Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Làm thế nào để triển khai tốt các hoạt động tại cơ sở
1. Làm thế nào để triển khai tốt các hoạt động tại cơ sở ?
Cập nhật ngày: 19/08/2011 15:08:47 | Lượt xem: 656
Hoạt động dinh dưỡng có một vị trí rất quan trọng trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe
ban đầu tại tuyến cơ sở. Không những thế, các hoạt động dinh dưỡng còn liên quan đến
nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, sản xuất thực phẩm, bảo đảm an ninh thực phẩm hộ gia
đình, các dự án giảm nhẹ đói nghèo…nên cần có sự phối hợp liên ngành rộng rãi và cần
được xã hội hóa. Chính vì vậy, các hoạt động dinh dưỡng ở tuyến cơ sở không những là các
hoạt động chăm sóc dự phòng và tăng cường sức khỏe mà còn thể hiện yêu cầu của các
hoạt động phát triển cộng đồng. Để triển khai có hiệu quả các hoạt động dinh dưỡng, cán bộ
y tế cơ sở cần nắm chắc một số điểm sau:
1. Hiểu rõ từng vấn đền cần triển khai và vì sao cần phải triển khai hoạt động dinh dưỡng
trên địa bàn xã/phường của mình. Như vậy, người phụ trách công tác dinh dưỡng (thường là
một cán bộ y tế của trung tâm y tế xã/phường) cần biết cách phân tích tình hình và trả lời
các câu hỏi cụ thể, chẳng hạn: vì sao phải triển khai phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em;
đối tượng của hoạt động này là ai? Có liên quan gì tới các chương trình chăm sóc sức khỏe
ban đầu và hoạt động dinh dưỡng khác.
2. Xác định phương án triển khai: Muốn triển khai tốt hoạt động dinh dưỡng, người phụ
trách cần thảo luận kỹ với các cán bộ khác trong trung tâm y tế xã để mọi người đều nắm
được mục tiêu, nội dung triển khai. Từ đó, đề xuất phương án triển khai.
3. Người phụ trách gặp gỡ và báo cáo lãnh đạo xã về yêu cầu, mục tiêu phương án triển
khai hoạt động, đề nghị xã hỗ trợ thêm nguồn lực và tổ chức hợp với các đoàn thể xã hội,
ban ngành phối hợp.
4. Tập huấn cho cộng tác viên về nội dung, nhiệm vụ, kỹ thuật triển khai. Cộng tác viên
dinh dưỡng có nhiệm vụ triển khai các hoạt động trong phạm vi địa bàn của mình. Trên thực
tế, mặc dù một số hoạt động dinh dưỡng đã triển khai trong nhiều năm như “Ngày vi chất
dinh dưỡng” song, mỗi lần triển khai đều đòi hỏi tập huấn lại, phổ biến nội dung nhất là cho
các cộng tác viên mới, nhắc nhở và uốn nắn những thiếu sót.
5. Giám sát và đánh giá hoạt động. Người phụ trách công tác dinh dưỡng tại cơ sở có trách
nhiệm giám sát đầy đủ các hoạt động do cộng tác viên triển khai, đồng thời phải đánh giá
kết quả hoạt động đó một cách cụ thể. Sau mỗi hoạt động triển khai, cần có cuộc họp với
cộng tác viên để rút kinh nghiệm, khen thưởng kịp thời.
6. Làm báo cáo sau mỗi đợt hoạt động hoặc làm báo cáo định kỳ: Ngoài báo cáo thêm mẫu
hướng dẫn, người phụ trách dinh dưỡng ở cơ sở chuẩn bị một báo cáo tóm tắt công việc,
nhận xét và đề xuất gửi cho Ủy ban nhân dân xã, các ban ngành đoàn thể. Như vậy các
ban/ngành sẽ dễ dàng chia sẻ thông tin, từ đó tin tưởng và hỗ trợ hơn cho ngành y tế. Thực
tế, điểm này chưa được các cán bộ dinh dưỡng ở tuyến cơ sở quan tâm. Hiện nay, có xu
hướng thiên về báo cáo hiệu quả như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu…mà thường
không nêu đã giáo dục dinh dưỡng bao nhiêu bà mẹ, họ là những ai và tác dụng đến đâu.
Đây là điểm cần khắc phục.
Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh đến mạng lưới cộng tác viên dinh dưỡng. Cộng tác viên dinh
2. dưỡng nên là các cán bộ y tế thôn bản, họ nên là cộng tác viên dân số - kế hoạch hóa gia
đình và nên là những người có điều kiện tốt về kinh tế và có thời gian tham gia công tác
này. Muốn hoạt động dinh dưỡng ở tuyến cơ sở có hiệu quả cần quan tâm nâng cao chất
lượng hoạt động của đội ngũ cộng tác viên dinh dưỡng.
Hoạt động dinh dưỡng ở cơ sở hiện nay đã được thực hiện ở tất cả các xã/phường trongcả
nước, gồm các hoạt động chủ yếu sau đây:
1. Giáo dục truyền thông dinh dưỡng phổ cập cho toàn dân
Đây là hoạt động tiêu biểu của chiến lược quốc gia dinh dưỡng giai đoạn 2001 – 2010.
Nội dung chính thức của giáo dục dinh dưỡng là phổ biến “10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý”
đến tận hộ gia đình. Đích của hoạt động này là xây dựng thực hành chăm sóc dinh dưỡng
hợp lý phù hợp với các đối tượng nhằm duy trì và tăng cường sức khỏe. Hoạt động này đòi
hỏi nỗ lực rất lớn của y tế cơ sở.
2. Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
Đây là một hoạt động dinh dưỡng quan trọng mà mục tiêu giảm suy dinh dưỡng đã được
ghi vào nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Điểm nhấn mạnh ở đây là hoạt động triển khai
không chỉ đòi hỏi đơn thuần về mặt kỹ thuật mà cần sự phối hợp liên ngành và xã hội hóa
cao. Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em đòi hỏi những nỗ lực liên tục và bền bỉ.
3. Phòng chống béo phì và thừa cân.
Đây là một vấn đề dinh dưỡng mới nổi lên nhất ở khu vực đô thị. Bên cạnh phòng chống
suy dinh dưỡng, cần phòng thừa cân và béo phì một cách chủ động thông qua các hoạt
động giáo dục tư vấn và hướng dẫn ăn uống. Nên nhớ rằng thừa cân và béo phì là gánh
nặng dinh dưỡng không kém phức tạp và nan giải như suy dinh dưỡng; cả hai đều trở thành
“gánh nặng kép về dinh dưỡng”.
4. Phòng chống thiếu vitamin A.
Điểm cốt lõi từ nay đến 2005 là tiếp tục duy trì bổ sung vitamin A cho trẻ từ 6 đến 36
tháng, bà mẹ ngay sau đẻ với tỷ lệ bao phủ cao. Chủ đề giáo dục dinh dưỡng về lựa chọn
thực phẩm tại chỗ và thực phẩm có tăng cường vitamin A cần được khuyến khích. Cần lưu ý
cho trẻ bị nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm đường hô hấp cấp bổ sung kịp thời vitamin A
liều cao theo các phác đồ.
5. Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng.
Thực hiện phác đồ bổ sung viên sắt cho phụ nữ có thai và điều quan trọng là bổ sung
càng sớm càng tốt kể từ khi phát hiện có thai. Quan tâm hơn nữa tới việc kết hợp với phòng
chống nhiễm giun, vệ sinh môi trường và nước sạch.
6. Phòng chống thiếu i-ốt.
Khuyến khích và theo dõi sử dụng muối i-ốt tại gia đình
7. Tăng nguồn thực phẩm tại chỗ.
Trên cơ sở các hiểu biết về dinh dưỡng cần có hoạt động hướng dẫn các gia đình nuôi
trồng tại chỗ tạo nguồn thực phẩm cho bữa ăn và góp phần đảm bảo an ninh thực phẩm hộ
gia đình. Hoạt động này cần có sự phối hợp với ngành nông nghiệp và các tổ chức khuyến
3. nông.
Tóm lại, các hoạt động dinh dưỡng ở cơ sở là các hoạt động toàn diện nhằm tác động tới các
khâu của mô hình nguyên nhân suy dinh dưỡng và được lồng ghép chặt chẽ trong các hoạt
động chăm sóc sức khỏe ban đầu.