SlideShare ist ein Scribd-Unternehmen logo
1 von 29
Downloaden Sie, um offline zu lesen
Điều gì xảy ra sau khi chết?
Câu hỏi: Điều gì xảy ra sau khi chết?
Trả lời: Câu hỏi điều gì xảy ra sau khi chết có thể làm cho lúng túng. Kinh
Thánh không nói rõ ràng về số phận của một người khi bước đến sự cuối
cùng đời đời của họ. Kinh Thánh nói với chúng ta về thời khắc sau khi chết
người ta được đưa lên thiên đàng hay xuống cõi địa ngục trên nền tảng
người ấy có tin vào Chúa Giê Xu Christ là Cứu Chúa của họ. Đối với con cái
Chúa, sau khi chết họ không còn hiện diện trong thân thể nhưng ở với
Chúa.(II Cô-rinh-tô 5:6-8; Phi-líp 1:23) Đối với người không tin sau khi chết
có nghĩa là hình phạt đời đời trong hỏa ngục (Lu-ca 16:22-23).
Đây là nơi chốn có thể làm cho lúng túng như là điều gì xảy ra sau khi chết.
Khải Huyền 20:11-15 mô tả tất cả những người trong địa ngục bị ném vào
trong hồ lửa. Khải Huyền 21-22 mô tả trời mới đất mới. Nơi đó dường như
là nơi sống lại sau cùng vì vậy sau khi chết người ta được tạm trú trong thiên
đàng hay địa ngục. Số phận đời đời của con người sẽ không thay đổi nhưng
nơi chốn chính xác của số phận đời đời con người sẽ thay đổi. Vào một lúc
đặc biệt sau khi chết con cái Chúa sẽ được đưa đến trời mới đất mới (Khải
Huyền 21:1). Vào một lúc đặc biệt sau khi chết người không tin Chúa sẽ bị
ném vào hồ lửa (Khải Huyền 20:11-15) Đây là số phận cuối cùng, đời đời
của tất cả mọi người căn cứ vào toàn thể những gì người ta tin vào sự cứu rỗi
duy nhất của Chúa Giê Xu Christ dành cho tội lỗi của họ.
Kinh Thánh có bảo đãm về sự sống đời đời?
Câu hỏi: Kinh Thánh có bảo đãm về sự sống đời đời?
Trả lời: Khi con người tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình họ
được mang vao trong mối giao thông với Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Trời
bảo đãm sự an ninh đời đời cho họ. Giu Đe câu 24 có chép: “Vả, nguyền
Ðấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt
vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được” Quyền năng của
Đức Chúa Trời có thể giữ cho con cái Chúa khỏi sa ngã. Ngài nâng đỡ
chúng ta trước sự hiện diện vinh hiển của Ngài. Sự an ninh đời đời của
chúng ta là kết quả của việc Đức Chúa Trời gìn giữ chúng ta. Không phải do
chúng ta cố gắng nắm giữ sự cứu rỗi của chính mình.
Đức Chúa Giê Xu Christ đã công bố: “Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó
chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. Cha ta là Ðấng lớn
hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha.”
(Giăng 10:28-29b) Cả hai Đức Chúa Cha và Đức Chúa Giê Xu đều nắm
chặc chúng ta hoàn toàn trong tay Ngài. Ai có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự
nắm chặc của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Ê-phê-sô 4:30 nói với chúng ta con cái Chúa là những người “được đóng ấn
cho đến ngày Cứu chuộc.” Nếu con cái Chúa không có sự an ninh đời đời thì
dấu ấn không thật sự dành cho đến ngày Cứu chuộc, nhưng chỉ dành cho
ngày tội lỗi, bội đạo hay vô tín. Giăng 3:15-16 nói với chúng ta bất cứ ai tin
Chúa Giê Xu Christ đều được “Sự sống đời đời”. Nếu một người được hứa
cho sự sống đời đời nhưng sau đó bị lấy mất. Trước hết nó sẽ không còn “Sự
sống đời đời”. Nếu sự an ninh đời đời không có thật thì lời hứa về sự sống
đời đời trong Kinh Thánh là một sự sai lầm.
Luận cứ mạnh mẽ nhất về sự an ninh đời đời là Rô Ma 8:38-39 “Vì tôi chắc
rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ,
việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có
thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho
chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” Sự an ninh đời đời
đặt nền tảng trên tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho những người Ngài đã
cứu chuộc tội. Sự an ninh đời đời được trả giá bởi huyết của Chúa Giê Xu
Christ, lời hứa của Đức Chúa Cha và được đóng ấn bởi Đức Thánh Linh.
Quan điểm về sự tự tử của Cơ Đốc nhân là gì? Kinh Thánh nói gì về tự tử?
Câu hỏi: Quan điểm về sự tự tử của Cơ Đốc nhân là gì? Kinh Thánh nói gì
về tự tử?
Trả lời: Đối với Kinh Thánh, cho dù một người có phạm hay không việc tự
tử, những quyết định gì khiến người ấy được vào nước thiên đàng. Nếu một
người không được cứu phạm vào việc tự tử, người ấy không làm gì cả vẫn
phải đi vào hồ lửa. Dầu sao một người phạm tội tự tử cuối cùng phải đi vào
địa ngục vì người ấy đã từ chối ơn cứu rỗi của Đấng Christ không phải chỉ vì
phạm tội tự tử. Kinh Thánh ghi chép lại bốn trường hợp cụ thể về người
phạm tội tự tử: Sau lơ (I Sa-mu-ên 31:4), A-hi-tô-phe (II Sa-mu-ên 17:23),
Xim-ri (I Các vua 16:18), và Giu Đa (Ma-thi-ơ 27:5). Từng trường hợp tội
hung ác, xấu xa và người đầy tội. Kinh Thánh xem phạm tội tự tử tương
đương với tội giết người – Tội giết chính mình. Đức Chúa Trời là Đấng
quyết định khi nào chết và chết thế nào. Đối với Kinh Thánh cướp lấy quyền
sinh sát của Đức Chúa Trời là phạm thượng.
Kinh Thánh nói gì về một Cơ Đốc nhân phạm tội tự tử, tôi không tin một Cơ
Đốc nhân phạm tội tự tử sẽ mất sự cứu rỗi và đi địa ngục. Kinh Thánh dạy
ngay khi một người thật sự tin nhận Chúa Giê Xu Christ, người ấy được bảo
đãm về sự sống đời đời (Giăng 3:16) Đối với Kinh Thánh, Cơ Đốc nhân có
thể biết vượt xa bất kỳ sự nghi ngờ về việc họ có sự sống đời đời mà không
có gì ngăn trở. “Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết
mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Ðức Chúa Trời.” (I
Giăng 5:13) Không có bất cứ điều gì phân rẽ tình yêu của Đức Chúa Trời
với Cơ Đốc nhân. “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các
kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu,
hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức
Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa
chúng ta.” (Rô-ma 8:38,39) Nếu không có “một vật nào” có thể phân rẽ
chúng ta khỏi sự yêu thương của Đức Chúa Trời và ngay cả Cơ Đốc nhân
phạm tội tự tử là “một vật cản” thì tội “tự tử” không thể phân rẽ tình yêu của
Đức Chúa Trời với người đó. Đức Chúa Giê Xu đã chết thế cho tất cả tội lỗi
của chúng ta. Và nếu một Cơ Đốc nhân thật lại phạm tội tự tử, trong giờ
phút bị tấn công và sa sút về tinh thần, tội lỗi này vẫn được sự chết của Chúa
Giê Xu thay thế.
Điều này không nói là tự tử không phải là tội nghiêm trọng chống lại với
Đức Chúa Trời. Đối với Kinh Thánh, tự tử là tội giết người, là việc làm sai
lầm. Tôi thật sự nghi ngờ một người nói mình có đức tin thành thật của một
Cơ Đốc nhân nhưng lại tự tử. Không có tình trạng nào biện hộ cho một ai,
đặc biệt là Cơ Đốc nhân tự hủy hoại đời sống mình. Cơ Đốc nhân được kêu
gọi sống đời sống cho Đức Chúa Trời. Quyết định khi nào chết do Đức Chúa
Trời và chỉ một mình Ngài. Có lẽ trường hợp tự tử được minh họa trong
sách Ê-xơ-tê là một đường lối tốt. Tại xứ Ba Tư có một luật qui định bất cứ
ai đến trước vua mà không được mời có thể bị chết trừ khi vua đưa vương
trượng hướng về người ấy để tỏ ý tha thứ. Tự tử là việc bước tới ra mắt vua
thay vì đợi cho đến khi vua triệu đến. Vị vua đã đưa vương trượng ra hướng
về bạn ban cho bạn sự sống đời đời, nhưng điều này không có nghĩa là Ngài
vui với bạn. Kinh Thánh I Cô-rinh-tô 3:15 mặc dù không mô tả về tự tử
nhưng có lẽ diễn đạt thật rõ về hình ảnh của một người đi đến chỗ tự tử:
“Còn về phần người đó sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy.”
Một lần được cứu luôn luôn được cứu?
Câu hỏi: Một lần được cứu luôn luôn được cứu?
Trả lời: Một lần được cứu thì người ấy luôn luôn được cứu phải không? Khi
một người đến tin nhận Chúa là Cứu Chúa của mình họ đã được đem vào
mối thông công với Đức Chúa Trời mà sự cứu rỗi được bão đãm cho đến đời
đời. Một số trang Kinh Thánh đã công bố về sự thực này: Rô Ma 8:30 đã
công bố “ Còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ
Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng
là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” Câu Kinh Thánh này cho
chúng ta biết kể từ giây phút Đức Chúa Trời chọn lựa chúng ta, khi ấy chúng
ta được đặt vào sự hiện diện vinh hiển của Ngài trong Thiên đàng. Không có
gì ngăn cản con cái Chúa ngày được vinh hiển bởi vì mục đích của Đức
Chúa Trời đã chuẩn bị cho việc ấy trong Thiên đàng. Một người một lần
được bào chữa thì sự cứu chuộc của người ấy đã được bảo đãm. Người ấy
yên tâm như là đã nhận vinh hiển trong Thiên đàng.
Phao Lô hỏi hai câu chủ yếu trong Rô Ma 8:33-34 “Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn
của Ðức Chúa Trời? Ðức Chúa Trời là Ðấng xưng công bình những kẻ ấy.
Ai sẽ lên án họ ư? Ðức Chúa Jêsus Christ là Ðấng đã chết, và cũng đã sống
lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Ðức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng
ta.” Ai sẽ chịu trách nhiệm chống lại sự lựa chọn của Đức Chúa Trời?
Không một ai dám làm điều ấy bởi vì Đấng Christ là trạng sư của chúng ta.
Ai sẽ kết án chúng ta? Không một ai hết vì Đấng Christ đã chết thay cho
chúng ta là Người xét đoán. Chúng ta có cả hai trạng sư và Đấng xét đoán
đều là Cứu Chúa của mình.
Con cái Chúa được sinh lại (tái sinh) khi họ tin (Giăng 3:3, Tít 3:5) Đối với
một Cơ Đốc nhân mất sự cứu rỗi của mình vì người ấy là người chưa được
tái sinh. Kinh Thánh không hề có bằng chứng nào về sự sinh lại có thể bị lấy
mất. Đức Thánh Linh cư trú trong tất cả những người tin nhận Chúa (Giăng
14:17; Rô Ma 8:9) và báp têm tất cả con cái Chúa trong thân Đấng Christ (I
Cô-rinh-tô 12:13) Đối với một tín hữu trở nên mất ơn cứu rỗi vì người ấy
không còn được Thánh Linh cư trú và đã bị tách rời khỏi thân Đấng Christ.
Giăng 3:15 nói rằng bất cứ ai tin vào Chúa Giê Xu Christ sẽ được sự sống
đời đời. Nếu bạn tin Chúa hôm nay có được sự sống đời đời rồi ngày mai
mất đi sự sống ấy thì đó đâu phải là sự sống đời đời. Vì thế nếu bạn mất sự
cứu rỗi thì lời hứa về sự sống đời đời trong Kinh Thánh là một lỗi lầm. Để
kết luận sự tranh cãi cuối cùng tôi nghĩ hãy để chính Kinh Thánh nói là tốt
nhất. “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm
quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc
một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức
Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa
chúng ta.” (Rô Ma 8:38,39) Nên nhớ rằng Đức Chúa Trời đã cứu bạn cùng
một cách như thế cũng như Đức Chúa Trời gìn giữ bạn như vậy. Một lần
chúng ta được cứu luôn luôn chúng ta được cứu. Sự cứu rỗi của chúng ta là
bằng chứng bảo đãm rõ ràng nhất về sự sống đời đời.
Điều quan trọng của phép Báp têm là gì?
Câu hỏi: Điều quan trọng của phép Báp têm là gì?
Trả lời: Theo lời Kinh Thánh, phép Báp têm của Cơ Đốc giáo là bằng chứng
bên ngoài thể hiện những gì diễn ra bên trong đời sống của tín hữu. Phép báp
têm của Cơ Đốc giáo bày tỏ sự xác nhận về sự chết, sự chôn và sự sống lại
của Đấng Christ trong đời sống người tín hữu. Kinh Thánh công bố: “Hay
là, anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp-têm trong
Ðức Chúa Jêsus Christ, tức là chịu phép báp-têm trong sự chết Ngài sao?
Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu
cho Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì
chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy.” (Rô-ma 6:3-4) Trong phép Báp
têm của Cơ Đốc giáo, hành động dìm mình xuống nước tượng trưng cho
việc đồng chôn với Đấng Christ. Hành động ra khỏi nước tượng trưng cho
sự sống lại với Đấng Christ.
Trong phép Báp têm của Cơ Đốc giáo có hai yêu cầu cho người trước khi
chịu Báp têm: (1) Người chịu phép Báp têm phải tin Chúa Giê Xu là Cứu
Chúa của mình. (2) Phải hiểu rỏ ý nghĩa của lễ Báp têm. Nếu một người tin
Chúa Giê Xu làm Cứu Chúa của mình hiểu rỏ ý nghĩa của phép Báp têm là
một bước vâng lời công khai tuyên bố niềm tin mình nơi Chúa và mong ước
được chịu lễ Báp têm – Thế thì không có lý do gì ngăn cản một tín hữu chịu
lễ Báp têm. Theo lời Kinh Thánh, phép Báp têm của Cơ Đốc giáo đơn giản
là bước vâng phục, công khai tuyên bố niềm tin của mình vào một Đấng duy
nhất là Đấng Christ để được sự cứu rỗi. Phép Báp têm của Cơ Đốc giáo rất
quan trọng vì là bước vâng lời, công khai tuyên bố niềm tin của mình vào
Đấng Christ và cam kết với Ngài trong việc xác nhận sự chết, chôn và sống
lại.
Kinh Thánh dạy gì về Đức Chúa Trời Ba ngôi?
Câu hỏi: Kinh Thánh dạy gì về Đức Chúa Trời Ba ngôi?
Trả lời: Điều khó nhất về khái niệm của Cơ Đốc nhân về Đức Chúa Trời Ba
ngôi là không có cách giải thích tương xứng. Đức Chúa Trời Ba ngôi là một
khái niệm mà không thể dành cho bất kỳ một con người để hiểu biết đầy đủ
để giải thích riêng lẻ. Đức Chúa Trời là một thân vị vỉ đại hơn chúng ta. Do
đó chúng ta không nên đòi hỏi có thể hiểu biết đầy đủ về Ngài. Kinh Thánh
dạy rằng Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giê Xu là Đức Chúa
Trời, Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời. Kinh Thánh cũng dạy rằng cả Ba
là một Đức Chúa Trời. Dầu cho chúng ta có thể hiểu một số sự kiện về mối
liên hệ khác nhau trong thân vị Đức Chúa Trời Ba ngôi với từng thân vị một.
Cuối cùng thì cũng không thể dùng trí óc loài người hiểu nổi. Tuy nhiên điều
này không có nghĩa là không thực hay không có căn bản trong những lời dạy
của Kinh thánh.
Khi học Kinh Thánh hãy giữ trong trí mình rằng từ “Đức Chúa Trời Ba
ngôi” không sử dụng trong Kinh Thánh. Đây là một thuật ngữ mà được sử
dụng để cố gắng diễn tả Đức Chúa Trời Ba ngôi hiệp một. Sự thật rằng cả ba
thân vị đều cùng tồn tại, cùng vĩnh cữu đã cho thấy Đức Chúa Trời. Xin hiểu
cho đây không phải là cách chỉ về ba Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Ba
ngôi là một được nhận biết bởi Ba thân vị. Điều này không có gì là sai khi
dùng thuật ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi” cho dù từ ngữ này không tìm thấy
trong Kinh Thánh. Từ ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi” ngắn hơn khi phải nói
“ Cả Ba cùng tồn tại, cả ba cùng vĩnh cửu cho thấy một Đức Chúa Trời”.
Nếu sự trình bày này đối với bạn còn khó hiểu, hãy xem điều này: từ ngữ
“ông nội” cũng không sử dụng trong Kinh Thánh. Tuy nhiên trong Kinh
Thánh chúng ta biết có nhiều “ông nội”. Áp-ra-ham là ông nội của Gia Cốp.
Vì thế đừng trì hoãn trong thuật ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi”. Điều quan
trọng thực sự là ý niệm về Đức Chúa Trời Ba ngôi được trình bày hiện hữu
trong Kinh Thánh. Bằng những đường lối diễn dịch các câu Kinh Thánh đưa
ra những sự thảo luận về Đức Chúa Trời Ba ngôi.
1. Có một Đức Chúa Trời: Phục truyền luật lệ ký 6:4; 1 Cô-rinh-tô 8:4; Ga-
la-ti 3:20; I Ti-mô-thê 2:5.
2. Đức Chúa Trời Ba ngôi gồm có ba thân vị. Sáng thế ký 1:1; 1:26; 3:22;
11:7; Ê-sai 6:8; 48:16; 61:1; Ma-thi-ơ 3:16-17; Ma-thi-ơ 28:19; II Cô-rinh-tô
13:14. Về kiến thức chữ Hê-bơ-rơ của một vài câu Kinh Thánh giúp đỡ hữu
ích: Trong Sáng thế ký 1:1 danh từ Ê-Lô-Him số nhiều được sử dụng. Trong
Sáng thế ký 1:26; 3:22; 11:7 và Ê-sai 6:8, đại danh từ số nhiều “Chúng ta”
được sử dụng. Không cần phải hỏi từ vựng “Ê-Lô-Him” và “Chúng ta” được
xem như là nhiều hơn hai. Trong anh văn chỉ có hai hình thức số ít và số
nhiều. Trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ có ba hình thức số ít cặp đôi và số nhiều.
Cặp đôi chỉ dùng cho hai. Trong tiếng Hê-bơ-rơ cặp đôi là hình thức dùng để
chỉ so sánh từng đôi như là cặp mắt, đôi tay và hai lỗ tai. Từ Ê-Lô-Him và
đại danh từ “Chúng ta” là hình thức số nhiều chỉ định nhiều hơn hai – và
được xem như là ba hoặc nhiều hơn (Cha, Con, Thánh Linh).
Trong Ê-Sai 48:16 và 61:1 Đức Chúa Con nói trong lúc chuyển đến Đức
Chúa Cha và Đức Thánh Linh. So sánh Ê-sai 61:1 với Lu-ca 4:14-19 để thấy
Đức Chúa Con đang nói. Ma-thi-ơ 3:16-17 diễn tả sự kiện phép Báp têm của
Chúa Giê Xu. Thấy rõ Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng xuống
Đức Chúa Con trong lúc Đức Chúa Cha công bố sự hài lòng về Đức Chúa
Con. Ma-thi-ơ 28:19 và II Cô-rinh-tô 13:14 là thí dụ về Ba thân vị phân biệt
trong Ba ngôi Đức Chúa Trời.
3. Các thân vị trong Ba ngôi Đức Chúa Trời được phân biệt từng vị một
trong nhiều chỗ trong Kinh Thánh. Trong Cựu Ước từ “CHÚA” phân biệt
với từ “Chúa” bình thường (Sáng thế ký 19:24; Ô-sê 1:4) Cứu Chúa là Đức
Chúa Con (Thi Thiên 2:7, 12; Châm ngôn 30:2-4) Đức Thánh Linh được
phân biệt với “CHÚA” (Dân số ký 27:18) và Đức Chúa Trời (Thi Thiên
51:10-12) Đức Chúa Con được phân biệt với Đức Chúa Cha (Thi Thiên
45:6-7; Hê-bơ-rơ 1:8-9) Trong Tân Ước Giăng 14:16-17 Chúa Giê Xu nói
với Đức Chúa Cha về việc xin sai Đấng giúp đỡ là Đức Thánh Linh. Điều
này cho thấy Chúa Giê Xu không xem chính Ngài là Đức Chúa Cha hay là
Chúa Thánh Linh. Cũng xem xét tất cả các lần khác trong Phúc Âm Chúa
Giê Xu nói với Đức Chúa Cha. Có phải Ngài tự nói với chính mình không?
Không. Ngài nói với một thân vị khác trong Ba ngôi – Đức Chúa Cha.
4. Mỗi thân vị trong Ba ngôi là Đức Chúa Trời: Đức Chúa Cha là Đức Chúa
Trời ( Giăng 6:27; Rô Ma 1:7; I Phi-e-rơ 1:2.) Đức Chúa Con là Đức Chúa
Trời ( Giăng 1:1, 14; Rô-ma 9:5; Cô-lô-se 2:9; Hê-bơ-rơ 1:8; I Giăng 5:20.)
Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời ( Giăng 1:1, 14; Rô Ma 9:5; Cô-lô-se 2:9;
Hê-bơ-rơ 1:8; I Giăng 5:20.) Đấng thường trú trong đời sống là Đức Thánh
Linh Rô Ma 8:9; Giăng 14:16-17; Công vụ 2:1-4).
5. Sự lệ thuộc trong Ba ngôi Đức Chúa Trời: Kinh Thánh cho thấy Đức
Thánh Linh lệ thuộc với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Đức Chúa Con lệ
thuộc với Đức Chúa Cha, đây là mối liên hệ nội tại và không làm mất đi thần
tánh của bất kỳ thân vị nào trong Ba ngôi. Đây là đơn giản lỉnh vực tâm trí
hữu hạn của chúng ta trong khi hiểu biết về Đức Chúa Trời vô hạn. Quan
tâm về Đức Chúa Con xin xem Lu-ca 22:42; Giăng 5:36; Giăng 20:21; I
Giăng 4:14. Quan tâm về Đức Thánh Linh xin xem Giăng 14:16; 14:26;
15:26; 16:7 và đặc biệc Giăng 16:13-14.
6. Công tác của từng thân vị trong Ba ngôi: Đức Chúa Cha là nguồn tối
thượng hay là căn nguyên của 1) Vũ trụ (I Cô-rinh-tô 8:6; Khải Huyền 4:11)
2) Khải thị thần tính ( Khải Huyền 1:1) 3) Cứu rỗi (Giăng 3:16-17) 4)
Những công việc con người của Chúa Giê Xu (Giăng 5:17 và 14:10) Đức
Chúa Cha khởi đầu tất cả các công việc này.
Đức Chúa Con là thân vị thông qua Đức Chúa Cha làm các công việc như
sau: 1) Sáng tạo và bảo tồn vũ trụ (I Cô-rinh-tô 8:6; Giăng 1:3; Cô-lô-se
1:16-17) 2) Khải thị thần tính ( Giăng 1:1; Ma-thi-ơ 11:27; Giăng 16:12-15;
Khải Huyền 1:1) và 3) Cứu rỗi ( II Cô-rinh-tô 5:19; Ma-thi-ơ 1:21; Giăng
4:42) Đức Chúa Cha làm tất cả các công việc này xuyên qua Đức Chúa Con,
với chức năng như là tác nhân của Ngài.
Đức Thánh Linh là phương tiện mà Đức Chúa Cha thực hiện các công tác
như sau: 1) Sáng tạo và bảo tồn vũ trụ ( Sáng thế ký 1:2; Gióp 26:13; Thi
Thiên 104:30) 2) Khải thị thần tính ( Giăng 16:12-15; Ê-phê-sô 3:5; II Phi-e-
rơ 1:21) 3) Cứu rỗi (Giăng 3:6; Tít 3:5; I Phi-e-rơ 1:2) 4) Các công tác của
Chúa Giê Xu ( Ê-sai 61:1; Công vụ 10:38). Bởi vậy Đức Chúa Cha làm tất
cả các công việc này bởi quyền năng Đức Thánh Linh.
Không có minh họa phổ biến nào diễn tả hoàn toàn chính xác về Ba ngôi:
quả trứng (hay trái táo) không đủ trong đó những thành phần vỏ, lòng trắng,
lòng đỏ không phải là quả trứng. Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Thánh
Linh không phải là các phần của Đức Chúa Trời nhưng mỗi thân vị là Đức
Chúa Trời. Nước được dùng để minh họa tốt hơn nhưng vẫn chưa đủ diễn tả
thỏa đáng về Ba ngôi. Nước có các hình thức chất lỏng, hơi và chất rắn. Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Thánh Linh không phải là hình thức của
Đức Chúa Trời nhưng mỗi thân vị là Đức Chúa Trời. Như thế những minh
họa cho chúng ta một bức tranh về Ba ngôi nhưng bức tranh không hoàn
toàn chính xác. Đức Chúa Trời vô hạn không thể diễn tả đầy đủ bằng sự giải
thích hữu hạn. Thay vì tập trung vào Ba ngôi chúng ta cố gắng tập trung vào
sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và lý tánh vô hạn cao cả của Ngài. “ Ôi! sâu
nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Ðức Chúa Trời! Sự
phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!
Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài? Rô Ma 11:33-34.
Kinh Thánh nói gì về việc dâng phần mười?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc dâng phần mười?
Trả lời: Dâng phần mười là vấn đề có nhiều con cái Chúa tranh cãi. Trong
nhiều nhà thờ việc dâng phần mười không được nhấn mạnh. Trong thời
điểm như thế nhiều Cơ Đốc nhân từ chối phục tùng lời kêu gọi trong Kinh
Thánh về việc dâng hiến cho Chúa. Dâng phần mười, tặng cho là một niềm
vui, một ơn phước của Chúa. Điều đó hiếm khi là việc buồn bả trong Hội
Thánh ngày nay.
Dâng phần mười là khái niệm trong thời Cựu Ước. Dâng phần mười là đòi
hỏi của luật pháp Y-sơ-ra-ên. Tất cả dân chúng đều phải dâng một phần
mười những gì kiếm được và phát triển đền tạm. (Lê-vi-ký 27:30; Dân-số-ký
18:26; Phục-truyền 14:24; II Sử ký 31:5) Một số người hiểu rằng dâng phần
mười như là cách thu thuế để cung cấp những nhu cầu cho các thầy tế lễ và
những người Lê Vi trong việc phục vụ tế lễ. Không có chỗ nào trong Tân
Ước truyền lệnh này ngay cả cũng không có lệnh nào phải nộp phần mười
hợp lệ. Phao Lô có nhắc khuyên các tín hữu nên để dành riêng ra một phần
thu nhập của mình để giúp đỡ cho Hội Thánh.(I Cô-rinh-tô 16:1-2).
Không có chỗ nào trong Tân Ước qui định bao nhiêu phần trăm phải biệt
riêng ra, nhưng chỉ nói tùy theo khả năng của mỗi người. (I Cô-rinh-tô 16:2)
Hội Thánh Cơ Đốc giáo đã rút ra căn bản 10% từ một phần mười trong Cựu
Ước để đề nghị số tiền dâng hiến tối thiểu cho các tín hữu. Tuy nhiên Cơ
Đốc nhân không nên cảm thấy như bị bắt buộc phải luôn luôn dâng phần
mười. Họ nên dâng hiến như khả năng có được trong việc trích ra thu nhập
của mình. Có nghĩa là đôi khi có thể nhiều hơn phần mười cũng như đôi lúc
ít hơn phần mười. Sự dâng hiến này tùy theo khả năng của tín hữu cũng như
nhu cầu của Hội Thánh. Mỗi con cái Chúa nên siêng năng cầu xin Chúa ban
cho sự khôn ngoan trong việc chấp nhận dâng hiến bao nhiêu (Gia cơ 1:5)
“Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn
nàn hay là vì ép uổng; vì Ðức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng.” (II
Cô-rinh-tô 9:7)
Kinh Thánh nói gì về hôn nhân ngoại chủng?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về hôn nhân ngoại chủng?
Trả lời: Luật pháp Cựu Ước truyền lệnh dân Y-sơ-ra-ên không được kết hôn
ngoại chủng (Phục truyền 7:3-4) Lý do của điều này là vì dân Y-sơ-ra-ên có
thể bị dẫn dắt lạc hướng khỏi Đức Chúa Trời nếu họ kết hôn với người ngoại
chủng thờ hình tượng hoặc ngoại đạo. Một luật quen thuộc trong Tân Ước
đưa ra nhưng với những mức độ khác nhau là: “Chớ mang ách chung với kẻ
chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự
sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng?” (II Cô-rinh-tô 6:14) Đúng
với dân Y-sơ-ra-ên (Tin vào một Đức Chúa Trời thật) được truyền lệnh
không cưới gã với người ngoại đạo vì vậy Cơ Đốc nhân (Tin vào một Đức
Chúa Trời thật) được truyền lệnh không cưới gã với người ngoại đạo. Để trả
lời cụ thể cho câu hỏi này, không, Kinh Thánh không hề nói hôn nhân ngoại
chủng là sai.
Một người không thể bị phán xét vì màu da nhưng vì nhân cách. Tất cả
chúng ta cẩn thận không nên thiên vị về điều gì với những người khác hoặc
vì thành kiến hay vì chủng tộc.( Gia Cơ 2:1-10) Đặc biệt câu 1 và câu 9.
Tiêu chuẩn của Cơ Đốc giáo về một người nam và một người nữ lựa chọn
bạn đời với nhau luôn luôn được cho thấy phải là một Cơ Đốc nhân (II Cô-
rinh-tô 6:14) là người được tái sinh bởi đức tin vào Chúa Giê Xu Christ
(Giăng 3:3-5) Sự chọn lựa vợ chồng theo tiêu chuẩn Kinh Thánh là bởi đức
tin vào Đấng Christ không phải bởi màu da. Hôn nhân ngoại chủng không
phải là vấn đề đúng hay sai nhưng là sự khôn ngoan, sáng suốt và cầu
nguyện.
Chỉ có một lý do cần xem xét cẩn thận trong việc kết hôn ngoại chủng là vì
sự khó khăn trong việc hòa hợp chủng tộc của hai vợ chồng phải trải qua để
cho những người khác có đủ thời gian chấp nhận họ. Nhiều cặp vợ chồng
trải qua những sự phân biệt chủng tộc hay nhạo báng, đôi khi ngay cả từ
chính gia đình của họ. Một số vợ chồng ngoại chủng trải qua những khó
khăn về màu da của con cái họ khác với màu da của cha mẹ. Một đôi không
cùng chủng tộc nên rút ra những điều này để xem xét và chuẩn bị cho quyết
định kết hôn của họ. Một lần nữa Kinh Thánh chỉ hạn chế người Cơ Đốc
trong việc liên quan đến hôn nhân vì cớ thành viên kia có phải là thân thể
của Đấng Christ hay không.
Kinh Thánh nói gì về việc ly dị và tái hôn?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc ly dị và tái hôn?
Trả lời: Trước hết không có vấn đề xem việc ly dị để đánh giá người ta, điều
quan trọng là phải ghi nhớ lời Kinh Thánh được chép trong Ma-la-chi 2:16a
“Vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán rằng ta ghét người
nào bỏ vợ.” Đối với Kinh Thánh chương trình của Đức Chúa Trời trong hôn
nhân là sự cam kết suốt cuộc đời. “Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa,
nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà
Ðức Chúa Trời đã phối hiệp!” (Ma-thi-ơ 19:6) Đức Chúa Trời nhận ra rằng
từ khi kết hợp hai con người tội lỗi vào với nhau thì sự ly dị sẽ xảy ra. Trong
Cựu Ước Đức Chúa Trời đã sắp đặt một số luật lệ để bảo vệ quyền ly dị đặc
biệt đối với phụ nữ. (Phục Truyền 24:1-4) Đức Chúa Giê Xu đã chỉ ra những
luật đã ban cho không phải vì Đức Chúa Trời muốn như vậy nhưng vì lòng
cứng cõi của con người. (Ma-thi-ơ 19:8)
Cuộc khảo sát qua việc ly dị và tái hôn dựa trên những lời phán của Chúa
Giê Xu được cho phép ghi lại trong Kinh Thánh trong Ma-thi-ơ 5:32 và
19:9. Từ ngữ: “Trừ ra sự phản bội hôn ước” là điều được Đức Chúa Trời cho
phép duy nhất trong Kinh Thánh về sự ly dị hay tái hôn. Nhiều dịch giả đã
hiểu mệnh đề ngoại trừ này như là sự ám chỉ tình trạng phản bội hôn ước
trong thời kỳ hứa hôn. Trong phong tục của người Do Thái, người đàn ông
và đàn bà được xem là kết hôn ngay trong thời kỳ hứa hôn. Sự vô đạo đức
trong thời gian hứa hôn này là ly dị được xem là lý do có giá trị duy nhất.
Tuy nhiên từ ngữ Hi Lạp dịch là “Sự phản bội hôn ước” là từ ngữ có thể
hiểu bất kỳ hình thức vô đạo đức nào về tình dục. Nó có nghĩa là sự gian
dâm, buôn hương bán phấn, ngoại tình.v.v…Chúa Giê Xu có lẻ nói về được
phép ly dị nếu phạm tội vô đạo đức tính dục. Quan hệ tình dục như là phần
trọn vẹn của mối dây hôn nhân “hai người sẽ nên một thịt” (Sáng thế ký
2:24; Ma-thi-ơ 19:5; Ê-phê-sô 5:31). Vì vậy việc quan hệ tình dục ngoài hôn
nhân phá hủy mối dây ràng buộc nên có thể là lý do được phép ly dị. Nếu
vậy Chúa Giê Xu cũng cho phép việc tái hôn trong ý tưởng của đoạn văn
này. Đoạn văn “ và kết hôn với những người khác.” (Ma-thi-ơ 19:9) cho
thấy việc ly dị và tái kết hôn là được phép trong ví dụ về mệnh đề ngoại trừ.
Dù ra sao nó được diễn giải như vậy. Chú ý quan trọng là chỉ có nhóm người
vô tội mới được phép tái kết hôn. Mặc dầu không được nói đến trong nội
dung sự cho phép tái kết hôn sau khi ly dị là ơn thương xót của Đức Chúa
Trời dành cho những người bị tội lỗi tấn công không phải dành cho những
người phạm tội vô đạo đức về tình dục. Có lẻ ví dụ chỗ “những kẻ phạm tội”
được tái kết hôn không phải là khái niệm được dạy trong đoạn này.
Một số hiểu biết trong I Cô-rinh-tô 7:15 như là trường hợp ngoại lệ khác cho
phép tái kết hôn nếu vợ hoặc chồng không tin Chúa ly dị một người tin
Chúa. Tuy nhiên nội dung không nói đến việc tái kết hôn nhưng chỉ đề cập
đến một người tin Chúa không bị ràng buộc trong hôn nhân nếu vợ hoặc
chồng không tin Chúa muốn để bỏ. Những trường hợp khác công bố lý do
chính đáng cho phép ly dị là việc lăng nhục, sỉ vả vợ, chồng hay con cái mặc
dầu không có liệt kê trong Kinh Thánh. Trong khi đây là những trường hợp
phải lẽ thì tốt nhất là đừng cho rằng phải dựa trên lời của Đức Chúa Trời.
Đôi khi những người hư mất phản bác dựa trên những trường hợp ngoại lệ
cho rằng dầu sao ý nghĩa của việc “phản bội hôn ước” được cho phép ly dị
nhưng đừng đòi hỏi ly dị. Ngay cả trong trường hợp phạm tội tà dâm nhưng
qua ân điển của Đức Chúa Trời họ học được sự tha thứ và bắt đầu tái lập lại
hôn nhân của họ. Đức Chúa Trời tha thứ chúng ta nhiều hơn. Chắc chắn
chúng ta có thể theo gương mẫu của Ngài ngay cả tha thứ cho người phạm
tội tà dâm.(Ê-phê-sô 4:32) Tuy nhiên trong nhiều trường hợp người chồng
hoặc vợ không ăn năn mà cứ tiếp tục phạm tội tình dục thì câu Kinh Thánh
trong Ma-thi-ơ 19:9 có thể được áp dụng. Cũng có nhiều trường hợp sau khi
ly dị người ta tái kết hôn quá nhanh trong khi có thể Đức Chúa Trời muốn
họ sống độc thân. Đôi lúc Đức Chúa Trời kêu gọi một người phải sống độc
thân để sự tập trung của họ không bị phân tán. (I Cô-rinh-tô 7:32-35) Tái kết
hôn sau khi ly dị là sự chọn lựa trong một số hoàn cảnh nhưng điều đó
không có nghĩa là sự chọn lựa bắt buộc.
Thật đau buồn về tỷ lệ ly dị trong vòng những người tự cho mình là Cơ Đốc
nhân cao gần như là thế giới ngoại đạo. Kinh Thánh cho thấy rất rõ ràng về
việc Đức Chúa Trời ghét sự ly dị (Ma-la-chi 2:16) Sự giải hòa và sự tha thứ
nên được quan tâm trong đời sống Cơ Đốc nhân. (Lu-ca 11:4 và Ê-phê-sô
4:32) Tuy nhiên Đức Chúa Trời biết rằng việc ly dị vẫn xảy ra ngay cả trong
vòng con cái Chúa. Một tín hữu ly dị hoặc tái kết hôn không nên cảm giác
Chúa yêu mình giảm đi. Ngay cả nếu việc ly dị hay tái hôn của họ không
nằm trong trường hợp ngoại lệ của Ma-thi-ơ 19:9. Đức Chúa Trời thường sử
dụng sự không vâng theo tội lỗi của các Cơ Đốc nhân để làm thành công
việc lớn lao của Ngài.
Phụ nữ có nên phục vụ như là Mục sư, Truyền đạo? Kinh Thánh nói gì về
phụ nữ làm mục vụ?
Câu hỏi: Phụ nữ có nên phục vụ như là Mục sư, Truyền đạo? Kinh Thánh
nói gì về phụ nữ làm mục vụ?
Trả lời: Có lẻ không có vấn đề gì gây tranh cãi trong Hội Thánh ngày nay
bằng vấn đề phụ nữ có được làm mục sư, truyền đạo trong công tác mục vụ?
Như là kết luận, vấn đề này rất quan trọng đừng xem như là vấn đề đối
kháng giữa người nam và nữ. Có những phụ nữ tin rằng phụ nữ không nên
phục vụ như là Mục sư, và Kinh Thánh làm cho phụ nữ bị ngăn trở trong
công tác mục vụ. Và có những người đàn ông tin phụ nữ có thể phục vụ như
nhà truyền giáo và không có sự ngăn cấm nào cho phụ nữ trong công tác
mục vụ. Trong điều này không có vấn đề phân biệt hay cuồng tín, nhưng là
vấn đề thực hiện theo lời Kinh Thánh.
I Ti-mô-thê 2:11-12 cho biết: “Ðàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải
vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được
cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.” Trong Hội Thánh, Đức
Chúa Trời chỉ định vai trò đàn ông và đàn bà khác nhau. Đây là kết quả của
đường lối tạo dựng nên loài người. (I Ti-mô-thê 2:13) và cách tội lỗi vào
trong thế gian (II Ti-mô-thê 2:14) Đức Chúa Trời qua các thư tín của sứ đồ
Phao Lô ngăn cấm đàn bà không được phục vụ trong vai trò của việc dạy dỗ
thuộc linh vượt trên quyền của đàn ông.
Có nhiều sự phản đối trong việc phụ nữ làm mục vụ hay nữ mục sư. Quan
điểm thông thường là Phao Lô ngăn cấm phụ nữ không được dạy dỗ bởi vì
trong thế kỷ thứ nhất phụ nữ thuộc thành phần không được học hành. Tuy
nhiên I Ti-mô-thê 2:11-14 không nơi nào chú ý đến tình trạng giáo dục. Nếu
giáo dục là một phẩm chất của mục vụ, phần lớn các môn đồ của Chúa Giê
Xu hình như không có điều kiện này. Sự phản đối thông thường thứ hai là
Phao Lô chỉ ngăn cấm phụ nữ Ê-phê-sô trong sự dạy dỗ (Phao Lô đã viết thư
Ti-mô-thê cho Ti-mô-thê mục sư của Hội Thánh Ê-phê-sô) Thành phố Ê-
phê-sô nổi tiếng vì có đền thờ Atemis, nữ thần Hi Lạp – La Mã. Những phụ
nữ có quyền hành trong sự thờ phượng của đền thờ Atemis. Tuy nhiên trong
thư Ti-mô-thê không có chỗ nào đề cập đến thần Atemis, cũng không nói lý
do Phao Lô ngăn cản phụ nữ dạy dỗ vì cớ sự thờ phượng Atemis I Ti-mô-thê
2:11-12.
Sự phản đối thông thường thứ ba là vì Phao Lô chỉ xem xét chồng và vợ,
không phải đàn ông và đàn bà chung chung. Những từ ngữ Hi Lạp trong I
Ti-mô-thê 2:11-14 có thể xem là những ông chồng và những bà vợ. Tuy
nhiên nghĩa căn bản của những từ này là đàn ông và đàn bà. Hơn nữa những
từ ngữ như thế trong Hi Lạp được dùng trong những câu 8-10. Có phải chỉ
những người chồng giơ tay thánh lên trong khi cầu nguyện không có giận dữ
và tranh cãi chăng? (Câu 8) Phải chăng chỉ có những bà vợ ăn mặc nhu mì,
làm việc thiện, và thờ phượng Đức Chúa Trời? (Câu 9-10) Dĩ nhiên là
không? Những câu 8-10 rõ ràng cho thấy những người đàn ông và những
người đàn bà tổng quát không chỉ chồng và vợ. Trong nội dung thư tín
không có gì cho thấy chuyển đổi ý nghĩa thành chồng và vợ trong những câu
11-14.
Tuy nhiên sự phản đối thường xuyên cho việc phụ nữ làm mục vụ, phụ nữ
làm mục sư được sáng tỏ trong mối liên hệ với Mi-ri-am, Hun-da, Bê-rit-sin,
Phê-bê.v.v… Những phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo trong Kinh Thánh. Sự phản
đối này không ghi lại những yếu tố quan trọng. Trong mối liên hệ với Đê-
Bô-Ra, bà là nữ quan xét duy nhất trong 13 nam quan xét. Trong mối liên hệ
của Hun-Đa, bà là nữ tiên tri duy nhất trong số nhiều nam tiên tri ghi trong
Kinh Thánh. Mi-ri-am kết nối với vai trò lãnh đạo duy nhất bởi vì bà là em
gái của Môi se và A-rôn. Hai phụ nữ lỗi lạc nhất trong thời kỳ các vua là A-
Tha-Li và Giê-sa-bên, hai người nữ lãnh đạo ác độc của tà thần.
Trong sách Công vụ các sứ đồ đoạn 18, Bê-rít-sin và A-qui-la được xem là
những nhà truyền giáo trung thành cho Đấng Christ. Tên của Bê-rít-sin được
chú ý trước nhất như cho thấy bà là người truyền giáo nổi bật hơn chồng bà.
Tuy nhiên không có chỗ nào mô tả Bê-rít-sin như là một thành viên trong
công cuộc truyền giáo để làm cho mâu thuẩn với I Ti-mô-thê 2:11-14. Bê-
rít-sin và A-qui-la đã đem A-bô-lô vào nhà của họ, cả hai nhận ông làm môn
đồ và giải thích lời Chúa cho ông cách chính xác hơn (Công vụ 18:26).
Trong Rô Ma 16:1, ngay cả nếu Phê-bê được xem là một “nữ chấp sự” thay
vì là một “tôi tớ” điều đó cũng không cho thấy bà là một thầy giáo trong Hội
Thánh. Một trưởng lão có thể dạy dỗ nhưng một chấp sự thì không. (1 Ti-
mô-thê 3:1-13; Tít 1:6-9) Trưởng Lão, Giám mục, chấp sự được cho biết
“Chồng của chỉ một vợ mà thôi” “Người có con cái tin kính” “Người đáng
tôn trọng”. Hơn nữa trong I Ti-mô-thê 3:1-13 dùng đại danh từ giống đực để
nói về các Trưởng Lão, Giám mục, Chấp sự.
Trong cấu trúc của I Ti-mô-thê 2:11-14 làm cho lý do trở nên thật rõ ràng.
Câu 13 bắt đầu “Vì” và đưa ra “nguyên nhân” tình trạng mà Phao Lô đề cập
đến trong các câu 11-12. Tại sao phụ nữ không được dạy dỗ và không có
quyền trên đàn ông. Bởi vì A-Đam đã được tạo dựng đầu tiên rồi mới đến Ê-
Va, và ông không phải là người bị lừa gạt nhưng là Ê-Va. Đó là lý do Đức
Chúa Trời tạo nên A-Đam rồi sau đó mới tạo nên Ê-Va để giúp đỡ cho A-
Đam. Đây là sự sắp đặt của tạo hóa cho toàn thể nhân loại trong gia đình (Ê-
phê-sô 5:22-23) và Hội Thánh. Sự kiện bà Ê va bị lừa dối cũng được xem
như là một lý do để phụ nữ không được hầu việc Chúa như một vị Mục sư,
cũng không có quyền thiêng liêng trên đàn ông.Theo sự hướng dẫn này một
số người tin rằng phụ nữ không nên dạy dỗ bởi vì họ dễ dàng bị lừa gạt.
Khái niệm đó có thể gây tranh luận…Nếu như phụ nữ dễ bị lừa gạt tại sao
họ được phép dạy dỗ trẻ em (Những đứa trẻ dễ bị lừa dối) hay những phụ nữ
khác (là những người giả dụ rằng dễ bị lừa dối hơn)? Đó không phải là
những gì nội dung nói đến. Đàn bà không được dạy dỗ cũng như không
được cầm quyền trên đàn ông vì Ê-Va đã bị lừa dối. Như là kết quả, Đức
Chúa Trời cho phép đàn ông được quyền ưu tiên dạy dỗ trong Hội Thánh.
Phụ nữ được những ân tứ trội hơn về lòng hiếu khách, tính nhân ái, dạy dỗ
và giúp đỡ. Nhiều công tác mục vụ trong Hội Thánh tùy thuộc vào phụ nữ.
Phụ nữ trong Hội Thánh không bị ngăn cấm trong việc cầu nguyện trước
đám đông hay nói tiên tri (I Cô-rinh-tô 11:5) Kinh Thánh không có chỗ nào
ngăn cản phụ nữ khỏi việc thực hành các ân tứ của Đức Thánh Linh (I Cô-
rinh-tô đoạn 12) Nhiều phụ nữ cũng như đàn ông được kêu gọi làm nhà
truyền giáo cho người khác, được bày tỏ bởi những bông trái Thánh Linh
(Ga-la-ti 5:22) và loan báo phúc âm cho người hư mất (Ma-thi-ơ 28:18-20;
Công vụ 1:8; I Phi-e-rơ 3:15).
Đức Chúa Trời đã qui định chỉ có những người nam mới có quyền dạy dỗ
những việc thuộc linh trong Hội Thánh. Điều đó không phải vì những người
đàn ông cần thiết hơn các giáo viên hay bởi vì những người đàn bà là thuộc
cấp hay kém thông minh hơn. Đơn giản là vì Đức Chúa Trời đã hoạch định
chức năng trong Hội Thánh. Đàn ông được đặt như là tấm gương về lảnh
đạo thuộc linh – trong đời sống cũng như xuyên qua lời nói của họ. Phụ nữ
thì nhận vai trò ít quyền hạn hơn. Phụ nữ được khuyến khích dạy dỗ cho
những phụ nữ khác (Tít 2:3-5) Kinh Thánh cũng không ngăn trở phụ nữ dạy
dỗ trẻ con. Chỉ có việc dạy dỗ hay cầm quyền trên đàn ông là bị ngăn cấm.
Điều hợp lý này bao gồm cả việc làm Mục sư, truyền đạo của phụ nữ. Điều
này không làm cho phụ nữ kém quan trọng hơn bởi bất kỳ ý nghĩa nào,
nhưng tốt hơn là giúp họ tập trung vào những công tác mục vụ thích hợp với
ân tứ của Chúa ban cho.
Kinh Thánh nói gì về tính dục trước hôn nhân? Ăn ở trước hôn nhân?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về tính dục trước hôn nhân? Ăn ở trước hôn
nhân?
Trả lời: Cùng với các loại tính dục phi đạo đức, tính dục trước hôn nhân, ăn
ở trước hôn nhân bị lên án nhiều lần trong Kinh Thánh ( Công vụ 15:20; Rô
Ma 1:29; 1 Cô-rinh-tô 5:1; 6:13,18; 7:2; 10:8; 2 Cô-rinh-tô 12:21; Ga-la-ti
5:19; Ê-phê-sô 5:3; Cô-lô-se 3:5; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:3; Giu-Đe 7) Kinh
Thánh thúc đẩy việc kiêng cử trước hôn nhân. Tính dục trước hôn nhân là
điều sai cũng như tội tà dâm và các hình thức tính dục phi đạo đức khác. Vì
cớ tất cả việc ăn ở của họ liên quan đến người mà họ không hề kết hôn. Đức
Chúa Trời chỉ chấp nhận việc tình dục trong mối quan hệ vợ chồng (Hê-bơ-
rơ 13:4).
Tính dục trước hôn nhân đã trở nên quá phổ thông bởi vì nhiều lý do. Thông
thường quá đà trong việc người ta cho rằng tính dục là khía cạnh vui chơi
mà không nhận thấy rằng khía cạnh tái tạo. Vâng tính dục mang lại niềm vui
thích, Đức Chúa Trời đã chỉ dẫn về điều đó. Ngài muốn giữa đàn ông và đàn
bà được hưởng sự vui thích về hoạt động tính dục (Hạn chế trong hôn nhân)
Tuy nhiên mục đích ban đầu của tính dục không phải là vui chơi nhưng đúng
hơn là tái sản xuất. Đức Chúa Trời không cấm tính dục trước hôn nhân để
cướp lấy niềm vui thích của chúng ta nhưng để bảo vệ chúng ta khỏi mang
thai và sinh con ngoài ý muốn của cha mẹ trong lúc cha mẹ không muốn hay
chưa chuẩn bị cho chúng chào đời. Hãy tưởng tượng thế giới chúng ta sẽ tốt
hơn biết bao nếu khuôn mấu về tính dục của Đức Chúa Trời được vâng theo:
Tính dục ít chuyển tải bệnh tật, giảm được những người làm mẹ mà còn độc
thân, giảm thiểu việc mang thai không mong muốn, giảm bớt những đứa con
rơi.v.v… Kiêng cử là chính sách duy nhất của Đức Chúa Trời đối với tính
dục trước hôn nhân. Kiêng cử giải cứu đời sống, bảo vệ những trẻ con, giúp
cho mối liên hệ tính dục có giá trị đích thực và quan trọng nhất là tôn cao
danh Chúa.
Ân tứ nói tiếng lạ là gì? Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay?
Câu hỏi: Ân tứ nói tiếng lạ là gì? Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày
nay?
Trả lời: Sự kiện nói tiếng lạ đầu tiên xảy ra vào ngày lễ Ngũ tuần trong Công
vụ 2:1-4. Các sứ đồ đi ra và chia sẻ phúc âm với những đám đông, nói với
họ bằng ngôn ngữ của họ, “Cả người Giu-đa hoặc người mới theo đạo Giu-
đa, người Cơ-rết và A-rạp nữa, chúng ta đều nghe họ lấy tiếng chúng ta mà
nói những sự cao trọng của Ðức Chúa Trời.” Công vụ 2:11. Từ ngữ Hi lạp
dịch từ “cái lưỡi” với nghĩa đen là “ngôn ngữ”. Do đó ân tứ của lưỡi là tiếng
nói của một người bằng ngôn ngữ mà người đó không biết để truyền đạo cho
người biết ngôn ngữ đó. Trong I Cô-rinh-tô 12-14 Phao Lô thảo luận về ân
tứ kỳ lạ, ông đã phê bình: “Hỡi anh em, ví bằng tôi đến cùng anh em, nói các
thứ tiếng lạ, mà lời nói tôi chẳng tỏ sự kín nhiệm, chẳng có sự thông biết,
chẳng có lời tiên tri, chẳng có sự khuyên dạy, thì ích gì đến anh em?” I Cô-
rinh-tô 14:6 Đối với sứ đồ Phao Lô và tính hòa hợp của lưỡi được mô tả
trong Công vụ các sứ đồ, nói tiếng lạ được đánh giá là một ân tứ nghe sứ
điệp của Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của người ấy. Ngược lại nó không
có ích lợi gì cho người khác trừ khi nó được dịch ra.
Một người với ân tứ thông dịch tiếng lạ (I Cô-rinh-tô 12:30) có thể hiểu
người đang nói tiếng lạ mặc dầu người ấy không hề biết về ngôn ngữ đó.
Người thông dịch tiếng lạ truyền đạt thông điệp của người nói tiếng lạ để
cho người khác hiểu “Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông
giải tiếng ấy.” I Cô-rinh-tô 14:13 Kết luận của Phao Lô là việc không nói
tiếng lạ thì có quyền hơn “ Nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà
rao giảng trong Hội Thánh để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời
bằng tiếng lạ.” I Cô-rinh-tô 14:19.
Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay? I Cô-rinh-tô 13:8 chú ý rằng
ân tứ nói tiếng lạ ngừng lại. Mặc dầu đến chỗ trọn vẹn trong I Cô-rinh-tô
13:10 mới dừng hẳn. Một vài điểm khác nhau trong cách nói tiên tri và kiến
thức nói tiếng lạ như là bằng chứng ân tứ nói tiếng lạ phải dừng lại trước khi
đạt đến sự trọn vẹn. Có thể trong nội dung không được rõ ràng lắm. Cũng có
vài điểm như trong Ê-Sai 28:11 và Giô Ên 2:28-29 làm bằng chứng cho việc
nói tiếng lạ là dấu hiệu của sự phán xét của Đức Chúa Trời gần đến. I Cô-
rinh-tô 14:22 cho biết nói tiếng lạ là dấu hiệu cho người không tin. Đối với
quan điểm này ân tứ nói tiếng lạ là lời cành cáo của Đức Chúa Trời dành cho
người Do Thái sự phán xét sắp đến với họ vì đã từ bỏ Chúa Giê Xu Christ là
Đấng Cứu thế. Vì vậy khi Đức Chúa Trời thực hiện việc phán xét với dân Y-
sơ-ra-ên (hủy phá thành Giê-ru-sa-lem bời người La Mã vào năm 70 S.C) ân
tứ nói tiếng lạ không còn phục vụ mục đích như đã định. Trong lúc quan
điểm này có thể, sự ứng nghiệm nói tiếng lạ ban đầu không cần thiết phải
dừng lại. Kinh Thánh không quả quyết kết luận rằng ân tứ nói tiếng lạ đã
chấm dứt.
Nếu ân tứ nói tiếng lạ trong Hội Thánh ngày nay, cũng phải giống với những
gì Kinh Thánh đã chép. Nó phải là ngôn ngữ thực và dễ hiểu (I Cô-rinh-tô
14:10). Nó phải dùng cho việc giao thông giữa con người với Đức Chúa Trời
bằng một ngôn ngữ khác (Công vụ 2:6-12) Nó cũng phù hợp với mệnh lệnh
của Đức Chúa Trời phán xuyên qua sứ đồ Phao Lô “ Nếu ai nói tiếng lạ thì
hai hoặc ba người nói, cùng lúc ấy phải có người thông dịch. Nếu không có
người thông dịch, người nói phải yên lặng và tự mình nói chuyện với Chúa
(I Cô-rinh-tô 14:27-28) Nó cũng được xem xét trong I Cô-rinh-tô 14:33 “ Vì
Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự lọan lạc bèn là Chúa của sự hòa
bình như trong tất cả các Hội Thánh.”
Đức Chúa Trời rõ ràng dứt khóat trong việc ban ân tứ nói tiếng lạ là để giúp
cho người ấy có thể liên lạc với ngôn ngữ của người khác. Đức Thánh Linh
cầm quyền trong việc ban phát những ân tứ thuộc linh.(I Cô-rinh-tô 12:11)
Thử tưởng tượng có bao nhiêu nhà truyền giáo đi ra nếu không đến trường
học ngôn ngữ để ngay tức khắc nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ. Tuy
nhiên Đức Chúa Trời đã không làm như thế. Nói tiếng lạ dường như không
diễn ra ngày nay bằng hình thức đã xảy ra trong thời Tân Ước bất chấp sự
thật nó hữu ích ngay tức thì. Phần lớn tín hữu công bố việc thực tập nói tiếng
lạ thì không giống với những điều Kinh Thánh ghi chép bên trên. Những sự
thật này đưa đến kết luận ân tứ nói tiếng lạ đã chấm dứt hay ít nữa là việc
hiếm có trong kế họach của Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh ngày nay.
Những tín hữu tin vào ân tứ nói tiếng lạ như là “ngôn ngữ cầu nguyện” để tự
soi sáng họ lấy quan điểm này từ trong I Cô-rinh-tô 14:4 và 14:28 “Kẻ nói
tiếng lạ tự gây dựng lấy mình, song kẻ nói tiên tri gây dựng cho Hội Thánh.”
Xuyên suốt qua I Cô-rinh-tô 14 sứ đồ Phao Lô nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của việc thông dịch tiếng lạ. Xin xem đọan 14:5-12, những gì Phao Lô
nói trong câu 4 được hiểu “ Nếu bạn nói tiếng lạ mà không có người thông
dịch thì chẳng được gì chỉ dạy cho chính mình, làm cho chính mình có sự
thuộc linh hơn người khác. Nếu bạn nói tiếng lạ có người thông dịch bạn sẽ
dạy dỗ cho nhiều người.” Không có chỗ nào trong Tân Ước hướng dẫn cụ
thể về việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ”. Không có chỗ nào trong Tân Ước
nói đến mục đích cụ thể của việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ” hay diễn tả
hình ảnh một người “Cầu nguyện bằng tiếng lạ.” Hơn nữa nếu “Cầu nguyện
bằng tiếng lạ” là để tự soi sáng cho mình thì điều đó không đúng với người
nói tiếng lạ là người được ban cho ân tứ nói tiếng lạ mà lại không tự dạy dỗ
chính mình sao? I Cô-rinh-tô 12:29-30 chỉ ra rõ ràng không phải bất cứ ai
cũng đều có ân tứ nói tiếng lạ.
Kinh Thánh nói gì về việc uống rượu/bia? Cơ Đốc nhân uống rượu bia có tội
không?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc uống rượu/bia? Cơ Đốc nhân uống rượu
bia có tội không?
Trả lời: Một số câu Kinh Thánh khuyên răn mọi người tránh xa rượu bia
(Lê-vi-ký 10:9; Dân-số-ký 6:3; Phục-truyền-luật-lệ-ký 14:26; 29:6; Quan-xét
13:4,7,14; 1 Sa-mu-ên 1:15; Châm-ngôn 20:1; 31:4,6; Ê-sai 5:11,22; 24:9;
28:7; 29:9; 56:12; Mi-chê 2:11; Lu-ca 1:15). Tuy nhiên Kinh Thánh không
nhất thiết ngăn cấm một Cơ Đốc nhân uống rượu, bia hay một chất lên men
nào khác. Cơ Đốc nhân được mạng lệnh phải tránh say sưa (Ê-phê-sô 5:18)
Kinh Thánh lên án việc say sưa và những hậu quả của nó (Châm ngôn
23:29-35) Cơ Đốc nhân cũng được lệnh không cho phép bất cứ điều gì làm
chủ thân thể mình ( I Cô-rinh-tô 6:12; II Phi-e-rơ 2:19) Kinh Thánh cũng
ngăn cấm Cơ Đốc nhân đừng làm điều gì xúc phạm đến Cơ Đốc nhân khác
cũng đừng khuyến khích người ta làm điều tội lỗi chống lại lương tâm của
họ (I Cô-rinh-tô 8:9-13) Với ánh sáng của những luật lệ này, một Cơ Đốc
nhân không thể nói việc uống rượu bia là làm vinh hiển danh Chúa (I Cô-
rinh-tô 10:31).
Chúa Giê Xu hóa nước thành rượu. Điều này có vẽ như là việc uống rượu do
nơi hoàn cảnh bắt buộc. Trong thời Tân Ước nước không được sạch cho
lắm. Không có hệ thống hợp vệ sinh tân tiến, nước chứa đầy vi trùng, các
loại vi khuẩn, và các tạp chất pha lộn trong đó. Nó cũng giống như tình trạng
của các nước trong thế giới thứ ba ngày nay. Chính vì vậy mà người ta
thường uống rượu (Hoặc uống nước nho) bởi vì nó ít bị pha lẫn những tạp
chất. Trong I Ti-mô-thê 5:23 Phao Lô hướng dẫn cho Ti-mô-thê trong việc
chữa bệnh tiêu hóa bằng cách uống rượu thay vì uống nước. Từ rượu tiếng
Hi Lạp trong Kinh Thánh là từ căn bản chỉ về rượu ngày nay. Rượu ngày
xưa được làm lên men nhưng không quá mức như ngày nay. Không thể cho
rằng đó là nước nho cũng không thể nói rằng nó là loại rượu giống như ngày
nay người ta thường uống. Một lần nữa Kinh Thánh không nhất thiết ngăn
cấm người Cơ Đốc uống rượu bia, hay bất kỳ thức uống có chất rượu nào
khác. Chất say không được dùng, bản thân chính nó làm cho người ta sa đọa
vì tội lỗi. Hơn thế nữa một con cái Chúa phải tránh xa sự nhậu nhẹt hay
nghiện ngập những chất say. (Ê-phê-sô 5:18; I Cô-rinh-tô 6:12) Có nhiều qui
luật trong Kinh Thánh, nhưng khó mà chấp nhận rằng một con cái Chúa
uống rượu nhiều là được Chúa vui lòng.
Kinh Thánh nói gì về cờ bạc? Cờ bạc có phải là tội?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về cờ bạc? Cờ bạc có phải là tội?
Trả lời: Cờ bạc có thể được định nghĩa như là may rủi trong tiền bạc nhằm
mục đích có nhiều tiền nhưng không phải từ việc làm kiếm thêm. Kinh
Thánh không kết án cụ thể về việc cờ bạc, cá độ hay chơi sổ số. Tuy nhiên
lời Kinh Thánh cảnh giác chúng ta phải tránh xa lòng yêu thích tiền bạc (1
Ti-mô-thê 6:10; Hê-bơ-rơ 13:5). Lời Thánh Kinh khuyên chúng ta tránh xa
việc cố gắng làm giàu nhanh. ( Châm ngôn 13:11; 23:5; Truyền đạo 5:10).
Cờ bạc được thấy rõ nhất qua việc tập trung vào lòng yêu tiền bạc và không
thể phủ nhận được việc cám dỗ người ta bàng lời hứa giàu có nhanh chóng
và dễ dàng.
Cờ bạc có gì sai? Cờ bạc là hậu quả của sự nghèo khó bởi vì nó là hành vi
vất bỏ tiền cho dầu chỉ làm cách tiết chế hoặc trong vài trường hợp nhỏ
không được xem tội lỗi. Người ta vất bỏ tiền trong đủ thứ hành động. Cờ bạc
là hình thức không nhiều thì ít là việc vất bỏ tiền hơn là xem Ti vi, ăn uống
những bửa ăn đắt tiền không cần thiết, hay mua sắm những món hàng không
có giá trị. Vào những lúc như thế sự thật là tiền bạc đã bị vất bỏ vào những
điều khác không xem là cờ bạc. Tiền bạc không nên vất bỏ. Sự dư thừa tiền
bạc nên được để dành cho những nhu cầu công việc Chúa trong tương lai
đừng làm mất đó trong việc cờ bạc.
Quan điểm Kinh Thánh về cờ bạc: Trong lúc Kinh Thánh không ghi chép cụ
thể về cờ bạc. Nó được xem là trò chơi may rủi hoặc may mắn. Thí dụ trong
Lê Vi Ký về việc rút thăm cầu may được dùng để chọn lựa giữa một con dê
dâng hiến và một con dê thả ra. Giô suê rút thăm để quyết định trong việc
chia phần đất cho các chi phái. Nê-Hê-Mi dùng cách rút thăm để quyết định
ai sống bên trong Giê ru sa lem và ai không được. Các môn đồ dùng cách rút
thăm để quyết định người sẽ thay thế Giu Đa. Châm ngôn 16:33 nói “Người
ta bẻ thăm trong vạt áo; Song sự nhứt định do nơi Ðức Giê-hô-va mà đến.”
Không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói cờ bạc là hình thức giải trí hay
được trình bày như là việc được chấp nhận của người theo Chúa.
Sòng bạc và chơi sổ số: Sòng bạc là nơi sắp đặt đủ loại mưu đồ của thị
trường để dụ dỗ người chơi bài bạc lao vào may rủi để có càng nhiều tiền
càng tốt. Họ thường cho chơi rẻ và cho không rượu để khuyến dụ người
nghiện rượu, bằng cách ấy làm giảm đi khả năng quyết định sáng suốt. Mọi
thứ trong sòng bạc đều là gian lận để lấy thật nhiều tiền và không cho nó
quay trở lại, ngoại trừ cho thỏa mãn sự trống rỗng và phù du. Sổ số được cố
gắng mô tả sinh động như là việc gây quỹ giáo dục hoặc xã hội. Tuy nhiên
nhiều bài học cho thấy người mua vé số là người ít có cơ hội xài tiền trên
các vé số. Sức quyến rũ của việc nhanh chóng làm giàu là sự cám dỗ quá lớn
cho những người liều lĩnh kềm chế. Cơ hội trúng số rất nhỏ vô cùng, nó là
kết quả của nhiều cuộc đời đã bị phá hoại.
Tại sao chơi sổ số đi đến sự không đẹp lòng Chúa: Nhiều người nói rằng họ
chơi sổ số hay cờ bạc là để kiếm nhiều tiền để có thể dâng hiến cho nhà thờ
hay để cho các mục đích từ thiện khác. Trong khi điều này có thể là động cơ
tốt, thực sự thì ít có người nào dùng chiến thắng bài bạc cho mục đích kính
sợ Đức Chúa Trời. Nhiều bài học cho thấy rằng đa số người trúng số vài
năm sau lại rơi vào hoàn cảnh tồi tệ hơn trước khi họ trúng số. Giả thử nếu
có một ít người dâng hiến cho các mục đích từ thiện. Hơn nữa Đức Chúa
Trời không cần dùng tiền bạc chúng ta để làm giàu cho công việc Chúa trên
đất này. Châm ngôn 13:11 nói “Tiền bất nghĩa ắt phải ra đi; Còn ai lấy tay
làm việc dần dần sẽ được thêm của nhiều lên.” Đức Chúa Trời tể trị và cung
cấp những nhu cầu của Hội Thánh thông qua các phương tiện chân thật. Đức
Chúa Trời có được vinh hiển khi tiền dâng là tiền buôn thuốc phiện hay tiền
trộm cướp không? Đức Chúa Trời cũng không muốn hay cần đến tiền của
người trộm cắp kẻ nghèo bằng sự cám dỗ trở nên người giàu.
I Ti-mô-thê 6:10 “Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì
đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.” Hê-bơ-rơ 13:5 tuyên
bố rằng “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Ðức Chúa
Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu.” Ma-thi-
ơ 6:24 cho biết “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu
người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có
thể làm tôi Ðức Chúa Trời lại làm tôi tiền bạc nữa.”
Kinh Thánh nói gì về việc xăm mình-thân thể bị cắt xẻ?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc xăm mình-thân thể bị cắt xẻ?
Trả lời: Luật pháp Cựu ước truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chớ vì kẻ chết
mà cắt thịt mình, chớ xâm vẽ trên mình: Ta là Ðức Giê-hô-va.” (Lê-vi-ký
19:28) Tuy nhiên, mặc dù tín hữu ngày nay không ở dưới luật pháp Cựu
Ước (Rô-ma 10:4; Ga-la-ti 3:23-25; Ê-phê-sô 2:15) Sự thực rằng có một luật
chống lại việc xăm mình nên mới có câu hỏi cho chúng ta. Kinh Thánh Tân
Ước không đề cập gì về một tín hữu nên hay không nên xăm mình.
Trong mối liên hệ với xăm mình và cắt xẻ thân thể, cách kiểm tra tốt nhất là
xem quyết định như vậy có ngay thẳng, có ý thức tốt để cầu xin Chúa ban
phước và sử dụng những hành động đặc biệt cho mục đích tốt lành của chính
Ngài: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự
vinh hiển Ðức Chúa Trời mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31) Kinh Thánh không
ra lệnh chống lại việc xăm mình hay cắt xẻ thân thể. Nhưng Kinh Thánh
cũng không cho chúng ta một lý do nào để tin rằng Đức Chúa Trời cho phép
chúng ta xăm mình hay cắt xẻ thân thể.
Vấn đề khác cầm xem xét là mức độ bình thường. Kinh Thánh hướng dẫn
chúng ta phải ăn mặc giản dị. (1 Ti-mô-thê 2:9). Một người có vẻ bề ngoài
khiêm tốn trong cách ăn mặc là mọi thứ trên thân thể được che phủ bởi y
phục cách thỏa đáng. Tuy nhiên ý nghĩa chủ yếu của sự giản dị là không quá
chú trọng đến bản thân mình. Những người ăn mặc giản dị thể hiện cách
sống không quan tâm đến chính họ. Xâm mình và cắt xẻ thân thể cho biết
một người chỉ quan tâm đến mình. Trong tình trạng này người xâm mình
hay cắt xẻ thân thể không phải là người khiêm tốn.
Một qui luật quan trọng trong Kinh Thánh về những vấn đề mà không có ghi
chép cụ thể là nếu điều ấy có chỗ làm nghi ngờ không biết Chúa có vui lòng
không thì cách tốt nhất là đừng làm việc ấy. “Phàm làm điều chi không bởi
đức tin thì điều đó là tội lỗi.” (Rô-ma 14:23) Chúng ta cần nhớ thân thể cũng
như linh hồn chúng ta đã được cứu chuộc và thuộc về Đức Chúa Trời. Mặc
dầu I Cô-rinh-tô 6:19-20 không trực tiếp áp dụng cho việc xăm mình hay cắt
xẻ thân thể nhưng những câu Kinh Thánh này cho chúng ta một qui luật
“Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh
đang ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và
anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được
chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Ðức Chúa
Trời.” Sự thật vĩ đại này cho phép chúng ta mang thân thể thật sự của mình
để làm hay đi nơi đâu đều vì danh Chúa. Nếu thân thể chúng ta thuộc về Đức
Chúa Trời chúng ta phải chắc chắn nghe rõ ràng sự cho phép của Chúa trước
khi chúng ta xăm mình hay cắt xẻ thân thể.
Chúa Giê Xu ở đâu giữa ba ngày Chúa chết và sống lại?
Câu hỏi: Chúa Giê Xu ở đâu giữa ba ngày Chúa chết và sống lại?
Trả lời: I Phi-e-rơ 3:18-19 cho biết: “Vả, Ðấng Christ cũng vì tội lỗi chịu
chết một lần, là Ðấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng
ta đến cùng Ðức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về
phần linh hồn thì được sống. Ấy bởi đồng một linh hồn đó, Ngài đi giảng
cho các linh hồn bị tù.”
Cụm từ “Về phần linh hồn” trong câu 18 được giải thích chính xác như cụm
từ “Về phần xác thịt” vì thế dường như có mối liên hệ tốt nhất giữa từ ngữ
“linh hồn” và “xác thịt”. Xác thịt và linh hồn là thân thể và linh của Đấng
Christ. Từ ngữ sống trong linh hồn cho thấy sự kiện tội lỗi Chúa mang và
chịu chết đã đem đến sự phân rẽ linh hồn của Ngài khỏi Đức Chúa Cha (Ma-
thi-ơ 27:46). Sự tương phản giữa xác thịt và linh hồn như trong Ma-thi-ơ
27:41 và Rô Ma 1:3-4 và không giữa xác thịt và Thánh linh của Đấng Christ.
Khi sự chuộc tội của Đấng Christ đã hoàn tất, linh hồn của Ngài đã hồi phục
lại giao hảo với những điều đã bị phá hủy.
I Phi-e-rơ 3:18-22 diễn tả mối liên hệ cần thiết giữa sự chịu chết của Đấng
Christ (Câu 18) và sự vinh quang của Ngài (câu 22). Chỉ có Phi-e-rơ ghi lại
những thông tin cụ thể giữa hai sự kiện này. Từ ngữ “giảng” trong câu 19
không phải là từ thông thường trong Tân Ước dùng để diễn tả sự rao giảng
Phúc âm. Nhưng nghĩa đen của nó là sứ giả truyền thông điệp. Chúa Giê Xu
đã chịu đau đớn và chết trên thập tự, thân thể của Ngài đã đặt vào cõi chết,
và linh hồn của Ngài vì tội lỗi đã chết. Nhưng linh hồn Ngài được làm sống
lại và Ngài đầu phục Đức Chúa Cha. Đối với Phi-e-rơ đôi khi giữa sự chết
và sự sống lại của Đấng Christ Ngài đã thực hiện sự công bố đặc biệt cho
“Những linh hồn bị tù.”
Bắt đầu với sự xem xét của Phi-e-rơ về con người như là “linh hồn” không
phải là “linh” (3:20) Trong Tân ước từ ngữ “linh” để chỉ về những Thiên sứ
hay ma quỷ không phải diễn tả về con người và câu 22 dường như diễn tả
theo nghĩa này. Cũng vậy không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng
Chúa Giê Xu viếng thăm địa ngục. Công vụ 2:31 nói rằng Ngài đến nơi
“giam giữ linh hồn”, nơi nầy không phải là địa ngục. Từ ngữ “Nơi giam giữ
linh hồn” được xem như là địa hạt của sự chết. Một nơi tạm để người chết
chờ ngày sống lại. Khải Huyền 20:11-15 trong các bản dịch NSAB và NIV
cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai chỗ. Địa ngục là nơi vĩnh cửu trong
ngày cuối cùng để phán xét những người bị hư mất. Nơi giam giữ linh hồn là
chỗ tạm thời.
hững thú vật nuôi có lên thiên đàng? Những thú vật nuôi có linh hồn không?
Câu hỏi: Những thú vật nuôi có lên thiên đàng? Những thú vật nuôi có linh
hồn không?
Trả lời: Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói những loài thú vật nuôi có
linh hồn hay những loài thú vật cưng chiều sẽ lên thiên đàng. Mặc dù vậy
chúng ta rút ra những qui luật tổng quát trong Kinh Thánh và đưa ra ánh
sáng về chủ đề này. Lời Kinh Thánh tuyên bố cả hai con người (Sáng 2:7) và
thú vật đều có hơi thở sự sống (Sáng 1:30; 6:17; 7:15,22). Sự khác biệt quan
trọng nhất giữa con người và thú vật là con người được tạo dựng giống như
hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng 1:26-27) còn thú vật thì không. Điều này
có nghĩa là con người giống như Đức Chúa Trời có khả năng tinh thần, với
tâm trí, tình cảm và ý chí và có chiều hướng tiếp tục sau khi chết. Nếu những
thú vật nuôi có linh hồn hay khuynh hướng phi vật chất nó phải là khác hơn
và ít chất lượng hơn. Điều khác biệt này có lẽ làm cho linh hồn của loài thú
vật không thể xuất ra sau khi chết.
Yếu tố khác để xem xét cho câu hỏi này là Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên
các loài thú vật như một phần trong tiến trình sáng tạo của Ngài trong Sáng
thế ký. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên các loài thú vật và phán rằng chúng
nó tốt lành (Sáng 1:25) Vì thế không có lý do nào trên vùng đất mới không
có loài thú nuôi. Có một chỗ rõ ràng nhất là thú vật sống trong thời kỳ ngàn
năm bình an (Ê-sai 11:6; 65:25). Có thể nói dứt khoát mặc dầu những thú vật
này là những thú vật nuôi được cưng chiều trong lúc chúng ta sống trên đất.
Chúng ta phải biết Đức Chúa Trời là Đấng ngay thẳng, khi chúng ta lên
thiên đàng chúng ta sẽ thấy chính chúng ta hoàn toàn đồng ý với quyết định
của Ngài trong vấn đề này.
Kinh Thánh nói gì về khủng long? Có khủng long trong Kinh Thánh không?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về khủng long? Có khủng long trong Kinh
Thánh không?
Trả lời: Chủ đề Khủng long trong Kinh Thánh là phần lớn tranh luận liên tục
trong vòng cộng đồng Cơ Đốc giáo nhiều thời đại. Những lời dịch xác đáng
của Sáng Thế ký và làm thế nào diễn đạt những bằng chứng cụ thể chúng ta
tìm thấy xung quanh chúng ta. Những người xưa có khuynh hướng tin rằng
Kinh Thánh không có nói gì về Khủng long. Bởi vì đối với hệ biến hóa của
họ, Khủng long đã chết hàng triệu năm trước khi con người có mặt trên đất.
Những người viết Kinh Thánh không từng nhìn thấy loài khủng long còn
sống.
Đối với những người thuộc thế hệ trẻ sau này có khuynh hướng đồng ý rằng
Kinh Thánh có nói đến Khủng long mặc dầu trong Kinh Thánh không thực
sự dùng từ ngữ “Khủng long”. Thay vì vậy Kinh Thánh dùng tiếng Hê-bơ-rơ
“Tanniyn”. Tanniyn được dịch khác một chút với bản Kinh Thánh tiếng
Anh. Đôi khi dịch là “Quái vật của biển”, đôi khi dịch là “Rắn khổng lồ”,
nhưng thường dịch nhất là “Con Rồng”. Tanniyn xuất hiện theo sự sắp xếp
của loài bò sát khổng lồ. Những sinh vật này được ghi lại trong Cựu Ước
gần ba mươi lần và được tìm thấy trên đất và trong nước.
Thêm nữa trong việc ghi chép gần ba mươi lần loài bò sát khổng lồ này nói
chung xuyên qua Cựu Ước. Kinh Thánh diễn tả đôi lần về sinh vật này bằng
cách mà theo như những học giả tin rằng tác giả đã diễn tả loài khủng long.
Behemoth được nói đến như là loài sinh vật to lớn nhất của Đức Chúa Trời.
Loài khổng lồ này có đuôi to như cây tùng, cây bách (Gióp 40:15) Một vài
học giả đã cố gắng xác định xem loài Behemoth này là loài voi hay loài hà
mả. Những người khác cho rằng loài voi hay loài hà mả có đuôi rất mỏng
không thể so sánh với cây tùng cây bách được. Những loài khủng long như
loài Brachiosaurus và loài Diplodocus có đuôi to mà người ta dễ dàng so
sánh với cây tùng, cây bách.
Những cư dân cổ gần đây có sự sắp xếp trong nghệ thuật mô tả về loài bò sát
khổng lồ. Những điêu khắc đá, vật tạo tác ngay cả những tượng nhỏ bằng đất
sét tìm thấy ở Bắc Mỹ tương đồng với sự mô tả khủng long ngày nay.
Những điêu khắc trên đá tại vùng Nam Mỹ mô tả hình ảnh những người
đang cỡi trên loài khủng long Diplodocus – như một loài bò sát, lạ kỳ là nó
mang hình ảnh rất giống với loài khủng long ba sừng, thằn lằn có cánh,
khủng long vua chân ngắn đuôi dài. Các miếng khảm của người La Mã, đồ
gốm của người May-a, những bức tường tại thành Ba-by-lôn tất cả đều làm
chứng cho một nền văn hóa xuyên lục địa, mọi quốc gia đều bị mê hoặc bởi
những hình ảnh các sinh vật này. Những ghi chú nghiêm túc trong tác phẩm
“Il Milione” của Marco Polo trộn lẫn với những câu chuyện kỳ lạ nói về
những loài thú tích trữ châu báu. Thời đại ngày nay thông báo ánh sáng về
những việc tồn tại mặc dầu chúng thường xuyên đặt ra những hoài nghi
không thể chống lại được.
Hơn nữa nhiều bằng chứng có thật của dân tộc học và sử học về sự chung
sống của loài khủng long và con người, có những bằng chứng vật lý khác,
những dấu chân hóa thạch của loài người và khủng long cùng với nhau tại
những vùng Bắc Mỹ và Trung Tây Á.
Như thế trong Kinh Thánh có loài khủng long không? Vấn đề này không cần
phải nói thêm nữa. Nó tùy thuộc vào cách bạn dẫn giải những bằng chứng
thích hợp và cách bạn nhìn thế giới quanh bạn. Tại trang web của
Questions.Org này chúng tôi tin rằng thế giới ngày nay giải thích và chấp
nhận loài khủng long và con người cùng tồn tại với nhau. Chúng tôi tin rằng
những loài khủng long đã chết sau trận đại hồng thủy do bởi sự kết hợp giữa
môi trường thay đổi khắc nghiệt và sự săn bắt tuyệt diệt không thương xót
bởi con người.
Vợ của Ca In là ai? Vợ của Ca In có phải là em gái của ông không?
Câu hỏi: Vợ của Ca In là ai? Vợ của Ca In có phải là em gái của ông không?
Trả lời: Kinh Thánh không nói cụ thể vợ Ca in là ai. Chỉ có thể trả lời vợ Ca
in là em gái hoặc cháu gái hay là một người cháu họ.v.v…Kinh Thánh
không nói khi Ca in giết A bên ông bao nhiêu tuổi. (Sáng 4:8) Vì cả hai là
nông dân, họ dường như là những người đã lớn hơn tuổi trưởng thành có lẽ
mỗi người đều có gia đình riêng. A-Đam và Ê-Va chắc có nhiều con hơn là
chỉ có Ca-in và A-bên vào lúc A-bên bị giết. Họ có nhiều con thấy được sau
này (Sáng 5:4) Sự kiện Ca-in sợ hãi về chính sự sống của ông sau khi giết
A-bên (Sáng 4:14) cho thấy hình như có nhiều người con khác và có lẽ là
cháu nội hay chắt nội của A-Đam và Ê-Va vào lúc bấy giờ. Vợ của Ca-in
(Sáng 4:17) là con gái hoặc cháu gái của A-Đam và Ê-Va.
Bởi vì A-Đam và Ê-Va là những người đầu tiên duy nhất, con cái họ không
có sự chọn lựa nào khác hơn là lấy nhau trong dòng họ. Đức Chúa Trời
không ngăn cấm hôn nhân trong dòng họ cho đến lâu dài về sau khi có đủ
người khiến cho hôn nhân trong dòng họ không còn cần thiết (Lê-vi-ký
18:6-18) Lý do của tội loạn luân thường gây nên hậu quả là gien dị thường
trong con cái. Điều này do hai người có cùng gien tương tự (Như anh em,
chị em ruột) có con với nhau. Khuyết điểm về gien hình như hậu quả xa hơn
bởi vì cha mẹ chính họ có khuyết điểm giống nhau. Khi con người sinh con
từ những dòng họ khác nhau thì sự khác biệt cao hơn trong vòng cha mẹ sẽ
không có khuyết điểm về gien giống nhau. Mã gien của con người ô nhiễm
tăng cao hơn hàng bao thế kỷ khi khiếm khuyết gien nhân lên, khuếch đại,
giảm xuống từ thế hệ này tới thế hệ khác. A-Đam và Ê-Va không có bất kỳ
khiếm khuyết gien nào nhờ đó giúp cho họ và một số dòng dõi của con cháu
có được khả năng sức khỏe dồi dào hơn chúng ta có hiện nay. Con cái của
A-Đam và Ê-Va có rất ít về khiếm khuyết gien vì vậy những cuộc hôn nhân
trong dòng họ được an toàn. Điều dường như kỳ lạ và kinh tởm khi nghĩ
rằng vợ của Ca-in là em gái của ông ấy. Nhưng vì ban đầu Đức Chúa Trời
tạo nên một người nam và một người nữ, thế hệ thứ hai không có sự lựa
chọn nào khác hơn là hôn nhân trong dòng họ huyết thống.
Kinh Thánh nói gì về đồng tính luyến ái? Đồng tính luyến ái có phải là tội
không?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về đồng tính luyến ái? Đồng tính luyến ái có
phải là tội không?
Trả lời: Kinh Thánh trước sau như một nói với chúng ta hành động đồng
tính luyến ái là tội (Sáng thế ký 19:1-13; Lê-vi-ký 18:22; Rô-ma 1:26-27; I
Cô-rinh-tô 6:9). Rô-ma 1:26-27 dạy chúng ta cách cụ thể đồng tính luyến ái
là hậu quả của sự từ chối và bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi một
người tiếp tục ở trong tội lỗi và không tin, Kinh Thánh nói với chúng ta rằng
Đức Chúa Trời phó họ càng hơn cho tội lỗi gian ác và sa đọa để chỉ cho họ
sự phù phiếm và đời sống vô hi vọng phân rẻ họ với Đức Chúa Trời. I Cô-
rinh-tô 6:9-10 công bố rằng kẻ phạm tội đồng tính luyến ái không được thừa
hưởng nước Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không tạo ra sự ham muốn đồng tính luyến ái cho con người.
Kinh Thánh nói với chúng ta con người trở thành đồng tính luyến ái bởi vì
tội lỗi (Rô-ma 1:24-27) cuối cùng bởi vì sự chọn lựa của chính họ. Một
người có thể sinh ra với sự nhạy cảm mạnh với đồng tính luyến ái giống như
một người sinh ra có khuynh hướng bạo lực và những tội lỗi khác. Điều đó
không phải là lý do để họ chọn lựa tội lỗi và cho rằng vì cớ sự ham muốn tội
lỗi vào trong họ. Nếu một người sinh ra với một sự xúc cảm lớn về tính nóng
giận hoặc đam mê có phải được quyền thực hiện những ước muốn của mình
không? Dĩ nhiên là không! Đối với đồng tính luyến ái cũng giống như vậy.
Tuy nhiên Kinh Thánh không mô tả đồng tính luyến ái như là một tội lớn
hơn các tội khác. Tất cả những tội lỗi là phản nghịch với Đức Chúa Trời.
Đồng tính luyến ái chỉ là một trong nhiều điều được liệt kê trong I Cô-rinh-
tô 6:9-10 làm cho con người xa cách với nước Đức Chúa Trời. Theo lời
Kinh Thánh sự tha thứ của Đức Chúa Trời dành cho người đồng tính luyến
ái cũng giống như cho người ngoại tình, kẻ thờ hình tượng, kẻ giết người,
trộm cắp.v.v…Đức Chúa Trời hứa ban sức mạnh chiến thắng tội lỗi cho tất
cả những ai tin nhận Chúa Giê Xu Christ làm Cứu Chúa của mình, kể cả
người đồng tính luyến ái. ( I Cô-rinh-tô 6:11; II Cô-rinh-tô 5:17).
Thủ dâm – theo Kinh Thánh có phải là tội không?
Câu hỏi: Thủ dâm – theo Kinh Thánh có phải là tội không?
Trả lời: Kinh Thánh không bao giờ nói cụ thể về thủ dâm hay tình trạng này
dầu rằng nó là tội. Tuy nhiên Không cần phải hỏi, bất cứ hành động nào dẫn
đến thủ dâm đều là tội. Thủ dâm là điểm cuối của hậu quả những ý nghĩ dâm
đãng, những kích thích tình dục, những hình ảnh khiêu dâm. Thủ dâm
thường có liên quan đến các vấn đề này. Nếu những tội ham muốn xác thịt
và khiêu dâm bị từ chối thì vấn đề thủ dâm sẽ không phát sinh.
Kinh Thánh nói với chúng ta phải tránh ngay cả hình thức tình dục vô đạo
đức (Ê-phê-sô 5:3) Tôi không thấy làm sao thủ dâm có thể qua được những
thử thách đặc biệt. Đôi khi một thử thách tốt cho dầu là tội hay không, cho
dầu bạn có hảnh diện để thuật lại cho người khác về những điều mình đã làm
hay không, nếu điều đó gây bối rối và làm cho bạn xấu hổ nếu người khác
biết được thì điều đó giống như là một tội lỗi. Thử thách tốt khác là quyết
định xem chúng ta có thành thật với lương tâm trong sạch để cầu xin Đức
Chúa Trời ban phước và sử dụng những việc làm đặc biệt cho mục đích tốt
lành của Ngài không. Tôi nghĩ rằng thủ dâm không đủ tiêu chuẩn cho những
điều chúng ta tự hào hay thành thật tạ ơn Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh dạy chúng ta: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự
chi khác, hãy vì sự vinh hiển Ðức Chúa Trời mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31)
Nếu có chỗ nào nghi ngờ làm điều đó có vui lòng Đức Chúa Trời không thì
tốt nhất là nên từ bỏ nó. Chỗ nghi ngờ dứt khoát liên quan đến thủ dâm.
“Phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi.” ( Rô ma 14:23)
Đối với lời Kinh Thánh tôi không thấy chỗ nào nói thủ dâm có thể được xem
là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa chúng ta nên nhớ cả thân thể
lẫn linh hồn chúng ta đã được mua chuộc và thuộc về Đức Chúa Trời. “Anh
em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh đang
ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và anh
em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc
bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Ðức Chúa Trời.”
(I Cô-rinh-tô 6:19-20) Lẽ thật lớn lao này cần được mang theo thật sự trên
thân thể mình mỗi khi chúng ta làm gì hoặc đi bất cứ nơi đâu. Thế thì trong
ánh sáng của luật lệ này tôi dứt khoát nói rằng thủ dâm là tội theo lời Kinh
Thánh. Tôi không tin rằng thủ dâm là làm vui lòng Đức Chúa Trời. Phải
tránh các hình thức phi đạo đức hay là vượt qua thử thách của Đức Chúa
Trời về quyền sở hữu trên chính thân thể chúng ta.
Những câu hỏi và trả lời trên đây từ website:
http://www.gotquestions.org/Viet/index.html, chúng tôi chỉ phát lại để bạn
tham khảo.
Ban quản trị nguonsusong.com

Weitere ähnliche Inhalte

Was ist angesagt?

Hoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhHoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhco_doc_nhan
 
B4 ban chat cua phuc am
B4 ban chat cua phuc amB4 ban chat cua phuc am
B4 ban chat cua phuc amco_doc_nhan
 
Thanh kinh nhap mon
Thanh kinh nhap monThanh kinh nhap mon
Thanh kinh nhap monco_doc_nhan
 
B5 chua jesus dang chua lanh hom nay
B5 chua jesus dang chua lanh hom nayB5 chua jesus dang chua lanh hom nay
B5 chua jesus dang chua lanh hom nayco_doc_nhan
 
Quan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docQuan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docco_doc_nhan
 
Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien triKe hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien trico_doc_nhan
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhco_doc_nhan
 
5 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_0420145 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_042014gxduchoa
 
Doi song thuot linh
Doi song thuot linhDoi song thuot linh
Doi song thuot linhco_doc_nhan
 
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong du
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong duMau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong du
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong duTung Thanh
 
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021Tien Nguyen
 

Was ist angesagt? (14)

Giup niem tin
Giup niem tinGiup niem tin
Giup niem tin
 
Sach loi hua
Sach loi huaSach loi hua
Sach loi hua
 
Hoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhHoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanh
 
B4 ban chat cua phuc am
B4 ban chat cua phuc amB4 ban chat cua phuc am
B4 ban chat cua phuc am
 
Thanh kinh nhap mon
Thanh kinh nhap monThanh kinh nhap mon
Thanh kinh nhap mon
 
B5 chua jesus dang chua lanh hom nay
B5 chua jesus dang chua lanh hom nayB5 chua jesus dang chua lanh hom nay
B5 chua jesus dang chua lanh hom nay
 
Quan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docQuan binh doi song co doc
Quan binh doi song co doc
 
Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien triKe hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
 
ALLAH Là Ai ?
ALLAH Là Ai ?ALLAH Là Ai ?
ALLAH Là Ai ?
 
5 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_0420145 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_042014
 
Doi song thuot linh
Doi song thuot linhDoi song thuot linh
Doi song thuot linh
 
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong du
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong duMau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong du
Mau nhiem tc ba ngoi lm gierado tran cong du
 
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021
Thông Tin Dân Chúa Tháng 03/2021
 

Ähnlich wie Cau hoi thuong xuyen

Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien triKe hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien triLong Do Hoang
 
Hoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhHoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhco_doc_nhan
 
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van doc
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van docLich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van doc
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van docTung Thanh
 
E1 ket noi voi dang christ
E1 ket noi voi dang christE1 ket noi voi dang christ
E1 ket noi voi dang christco_doc_nhan
 
C4 truyen giang phuc am trong quyen nang
C4 truyen giang phuc am trong quyen nangC4 truyen giang phuc am trong quyen nang
C4 truyen giang phuc am trong quyen nangco_doc_nhan
 
A1 nhung tang cua duc tin
A1 nhung tang cua duc tinA1 nhung tang cua duc tin
A1 nhung tang cua duc tinco_doc_nhan
 
Tan uoc( gian luot)
Tan uoc( gian luot)Tan uoc( gian luot)
Tan uoc( gian luot)co_doc_nhan
 
D4 truyen giang ca nhan
D4 truyen giang ca nhanD4 truyen giang ca nhan
D4 truyen giang ca nhanco_doc_nhan
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honLong Do Hoang
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honco_doc_nhan
 
Christ thuyet phuc
Christ thuyet phucChrist thuyet phuc
Christ thuyet phucco_doc_nhan
 
Cái chết khoa học của Chúa Giêsu
Cái chết khoa học của Chúa GiêsuCái chết khoa học của Chúa Giêsu
Cái chết khoa học của Chúa Giêsuthaota
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc Kitoguest1f76307
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc Kitoguest510181
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoThuy Anh Le
 

Ähnlich wie Cau hoi thuong xuyen (20)

Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien triKe hoach cua dct qua cac loi tien tri
Ke hoach cua dct qua cac loi tien tri
 
Giup niem tin
Giup niem tinGiup niem tin
Giup niem tin
 
Hoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanhHoi dap kinh thanh
Hoi dap kinh thanh
 
Be banh va chia se okok
Be banh va chia se okokBe banh va chia se okok
Be banh va chia se okok
 
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van doc
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van docLich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van doc
Lich su tin dieu ba ngoi dgm phaolo bui van doc
 
SỐNG LẠI.docx
SỐNG LẠI.docxSỐNG LẠI.docx
SỐNG LẠI.docx
 
E1 ket noi voi dang christ
E1 ket noi voi dang christE1 ket noi voi dang christ
E1 ket noi voi dang christ
 
C4 truyen giang phuc am trong quyen nang
C4 truyen giang phuc am trong quyen nangC4 truyen giang phuc am trong quyen nang
C4 truyen giang phuc am trong quyen nang
 
A1 nhung tang cua duc tin
A1 nhung tang cua duc tinA1 nhung tang cua duc tin
A1 nhung tang cua duc tin
 
Tan uoc( gian luot)
Tan uoc( gian luot)Tan uoc( gian luot)
Tan uoc( gian luot)
 
D4 truyen giang ca nhan
D4 truyen giang ca nhanD4 truyen giang ca nhan
D4 truyen giang ca nhan
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh hon
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh hon
 
Christ thuyet phuc
Christ thuyet phucChrist thuyet phuc
Christ thuyet phuc
 
Christ thuyet phuc
Christ thuyet phucChrist thuyet phuc
Christ thuyet phuc
 
Cái chết khoa học của Chúa Giêsu
Cái chết khoa học của Chúa GiêsuCái chết khoa học của Chúa Giêsu
Cái chết khoa học của Chúa Giêsu
 
Cai Chetcua Dg
Cai Chetcua DgCai Chetcua Dg
Cai Chetcua Dg
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc Kito
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc Kito
 
Cai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc KitoCai Chet Cua Duc Kito
Cai Chet Cua Duc Kito
 

Mehr von co_doc_nhan

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienco_doc_nhan
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christco_doc_nhan
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau denco_doc_nhan
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhco_doc_nhan
 
Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2co_doc_nhan
 
Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1co_doc_nhan
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day daoco_doc_nhan
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaco_doc_nhan
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoco_doc_nhan
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoco_doc_nhan
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducco_doc_nhan
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongco_doc_nhan
 

Mehr von co_doc_nhan (20)

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tien
 
Truong nhan su
Truong nhan suTruong nhan su
Truong nhan su
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christ
 
Thuat lanh dao
Thuat lanh daoThuat lanh dao
Thuat lanh dao
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau den
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
 
Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2
 
Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day dao
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh dao
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
 
Nhom thanh cong
Nhom thanh congNhom thanh cong
Nhom thanh cong
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao duc
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuong
 

Cau hoi thuong xuyen

  • 1. Điều gì xảy ra sau khi chết? Câu hỏi: Điều gì xảy ra sau khi chết? Trả lời: Câu hỏi điều gì xảy ra sau khi chết có thể làm cho lúng túng. Kinh Thánh không nói rõ ràng về số phận của một người khi bước đến sự cuối cùng đời đời của họ. Kinh Thánh nói với chúng ta về thời khắc sau khi chết người ta được đưa lên thiên đàng hay xuống cõi địa ngục trên nền tảng người ấy có tin vào Chúa Giê Xu Christ là Cứu Chúa của họ. Đối với con cái Chúa, sau khi chết họ không còn hiện diện trong thân thể nhưng ở với Chúa.(II Cô-rinh-tô 5:6-8; Phi-líp 1:23) Đối với người không tin sau khi chết có nghĩa là hình phạt đời đời trong hỏa ngục (Lu-ca 16:22-23). Đây là nơi chốn có thể làm cho lúng túng như là điều gì xảy ra sau khi chết. Khải Huyền 20:11-15 mô tả tất cả những người trong địa ngục bị ném vào trong hồ lửa. Khải Huyền 21-22 mô tả trời mới đất mới. Nơi đó dường như là nơi sống lại sau cùng vì vậy sau khi chết người ta được tạm trú trong thiên đàng hay địa ngục. Số phận đời đời của con người sẽ không thay đổi nhưng nơi chốn chính xác của số phận đời đời con người sẽ thay đổi. Vào một lúc đặc biệt sau khi chết con cái Chúa sẽ được đưa đến trời mới đất mới (Khải Huyền 21:1). Vào một lúc đặc biệt sau khi chết người không tin Chúa sẽ bị ném vào hồ lửa (Khải Huyền 20:11-15) Đây là số phận cuối cùng, đời đời của tất cả mọi người căn cứ vào toàn thể những gì người ta tin vào sự cứu rỗi duy nhất của Chúa Giê Xu Christ dành cho tội lỗi của họ. Kinh Thánh có bảo đãm về sự sống đời đời? Câu hỏi: Kinh Thánh có bảo đãm về sự sống đời đời? Trả lời: Khi con người tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình họ được mang vao trong mối giao thông với Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Trời bảo đãm sự an ninh đời đời cho họ. Giu Đe câu 24 có chép: “Vả, nguyền Ðấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được” Quyền năng của Đức Chúa Trời có thể giữ cho con cái Chúa khỏi sa ngã. Ngài nâng đỡ chúng ta trước sự hiện diện vinh hiển của Ngài. Sự an ninh đời đời của chúng ta là kết quả của việc Đức Chúa Trời gìn giữ chúng ta. Không phải do chúng ta cố gắng nắm giữ sự cứu rỗi của chính mình.
  • 2. Đức Chúa Giê Xu Christ đã công bố: “Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. Cha ta là Ðấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha.” (Giăng 10:28-29b) Cả hai Đức Chúa Cha và Đức Chúa Giê Xu đều nắm chặc chúng ta hoàn toàn trong tay Ngài. Ai có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự nắm chặc của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Ê-phê-sô 4:30 nói với chúng ta con cái Chúa là những người “được đóng ấn cho đến ngày Cứu chuộc.” Nếu con cái Chúa không có sự an ninh đời đời thì dấu ấn không thật sự dành cho đến ngày Cứu chuộc, nhưng chỉ dành cho ngày tội lỗi, bội đạo hay vô tín. Giăng 3:15-16 nói với chúng ta bất cứ ai tin Chúa Giê Xu Christ đều được “Sự sống đời đời”. Nếu một người được hứa cho sự sống đời đời nhưng sau đó bị lấy mất. Trước hết nó sẽ không còn “Sự sống đời đời”. Nếu sự an ninh đời đời không có thật thì lời hứa về sự sống đời đời trong Kinh Thánh là một sự sai lầm. Luận cứ mạnh mẽ nhất về sự an ninh đời đời là Rô Ma 8:38-39 “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” Sự an ninh đời đời đặt nền tảng trên tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho những người Ngài đã cứu chuộc tội. Sự an ninh đời đời được trả giá bởi huyết của Chúa Giê Xu Christ, lời hứa của Đức Chúa Cha và được đóng ấn bởi Đức Thánh Linh. Quan điểm về sự tự tử của Cơ Đốc nhân là gì? Kinh Thánh nói gì về tự tử? Câu hỏi: Quan điểm về sự tự tử của Cơ Đốc nhân là gì? Kinh Thánh nói gì về tự tử? Trả lời: Đối với Kinh Thánh, cho dù một người có phạm hay không việc tự tử, những quyết định gì khiến người ấy được vào nước thiên đàng. Nếu một người không được cứu phạm vào việc tự tử, người ấy không làm gì cả vẫn phải đi vào hồ lửa. Dầu sao một người phạm tội tự tử cuối cùng phải đi vào địa ngục vì người ấy đã từ chối ơn cứu rỗi của Đấng Christ không phải chỉ vì phạm tội tự tử. Kinh Thánh ghi chép lại bốn trường hợp cụ thể về người phạm tội tự tử: Sau lơ (I Sa-mu-ên 31:4), A-hi-tô-phe (II Sa-mu-ên 17:23), Xim-ri (I Các vua 16:18), và Giu Đa (Ma-thi-ơ 27:5). Từng trường hợp tội
  • 3. hung ác, xấu xa và người đầy tội. Kinh Thánh xem phạm tội tự tử tương đương với tội giết người – Tội giết chính mình. Đức Chúa Trời là Đấng quyết định khi nào chết và chết thế nào. Đối với Kinh Thánh cướp lấy quyền sinh sát của Đức Chúa Trời là phạm thượng. Kinh Thánh nói gì về một Cơ Đốc nhân phạm tội tự tử, tôi không tin một Cơ Đốc nhân phạm tội tự tử sẽ mất sự cứu rỗi và đi địa ngục. Kinh Thánh dạy ngay khi một người thật sự tin nhận Chúa Giê Xu Christ, người ấy được bảo đãm về sự sống đời đời (Giăng 3:16) Đối với Kinh Thánh, Cơ Đốc nhân có thể biết vượt xa bất kỳ sự nghi ngờ về việc họ có sự sống đời đời mà không có gì ngăn trở. “Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Ðức Chúa Trời.” (I Giăng 5:13) Không có bất cứ điều gì phân rẽ tình yêu của Đức Chúa Trời với Cơ Đốc nhân. “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” (Rô-ma 8:38,39) Nếu không có “một vật nào” có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đức Chúa Trời và ngay cả Cơ Đốc nhân phạm tội tự tử là “một vật cản” thì tội “tự tử” không thể phân rẽ tình yêu của Đức Chúa Trời với người đó. Đức Chúa Giê Xu đã chết thế cho tất cả tội lỗi của chúng ta. Và nếu một Cơ Đốc nhân thật lại phạm tội tự tử, trong giờ phút bị tấn công và sa sút về tinh thần, tội lỗi này vẫn được sự chết của Chúa Giê Xu thay thế. Điều này không nói là tự tử không phải là tội nghiêm trọng chống lại với Đức Chúa Trời. Đối với Kinh Thánh, tự tử là tội giết người, là việc làm sai lầm. Tôi thật sự nghi ngờ một người nói mình có đức tin thành thật của một Cơ Đốc nhân nhưng lại tự tử. Không có tình trạng nào biện hộ cho một ai, đặc biệt là Cơ Đốc nhân tự hủy hoại đời sống mình. Cơ Đốc nhân được kêu gọi sống đời sống cho Đức Chúa Trời. Quyết định khi nào chết do Đức Chúa Trời và chỉ một mình Ngài. Có lẽ trường hợp tự tử được minh họa trong sách Ê-xơ-tê là một đường lối tốt. Tại xứ Ba Tư có một luật qui định bất cứ ai đến trước vua mà không được mời có thể bị chết trừ khi vua đưa vương trượng hướng về người ấy để tỏ ý tha thứ. Tự tử là việc bước tới ra mắt vua thay vì đợi cho đến khi vua triệu đến. Vị vua đã đưa vương trượng ra hướng về bạn ban cho bạn sự sống đời đời, nhưng điều này không có nghĩa là Ngài vui với bạn. Kinh Thánh I Cô-rinh-tô 3:15 mặc dù không mô tả về tự tử nhưng có lẽ diễn đạt thật rõ về hình ảnh của một người đi đến chỗ tự tử: “Còn về phần người đó sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy.”
  • 4. Một lần được cứu luôn luôn được cứu? Câu hỏi: Một lần được cứu luôn luôn được cứu? Trả lời: Một lần được cứu thì người ấy luôn luôn được cứu phải không? Khi một người đến tin nhận Chúa là Cứu Chúa của mình họ đã được đem vào mối thông công với Đức Chúa Trời mà sự cứu rỗi được bão đãm cho đến đời đời. Một số trang Kinh Thánh đã công bố về sự thực này: Rô Ma 8:30 đã công bố “ Còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” Câu Kinh Thánh này cho chúng ta biết kể từ giây phút Đức Chúa Trời chọn lựa chúng ta, khi ấy chúng ta được đặt vào sự hiện diện vinh hiển của Ngài trong Thiên đàng. Không có gì ngăn cản con cái Chúa ngày được vinh hiển bởi vì mục đích của Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho việc ấy trong Thiên đàng. Một người một lần được bào chữa thì sự cứu chuộc của người ấy đã được bảo đãm. Người ấy yên tâm như là đã nhận vinh hiển trong Thiên đàng. Phao Lô hỏi hai câu chủ yếu trong Rô Ma 8:33-34 “Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Ðức Chúa Trời? Ðức Chúa Trời là Ðấng xưng công bình những kẻ ấy. Ai sẽ lên án họ ư? Ðức Chúa Jêsus Christ là Ðấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Ðức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta.” Ai sẽ chịu trách nhiệm chống lại sự lựa chọn của Đức Chúa Trời? Không một ai dám làm điều ấy bởi vì Đấng Christ là trạng sư của chúng ta. Ai sẽ kết án chúng ta? Không một ai hết vì Đấng Christ đã chết thay cho chúng ta là Người xét đoán. Chúng ta có cả hai trạng sư và Đấng xét đoán đều là Cứu Chúa của mình. Con cái Chúa được sinh lại (tái sinh) khi họ tin (Giăng 3:3, Tít 3:5) Đối với một Cơ Đốc nhân mất sự cứu rỗi của mình vì người ấy là người chưa được tái sinh. Kinh Thánh không hề có bằng chứng nào về sự sinh lại có thể bị lấy mất. Đức Thánh Linh cư trú trong tất cả những người tin nhận Chúa (Giăng 14:17; Rô Ma 8:9) và báp têm tất cả con cái Chúa trong thân Đấng Christ (I Cô-rinh-tô 12:13) Đối với một tín hữu trở nên mất ơn cứu rỗi vì người ấy không còn được Thánh Linh cư trú và đã bị tách rời khỏi thân Đấng Christ. Giăng 3:15 nói rằng bất cứ ai tin vào Chúa Giê Xu Christ sẽ được sự sống đời đời. Nếu bạn tin Chúa hôm nay có được sự sống đời đời rồi ngày mai
  • 5. mất đi sự sống ấy thì đó đâu phải là sự sống đời đời. Vì thế nếu bạn mất sự cứu rỗi thì lời hứa về sự sống đời đời trong Kinh Thánh là một lỗi lầm. Để kết luận sự tranh cãi cuối cùng tôi nghĩ hãy để chính Kinh Thánh nói là tốt nhất. “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” (Rô Ma 8:38,39) Nên nhớ rằng Đức Chúa Trời đã cứu bạn cùng một cách như thế cũng như Đức Chúa Trời gìn giữ bạn như vậy. Một lần chúng ta được cứu luôn luôn chúng ta được cứu. Sự cứu rỗi của chúng ta là bằng chứng bảo đãm rõ ràng nhất về sự sống đời đời. Điều quan trọng của phép Báp têm là gì? Câu hỏi: Điều quan trọng của phép Báp têm là gì? Trả lời: Theo lời Kinh Thánh, phép Báp têm của Cơ Đốc giáo là bằng chứng bên ngoài thể hiện những gì diễn ra bên trong đời sống của tín hữu. Phép báp têm của Cơ Đốc giáo bày tỏ sự xác nhận về sự chết, sự chôn và sự sống lại của Đấng Christ trong đời sống người tín hữu. Kinh Thánh công bố: “Hay là, anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp-têm trong Ðức Chúa Jêsus Christ, tức là chịu phép báp-têm trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu cho Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy.” (Rô-ma 6:3-4) Trong phép Báp têm của Cơ Đốc giáo, hành động dìm mình xuống nước tượng trưng cho việc đồng chôn với Đấng Christ. Hành động ra khỏi nước tượng trưng cho sự sống lại với Đấng Christ. Trong phép Báp têm của Cơ Đốc giáo có hai yêu cầu cho người trước khi chịu Báp têm: (1) Người chịu phép Báp têm phải tin Chúa Giê Xu là Cứu Chúa của mình. (2) Phải hiểu rỏ ý nghĩa của lễ Báp têm. Nếu một người tin Chúa Giê Xu làm Cứu Chúa của mình hiểu rỏ ý nghĩa của phép Báp têm là một bước vâng lời công khai tuyên bố niềm tin mình nơi Chúa và mong ước được chịu lễ Báp têm – Thế thì không có lý do gì ngăn cản một tín hữu chịu lễ Báp têm. Theo lời Kinh Thánh, phép Báp têm của Cơ Đốc giáo đơn giản là bước vâng phục, công khai tuyên bố niềm tin của mình vào một Đấng duy nhất là Đấng Christ để được sự cứu rỗi. Phép Báp têm của Cơ Đốc giáo rất quan trọng vì là bước vâng lời, công khai tuyên bố niềm tin của mình vào
  • 6. Đấng Christ và cam kết với Ngài trong việc xác nhận sự chết, chôn và sống lại. Kinh Thánh dạy gì về Đức Chúa Trời Ba ngôi? Câu hỏi: Kinh Thánh dạy gì về Đức Chúa Trời Ba ngôi? Trả lời: Điều khó nhất về khái niệm của Cơ Đốc nhân về Đức Chúa Trời Ba ngôi là không có cách giải thích tương xứng. Đức Chúa Trời Ba ngôi là một khái niệm mà không thể dành cho bất kỳ một con người để hiểu biết đầy đủ để giải thích riêng lẻ. Đức Chúa Trời là một thân vị vỉ đại hơn chúng ta. Do đó chúng ta không nên đòi hỏi có thể hiểu biết đầy đủ về Ngài. Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giê Xu là Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời. Kinh Thánh cũng dạy rằng cả Ba là một Đức Chúa Trời. Dầu cho chúng ta có thể hiểu một số sự kiện về mối liên hệ khác nhau trong thân vị Đức Chúa Trời Ba ngôi với từng thân vị một. Cuối cùng thì cũng không thể dùng trí óc loài người hiểu nổi. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là không thực hay không có căn bản trong những lời dạy của Kinh thánh. Khi học Kinh Thánh hãy giữ trong trí mình rằng từ “Đức Chúa Trời Ba ngôi” không sử dụng trong Kinh Thánh. Đây là một thuật ngữ mà được sử dụng để cố gắng diễn tả Đức Chúa Trời Ba ngôi hiệp một. Sự thật rằng cả ba thân vị đều cùng tồn tại, cùng vĩnh cữu đã cho thấy Đức Chúa Trời. Xin hiểu cho đây không phải là cách chỉ về ba Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Ba ngôi là một được nhận biết bởi Ba thân vị. Điều này không có gì là sai khi dùng thuật ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi” cho dù từ ngữ này không tìm thấy trong Kinh Thánh. Từ ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi” ngắn hơn khi phải nói “ Cả Ba cùng tồn tại, cả ba cùng vĩnh cửu cho thấy một Đức Chúa Trời”. Nếu sự trình bày này đối với bạn còn khó hiểu, hãy xem điều này: từ ngữ “ông nội” cũng không sử dụng trong Kinh Thánh. Tuy nhiên trong Kinh Thánh chúng ta biết có nhiều “ông nội”. Áp-ra-ham là ông nội của Gia Cốp. Vì thế đừng trì hoãn trong thuật ngữ “Đức Chúa Trời Ba ngôi”. Điều quan trọng thực sự là ý niệm về Đức Chúa Trời Ba ngôi được trình bày hiện hữu trong Kinh Thánh. Bằng những đường lối diễn dịch các câu Kinh Thánh đưa ra những sự thảo luận về Đức Chúa Trời Ba ngôi. 1. Có một Đức Chúa Trời: Phục truyền luật lệ ký 6:4; 1 Cô-rinh-tô 8:4; Ga- la-ti 3:20; I Ti-mô-thê 2:5.
  • 7. 2. Đức Chúa Trời Ba ngôi gồm có ba thân vị. Sáng thế ký 1:1; 1:26; 3:22; 11:7; Ê-sai 6:8; 48:16; 61:1; Ma-thi-ơ 3:16-17; Ma-thi-ơ 28:19; II Cô-rinh-tô 13:14. Về kiến thức chữ Hê-bơ-rơ của một vài câu Kinh Thánh giúp đỡ hữu ích: Trong Sáng thế ký 1:1 danh từ Ê-Lô-Him số nhiều được sử dụng. Trong Sáng thế ký 1:26; 3:22; 11:7 và Ê-sai 6:8, đại danh từ số nhiều “Chúng ta” được sử dụng. Không cần phải hỏi từ vựng “Ê-Lô-Him” và “Chúng ta” được xem như là nhiều hơn hai. Trong anh văn chỉ có hai hình thức số ít và số nhiều. Trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ có ba hình thức số ít cặp đôi và số nhiều. Cặp đôi chỉ dùng cho hai. Trong tiếng Hê-bơ-rơ cặp đôi là hình thức dùng để chỉ so sánh từng đôi như là cặp mắt, đôi tay và hai lỗ tai. Từ Ê-Lô-Him và đại danh từ “Chúng ta” là hình thức số nhiều chỉ định nhiều hơn hai – và được xem như là ba hoặc nhiều hơn (Cha, Con, Thánh Linh). Trong Ê-Sai 48:16 và 61:1 Đức Chúa Con nói trong lúc chuyển đến Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh. So sánh Ê-sai 61:1 với Lu-ca 4:14-19 để thấy Đức Chúa Con đang nói. Ma-thi-ơ 3:16-17 diễn tả sự kiện phép Báp têm của Chúa Giê Xu. Thấy rõ Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng xuống Đức Chúa Con trong lúc Đức Chúa Cha công bố sự hài lòng về Đức Chúa Con. Ma-thi-ơ 28:19 và II Cô-rinh-tô 13:14 là thí dụ về Ba thân vị phân biệt trong Ba ngôi Đức Chúa Trời. 3. Các thân vị trong Ba ngôi Đức Chúa Trời được phân biệt từng vị một trong nhiều chỗ trong Kinh Thánh. Trong Cựu Ước từ “CHÚA” phân biệt với từ “Chúa” bình thường (Sáng thế ký 19:24; Ô-sê 1:4) Cứu Chúa là Đức Chúa Con (Thi Thiên 2:7, 12; Châm ngôn 30:2-4) Đức Thánh Linh được phân biệt với “CHÚA” (Dân số ký 27:18) và Đức Chúa Trời (Thi Thiên 51:10-12) Đức Chúa Con được phân biệt với Đức Chúa Cha (Thi Thiên 45:6-7; Hê-bơ-rơ 1:8-9) Trong Tân Ước Giăng 14:16-17 Chúa Giê Xu nói với Đức Chúa Cha về việc xin sai Đấng giúp đỡ là Đức Thánh Linh. Điều này cho thấy Chúa Giê Xu không xem chính Ngài là Đức Chúa Cha hay là Chúa Thánh Linh. Cũng xem xét tất cả các lần khác trong Phúc Âm Chúa Giê Xu nói với Đức Chúa Cha. Có phải Ngài tự nói với chính mình không? Không. Ngài nói với một thân vị khác trong Ba ngôi – Đức Chúa Cha. 4. Mỗi thân vị trong Ba ngôi là Đức Chúa Trời: Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời ( Giăng 6:27; Rô Ma 1:7; I Phi-e-rơ 1:2.) Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời ( Giăng 1:1, 14; Rô-ma 9:5; Cô-lô-se 2:9; Hê-bơ-rơ 1:8; I Giăng 5:20.) Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời ( Giăng 1:1, 14; Rô Ma 9:5; Cô-lô-se 2:9;
  • 8. Hê-bơ-rơ 1:8; I Giăng 5:20.) Đấng thường trú trong đời sống là Đức Thánh Linh Rô Ma 8:9; Giăng 14:16-17; Công vụ 2:1-4). 5. Sự lệ thuộc trong Ba ngôi Đức Chúa Trời: Kinh Thánh cho thấy Đức Thánh Linh lệ thuộc với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Đức Chúa Con lệ thuộc với Đức Chúa Cha, đây là mối liên hệ nội tại và không làm mất đi thần tánh của bất kỳ thân vị nào trong Ba ngôi. Đây là đơn giản lỉnh vực tâm trí hữu hạn của chúng ta trong khi hiểu biết về Đức Chúa Trời vô hạn. Quan tâm về Đức Chúa Con xin xem Lu-ca 22:42; Giăng 5:36; Giăng 20:21; I Giăng 4:14. Quan tâm về Đức Thánh Linh xin xem Giăng 14:16; 14:26; 15:26; 16:7 và đặc biệc Giăng 16:13-14. 6. Công tác của từng thân vị trong Ba ngôi: Đức Chúa Cha là nguồn tối thượng hay là căn nguyên của 1) Vũ trụ (I Cô-rinh-tô 8:6; Khải Huyền 4:11) 2) Khải thị thần tính ( Khải Huyền 1:1) 3) Cứu rỗi (Giăng 3:16-17) 4) Những công việc con người của Chúa Giê Xu (Giăng 5:17 và 14:10) Đức Chúa Cha khởi đầu tất cả các công việc này. Đức Chúa Con là thân vị thông qua Đức Chúa Cha làm các công việc như sau: 1) Sáng tạo và bảo tồn vũ trụ (I Cô-rinh-tô 8:6; Giăng 1:3; Cô-lô-se 1:16-17) 2) Khải thị thần tính ( Giăng 1:1; Ma-thi-ơ 11:27; Giăng 16:12-15; Khải Huyền 1:1) và 3) Cứu rỗi ( II Cô-rinh-tô 5:19; Ma-thi-ơ 1:21; Giăng 4:42) Đức Chúa Cha làm tất cả các công việc này xuyên qua Đức Chúa Con, với chức năng như là tác nhân của Ngài. Đức Thánh Linh là phương tiện mà Đức Chúa Cha thực hiện các công tác như sau: 1) Sáng tạo và bảo tồn vũ trụ ( Sáng thế ký 1:2; Gióp 26:13; Thi Thiên 104:30) 2) Khải thị thần tính ( Giăng 16:12-15; Ê-phê-sô 3:5; II Phi-e- rơ 1:21) 3) Cứu rỗi (Giăng 3:6; Tít 3:5; I Phi-e-rơ 1:2) 4) Các công tác của Chúa Giê Xu ( Ê-sai 61:1; Công vụ 10:38). Bởi vậy Đức Chúa Cha làm tất cả các công việc này bởi quyền năng Đức Thánh Linh. Không có minh họa phổ biến nào diễn tả hoàn toàn chính xác về Ba ngôi: quả trứng (hay trái táo) không đủ trong đó những thành phần vỏ, lòng trắng, lòng đỏ không phải là quả trứng. Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Thánh Linh không phải là các phần của Đức Chúa Trời nhưng mỗi thân vị là Đức Chúa Trời. Nước được dùng để minh họa tốt hơn nhưng vẫn chưa đủ diễn tả thỏa đáng về Ba ngôi. Nước có các hình thức chất lỏng, hơi và chất rắn. Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Thánh Linh không phải là hình thức của Đức Chúa Trời nhưng mỗi thân vị là Đức Chúa Trời. Như thế những minh
  • 9. họa cho chúng ta một bức tranh về Ba ngôi nhưng bức tranh không hoàn toàn chính xác. Đức Chúa Trời vô hạn không thể diễn tả đầy đủ bằng sự giải thích hữu hạn. Thay vì tập trung vào Ba ngôi chúng ta cố gắng tập trung vào sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và lý tánh vô hạn cao cả của Ngài. “ Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Ðức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài? Rô Ma 11:33-34. Kinh Thánh nói gì về việc dâng phần mười? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc dâng phần mười? Trả lời: Dâng phần mười là vấn đề có nhiều con cái Chúa tranh cãi. Trong nhiều nhà thờ việc dâng phần mười không được nhấn mạnh. Trong thời điểm như thế nhiều Cơ Đốc nhân từ chối phục tùng lời kêu gọi trong Kinh Thánh về việc dâng hiến cho Chúa. Dâng phần mười, tặng cho là một niềm vui, một ơn phước của Chúa. Điều đó hiếm khi là việc buồn bả trong Hội Thánh ngày nay. Dâng phần mười là khái niệm trong thời Cựu Ước. Dâng phần mười là đòi hỏi của luật pháp Y-sơ-ra-ên. Tất cả dân chúng đều phải dâng một phần mười những gì kiếm được và phát triển đền tạm. (Lê-vi-ký 27:30; Dân-số-ký 18:26; Phục-truyền 14:24; II Sử ký 31:5) Một số người hiểu rằng dâng phần mười như là cách thu thuế để cung cấp những nhu cầu cho các thầy tế lễ và những người Lê Vi trong việc phục vụ tế lễ. Không có chỗ nào trong Tân Ước truyền lệnh này ngay cả cũng không có lệnh nào phải nộp phần mười hợp lệ. Phao Lô có nhắc khuyên các tín hữu nên để dành riêng ra một phần thu nhập của mình để giúp đỡ cho Hội Thánh.(I Cô-rinh-tô 16:1-2). Không có chỗ nào trong Tân Ước qui định bao nhiêu phần trăm phải biệt riêng ra, nhưng chỉ nói tùy theo khả năng của mỗi người. (I Cô-rinh-tô 16:2) Hội Thánh Cơ Đốc giáo đã rút ra căn bản 10% từ một phần mười trong Cựu Ước để đề nghị số tiền dâng hiến tối thiểu cho các tín hữu. Tuy nhiên Cơ Đốc nhân không nên cảm thấy như bị bắt buộc phải luôn luôn dâng phần mười. Họ nên dâng hiến như khả năng có được trong việc trích ra thu nhập của mình. Có nghĩa là đôi khi có thể nhiều hơn phần mười cũng như đôi lúc ít hơn phần mười. Sự dâng hiến này tùy theo khả năng của tín hữu cũng như nhu cầu của Hội Thánh. Mỗi con cái Chúa nên siêng năng cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan trong việc chấp nhận dâng hiến bao nhiêu (Gia cơ 1:5)
  • 10. “Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay là vì ép uổng; vì Ðức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng.” (II Cô-rinh-tô 9:7) Kinh Thánh nói gì về hôn nhân ngoại chủng? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về hôn nhân ngoại chủng? Trả lời: Luật pháp Cựu Ước truyền lệnh dân Y-sơ-ra-ên không được kết hôn ngoại chủng (Phục truyền 7:3-4) Lý do của điều này là vì dân Y-sơ-ra-ên có thể bị dẫn dắt lạc hướng khỏi Đức Chúa Trời nếu họ kết hôn với người ngoại chủng thờ hình tượng hoặc ngoại đạo. Một luật quen thuộc trong Tân Ước đưa ra nhưng với những mức độ khác nhau là: “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng?” (II Cô-rinh-tô 6:14) Đúng với dân Y-sơ-ra-ên (Tin vào một Đức Chúa Trời thật) được truyền lệnh không cưới gã với người ngoại đạo vì vậy Cơ Đốc nhân (Tin vào một Đức Chúa Trời thật) được truyền lệnh không cưới gã với người ngoại đạo. Để trả lời cụ thể cho câu hỏi này, không, Kinh Thánh không hề nói hôn nhân ngoại chủng là sai. Một người không thể bị phán xét vì màu da nhưng vì nhân cách. Tất cả chúng ta cẩn thận không nên thiên vị về điều gì với những người khác hoặc vì thành kiến hay vì chủng tộc.( Gia Cơ 2:1-10) Đặc biệt câu 1 và câu 9. Tiêu chuẩn của Cơ Đốc giáo về một người nam và một người nữ lựa chọn bạn đời với nhau luôn luôn được cho thấy phải là một Cơ Đốc nhân (II Cô- rinh-tô 6:14) là người được tái sinh bởi đức tin vào Chúa Giê Xu Christ (Giăng 3:3-5) Sự chọn lựa vợ chồng theo tiêu chuẩn Kinh Thánh là bởi đức tin vào Đấng Christ không phải bởi màu da. Hôn nhân ngoại chủng không phải là vấn đề đúng hay sai nhưng là sự khôn ngoan, sáng suốt và cầu nguyện. Chỉ có một lý do cần xem xét cẩn thận trong việc kết hôn ngoại chủng là vì sự khó khăn trong việc hòa hợp chủng tộc của hai vợ chồng phải trải qua để cho những người khác có đủ thời gian chấp nhận họ. Nhiều cặp vợ chồng trải qua những sự phân biệt chủng tộc hay nhạo báng, đôi khi ngay cả từ chính gia đình của họ. Một số vợ chồng ngoại chủng trải qua những khó khăn về màu da của con cái họ khác với màu da của cha mẹ. Một đôi không cùng chủng tộc nên rút ra những điều này để xem xét và chuẩn bị cho quyết
  • 11. định kết hôn của họ. Một lần nữa Kinh Thánh chỉ hạn chế người Cơ Đốc trong việc liên quan đến hôn nhân vì cớ thành viên kia có phải là thân thể của Đấng Christ hay không. Kinh Thánh nói gì về việc ly dị và tái hôn? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc ly dị và tái hôn? Trả lời: Trước hết không có vấn đề xem việc ly dị để đánh giá người ta, điều quan trọng là phải ghi nhớ lời Kinh Thánh được chép trong Ma-la-chi 2:16a “Vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán rằng ta ghét người nào bỏ vợ.” Đối với Kinh Thánh chương trình của Đức Chúa Trời trong hôn nhân là sự cam kết suốt cuộc đời. “Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Ðức Chúa Trời đã phối hiệp!” (Ma-thi-ơ 19:6) Đức Chúa Trời nhận ra rằng từ khi kết hợp hai con người tội lỗi vào với nhau thì sự ly dị sẽ xảy ra. Trong Cựu Ước Đức Chúa Trời đã sắp đặt một số luật lệ để bảo vệ quyền ly dị đặc biệt đối với phụ nữ. (Phục Truyền 24:1-4) Đức Chúa Giê Xu đã chỉ ra những luật đã ban cho không phải vì Đức Chúa Trời muốn như vậy nhưng vì lòng cứng cõi của con người. (Ma-thi-ơ 19:8) Cuộc khảo sát qua việc ly dị và tái hôn dựa trên những lời phán của Chúa Giê Xu được cho phép ghi lại trong Kinh Thánh trong Ma-thi-ơ 5:32 và 19:9. Từ ngữ: “Trừ ra sự phản bội hôn ước” là điều được Đức Chúa Trời cho phép duy nhất trong Kinh Thánh về sự ly dị hay tái hôn. Nhiều dịch giả đã hiểu mệnh đề ngoại trừ này như là sự ám chỉ tình trạng phản bội hôn ước trong thời kỳ hứa hôn. Trong phong tục của người Do Thái, người đàn ông và đàn bà được xem là kết hôn ngay trong thời kỳ hứa hôn. Sự vô đạo đức trong thời gian hứa hôn này là ly dị được xem là lý do có giá trị duy nhất. Tuy nhiên từ ngữ Hi Lạp dịch là “Sự phản bội hôn ước” là từ ngữ có thể hiểu bất kỳ hình thức vô đạo đức nào về tình dục. Nó có nghĩa là sự gian dâm, buôn hương bán phấn, ngoại tình.v.v…Chúa Giê Xu có lẻ nói về được phép ly dị nếu phạm tội vô đạo đức tính dục. Quan hệ tình dục như là phần trọn vẹn của mối dây hôn nhân “hai người sẽ nên một thịt” (Sáng thế ký 2:24; Ma-thi-ơ 19:5; Ê-phê-sô 5:31). Vì vậy việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân phá hủy mối dây ràng buộc nên có thể là lý do được phép ly dị. Nếu vậy Chúa Giê Xu cũng cho phép việc tái hôn trong ý tưởng của đoạn văn này. Đoạn văn “ và kết hôn với những người khác.” (Ma-thi-ơ 19:9) cho
  • 12. thấy việc ly dị và tái kết hôn là được phép trong ví dụ về mệnh đề ngoại trừ. Dù ra sao nó được diễn giải như vậy. Chú ý quan trọng là chỉ có nhóm người vô tội mới được phép tái kết hôn. Mặc dầu không được nói đến trong nội dung sự cho phép tái kết hôn sau khi ly dị là ơn thương xót của Đức Chúa Trời dành cho những người bị tội lỗi tấn công không phải dành cho những người phạm tội vô đạo đức về tình dục. Có lẻ ví dụ chỗ “những kẻ phạm tội” được tái kết hôn không phải là khái niệm được dạy trong đoạn này. Một số hiểu biết trong I Cô-rinh-tô 7:15 như là trường hợp ngoại lệ khác cho phép tái kết hôn nếu vợ hoặc chồng không tin Chúa ly dị một người tin Chúa. Tuy nhiên nội dung không nói đến việc tái kết hôn nhưng chỉ đề cập đến một người tin Chúa không bị ràng buộc trong hôn nhân nếu vợ hoặc chồng không tin Chúa muốn để bỏ. Những trường hợp khác công bố lý do chính đáng cho phép ly dị là việc lăng nhục, sỉ vả vợ, chồng hay con cái mặc dầu không có liệt kê trong Kinh Thánh. Trong khi đây là những trường hợp phải lẽ thì tốt nhất là đừng cho rằng phải dựa trên lời của Đức Chúa Trời. Đôi khi những người hư mất phản bác dựa trên những trường hợp ngoại lệ cho rằng dầu sao ý nghĩa của việc “phản bội hôn ước” được cho phép ly dị nhưng đừng đòi hỏi ly dị. Ngay cả trong trường hợp phạm tội tà dâm nhưng qua ân điển của Đức Chúa Trời họ học được sự tha thứ và bắt đầu tái lập lại hôn nhân của họ. Đức Chúa Trời tha thứ chúng ta nhiều hơn. Chắc chắn chúng ta có thể theo gương mẫu của Ngài ngay cả tha thứ cho người phạm tội tà dâm.(Ê-phê-sô 4:32) Tuy nhiên trong nhiều trường hợp người chồng hoặc vợ không ăn năn mà cứ tiếp tục phạm tội tình dục thì câu Kinh Thánh trong Ma-thi-ơ 19:9 có thể được áp dụng. Cũng có nhiều trường hợp sau khi ly dị người ta tái kết hôn quá nhanh trong khi có thể Đức Chúa Trời muốn họ sống độc thân. Đôi lúc Đức Chúa Trời kêu gọi một người phải sống độc thân để sự tập trung của họ không bị phân tán. (I Cô-rinh-tô 7:32-35) Tái kết hôn sau khi ly dị là sự chọn lựa trong một số hoàn cảnh nhưng điều đó không có nghĩa là sự chọn lựa bắt buộc. Thật đau buồn về tỷ lệ ly dị trong vòng những người tự cho mình là Cơ Đốc nhân cao gần như là thế giới ngoại đạo. Kinh Thánh cho thấy rất rõ ràng về việc Đức Chúa Trời ghét sự ly dị (Ma-la-chi 2:16) Sự giải hòa và sự tha thứ nên được quan tâm trong đời sống Cơ Đốc nhân. (Lu-ca 11:4 và Ê-phê-sô 4:32) Tuy nhiên Đức Chúa Trời biết rằng việc ly dị vẫn xảy ra ngay cả trong vòng con cái Chúa. Một tín hữu ly dị hoặc tái kết hôn không nên cảm giác Chúa yêu mình giảm đi. Ngay cả nếu việc ly dị hay tái hôn của họ không nằm trong trường hợp ngoại lệ của Ma-thi-ơ 19:9. Đức Chúa Trời thường sử
  • 13. dụng sự không vâng theo tội lỗi của các Cơ Đốc nhân để làm thành công việc lớn lao của Ngài. Phụ nữ có nên phục vụ như là Mục sư, Truyền đạo? Kinh Thánh nói gì về phụ nữ làm mục vụ? Câu hỏi: Phụ nữ có nên phục vụ như là Mục sư, Truyền đạo? Kinh Thánh nói gì về phụ nữ làm mục vụ? Trả lời: Có lẻ không có vấn đề gì gây tranh cãi trong Hội Thánh ngày nay bằng vấn đề phụ nữ có được làm mục sư, truyền đạo trong công tác mục vụ? Như là kết luận, vấn đề này rất quan trọng đừng xem như là vấn đề đối kháng giữa người nam và nữ. Có những phụ nữ tin rằng phụ nữ không nên phục vụ như là Mục sư, và Kinh Thánh làm cho phụ nữ bị ngăn trở trong công tác mục vụ. Và có những người đàn ông tin phụ nữ có thể phục vụ như nhà truyền giáo và không có sự ngăn cấm nào cho phụ nữ trong công tác mục vụ. Trong điều này không có vấn đề phân biệt hay cuồng tín, nhưng là vấn đề thực hiện theo lời Kinh Thánh. I Ti-mô-thê 2:11-12 cho biết: “Ðàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.” Trong Hội Thánh, Đức Chúa Trời chỉ định vai trò đàn ông và đàn bà khác nhau. Đây là kết quả của đường lối tạo dựng nên loài người. (I Ti-mô-thê 2:13) và cách tội lỗi vào trong thế gian (II Ti-mô-thê 2:14) Đức Chúa Trời qua các thư tín của sứ đồ Phao Lô ngăn cấm đàn bà không được phục vụ trong vai trò của việc dạy dỗ thuộc linh vượt trên quyền của đàn ông. Có nhiều sự phản đối trong việc phụ nữ làm mục vụ hay nữ mục sư. Quan điểm thông thường là Phao Lô ngăn cấm phụ nữ không được dạy dỗ bởi vì trong thế kỷ thứ nhất phụ nữ thuộc thành phần không được học hành. Tuy nhiên I Ti-mô-thê 2:11-14 không nơi nào chú ý đến tình trạng giáo dục. Nếu giáo dục là một phẩm chất của mục vụ, phần lớn các môn đồ của Chúa Giê Xu hình như không có điều kiện này. Sự phản đối thông thường thứ hai là Phao Lô chỉ ngăn cấm phụ nữ Ê-phê-sô trong sự dạy dỗ (Phao Lô đã viết thư Ti-mô-thê cho Ti-mô-thê mục sư của Hội Thánh Ê-phê-sô) Thành phố Ê- phê-sô nổi tiếng vì có đền thờ Atemis, nữ thần Hi Lạp – La Mã. Những phụ nữ có quyền hành trong sự thờ phượng của đền thờ Atemis. Tuy nhiên trong thư Ti-mô-thê không có chỗ nào đề cập đến thần Atemis, cũng không nói lý
  • 14. do Phao Lô ngăn cản phụ nữ dạy dỗ vì cớ sự thờ phượng Atemis I Ti-mô-thê 2:11-12. Sự phản đối thông thường thứ ba là vì Phao Lô chỉ xem xét chồng và vợ, không phải đàn ông và đàn bà chung chung. Những từ ngữ Hi Lạp trong I Ti-mô-thê 2:11-14 có thể xem là những ông chồng và những bà vợ. Tuy nhiên nghĩa căn bản của những từ này là đàn ông và đàn bà. Hơn nữa những từ ngữ như thế trong Hi Lạp được dùng trong những câu 8-10. Có phải chỉ những người chồng giơ tay thánh lên trong khi cầu nguyện không có giận dữ và tranh cãi chăng? (Câu 8) Phải chăng chỉ có những bà vợ ăn mặc nhu mì, làm việc thiện, và thờ phượng Đức Chúa Trời? (Câu 9-10) Dĩ nhiên là không? Những câu 8-10 rõ ràng cho thấy những người đàn ông và những người đàn bà tổng quát không chỉ chồng và vợ. Trong nội dung thư tín không có gì cho thấy chuyển đổi ý nghĩa thành chồng và vợ trong những câu 11-14. Tuy nhiên sự phản đối thường xuyên cho việc phụ nữ làm mục vụ, phụ nữ làm mục sư được sáng tỏ trong mối liên hệ với Mi-ri-am, Hun-da, Bê-rit-sin, Phê-bê.v.v… Những phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo trong Kinh Thánh. Sự phản đối này không ghi lại những yếu tố quan trọng. Trong mối liên hệ với Đê- Bô-Ra, bà là nữ quan xét duy nhất trong 13 nam quan xét. Trong mối liên hệ của Hun-Đa, bà là nữ tiên tri duy nhất trong số nhiều nam tiên tri ghi trong Kinh Thánh. Mi-ri-am kết nối với vai trò lãnh đạo duy nhất bởi vì bà là em gái của Môi se và A-rôn. Hai phụ nữ lỗi lạc nhất trong thời kỳ các vua là A- Tha-Li và Giê-sa-bên, hai người nữ lãnh đạo ác độc của tà thần. Trong sách Công vụ các sứ đồ đoạn 18, Bê-rít-sin và A-qui-la được xem là những nhà truyền giáo trung thành cho Đấng Christ. Tên của Bê-rít-sin được chú ý trước nhất như cho thấy bà là người truyền giáo nổi bật hơn chồng bà. Tuy nhiên không có chỗ nào mô tả Bê-rít-sin như là một thành viên trong công cuộc truyền giáo để làm cho mâu thuẩn với I Ti-mô-thê 2:11-14. Bê- rít-sin và A-qui-la đã đem A-bô-lô vào nhà của họ, cả hai nhận ông làm môn đồ và giải thích lời Chúa cho ông cách chính xác hơn (Công vụ 18:26). Trong Rô Ma 16:1, ngay cả nếu Phê-bê được xem là một “nữ chấp sự” thay vì là một “tôi tớ” điều đó cũng không cho thấy bà là một thầy giáo trong Hội Thánh. Một trưởng lão có thể dạy dỗ nhưng một chấp sự thì không. (1 Ti- mô-thê 3:1-13; Tít 1:6-9) Trưởng Lão, Giám mục, chấp sự được cho biết “Chồng của chỉ một vợ mà thôi” “Người có con cái tin kính” “Người đáng
  • 15. tôn trọng”. Hơn nữa trong I Ti-mô-thê 3:1-13 dùng đại danh từ giống đực để nói về các Trưởng Lão, Giám mục, Chấp sự. Trong cấu trúc của I Ti-mô-thê 2:11-14 làm cho lý do trở nên thật rõ ràng. Câu 13 bắt đầu “Vì” và đưa ra “nguyên nhân” tình trạng mà Phao Lô đề cập đến trong các câu 11-12. Tại sao phụ nữ không được dạy dỗ và không có quyền trên đàn ông. Bởi vì A-Đam đã được tạo dựng đầu tiên rồi mới đến Ê- Va, và ông không phải là người bị lừa gạt nhưng là Ê-Va. Đó là lý do Đức Chúa Trời tạo nên A-Đam rồi sau đó mới tạo nên Ê-Va để giúp đỡ cho A- Đam. Đây là sự sắp đặt của tạo hóa cho toàn thể nhân loại trong gia đình (Ê- phê-sô 5:22-23) và Hội Thánh. Sự kiện bà Ê va bị lừa dối cũng được xem như là một lý do để phụ nữ không được hầu việc Chúa như một vị Mục sư, cũng không có quyền thiêng liêng trên đàn ông.Theo sự hướng dẫn này một số người tin rằng phụ nữ không nên dạy dỗ bởi vì họ dễ dàng bị lừa gạt. Khái niệm đó có thể gây tranh luận…Nếu như phụ nữ dễ bị lừa gạt tại sao họ được phép dạy dỗ trẻ em (Những đứa trẻ dễ bị lừa dối) hay những phụ nữ khác (là những người giả dụ rằng dễ bị lừa dối hơn)? Đó không phải là những gì nội dung nói đến. Đàn bà không được dạy dỗ cũng như không được cầm quyền trên đàn ông vì Ê-Va đã bị lừa dối. Như là kết quả, Đức Chúa Trời cho phép đàn ông được quyền ưu tiên dạy dỗ trong Hội Thánh. Phụ nữ được những ân tứ trội hơn về lòng hiếu khách, tính nhân ái, dạy dỗ và giúp đỡ. Nhiều công tác mục vụ trong Hội Thánh tùy thuộc vào phụ nữ. Phụ nữ trong Hội Thánh không bị ngăn cấm trong việc cầu nguyện trước đám đông hay nói tiên tri (I Cô-rinh-tô 11:5) Kinh Thánh không có chỗ nào ngăn cản phụ nữ khỏi việc thực hành các ân tứ của Đức Thánh Linh (I Cô- rinh-tô đoạn 12) Nhiều phụ nữ cũng như đàn ông được kêu gọi làm nhà truyền giáo cho người khác, được bày tỏ bởi những bông trái Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22) và loan báo phúc âm cho người hư mất (Ma-thi-ơ 28:18-20; Công vụ 1:8; I Phi-e-rơ 3:15). Đức Chúa Trời đã qui định chỉ có những người nam mới có quyền dạy dỗ những việc thuộc linh trong Hội Thánh. Điều đó không phải vì những người đàn ông cần thiết hơn các giáo viên hay bởi vì những người đàn bà là thuộc cấp hay kém thông minh hơn. Đơn giản là vì Đức Chúa Trời đã hoạch định chức năng trong Hội Thánh. Đàn ông được đặt như là tấm gương về lảnh đạo thuộc linh – trong đời sống cũng như xuyên qua lời nói của họ. Phụ nữ thì nhận vai trò ít quyền hạn hơn. Phụ nữ được khuyến khích dạy dỗ cho những phụ nữ khác (Tít 2:3-5) Kinh Thánh cũng không ngăn trở phụ nữ dạy dỗ trẻ con. Chỉ có việc dạy dỗ hay cầm quyền trên đàn ông là bị ngăn cấm.
  • 16. Điều hợp lý này bao gồm cả việc làm Mục sư, truyền đạo của phụ nữ. Điều này không làm cho phụ nữ kém quan trọng hơn bởi bất kỳ ý nghĩa nào, nhưng tốt hơn là giúp họ tập trung vào những công tác mục vụ thích hợp với ân tứ của Chúa ban cho. Kinh Thánh nói gì về tính dục trước hôn nhân? Ăn ở trước hôn nhân? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về tính dục trước hôn nhân? Ăn ở trước hôn nhân? Trả lời: Cùng với các loại tính dục phi đạo đức, tính dục trước hôn nhân, ăn ở trước hôn nhân bị lên án nhiều lần trong Kinh Thánh ( Công vụ 15:20; Rô Ma 1:29; 1 Cô-rinh-tô 5:1; 6:13,18; 7:2; 10:8; 2 Cô-rinh-tô 12:21; Ga-la-ti 5:19; Ê-phê-sô 5:3; Cô-lô-se 3:5; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:3; Giu-Đe 7) Kinh Thánh thúc đẩy việc kiêng cử trước hôn nhân. Tính dục trước hôn nhân là điều sai cũng như tội tà dâm và các hình thức tính dục phi đạo đức khác. Vì cớ tất cả việc ăn ở của họ liên quan đến người mà họ không hề kết hôn. Đức Chúa Trời chỉ chấp nhận việc tình dục trong mối quan hệ vợ chồng (Hê-bơ- rơ 13:4). Tính dục trước hôn nhân đã trở nên quá phổ thông bởi vì nhiều lý do. Thông thường quá đà trong việc người ta cho rằng tính dục là khía cạnh vui chơi mà không nhận thấy rằng khía cạnh tái tạo. Vâng tính dục mang lại niềm vui thích, Đức Chúa Trời đã chỉ dẫn về điều đó. Ngài muốn giữa đàn ông và đàn bà được hưởng sự vui thích về hoạt động tính dục (Hạn chế trong hôn nhân) Tuy nhiên mục đích ban đầu của tính dục không phải là vui chơi nhưng đúng hơn là tái sản xuất. Đức Chúa Trời không cấm tính dục trước hôn nhân để cướp lấy niềm vui thích của chúng ta nhưng để bảo vệ chúng ta khỏi mang thai và sinh con ngoài ý muốn của cha mẹ trong lúc cha mẹ không muốn hay chưa chuẩn bị cho chúng chào đời. Hãy tưởng tượng thế giới chúng ta sẽ tốt hơn biết bao nếu khuôn mấu về tính dục của Đức Chúa Trời được vâng theo: Tính dục ít chuyển tải bệnh tật, giảm được những người làm mẹ mà còn độc thân, giảm thiểu việc mang thai không mong muốn, giảm bớt những đứa con rơi.v.v… Kiêng cử là chính sách duy nhất của Đức Chúa Trời đối với tính dục trước hôn nhân. Kiêng cử giải cứu đời sống, bảo vệ những trẻ con, giúp cho mối liên hệ tính dục có giá trị đích thực và quan trọng nhất là tôn cao danh Chúa. Ân tứ nói tiếng lạ là gì? Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay?
  • 17. Câu hỏi: Ân tứ nói tiếng lạ là gì? Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay? Trả lời: Sự kiện nói tiếng lạ đầu tiên xảy ra vào ngày lễ Ngũ tuần trong Công vụ 2:1-4. Các sứ đồ đi ra và chia sẻ phúc âm với những đám đông, nói với họ bằng ngôn ngữ của họ, “Cả người Giu-đa hoặc người mới theo đạo Giu- đa, người Cơ-rết và A-rạp nữa, chúng ta đều nghe họ lấy tiếng chúng ta mà nói những sự cao trọng của Ðức Chúa Trời.” Công vụ 2:11. Từ ngữ Hi lạp dịch từ “cái lưỡi” với nghĩa đen là “ngôn ngữ”. Do đó ân tứ của lưỡi là tiếng nói của một người bằng ngôn ngữ mà người đó không biết để truyền đạo cho người biết ngôn ngữ đó. Trong I Cô-rinh-tô 12-14 Phao Lô thảo luận về ân tứ kỳ lạ, ông đã phê bình: “Hỡi anh em, ví bằng tôi đến cùng anh em, nói các thứ tiếng lạ, mà lời nói tôi chẳng tỏ sự kín nhiệm, chẳng có sự thông biết, chẳng có lời tiên tri, chẳng có sự khuyên dạy, thì ích gì đến anh em?” I Cô- rinh-tô 14:6 Đối với sứ đồ Phao Lô và tính hòa hợp của lưỡi được mô tả trong Công vụ các sứ đồ, nói tiếng lạ được đánh giá là một ân tứ nghe sứ điệp của Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của người ấy. Ngược lại nó không có ích lợi gì cho người khác trừ khi nó được dịch ra. Một người với ân tứ thông dịch tiếng lạ (I Cô-rinh-tô 12:30) có thể hiểu người đang nói tiếng lạ mặc dầu người ấy không hề biết về ngôn ngữ đó. Người thông dịch tiếng lạ truyền đạt thông điệp của người nói tiếng lạ để cho người khác hiểu “Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông giải tiếng ấy.” I Cô-rinh-tô 14:13 Kết luận của Phao Lô là việc không nói tiếng lạ thì có quyền hơn “ Nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà rao giảng trong Hội Thánh để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời bằng tiếng lạ.” I Cô-rinh-tô 14:19. Có phải ân tứ nói tiếng lạ dành cho ngày nay? I Cô-rinh-tô 13:8 chú ý rằng ân tứ nói tiếng lạ ngừng lại. Mặc dầu đến chỗ trọn vẹn trong I Cô-rinh-tô 13:10 mới dừng hẳn. Một vài điểm khác nhau trong cách nói tiên tri và kiến thức nói tiếng lạ như là bằng chứng ân tứ nói tiếng lạ phải dừng lại trước khi đạt đến sự trọn vẹn. Có thể trong nội dung không được rõ ràng lắm. Cũng có vài điểm như trong Ê-Sai 28:11 và Giô Ên 2:28-29 làm bằng chứng cho việc nói tiếng lạ là dấu hiệu của sự phán xét của Đức Chúa Trời gần đến. I Cô- rinh-tô 14:22 cho biết nói tiếng lạ là dấu hiệu cho người không tin. Đối với quan điểm này ân tứ nói tiếng lạ là lời cành cáo của Đức Chúa Trời dành cho người Do Thái sự phán xét sắp đến với họ vì đã từ bỏ Chúa Giê Xu Christ là
  • 18. Đấng Cứu thế. Vì vậy khi Đức Chúa Trời thực hiện việc phán xét với dân Y- sơ-ra-ên (hủy phá thành Giê-ru-sa-lem bời người La Mã vào năm 70 S.C) ân tứ nói tiếng lạ không còn phục vụ mục đích như đã định. Trong lúc quan điểm này có thể, sự ứng nghiệm nói tiếng lạ ban đầu không cần thiết phải dừng lại. Kinh Thánh không quả quyết kết luận rằng ân tứ nói tiếng lạ đã chấm dứt. Nếu ân tứ nói tiếng lạ trong Hội Thánh ngày nay, cũng phải giống với những gì Kinh Thánh đã chép. Nó phải là ngôn ngữ thực và dễ hiểu (I Cô-rinh-tô 14:10). Nó phải dùng cho việc giao thông giữa con người với Đức Chúa Trời bằng một ngôn ngữ khác (Công vụ 2:6-12) Nó cũng phù hợp với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời phán xuyên qua sứ đồ Phao Lô “ Nếu ai nói tiếng lạ thì hai hoặc ba người nói, cùng lúc ấy phải có người thông dịch. Nếu không có người thông dịch, người nói phải yên lặng và tự mình nói chuyện với Chúa (I Cô-rinh-tô 14:27-28) Nó cũng được xem xét trong I Cô-rinh-tô 14:33 “ Vì Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự lọan lạc bèn là Chúa của sự hòa bình như trong tất cả các Hội Thánh.” Đức Chúa Trời rõ ràng dứt khóat trong việc ban ân tứ nói tiếng lạ là để giúp cho người ấy có thể liên lạc với ngôn ngữ của người khác. Đức Thánh Linh cầm quyền trong việc ban phát những ân tứ thuộc linh.(I Cô-rinh-tô 12:11) Thử tưởng tượng có bao nhiêu nhà truyền giáo đi ra nếu không đến trường học ngôn ngữ để ngay tức khắc nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ. Tuy nhiên Đức Chúa Trời đã không làm như thế. Nói tiếng lạ dường như không diễn ra ngày nay bằng hình thức đã xảy ra trong thời Tân Ước bất chấp sự thật nó hữu ích ngay tức thì. Phần lớn tín hữu công bố việc thực tập nói tiếng lạ thì không giống với những điều Kinh Thánh ghi chép bên trên. Những sự thật này đưa đến kết luận ân tứ nói tiếng lạ đã chấm dứt hay ít nữa là việc hiếm có trong kế họach của Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh ngày nay. Những tín hữu tin vào ân tứ nói tiếng lạ như là “ngôn ngữ cầu nguyện” để tự soi sáng họ lấy quan điểm này từ trong I Cô-rinh-tô 14:4 và 14:28 “Kẻ nói tiếng lạ tự gây dựng lấy mình, song kẻ nói tiên tri gây dựng cho Hội Thánh.” Xuyên suốt qua I Cô-rinh-tô 14 sứ đồ Phao Lô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thông dịch tiếng lạ. Xin xem đọan 14:5-12, những gì Phao Lô nói trong câu 4 được hiểu “ Nếu bạn nói tiếng lạ mà không có người thông dịch thì chẳng được gì chỉ dạy cho chính mình, làm cho chính mình có sự thuộc linh hơn người khác. Nếu bạn nói tiếng lạ có người thông dịch bạn sẽ dạy dỗ cho nhiều người.” Không có chỗ nào trong Tân Ước hướng dẫn cụ thể về việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ”. Không có chỗ nào trong Tân Ước
  • 19. nói đến mục đích cụ thể của việc “Cầu nguyện bằng tiếng lạ” hay diễn tả hình ảnh một người “Cầu nguyện bằng tiếng lạ.” Hơn nữa nếu “Cầu nguyện bằng tiếng lạ” là để tự soi sáng cho mình thì điều đó không đúng với người nói tiếng lạ là người được ban cho ân tứ nói tiếng lạ mà lại không tự dạy dỗ chính mình sao? I Cô-rinh-tô 12:29-30 chỉ ra rõ ràng không phải bất cứ ai cũng đều có ân tứ nói tiếng lạ. Kinh Thánh nói gì về việc uống rượu/bia? Cơ Đốc nhân uống rượu bia có tội không? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc uống rượu/bia? Cơ Đốc nhân uống rượu bia có tội không? Trả lời: Một số câu Kinh Thánh khuyên răn mọi người tránh xa rượu bia (Lê-vi-ký 10:9; Dân-số-ký 6:3; Phục-truyền-luật-lệ-ký 14:26; 29:6; Quan-xét 13:4,7,14; 1 Sa-mu-ên 1:15; Châm-ngôn 20:1; 31:4,6; Ê-sai 5:11,22; 24:9; 28:7; 29:9; 56:12; Mi-chê 2:11; Lu-ca 1:15). Tuy nhiên Kinh Thánh không nhất thiết ngăn cấm một Cơ Đốc nhân uống rượu, bia hay một chất lên men nào khác. Cơ Đốc nhân được mạng lệnh phải tránh say sưa (Ê-phê-sô 5:18) Kinh Thánh lên án việc say sưa và những hậu quả của nó (Châm ngôn 23:29-35) Cơ Đốc nhân cũng được lệnh không cho phép bất cứ điều gì làm chủ thân thể mình ( I Cô-rinh-tô 6:12; II Phi-e-rơ 2:19) Kinh Thánh cũng ngăn cấm Cơ Đốc nhân đừng làm điều gì xúc phạm đến Cơ Đốc nhân khác cũng đừng khuyến khích người ta làm điều tội lỗi chống lại lương tâm của họ (I Cô-rinh-tô 8:9-13) Với ánh sáng của những luật lệ này, một Cơ Đốc nhân không thể nói việc uống rượu bia là làm vinh hiển danh Chúa (I Cô- rinh-tô 10:31). Chúa Giê Xu hóa nước thành rượu. Điều này có vẽ như là việc uống rượu do nơi hoàn cảnh bắt buộc. Trong thời Tân Ước nước không được sạch cho lắm. Không có hệ thống hợp vệ sinh tân tiến, nước chứa đầy vi trùng, các loại vi khuẩn, và các tạp chất pha lộn trong đó. Nó cũng giống như tình trạng của các nước trong thế giới thứ ba ngày nay. Chính vì vậy mà người ta thường uống rượu (Hoặc uống nước nho) bởi vì nó ít bị pha lẫn những tạp chất. Trong I Ti-mô-thê 5:23 Phao Lô hướng dẫn cho Ti-mô-thê trong việc chữa bệnh tiêu hóa bằng cách uống rượu thay vì uống nước. Từ rượu tiếng Hi Lạp trong Kinh Thánh là từ căn bản chỉ về rượu ngày nay. Rượu ngày xưa được làm lên men nhưng không quá mức như ngày nay. Không thể cho rằng đó là nước nho cũng không thể nói rằng nó là loại rượu giống như ngày
  • 20. nay người ta thường uống. Một lần nữa Kinh Thánh không nhất thiết ngăn cấm người Cơ Đốc uống rượu bia, hay bất kỳ thức uống có chất rượu nào khác. Chất say không được dùng, bản thân chính nó làm cho người ta sa đọa vì tội lỗi. Hơn thế nữa một con cái Chúa phải tránh xa sự nhậu nhẹt hay nghiện ngập những chất say. (Ê-phê-sô 5:18; I Cô-rinh-tô 6:12) Có nhiều qui luật trong Kinh Thánh, nhưng khó mà chấp nhận rằng một con cái Chúa uống rượu nhiều là được Chúa vui lòng. Kinh Thánh nói gì về cờ bạc? Cờ bạc có phải là tội? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về cờ bạc? Cờ bạc có phải là tội? Trả lời: Cờ bạc có thể được định nghĩa như là may rủi trong tiền bạc nhằm mục đích có nhiều tiền nhưng không phải từ việc làm kiếm thêm. Kinh Thánh không kết án cụ thể về việc cờ bạc, cá độ hay chơi sổ số. Tuy nhiên lời Kinh Thánh cảnh giác chúng ta phải tránh xa lòng yêu thích tiền bạc (1 Ti-mô-thê 6:10; Hê-bơ-rơ 13:5). Lời Thánh Kinh khuyên chúng ta tránh xa việc cố gắng làm giàu nhanh. ( Châm ngôn 13:11; 23:5; Truyền đạo 5:10). Cờ bạc được thấy rõ nhất qua việc tập trung vào lòng yêu tiền bạc và không thể phủ nhận được việc cám dỗ người ta bàng lời hứa giàu có nhanh chóng và dễ dàng. Cờ bạc có gì sai? Cờ bạc là hậu quả của sự nghèo khó bởi vì nó là hành vi vất bỏ tiền cho dầu chỉ làm cách tiết chế hoặc trong vài trường hợp nhỏ không được xem tội lỗi. Người ta vất bỏ tiền trong đủ thứ hành động. Cờ bạc là hình thức không nhiều thì ít là việc vất bỏ tiền hơn là xem Ti vi, ăn uống những bửa ăn đắt tiền không cần thiết, hay mua sắm những món hàng không có giá trị. Vào những lúc như thế sự thật là tiền bạc đã bị vất bỏ vào những điều khác không xem là cờ bạc. Tiền bạc không nên vất bỏ. Sự dư thừa tiền bạc nên được để dành cho những nhu cầu công việc Chúa trong tương lai đừng làm mất đó trong việc cờ bạc. Quan điểm Kinh Thánh về cờ bạc: Trong lúc Kinh Thánh không ghi chép cụ thể về cờ bạc. Nó được xem là trò chơi may rủi hoặc may mắn. Thí dụ trong Lê Vi Ký về việc rút thăm cầu may được dùng để chọn lựa giữa một con dê dâng hiến và một con dê thả ra. Giô suê rút thăm để quyết định trong việc chia phần đất cho các chi phái. Nê-Hê-Mi dùng cách rút thăm để quyết định ai sống bên trong Giê ru sa lem và ai không được. Các môn đồ dùng cách rút thăm để quyết định người sẽ thay thế Giu Đa. Châm ngôn 16:33 nói “Người
  • 21. ta bẻ thăm trong vạt áo; Song sự nhứt định do nơi Ðức Giê-hô-va mà đến.” Không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói cờ bạc là hình thức giải trí hay được trình bày như là việc được chấp nhận của người theo Chúa. Sòng bạc và chơi sổ số: Sòng bạc là nơi sắp đặt đủ loại mưu đồ của thị trường để dụ dỗ người chơi bài bạc lao vào may rủi để có càng nhiều tiền càng tốt. Họ thường cho chơi rẻ và cho không rượu để khuyến dụ người nghiện rượu, bằng cách ấy làm giảm đi khả năng quyết định sáng suốt. Mọi thứ trong sòng bạc đều là gian lận để lấy thật nhiều tiền và không cho nó quay trở lại, ngoại trừ cho thỏa mãn sự trống rỗng và phù du. Sổ số được cố gắng mô tả sinh động như là việc gây quỹ giáo dục hoặc xã hội. Tuy nhiên nhiều bài học cho thấy người mua vé số là người ít có cơ hội xài tiền trên các vé số. Sức quyến rũ của việc nhanh chóng làm giàu là sự cám dỗ quá lớn cho những người liều lĩnh kềm chế. Cơ hội trúng số rất nhỏ vô cùng, nó là kết quả của nhiều cuộc đời đã bị phá hoại. Tại sao chơi sổ số đi đến sự không đẹp lòng Chúa: Nhiều người nói rằng họ chơi sổ số hay cờ bạc là để kiếm nhiều tiền để có thể dâng hiến cho nhà thờ hay để cho các mục đích từ thiện khác. Trong khi điều này có thể là động cơ tốt, thực sự thì ít có người nào dùng chiến thắng bài bạc cho mục đích kính sợ Đức Chúa Trời. Nhiều bài học cho thấy rằng đa số người trúng số vài năm sau lại rơi vào hoàn cảnh tồi tệ hơn trước khi họ trúng số. Giả thử nếu có một ít người dâng hiến cho các mục đích từ thiện. Hơn nữa Đức Chúa Trời không cần dùng tiền bạc chúng ta để làm giàu cho công việc Chúa trên đất này. Châm ngôn 13:11 nói “Tiền bất nghĩa ắt phải ra đi; Còn ai lấy tay làm việc dần dần sẽ được thêm của nhiều lên.” Đức Chúa Trời tể trị và cung cấp những nhu cầu của Hội Thánh thông qua các phương tiện chân thật. Đức Chúa Trời có được vinh hiển khi tiền dâng là tiền buôn thuốc phiện hay tiền trộm cướp không? Đức Chúa Trời cũng không muốn hay cần đến tiền của người trộm cắp kẻ nghèo bằng sự cám dỗ trở nên người giàu. I Ti-mô-thê 6:10 “Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.” Hê-bơ-rơ 13:5 tuyên bố rằng “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Ðức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu.” Ma-thi- ơ 6:24 cho biết “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Ðức Chúa Trời lại làm tôi tiền bạc nữa.” Kinh Thánh nói gì về việc xăm mình-thân thể bị cắt xẻ?
  • 22. Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về việc xăm mình-thân thể bị cắt xẻ? Trả lời: Luật pháp Cựu ước truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chớ vì kẻ chết mà cắt thịt mình, chớ xâm vẽ trên mình: Ta là Ðức Giê-hô-va.” (Lê-vi-ký 19:28) Tuy nhiên, mặc dù tín hữu ngày nay không ở dưới luật pháp Cựu Ước (Rô-ma 10:4; Ga-la-ti 3:23-25; Ê-phê-sô 2:15) Sự thực rằng có một luật chống lại việc xăm mình nên mới có câu hỏi cho chúng ta. Kinh Thánh Tân Ước không đề cập gì về một tín hữu nên hay không nên xăm mình. Trong mối liên hệ với xăm mình và cắt xẻ thân thể, cách kiểm tra tốt nhất là xem quyết định như vậy có ngay thẳng, có ý thức tốt để cầu xin Chúa ban phước và sử dụng những hành động đặc biệt cho mục đích tốt lành của chính Ngài: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Ðức Chúa Trời mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31) Kinh Thánh không ra lệnh chống lại việc xăm mình hay cắt xẻ thân thể. Nhưng Kinh Thánh cũng không cho chúng ta một lý do nào để tin rằng Đức Chúa Trời cho phép chúng ta xăm mình hay cắt xẻ thân thể. Vấn đề khác cầm xem xét là mức độ bình thường. Kinh Thánh hướng dẫn chúng ta phải ăn mặc giản dị. (1 Ti-mô-thê 2:9). Một người có vẻ bề ngoài khiêm tốn trong cách ăn mặc là mọi thứ trên thân thể được che phủ bởi y phục cách thỏa đáng. Tuy nhiên ý nghĩa chủ yếu của sự giản dị là không quá chú trọng đến bản thân mình. Những người ăn mặc giản dị thể hiện cách sống không quan tâm đến chính họ. Xâm mình và cắt xẻ thân thể cho biết một người chỉ quan tâm đến mình. Trong tình trạng này người xâm mình hay cắt xẻ thân thể không phải là người khiêm tốn. Một qui luật quan trọng trong Kinh Thánh về những vấn đề mà không có ghi chép cụ thể là nếu điều ấy có chỗ làm nghi ngờ không biết Chúa có vui lòng không thì cách tốt nhất là đừng làm việc ấy. “Phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi.” (Rô-ma 14:23) Chúng ta cần nhớ thân thể cũng như linh hồn chúng ta đã được cứu chuộc và thuộc về Đức Chúa Trời. Mặc dầu I Cô-rinh-tô 6:19-20 không trực tiếp áp dụng cho việc xăm mình hay cắt xẻ thân thể nhưng những câu Kinh Thánh này cho chúng ta một qui luật “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Ðức Chúa
  • 23. Trời.” Sự thật vĩ đại này cho phép chúng ta mang thân thể thật sự của mình để làm hay đi nơi đâu đều vì danh Chúa. Nếu thân thể chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta phải chắc chắn nghe rõ ràng sự cho phép của Chúa trước khi chúng ta xăm mình hay cắt xẻ thân thể. Chúa Giê Xu ở đâu giữa ba ngày Chúa chết và sống lại? Câu hỏi: Chúa Giê Xu ở đâu giữa ba ngày Chúa chết và sống lại? Trả lời: I Phi-e-rơ 3:18-19 cho biết: “Vả, Ðấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Ðấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Ðức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống. Ấy bởi đồng một linh hồn đó, Ngài đi giảng cho các linh hồn bị tù.” Cụm từ “Về phần linh hồn” trong câu 18 được giải thích chính xác như cụm từ “Về phần xác thịt” vì thế dường như có mối liên hệ tốt nhất giữa từ ngữ “linh hồn” và “xác thịt”. Xác thịt và linh hồn là thân thể và linh của Đấng Christ. Từ ngữ sống trong linh hồn cho thấy sự kiện tội lỗi Chúa mang và chịu chết đã đem đến sự phân rẽ linh hồn của Ngài khỏi Đức Chúa Cha (Ma- thi-ơ 27:46). Sự tương phản giữa xác thịt và linh hồn như trong Ma-thi-ơ 27:41 và Rô Ma 1:3-4 và không giữa xác thịt và Thánh linh của Đấng Christ. Khi sự chuộc tội của Đấng Christ đã hoàn tất, linh hồn của Ngài đã hồi phục lại giao hảo với những điều đã bị phá hủy. I Phi-e-rơ 3:18-22 diễn tả mối liên hệ cần thiết giữa sự chịu chết của Đấng Christ (Câu 18) và sự vinh quang của Ngài (câu 22). Chỉ có Phi-e-rơ ghi lại những thông tin cụ thể giữa hai sự kiện này. Từ ngữ “giảng” trong câu 19 không phải là từ thông thường trong Tân Ước dùng để diễn tả sự rao giảng Phúc âm. Nhưng nghĩa đen của nó là sứ giả truyền thông điệp. Chúa Giê Xu đã chịu đau đớn và chết trên thập tự, thân thể của Ngài đã đặt vào cõi chết, và linh hồn của Ngài vì tội lỗi đã chết. Nhưng linh hồn Ngài được làm sống lại và Ngài đầu phục Đức Chúa Cha. Đối với Phi-e-rơ đôi khi giữa sự chết và sự sống lại của Đấng Christ Ngài đã thực hiện sự công bố đặc biệt cho “Những linh hồn bị tù.” Bắt đầu với sự xem xét của Phi-e-rơ về con người như là “linh hồn” không phải là “linh” (3:20) Trong Tân ước từ ngữ “linh” để chỉ về những Thiên sứ hay ma quỷ không phải diễn tả về con người và câu 22 dường như diễn tả
  • 24. theo nghĩa này. Cũng vậy không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng Chúa Giê Xu viếng thăm địa ngục. Công vụ 2:31 nói rằng Ngài đến nơi “giam giữ linh hồn”, nơi nầy không phải là địa ngục. Từ ngữ “Nơi giam giữ linh hồn” được xem như là địa hạt của sự chết. Một nơi tạm để người chết chờ ngày sống lại. Khải Huyền 20:11-15 trong các bản dịch NSAB và NIV cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai chỗ. Địa ngục là nơi vĩnh cửu trong ngày cuối cùng để phán xét những người bị hư mất. Nơi giam giữ linh hồn là chỗ tạm thời. hững thú vật nuôi có lên thiên đàng? Những thú vật nuôi có linh hồn không? Câu hỏi: Những thú vật nuôi có lên thiên đàng? Những thú vật nuôi có linh hồn không? Trả lời: Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói những loài thú vật nuôi có linh hồn hay những loài thú vật cưng chiều sẽ lên thiên đàng. Mặc dù vậy chúng ta rút ra những qui luật tổng quát trong Kinh Thánh và đưa ra ánh sáng về chủ đề này. Lời Kinh Thánh tuyên bố cả hai con người (Sáng 2:7) và thú vật đều có hơi thở sự sống (Sáng 1:30; 6:17; 7:15,22). Sự khác biệt quan trọng nhất giữa con người và thú vật là con người được tạo dựng giống như hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng 1:26-27) còn thú vật thì không. Điều này có nghĩa là con người giống như Đức Chúa Trời có khả năng tinh thần, với tâm trí, tình cảm và ý chí và có chiều hướng tiếp tục sau khi chết. Nếu những thú vật nuôi có linh hồn hay khuynh hướng phi vật chất nó phải là khác hơn và ít chất lượng hơn. Điều khác biệt này có lẽ làm cho linh hồn của loài thú vật không thể xuất ra sau khi chết. Yếu tố khác để xem xét cho câu hỏi này là Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên các loài thú vật như một phần trong tiến trình sáng tạo của Ngài trong Sáng thế ký. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên các loài thú vật và phán rằng chúng nó tốt lành (Sáng 1:25) Vì thế không có lý do nào trên vùng đất mới không có loài thú nuôi. Có một chỗ rõ ràng nhất là thú vật sống trong thời kỳ ngàn năm bình an (Ê-sai 11:6; 65:25). Có thể nói dứt khoát mặc dầu những thú vật này là những thú vật nuôi được cưng chiều trong lúc chúng ta sống trên đất. Chúng ta phải biết Đức Chúa Trời là Đấng ngay thẳng, khi chúng ta lên thiên đàng chúng ta sẽ thấy chính chúng ta hoàn toàn đồng ý với quyết định của Ngài trong vấn đề này. Kinh Thánh nói gì về khủng long? Có khủng long trong Kinh Thánh không?
  • 25. Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về khủng long? Có khủng long trong Kinh Thánh không? Trả lời: Chủ đề Khủng long trong Kinh Thánh là phần lớn tranh luận liên tục trong vòng cộng đồng Cơ Đốc giáo nhiều thời đại. Những lời dịch xác đáng của Sáng Thế ký và làm thế nào diễn đạt những bằng chứng cụ thể chúng ta tìm thấy xung quanh chúng ta. Những người xưa có khuynh hướng tin rằng Kinh Thánh không có nói gì về Khủng long. Bởi vì đối với hệ biến hóa của họ, Khủng long đã chết hàng triệu năm trước khi con người có mặt trên đất. Những người viết Kinh Thánh không từng nhìn thấy loài khủng long còn sống. Đối với những người thuộc thế hệ trẻ sau này có khuynh hướng đồng ý rằng Kinh Thánh có nói đến Khủng long mặc dầu trong Kinh Thánh không thực sự dùng từ ngữ “Khủng long”. Thay vì vậy Kinh Thánh dùng tiếng Hê-bơ-rơ “Tanniyn”. Tanniyn được dịch khác một chút với bản Kinh Thánh tiếng Anh. Đôi khi dịch là “Quái vật của biển”, đôi khi dịch là “Rắn khổng lồ”, nhưng thường dịch nhất là “Con Rồng”. Tanniyn xuất hiện theo sự sắp xếp của loài bò sát khổng lồ. Những sinh vật này được ghi lại trong Cựu Ước gần ba mươi lần và được tìm thấy trên đất và trong nước. Thêm nữa trong việc ghi chép gần ba mươi lần loài bò sát khổng lồ này nói chung xuyên qua Cựu Ước. Kinh Thánh diễn tả đôi lần về sinh vật này bằng cách mà theo như những học giả tin rằng tác giả đã diễn tả loài khủng long. Behemoth được nói đến như là loài sinh vật to lớn nhất của Đức Chúa Trời. Loài khổng lồ này có đuôi to như cây tùng, cây bách (Gióp 40:15) Một vài học giả đã cố gắng xác định xem loài Behemoth này là loài voi hay loài hà mả. Những người khác cho rằng loài voi hay loài hà mả có đuôi rất mỏng không thể so sánh với cây tùng cây bách được. Những loài khủng long như loài Brachiosaurus và loài Diplodocus có đuôi to mà người ta dễ dàng so sánh với cây tùng, cây bách. Những cư dân cổ gần đây có sự sắp xếp trong nghệ thuật mô tả về loài bò sát khổng lồ. Những điêu khắc đá, vật tạo tác ngay cả những tượng nhỏ bằng đất sét tìm thấy ở Bắc Mỹ tương đồng với sự mô tả khủng long ngày nay. Những điêu khắc trên đá tại vùng Nam Mỹ mô tả hình ảnh những người đang cỡi trên loài khủng long Diplodocus – như một loài bò sát, lạ kỳ là nó mang hình ảnh rất giống với loài khủng long ba sừng, thằn lằn có cánh,
  • 26. khủng long vua chân ngắn đuôi dài. Các miếng khảm của người La Mã, đồ gốm của người May-a, những bức tường tại thành Ba-by-lôn tất cả đều làm chứng cho một nền văn hóa xuyên lục địa, mọi quốc gia đều bị mê hoặc bởi những hình ảnh các sinh vật này. Những ghi chú nghiêm túc trong tác phẩm “Il Milione” của Marco Polo trộn lẫn với những câu chuyện kỳ lạ nói về những loài thú tích trữ châu báu. Thời đại ngày nay thông báo ánh sáng về những việc tồn tại mặc dầu chúng thường xuyên đặt ra những hoài nghi không thể chống lại được. Hơn nữa nhiều bằng chứng có thật của dân tộc học và sử học về sự chung sống của loài khủng long và con người, có những bằng chứng vật lý khác, những dấu chân hóa thạch của loài người và khủng long cùng với nhau tại những vùng Bắc Mỹ và Trung Tây Á. Như thế trong Kinh Thánh có loài khủng long không? Vấn đề này không cần phải nói thêm nữa. Nó tùy thuộc vào cách bạn dẫn giải những bằng chứng thích hợp và cách bạn nhìn thế giới quanh bạn. Tại trang web của Questions.Org này chúng tôi tin rằng thế giới ngày nay giải thích và chấp nhận loài khủng long và con người cùng tồn tại với nhau. Chúng tôi tin rằng những loài khủng long đã chết sau trận đại hồng thủy do bởi sự kết hợp giữa môi trường thay đổi khắc nghiệt và sự săn bắt tuyệt diệt không thương xót bởi con người. Vợ của Ca In là ai? Vợ của Ca In có phải là em gái của ông không? Câu hỏi: Vợ của Ca In là ai? Vợ của Ca In có phải là em gái của ông không? Trả lời: Kinh Thánh không nói cụ thể vợ Ca in là ai. Chỉ có thể trả lời vợ Ca in là em gái hoặc cháu gái hay là một người cháu họ.v.v…Kinh Thánh không nói khi Ca in giết A bên ông bao nhiêu tuổi. (Sáng 4:8) Vì cả hai là nông dân, họ dường như là những người đã lớn hơn tuổi trưởng thành có lẽ mỗi người đều có gia đình riêng. A-Đam và Ê-Va chắc có nhiều con hơn là chỉ có Ca-in và A-bên vào lúc A-bên bị giết. Họ có nhiều con thấy được sau này (Sáng 5:4) Sự kiện Ca-in sợ hãi về chính sự sống của ông sau khi giết A-bên (Sáng 4:14) cho thấy hình như có nhiều người con khác và có lẽ là cháu nội hay chắt nội của A-Đam và Ê-Va vào lúc bấy giờ. Vợ của Ca-in (Sáng 4:17) là con gái hoặc cháu gái của A-Đam và Ê-Va.
  • 27. Bởi vì A-Đam và Ê-Va là những người đầu tiên duy nhất, con cái họ không có sự chọn lựa nào khác hơn là lấy nhau trong dòng họ. Đức Chúa Trời không ngăn cấm hôn nhân trong dòng họ cho đến lâu dài về sau khi có đủ người khiến cho hôn nhân trong dòng họ không còn cần thiết (Lê-vi-ký 18:6-18) Lý do của tội loạn luân thường gây nên hậu quả là gien dị thường trong con cái. Điều này do hai người có cùng gien tương tự (Như anh em, chị em ruột) có con với nhau. Khuyết điểm về gien hình như hậu quả xa hơn bởi vì cha mẹ chính họ có khuyết điểm giống nhau. Khi con người sinh con từ những dòng họ khác nhau thì sự khác biệt cao hơn trong vòng cha mẹ sẽ không có khuyết điểm về gien giống nhau. Mã gien của con người ô nhiễm tăng cao hơn hàng bao thế kỷ khi khiếm khuyết gien nhân lên, khuếch đại, giảm xuống từ thế hệ này tới thế hệ khác. A-Đam và Ê-Va không có bất kỳ khiếm khuyết gien nào nhờ đó giúp cho họ và một số dòng dõi của con cháu có được khả năng sức khỏe dồi dào hơn chúng ta có hiện nay. Con cái của A-Đam và Ê-Va có rất ít về khiếm khuyết gien vì vậy những cuộc hôn nhân trong dòng họ được an toàn. Điều dường như kỳ lạ và kinh tởm khi nghĩ rằng vợ của Ca-in là em gái của ông ấy. Nhưng vì ban đầu Đức Chúa Trời tạo nên một người nam và một người nữ, thế hệ thứ hai không có sự lựa chọn nào khác hơn là hôn nhân trong dòng họ huyết thống. Kinh Thánh nói gì về đồng tính luyến ái? Đồng tính luyến ái có phải là tội không? Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về đồng tính luyến ái? Đồng tính luyến ái có phải là tội không? Trả lời: Kinh Thánh trước sau như một nói với chúng ta hành động đồng tính luyến ái là tội (Sáng thế ký 19:1-13; Lê-vi-ký 18:22; Rô-ma 1:26-27; I Cô-rinh-tô 6:9). Rô-ma 1:26-27 dạy chúng ta cách cụ thể đồng tính luyến ái là hậu quả của sự từ chối và bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi một người tiếp tục ở trong tội lỗi và không tin, Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Đức Chúa Trời phó họ càng hơn cho tội lỗi gian ác và sa đọa để chỉ cho họ sự phù phiếm và đời sống vô hi vọng phân rẻ họ với Đức Chúa Trời. I Cô- rinh-tô 6:9-10 công bố rằng kẻ phạm tội đồng tính luyến ái không được thừa hưởng nước Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không tạo ra sự ham muốn đồng tính luyến ái cho con người. Kinh Thánh nói với chúng ta con người trở thành đồng tính luyến ái bởi vì tội lỗi (Rô-ma 1:24-27) cuối cùng bởi vì sự chọn lựa của chính họ. Một
  • 28. người có thể sinh ra với sự nhạy cảm mạnh với đồng tính luyến ái giống như một người sinh ra có khuynh hướng bạo lực và những tội lỗi khác. Điều đó không phải là lý do để họ chọn lựa tội lỗi và cho rằng vì cớ sự ham muốn tội lỗi vào trong họ. Nếu một người sinh ra với một sự xúc cảm lớn về tính nóng giận hoặc đam mê có phải được quyền thực hiện những ước muốn của mình không? Dĩ nhiên là không! Đối với đồng tính luyến ái cũng giống như vậy. Tuy nhiên Kinh Thánh không mô tả đồng tính luyến ái như là một tội lớn hơn các tội khác. Tất cả những tội lỗi là phản nghịch với Đức Chúa Trời. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong nhiều điều được liệt kê trong I Cô-rinh- tô 6:9-10 làm cho con người xa cách với nước Đức Chúa Trời. Theo lời Kinh Thánh sự tha thứ của Đức Chúa Trời dành cho người đồng tính luyến ái cũng giống như cho người ngoại tình, kẻ thờ hình tượng, kẻ giết người, trộm cắp.v.v…Đức Chúa Trời hứa ban sức mạnh chiến thắng tội lỗi cho tất cả những ai tin nhận Chúa Giê Xu Christ làm Cứu Chúa của mình, kể cả người đồng tính luyến ái. ( I Cô-rinh-tô 6:11; II Cô-rinh-tô 5:17). Thủ dâm – theo Kinh Thánh có phải là tội không? Câu hỏi: Thủ dâm – theo Kinh Thánh có phải là tội không? Trả lời: Kinh Thánh không bao giờ nói cụ thể về thủ dâm hay tình trạng này dầu rằng nó là tội. Tuy nhiên Không cần phải hỏi, bất cứ hành động nào dẫn đến thủ dâm đều là tội. Thủ dâm là điểm cuối của hậu quả những ý nghĩ dâm đãng, những kích thích tình dục, những hình ảnh khiêu dâm. Thủ dâm thường có liên quan đến các vấn đề này. Nếu những tội ham muốn xác thịt và khiêu dâm bị từ chối thì vấn đề thủ dâm sẽ không phát sinh. Kinh Thánh nói với chúng ta phải tránh ngay cả hình thức tình dục vô đạo đức (Ê-phê-sô 5:3) Tôi không thấy làm sao thủ dâm có thể qua được những thử thách đặc biệt. Đôi khi một thử thách tốt cho dầu là tội hay không, cho dầu bạn có hảnh diện để thuật lại cho người khác về những điều mình đã làm hay không, nếu điều đó gây bối rối và làm cho bạn xấu hổ nếu người khác biết được thì điều đó giống như là một tội lỗi. Thử thách tốt khác là quyết định xem chúng ta có thành thật với lương tâm trong sạch để cầu xin Đức Chúa Trời ban phước và sử dụng những việc làm đặc biệt cho mục đích tốt lành của Ngài không. Tôi nghĩ rằng thủ dâm không đủ tiêu chuẩn cho những điều chúng ta tự hào hay thành thật tạ ơn Đức Chúa Trời.
  • 29. Kinh Thánh dạy chúng ta: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Ðức Chúa Trời mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31) Nếu có chỗ nào nghi ngờ làm điều đó có vui lòng Đức Chúa Trời không thì tốt nhất là nên từ bỏ nó. Chỗ nghi ngờ dứt khoát liên quan đến thủ dâm. “Phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi.” ( Rô ma 14:23) Đối với lời Kinh Thánh tôi không thấy chỗ nào nói thủ dâm có thể được xem là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa chúng ta nên nhớ cả thân thể lẫn linh hồn chúng ta đã được mua chuộc và thuộc về Đức Chúa Trời. “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Ðức Chúa Trời.” (I Cô-rinh-tô 6:19-20) Lẽ thật lớn lao này cần được mang theo thật sự trên thân thể mình mỗi khi chúng ta làm gì hoặc đi bất cứ nơi đâu. Thế thì trong ánh sáng của luật lệ này tôi dứt khoát nói rằng thủ dâm là tội theo lời Kinh Thánh. Tôi không tin rằng thủ dâm là làm vui lòng Đức Chúa Trời. Phải tránh các hình thức phi đạo đức hay là vượt qua thử thách của Đức Chúa Trời về quyền sở hữu trên chính thân thể chúng ta. Những câu hỏi và trả lời trên đây từ website: http://www.gotquestions.org/Viet/index.html, chúng tôi chỉ phát lại để bạn tham khảo. Ban quản trị nguonsusong.com