BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
Gian lận thương mại dưới góc nhìn của tâm lý học
1. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
Gian lận thương mại dưới góc nhìn của tâm lý học
Tuấn Anh
Trong năm nay, nước Mỹ xảy ra
liên tiếp những vụ xét xử nhiều chủ
tịch, giám đốc điều hành của các
tập đoàn lớn trên thế giới với các
tội danh tham nhũng, ăn cắp tiền
công, cố tình lừa đảo nhà đầu tư
và cơ quan chức năng để trục lợi
cá nhân…Trong bài viết này,
Brendan Hewson, biên tập viên
trong lĩnh vực gian lận tài chính
của tờ báo điện tử Gtnews đã xem
xét các vụ việc trên dưới góc độ
tâm lý và phân tích lý do dẫn đến
những sự phạm tội này.
Đi liền với sự phát triển và lớn mạnh của một công ty hay tổ
chức là những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định. Những
chuẩn mực tưởng chừng như đơn giản này chính là nền tảng
của mọi hoạt động kinh doanh thành công, trung thực và đáng
được trân trọng. Điều này còn được thể hiện qua tư cách đạo
đức của những người làm việc trong công ty, đặc biệt những
người nắm giữ những vị trí quản lý hoặc có quyền lực cao.
Điều gì sẽ xảy ra khi họ dính líu đến các hoạt động gian lận tài
chính? Và nguyên nhân nào dẫn đến hành động này?
Một trong những người như thế là cựu giám đốc điều hành tập
đoàn năng lượng Enron của Mỹ - Jefrey Skilling. Ông Skilling
đã bị tuyên phạt 24 năm 4 tháng tù trong vụ lừa đảo dẫn đến sự
sụp đổ của tập đoàn Enron. Theo các công tố viên tại phiên tòa
xét xử ở Houston, Texas vào ngày 24/11/2006 vừa qua, ông và
cựu chủ tịch tập đoàn này là Kenneth Lay bị kết tội lừa gạt
2. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
ngân hàng và cố tình giấu nhẹm nợ nần của công ty. (Tuy
nhiên việc buộc tội cựu chủ tịch Kenneth Lay đã bị hủy bỏ sau
cái chết của ông ta vào tháng Bảy).
Hành vi lừa gạt này đã đẩy Enron, từng là tập đoàn lớn thứ bảy
của Mỹ đến chỗ sụp đổ hoàn toàn vào năm 2001 với khoản nợ
lên đến hàng chục tỷ đô-la và khiến hàng ngàn nhân viên mất
việc. Bản án dành cho ông Skilling đã làm cho các nhân viên
của Enron bị mất tiền lương hưu hài lòng. Song Skilling vẫn
tuyên bố là mình vô tội và sẽ kháng án.
Vậy điều gì đã khiến tập đoàn chỉ mới thành lập năm 1986 đã
nhanh chóng trở thành một trong những công ty năng lượng
lớn nhất thế giới? Đáng tiếc, đây cũng chính là phép màu đẩy
Enron đến chỗ diệt vong. Đó là câu chuyện về công ty mẹ-con.
Một công ty có thể mở ra một hay nhiều công ty con “dưới
bóng” của mình. Công ty con dựa vào uy tín của công ty mẹ để
được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công
ty mẹ sử dụng công ty con để huy động vốn, để hứng chịu
những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt sự nợ nần của mình để
làm cho các báo cáo tài chính ‘đẹp đẽ” hơn… Ngay cả những
hợp đồng mua đi bán lại giữa mẹ và con cũng tạo ra doanh thu
và lợi nhuận để báo cáo.
Nếu mọi chuyện chỉ dừng lại ở mức độ 2-3 công ty con, thì
chắc sẽ chẳng có gì xảy ra. Vấn đề là Enron đã tạo ra hơn 900
công ty con, chủ yếu nằm ở những nước còn dễ dãi nhất về luật
kế toán. Xây dựng hệ thống nhằm che giấu lỗ lãi và rủi ro,
trong khi đó lại phóng đại lợi nhuận và tài sản. Hệ thống này
được thiết kế bởi các chuyên gia tài chính tài giỏi, được bảo
đảm bởi một trong năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giới -
Arthur Andersen.
3. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
Cho đến khi câu chuyện vỡ lở, thì hóa ra lợi nhuận chẳng là
bao và tài sản chẳng nhiều như báo cáo. Và câu chuyện đằng
sau những hành vi lừa gạt và gian lận kiểu như thế này là gì?
Sự gian lận diễn ra hàng ngày trong kinh doanh
Chúng ta đang sống trên một thế giới toàn cầu hóa, và tất nhiên
mọi người đều quan tâm đến những tội ác và sự tàn phá ảnh
hưởng đến xã hội chung của chúng ta. Ai cũng mong đợi ở
những nhà chính trị và các doanh nhân có thể đưa ra phương
hướng và thực thi những biện pháp nhằm hạn chế gian lận
trong kinh doanh dẫn đến sự mất ổn định xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta phát hiện ra rằng rất nhiều kẻ
lừa đảo là những người đứng đầu các tập đoàn hay các nhà
chính trị do chính chúng ta bầu ra. Sự lừa đảo và gian lận ngày
nay được thừa nhận như là một phần trong hoạt động kinh
doanh và đời sống chính trị. Hàng ngày, trên các báo chí đều
thấy những tít nổi bật về những vụ việc như thế này.
Theo báo cáo gần đây của Control Risks Group, các công ty
làm ăn chân chính đang bị mất dần lợi thế so với các đối thủ
cạnh tranh không trung thực ngày càng phát triển trên một diện
rộng và ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế. Đặc biệt
những vụ tham nhũng hay xảy ra trong các ngành công nghiệp
xây dựng, khai khoáng, khí đốt và dầu mỏ. Vì đó là nơi có các
dự án giá trị lớn. Bản nghiên cứu này cũng cho thấy hối lộ đã
trở thành một “vấn nạn lớn trên thế giới”.
Có nhiều yếu tố cấu thành nên sự gian lận, song có thể nói
phần lớn nó xuất phát từ bản năng cơ bản của con người. Đó là
lòng tham. Đối với nhiều người, để có quyền lực, sự thăng tiến,
4. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
giàu sang hay một cuộc sống tốt đẹp hơn, họ phải trả bằng sự
cố gắng và làm việc chăm chỉ. Song có một số người khác lại
không đi theo cách này, khi nhu cầu không được đáp ứng và họ
muốn phải được thỏa mãn ngay lập tức bằng bất cứ giá nào.
Ông Sam Currin, một cựu luật sư Mỹ, thẩm phán và chủ tịch
đảng Cộng hòa Bắc Carolina, hiện nay đang đứng trước bản án
bốn mươi ba năm tù sau khi thú nhận phạm tội chuyển tiền trái
phép, gian lận thuế và gây cản trở việc thi hành pháp luật. Tờ
báo Người quan sát Charlotte đã tường thuật lại vụ việc này
như sau: ông Currin đã chiếm đoạt 1,45 triệu đô-la trong số
tiền thu được từ hoạt động mà những người công tố viên gọi là
“một kế hoạch gian lận cổ phần/chứng khoán lớn”. Ông ta
cũng bị buộc tội cản trở quá trình điều tra của đoàn hội thẩm và
bị vạch trần âm mưu chuyển tiền từ một công ty nước ngoài tới
cục thuế Nội địa (Internal Revenue Service).
Một trong những khách hàng của ông Currin đã “tạo ra” hàng
chục triệu đô-la bằng mánh khóe bán cổ phiếu qua hộp thư, fax
công cộng và các phương tiện khác. Currin đã giúp chuyển tiền
kiếm được bằng cách bất chính qua tài khoản tin cậy của hãng
luật do ông ta đứng đầu và đút túi 240.000 đô-la. Sự việc bị
phát hiện qua việc hoàn thuế thu nhập năm 2004. Sau đó, ông
Currin còn có âm mưu giấu giếm những tài liệu và đưa ra
những lời khai man trước tòa.
Bốn mươi ba năm tù là một khoảng thời gian dài trong đời bất
cứ người nào, đặc biệt là một người đã từng là một công tố
viên, một vị quan tòa và là một nhà chính trị cấp cao. Một cuộc
đời bị giam giữ theo những quy định khắc nghiệt, không có tự
do. Có phải lòng tham vô độ đã làm mù mắt và đưa con người
ta đến phạm tội gian lận và lừa đảo hay không?
5. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
Suy nghĩ của kẻ gian lận thương mại
Chúng ta hiểu gì về diễn biến tâm lý bên trong những hành vi
của Currin hay Skilling để nhằm mục đích ngăn chặn những
hành vi này?
David Wolfe, người sáng lập ra tập đoàn Glasgow Forensic
Group và Dana Hermanson, một nhà nghiên cứu thuộc trung
tâm Corporate Governance, giảng viên trường đại học
Tennessee đã xây dựng thuyết gọi là “Bốn yếu tố liên quan đến
sự gian lận”. Ông cho rằng chính yếu tố thứ tư – năng lực của
cá nhân đóng vai trò chính, làm xuất hiện hành động gian lận ở
con người.
Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi số tiền gian lận lên tới
hàng tỷ đô-la, nếu không phải là người có quyền lực hay năng
lực thật sự thì khó lòng thực hiện được.
Chúng ta hãy xem xét bốn yếu tố dẫn đến hành động gian lận
để có thể hiểu được diễn biến suy nghĩ của những người có
hành vi này:
1. Đông cơ: tôi muốn, tôi phải có thứ này – dẫn đến gian lận.
2. Cơ hội: Có một điểm yếu nào đó ở trong hệ thống mà người
có quyền lực có thể khai thác, từ đó sự gian lận có thể xảy ra.
3. Sự hợp lý hóa: tôi tin chắc rằng cái giá phải trả cho hành vi
gian lận này chỉ là sự rủi ro.
4. Năng lực: tôi có những điều kiện cần thiết, khả năng và
quyền lực để thực hiện điều này. Tôi nhận ra cơ hội để thực
hiện hành vi gian lận này và biến nó thành hiện thực.
Bốn nhân tố này đan xen nhau, nhưng tác nhân đầu tiên và cơ
bản cho hành vi gian lận là năng lực. Theo quan điểm này, việc
6. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
xem xét hành động gian lận không chỉ dựa vào yếu tố cơ hội
do tình thế và môi trường đem đến – cách xem xét theo truyền
thống trước đây.
Bốn nhân tố này tập trung kích thích phản xạ của con người.
Ví dụ, khởi đầu của quá trình kích thích có thể là ý nghĩ đến lợi
nhuận hoặc phớt lờ những yếu tố phương hại đến sự kinh
doanh chân chính. Hãy xem xét một kịch bản sau đây. Một luật
sư đến gặp một chủ ngân hàng chuyên về kinh doanh cổ phiếu
và đầu tư ở một đất nước rất xa nơi mình sống và yêu cầu mở
một tài khoản khởi đầu cho một mối quan hệ.
Câu hỏi đặt ra tại sao anh ta lại chọn đúng ngân hàng này? Anh
ta tuyên bố rằng cha mẹ anh ta trước đây đã từng sử dụng tài
khoản ở đây. Câu trả lời cứ cho là chấp nhận được đi. Ba ngày
sau đó khách hàng gọi điện đến ngân hàng và nói rằng anh ta
vừa được trả một khoản tiền trong một vụ kiện tại một nước
khác cách xa hàng nghìn dặm. Giá trị của lượng tiền này không
quá lớn. Chính vì số tiền không quá lớn nên việc ai chuyển tiền
vào tài khoản của vị luật sư không được để ý đến.
Trên thực tế, ngân hàng biết rất ít về vị khách hàng luật sư.
Anh ta, sau tất cả các cuộc gặp gỡ mang tính chất cá nhân, là
một người có nghề nghiệp (ít ra là trong các vi-dít của anh ta
nói lên điều đó); gia đình anh ta có mối liên quan đến ngân
hàng và được nhìn nhận như là một khách hàng lớn trong
tương lai. Tại sao vậy? Vì số lượng tiền trong tài khoản tăng
lên sẽ góp phần làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát
triển, vậy mục tiêu chi phối tất cả các ma thuật này chính là lợi
nhuận.
Bi kịch của câu chuyện nằm ở chỗ chủ ngân hàng đã không có
ý định tìm hiểu bản chất của các khoản tiền mờ ám khi thiết lập
7. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
một mối quan hệ mới và phớt lờ đi hoặc là không quan tâm
đến các dấu hiệu nguy hiểm được báo trước.
Động lực là thu được càng nhiều lợi nhuận từ kinh doanh càng
tốt, thậm chí kể cả việc có thể hoạt động kinh doanh không tồn
tại. Khi những ý nghĩ về đồng tiền xâm chiếm trong đầu, thì
những cảm giác thông thường bị ném ra ngoài cửa sổ.
Diễn biến tâm lý đằng sau hành vi gian lận
Các phản xạ có điều kiện thông thường được phát triển thông
qua việc dạy đỗ, đào tạo. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy sự
sai lạc của các phản xạ có điều kiện này có thể xảy ra đối với
bất kỳ ai. Vậy điều gì khiến chúng ta bị rơi vào sự sai lạc này?
Các chuyên gia tâm lý cho rằng, trong mỗi chúng ta đều có
một bộ phận cấu thành tâm lý. Đó là khả năng phân biệt để lựa
chọn. Chúng ta có khả năng quyết định hành vi của bản thân
mình thông qua việc phân biệt được trường hợp nào, dấu hiệu
nào, triệu chứng nào là nguy hiểm. Lựa chọn để tránh những
các dấu hiệu nguy hiểm mà chúng ta cảm nhận được. Lợi
nhuận hay lợi ích mà chúng ta thu được một cách không chính
đáng qua con đường gian lận là lựa chọn sai lạc, không phù
hợp với phản xạ tự nhiên của con người, vì chúng ta đã lựa
chọn sự nguy hiểm.
Quay trở lại với câu chuyện đã đưa ra, chúng ta thử xem lựa
chọn sai lạc dẫn đến hành vi gian lận ở đây là gì? Ông chủ
ngân hàng khi tiếp xúc với khách hàng tiềm năng, người có
mục đích mờ ám được che đậy bằng các thuật ngữ hoặc những
lời văn cầu kỳ mà ông trước đây chưa từng biết đến hoặc
không hiểu được. Song ông ta vẫn tiếp tục thương thuyết vì sợ
rằng mình bị chê là một người không có kinh nghiệm, hoặc tồi
8. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
tệ hơn nữa là không thông thạo trong lĩnh vực ngân hàng.
Sự sai lạc trong hành vi hay sự lựa chọn của ông ta ở đây là gì?
Các phản xạ hành vi thông thường đã bị lấn át bởi suy nghĩ sợ
bị nhận ra là một người thiếu tự tin hoặc sợ bị phát hiện là ngớ
ngẩn hay không có kinh nghiệm. Đây chính là một sự sai lạc
của các phản xạ có điều kiện có thể xảy ra ở bất cứ cá nhân nào
và khi đó những tiêu chuẩn hành vi thông thường không được
xem xét đến.
Hành vi thông thường ở đây là gì? Thông thường các ông chủ
ngân hàng để phòng ngừa bất trắc sẽ kiểm tra thông tin qua các
đồng nghiệp để đảm bảo chắc chắn rằng quyết định của mình
là đúng đắn. Và như vậy, rất có thể ông ta sẽ nhận được ở các
đồng nghiệp lời khuyên không nên tiếp tục thương thuyết và
theo đuổi mối quan hệ này.
Qua câu chuyện này, có thể rút ra một điều là hầu hết những
hiện tượng khác thường xảy ra khi xuất hiện sự đe dọa bị mất
mát lợi nhuận, hoặc sợ bị cấp trên phát hiện ra, dẫn đến sự thay
đổi diễn ra bên trong ý nghĩ của ông chủ ngân hàng – “một sự
chuyển hướng niềm tin” mà có thể so sánh với “hội chứng
Stockholm”.
Thuật ngữ này xuất hiện sau khi vụ cướp nhà băng
Kredibanker xảy ra tại Normalmstorg, Stockholm. Tại đó các
tên cướp ngân hàng đã bắt giữ các nhân viên làm con tin từ
ngày 23 -28/08/1973. Trong vụ cướp này, các nạn nhân đã rất
gắn bó với những kẻ đã bắt giữ họ, thậm chí đã bào chữa cho
những tên cướp ngân hàng khi họ được giải thoát và trả lại tự
do sau 6 ngày bị giam giữ. Thuật ngữ này được đưa ra bởi một
nhà tội phạm và tâm lý học - Nils Bejerot, người đã giúp đỡ
lực lượng cảnh sát trong suốt quá trình diễn ra vụ cướp.
9. Copy from bwportal
Bai viet gui boi phamthao_91 tai http://ecvin.net
Hội chứng Stockholm là thuật ngữ mô tả một trạng thái tâm lý,
trong đó người bị bắt cóc lâu ngày chuyển từ sợ hãi và căm
ghét sang thông cảm và quý mến chính kẻ bắt cóc mình. Theo
các nhà tâm lý, đó là cơ chế tự vệ tự giác hoặc tự phát của
người bị bắt cóc – lựa theo và hòa nhập hẳn vào tâm lý của kẻ
bắt cóc - nhằm thích nghi với tình huống và tránh nguy hiểm.
Đem câu chuyện này so sánh với câu chuyện quản lý của ông
chủ ngân hàng – người đã “chuyển hướng niềm tin” từ các
đồng nghiệp của mình sang kẻ lừa đảo. Lòng tin đối với một kẻ
lạ mặt, người sẽ tiến hành kinh doanh với mình trong một thời
gian dài, hoàn toàn không dựa trên một cơ sở thực tế nào cả.
Ông chủ ngân hàng tin người khách mập mờ kia có thể mang
lại lợi ích cho mình được xem như là một phản xạ có điều kiện
sai lạc mà tác nhân của nó là lòng tham và sự kiêu ngạo.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn và những hành vi lừa dối trong kinh
doanh vẫn tiếp tục xảy ra, song việc nhìn ra bản chất và diễn
biến tâm lý bên trong những suy nghĩ của kẻ gian lận cũng là
một cách để chúng ta ngăn chặn và kìm chế sự phát triển của
chúng.
Tuấn Anh
(Dịch từ The gtnews)