực thiếu kiểm soát. 2.3.2.Những yếu tố của sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực Ngay từ đầu, trong tâm tưởng của các nhà tư tưởng thì mục đích cơ bản nhất của việc phân quyền là để phòng ngừa sự lạm quyền, tiếm đoạt quyền lực bởi một nhóm hay những cá nhân và duy trì tính toàn vẹn, tính thống nhất của quyền lực. Cả lý thuyết và cả trong thực tiễn, sự thống nhất của quyền lực về mặt bản chất, về mặt xã hội và tổ chức-pháp lý không loại trừ mà ngược lại, đòi hỏi có sự phân quyền. Trong trường hợp này, cơ chế phân quyền được hiểu như là khía cạnh tổ chức - pháp lý của quyền lực nhà nước mà không mang tính bản chất. Tính thống nhất và sự phân công, phối hợp quyền lực là hai phương diện của cùng một vấn đề. Chính vì vậy mà ngay cả trong Hiến pháp Hoa Kỳ, một quốc gia được coi là đạt tới sự phân quyền đầy đủ nhất, cũng đã ghi nhận và khẳng định cả hai phương diện đó. Phân quyền không chỉ là đặc trưng của các quốc gia tư sản điển hình mà đã hiện hữu trong hầu hết các quốc gia khác. Như vậy, cần hiểu rằng sự phân quyền chỉ là biểu hiện về mặt tổ chức-pháp lý của một quyền lực thống nhất về bản chất và về định hướng chính trị-xã hội trên những mặt quan trọng nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nước. Trong thực tiễn, cơ chế phân quyền ngoài các đặc trưng phổ biến còn có những biến thể trên cơ sở đặc thù quốc gia, dân tộc và khu vực. Các đặc thù đó là biểu hiện của sự vận dụng nguyên lý chung vào điều kiện cụ thể trên cơ sở những đặc điểm thuộc về quá trình phát triển
  • 9. 10 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi đất nước, liên quan đến trình độ phát triển và hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc thù của xã hội, của nền kinh tế v.v. Tại lần sửa đổi vào năm 2001, Hiến pháp nước ta đã bổ sung một nguyên tắc rất quan trọng của cơ chế quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Từ yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng đã bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực vào thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta. Tuy nhiên, việc hiến định tính chất, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ đó đến nay chưa có những quy định về các yếu tố của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã tiến thêm một bước mới nhằm tạo ra những yếu tố như vậy, theo đó: Xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà nước với những thiết chế thực hiện các quyền đó: Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; Chính quyền địa phương là chế định được thay cho các thiết chế Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong Hiến pháp hiện hành; hai thiết thế hiến định độc lập mới ra đời là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Đáng chú ý, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp với quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về sứ mệnh và vị trí của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra những cơ sở pháp lý mới cao nhất về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Khi bàn về cơ chế phân công và phối hợp quyền lực, không thể không nói đến những giới hạn của các bộ phận quyền lực nhà nước và nguyên tắc quan hệ qua lại về thẩm quyền. Từ góc độ đó, có thể thấy một vài vấn đề sau đây cần được tiếp tục làm rõ. Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua, nhiều đạo luật được ban hành nhưng hiệu lực thi hành thấp và khó đi vào cuộc sống, phải sửa đổi bổ sung nhiều lần trong một thời gian ngắn. Vì thế, nhiều nội dung điều chỉnh của Luật đã phải dựa vào cơ chế ủy quyền lập pháp, đã chuyển cho Chính phủ và các Bộ, các ngành quy định trong các văn bản quy phạm khác, trong khi chúng ta chưa thực sự có một cơ chế ủy quyền lập pháp đúng nghĩa của nó. Thêm vào đó, cơ chế kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật qua nhiều năm vẫn chưa hình thành rõ nét và có hiệu quả. Tất cả những yếu tố đó đã vô hiệu trên thực tế khả năng kiểm soát quyền lực trên bình diện lập pháp mặc dù Hiến pháp đã quy định thẩm quyền của Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chỉnh phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 70).
  • 10. 11 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi Khi nói đến Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục quy định “chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội” song song với quy định Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CH XHCN Việt Nam” (Điều 94). Chính phủ phải là cơ quan có quyền chủ động về mặt hiến định, trong việc hoạch định chính sách trên cơ sở pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Hiến pháp và pháp luật chứ không chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trong lĩnh vực lập pháp, sự phối hợp giữa Quốc hội với chính phủ ở nước ta thường được lý giải bởi con số các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, trên 90% các dự án luật, pháp lệnh là do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đó đã trở thành thước đo trong hoạt động xây dựng pháp luật. Sự phối hợp trong hoạt động lập pháp là điều kiện quan trọng để Chính phủ có thể chủ động đề xuất chính sách, đưa chính sánh lên thành luật. Đây cũng là con đường quan trọng để Quốc hội có thể đứng trên lập trường của cơ quan đại diện cho nhân dân kiểm tra hoạt động của Chính phủ, kiểm tra định hướng hành động và sự thể hiện trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành pháp trước nhân dân. Tuy nhiên, để làm được việc đó, Hiến pháp đã chưa tạo ra được một cơ chế đánh giá trước và sau dự thảo dự án luật. Vì vậy, chất lượng dự án luật, thời hạn của kế hoạch xây dựng pháp luật, yêu cầu về bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính hợp hiến của các văn bản pháp luật là những vấn đề nổi cộm hiện nay trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta. Nhiều đạo luật đã tạo những khoảng trống điều chỉnh dẫn đến sự tùy tiện giải thích và tùy tiện bổ sung không đúng thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật từ phía các cơ quan hành pháp. Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những bổ sung quan trọng bảo đảm vị thế và tính độc lập của hoạt động tư pháp - một yêu cầu không thể thiếu được trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực ở nước ta. Theo đó, Hiến pháp đã không tiếp tục quy định yêu cầu về việc Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Theo các quy định trước đây, chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của tất cả các Thẩm phán đều do pháp luật quy định. Theo quy định mới của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao trên cơ sở nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TAND tối cao và Thẩm phán các tòa án khác (Khoản 7 Điều 70 và Khoản 3 Điều 88, Hiến pháp năm 2013). Điểm mới và nổi bật của Hiến pháp năm 2013 là sự ra đời của hai thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Rồi đây, các quy định của Chương X của Hiến pháp sẽ được các đạo luật cụ thể hóa. Vì vậy, nhất thiết phải bàn đến nguyên tắc tổ chức của hoạt động đặc thù của các thiết chế hiến định độc lập này. Tuân theo lý thuyết về tính chất của kiểm soát quyền lực, cơ chế kiểm soát nội tại nhất thiết phải được hỗ trợ bởi những cơ chế kiểm soát quyền lực từ phía ngoài có tính độc lập cao nhằm bảo đảm sự khách quan và tạo sự thống nhất, phối hợp của quyền lực nhà nước. Các thiết chế hiến định độc lập cần có năng lực pháp lý cao trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, tạo mối liên hệ phối thuộc với các thiết chế cơ bản của bộ máy nhà nước và bảo đảm để các thiết chế cơ bản này vận hành có hiệu quả. Cần giới hạn thẩm quyền
  • 11. 12 Sponsored by Rosa Luxemburg Stiftung Hanoi của các thiết chế hiến định độc lập, bảo đảm để sự giám sát của các thiết chế này không cản trở hay can thiệp vào chức năng và thẩm quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI CẢI CÁCH THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC NHÌN TỪ HIẾN PHÁP 2013 TS Vũ Công Giao Khoa Luật ĐHQG Hà Nội, Viện Chính sách công và Pháp luật 1. Những cơ hội Với việc giảm 01 chương, 27 điều, chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều so với Hiến pháp 1992,Hiến pháp2013 chứa đựng nhiều điểm mới, trong đó những điểm mới mở ra triển vọng lớn về cải cách thể chế nhà nước của nước ta, mà có thể khái quát như sau: Thứ nhất, mở rộng dân chủ XHCN Dân chủ trước hết gắn liền với quan niệm về chủ quyền của nhân dân với việc quản lý nhà nước nói chung và việc xây dựng hiến pháp nói riêng. Đây là vấn đề quan trọng có tính nền tảng thể hiện bản chất của nhà nước mà đã được nêu rất rõ trong Hiến pháp 1946 của nước ta, song do một số lý do nên đã không được đề cập đúng mức trong các Hiến pháp 1959,1980,1992. Hiến pháp 2013 đã tái khẳng định và làm rõ hơn chủ quyền nhân dân so với Hiến pháp 1946, thông qua một loạt quy định trong Lời nói đầu (khẳng định chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ hiến pháp là nhân dân); Điều 2 (khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân); Điều 4 (xác định Đảng, các tổ chức của Đảng và đảng viên chịu giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình); Điều 6 (xác định cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện); Điều 70 (bỏ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến); Điều 120 (quy định việc trưng cầu ý dân về hiến pháp)... Những điểm mới này, cùng với việc viết hoa từ “Nhân dân” cho thấy vị trí, vai trò, quyền lực của nhân dân đã được ghi nhận một cách thực sự trang trọng trong Hiến pháp 2013. Chúng cũng cho thấy sự đổi mới quan niệm vềhiến pháp như là một đạo luật gốc đơn thuần do nhà nước xây dựng sang một bản khế ước xã hội, trong đó người dân là chủ thể xác lập, trao quyền và đề ra những cơ chế để kiểm soát hoạt động của chính quyền do mình lập ra1 . Sự thay đổi này hứa hẹn sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta trong những năm tới. Thứ hai, thúc đẩy nhà nước pháp quyền XHCN Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã được xác định trong lần sửa đổi thứ nhất (năm 2001) của Hiến pháp 1992, nhưng tiếp tục được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013, thông qua một loạt quy định như Điều 2 (Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các 1 Xem TS Nguyễn Sĩ Dũng: Hiến pháp mới, hy vọng mới, tham luận tại Tọa đàm “Hiến pháp và vấn đề cải cách thể chế” do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 23/01/2013.